Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

bài 21 chuyên đề thanh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.26 KB, 26 trang )

Bài 21:
THANH HỌC
I. Đại cương về thanh học.
Thanh học (phoniâtrie) là một chuyên khoa trong TMH, chuyên nghiên cứu,
điều trò và dự phòng các bệnh về giọng, ngôn ngữ và các tật về thính giác.
Luận điểm về đối tượng của chuyên khoa được xây dựng trên quan điểm phức
hợp của toàn bộ quá trình giao tiếp, trong đó thính giác, giọng và ngôn ngữ là
những thành phần cơ sở không chia cắt được. Phức hợp chức năng hợp nhất này
phục vụ cho sự trao đổi giữa người và người, nhờ đó cho thấy tầm quan trọng xã hội
của các rối loạn về giọng, ngôn ngữ và thính giác. Những rối loạn này gây trở ngại
trong quan hệ giữa bệnh nhân đối với mọi người xung quanh và giới hạn tác động
của họ về mặt lao động và xã hội.
Cụ thể, bác só thanh học có những đối tượng chính sau:
1. Các rối loạn về giọng.
Bao gồm khàn tiếng, mất tiếng người lớn và trẻ em, chủ yếu do nguyên nhân
rối loạn về cơ chế phát âm (ví dụ: các rối loạn về vỡ tiếng kéo dài), về thần kinh
vận động của giọng (ví dụ: các khàn tiếng tăng động), về dùng giọng quá sức (ví
dụ: chùng dây thanh, (hột) hạt dây thanh), do nghề nghiệp (ví dụ: các rối loạn về
giọng hát của ca só).
2. Các rối loạn về ngôn ngữ.
Bao gồm các vấn đề chậm ngôn ngữ ở trẻ, mất ngôn ngữ (aphasia), câm,
ngọng, lắp, lòu, các rối loạn về ngôn ngữ trong tật xẻ hàm ếch.
3. Các tật về thính giác.
Bao gồm công tác giáo huấn điếc câm và săn sóc đối với trẻ nghễnh ngãng.
Các phương pháp khám chuyên khoa sử dụng trong thanh học gồm:
- Soi hoạt nghiệm thanh quản (laryngo stroboscopie) là phương pháp soi thanh
quản gián tiếp dưới ánh sáng hoạt nghiệm dùng các chớp sáng có tần số sắp xếp
thế nào cho xấp xỉ gần nhất với tần số rung của các dây thanh. Nhờ sự giao thoa
của hai tần số rung mà có thể thấy dây thanh rung chậm lại và do đó cho phép ta có
thể phân tích được một cách hoàn hảo bằng các cơ chế của giọng. Tầm quan trọng
của phương pháp soi hoạt nghiệm thanh quản là giúp chẩn đoán các rối loạn về


giọng hát và xác đònh được sớm, ở giai đoạn khởi đầu các ung thư dây thanh.
- Ghi phế động ký (pneumographie) là cách ghi các cử động thở. Phương pháp
này có giá trò chẩn đoán các rối loạn chức năng của giọng, ngôn ngữ và phát hiện
khách quan các phản xạ nghe ở trẻ sơ sinh.
- Ngoài ra, chuyên khoa còn sử dụng các phương pháp phân tích điện âm họcï
(analyses électro - acoustiques) và hàng loạt các phương pháp dùng trong ngữ âm
học thực nghiệm (phonétique expérimentale).
- Chuyên khoa còn sử dụng các phương pháp điều trò phục hồi (réhabilitation)
để cải thiện các chức năng đã bò tổn thất như huấn luyện thính giác, điều trò luyện
tập và uốn sửa các rối loạn về giọng và ngôn ngữ, huấn luyện giọng thực quản thay
thế cho những bệnh nhân đã bò cắt bỏ thanh quản.
II. Vấn đề điếc câm và săn sóc trẻ nghễnh ngãng.
Nếu điếc hoặc nghễnh ngãng nặng xảy ra vào thời kỳ trẻ đang phát triển ngôn
ngữ thì những mối liên hệ nghe - phát âm cần thiết cho việc trẻ học nói (trẻ phải
nghe được rồi mới bắt chước phát âm) sẽ không phát triển được. Loại câm do ảnh
hưởng của điếc này gọi là điếc câm. Tuy nhiên điếc câm không chỉ phát sinh do
các điếc bẩm sinh mà còn có thể phát sinh do các điếc về sau mắc phải vào thời kỳ
ngôn ngữ chưa hoàn thành hoặc đôi khi cả sau khi ngôn ngữ đã hoàn thành và phát
triển (giữa 4 và 6 tuổi). Nguyên nhân làm mất ngôn ngữ trong trường hợp này là sự
mất dần các mối liên hệ về lời nói chưa được cố đònh đủ mức. Nếu khi bò điếc, trẻ
đã biết đọc và biết viết, thì ngôn ngữ sẽ không bò mất và điếc sẽ không kèm theo
câm vì trẻ đã có khả năng xây dựng một mối quan hệ phức tạp trong lónh vực hệ
thống tín hiệu thứ hai.
1. Phân loại điếc câm.
Điếc xảy ra ở trẻ em có thể do nguyên nhân (gia) di truyền hoặc mắc phải, vì
vậy điếc câm cũng có thể chia ra là điếc câm (gia) di truyền và điếc câm mắc phải.
a. Điếc câm (gia) di truyền.
Có khi nhiều người trong một gia đình cùng bò điếc câm, có khi cả dòng họ có
người điếc câm. Điếc câm (gia) di truyền biểu hiện dưới hai hình thái lâm sàng và
giải phẫu bệnh học khác nhau, hình thái điếc câm tân phát (sporadique) và hình

thái điếc (gia) di truyền tiệm tiến kiểu tai trong.
- Điếc câm (lân) tân phát: thường gặp ở các vùng (rẻo cao) cao nguyên. Về
phương diện giải phẫu bệnh có các tổn thương thoái hóa ở (phức) mê đạo màng của
tai trong, ở các cơ quan Corti, ở dây thần kinh thính giác và các nhân của dây thần
kinh (mang tên là thể loại Scheibe). Đôi khi điếc câm tân phát còn kết hợp với các
rối loạn về phát triển khác như viêm võng mạc sắc tố (retinitis pigmentus), nhi tính
(infantilismus), thiểu năng tuyến sinh dục (hypogenitalismus), v.v…

- Điếc (gia) di truyền tiệm tiến kiểu tai trong thường gặp trong những gia đình có
nhiều người điếc kiểu tai trong với những mức độ khác nhau. Nếu điếc xuất hiện
khi trẻ đẻ ra thì sẽ trở thành điếc câm nhưng trong các gia đình này, điếc cũng có
thể xuất hiện chậm, thậm chí có khi về già mới bò. Về phương diện giải phẫu bệnh,
tổn thượng chủ yếu liên quan đến phần vỏ xương của ốc tai mà số vòng xoắn giảm
xuống chỉ còn 2 hoặc ít hơn 2 mang tên là thể loại moudini, ốc tai (mang) màng
(modiolus) thường không phát triển. Hai vònh của ốc tai (scalae) không phân hóa
riêng biệt mà nhập chung (scalae communis) hoặc còn có thể có các dò dạng khác
của tai trong như ống ốc tai (ductus cochlea), túi nhỏ tức cầu nang (sacculus) hay
ống nội dòch (ductus endolymphaticus) phát triển qua rộng v.v Tổn thương thường
xảy ra cả hai bên tai trong còn tai giữa thường nguyên vẹn. Bộ máy tiền đình của
tai trong không bò tổn thương và tính chòu kích thích vẫn được duy trì.
b. Điếc câm mắc phải.
Có thể xảy ra trong thời kỳ thai nhi, trong khi đẻ hoặc trong thời kì (hài ấu nhi)
sơ sinh.
Điếc câm xảy ra trong thời kỳ thai nhi còn gọi là điếc câm bẩm sinh. Điếc này
do nhiều nguyên nhân khác nhau tác hại đến tai trong của thai nhi trong giai đoạn
đầu mới phát triển. Loại điếc này còn có thể do một bệnh virut xảy ra ở người mẹ
trong 3 tháng đầu có thai (cúm), mẹ bò giang mai hoặc dùng thuốc hại cho thai
(quinin, salixylat, acsenic, v.v ).
Điếc câm xảy ra trong khi đẻ do tổn thương của bộ máy thính giác thường xảy
ra trong trường hợp đẻ khó, hậu quả của xuất huyết tai trong hoặc của bệnh tăng

hồng cầu non (erythroblastose).
Điếc câm xảy ra trong thời kì (hài ấu nhi) sơ sinh có nguyên nhân hoặc do viêm
não màng năo (viêm lan toả từ màng não đến tai trong ), viêm tai (viêm lan tỏa từ
tai giữa sang tai trong), độc tố của vi khuẩn ảnh hưởng đến tai trong, các nhiễm độc
ảnh hưởng đến tai trong hoặc đến dây thần kinh thính giác (độc tố vi khuẩn trong
một số bệnh toàn thân và nhất là các kháng sinh độc đối với tai như streptomyxin,
kanamyxin, v.v ).
Trong các trường hợp điếc câm mắc phải, thính lực đồ phần còn lại không hoàn
toàn đối xứng hai bên, bộ máy tiền đình thường bò hỏng.
2. Triệu chứng.
Các triệu chứng chính của điếc câm và nghễnh ngãng nặng là rối loạn về thính
giác, mất thính giác hay rối loạn về ngôn ngữ. Khám một cách có hệ thống các trẻ
điếc câm, thường nghiệm thấy chỉ có 1/3 là hoàn toàn điếc, 1/3 còn (lại) một phần
nào thính giác đối với tiếng (ầm) ồn và tiếng động, 1/3 còn một phần thính giác đối
với các âm trầm biểu hiện khi học tập ngôn ngữ thông qua đường thính giác. Tuy
nhiên, với phần còn lại của thính giác chỉ tới 500Hz thì không đủ để phân biệt các
âm thanh của ngôn ngữ, muốn phân biệt được, thính giác cần phải được bảo toàn
trong phạm vi ba bát độ từ C.2 - C.5 (500-4.000Hz). Trong điếc câm (gia) di truyền,
phần thính giác còn lại ở hai bên tai thường bằng nhau và đối xứng (đònh luật đối
xứng của Laugenbeck ) và phản ứng tiền đình vẫn được bảo tồn. Trong điếc câm
mắc phải, sự mất mát về thính giác thường không đối xứng và các rối loạn về tiền
đình cũng vậy. Phần còn lại cuả thính giác rất quan trọng trong việc dạy ngôn ngữ
cho trẻ điếc câm và trẻ nghễnh ngãng nặng.
Các điếc nặng bao giờ cũng là các điếc tiếp nhận có tổn thương ở tai trong hoặc
dây thần kinh thính giác và gây không nghe được chủ yếu đối với các dải tần số
cao. Như vậy thính lực vẫn còn được bảo tồn trong một phạm vi nào đó và trẻ
nghễnh ngãng nặng hay cả điếc câm vẫn còn nghe được các âm trầm như tiếng gõ,
tiếng ầm ó của máy bay…. Hiện tượng này làm cho bố mẹ trẻ trong một thời gian
dài vẫn lầm tưởng là con mình vẫn còn nghe được.
Đối với trẻ điếc, ngôn ngữ không thể tự phát vì trẻ không biết bắt chước ngôn

ngữ của những người xung quanh. Muốn những trẻ này có được ngôn ngữ, phải dạy
chúng bằng những phương pháp đặc biệt trong các trường dành cho trẻ câm điếc.
Ngôn ngữ của trẻ điếc câm thường bi méo mó về phương diện cấu âm, đặc biệt
với các phụ âm và các nhóm phụ âm do đó toàn bộ các từ và câu nói cũng bò kéo
dài. Vì điếc, nên trẻ không giám sát được bằng tai nghe cấu trúc ngôn ngữ của bản
thân do đó đi đến bò rối loạn toàn bộ các yếu tố nhạc tính của ngôn ngữ, giai điệu
của ngôn ngữ trở thành không tự nhiên, cường độ của giọng quá mức và nhòp điệu
của ngôn ngữ bò chậm lại. Ngôn ngữ của trẻ điếc vì thế rất khó nghe. Ngôn ngữ của
trẻ nghễnh ngãng nặng cũng tương tự như vậy vì những trẻ này cũng không tiếp
nhận được các tần số cao của lời nói. Từ đây có thể nêu lên một nguyên tắc: Ngôn
ngữ của trẻ nghễnh ngãng càng xấu về mặt âm thanh nếu mất mát về mặt thính
giác đi từ khu vực các tần số trầm tới các khu vực các tần số thấp hơn.
3. Chẩn đoán điếc.
Điếc chia ra làm 3 nhóm:
a. Điếc dẫn truyền.
Loại điếc này do sóng âm dẫn truyền từ tai giữa đến cửa sổ bầu dục bò trở ngại,
mất mát về thính lực với các âm trầm nhiều hơn so với các âm cao, sự dẫn truyền
bằng đường xương vẫn được bảo tồn. Điều trò các điếc này thường có nhiều kết
quả.
b. Điếc tiếp nhận.
Loại điếc này do các tổn thương thoái hóa hoặc nhiễm độc của ốc tai hoặc của
dây thần kinh thính giác và các nhân tố của nó. Đặc điểm của loại điếc này là nghe
kém chủ yếu đi với các âm cao và đường dẫn truyền xương cũng bò mất mát.
c. Điếc trung ương.
Loại điếc này rất hiếm và phát sinh do các tổn thương vỏ não. Thính lực trong
loại điếc này có thể gần như bình thường nhưng mất khả năng phân biệt ý nghóa tín
hiệu của lời nói. Điếc trung ương thường có biến chứng kèm theo với các rối loạn
mất ngôn ngữ (aphasia).
Chẩn đoán điếc ở trẻ sơ sinh và trẻ em dưới hai tuổi thường khó có thể khám
bằng các phản xạ không điều kiện đối với các âm thanh khác nhau, dùng các âm

thanh có cường độ lớn như tiếng trống, thanh la, tù và, v.v Phản ứng của trẻ nếu
nghe được là giãn to hay thu hẹp đồng tử, chớp mắt đột ngột, nín thở đột ngột, dừng
khóc hoặc có phản xạ tìm tòi đònh hướng như đưa mắt hoặc quay đầu về phía nguồn
âm, hoặc có phản ứng cử động toàn thân như giật mình. Cũng có thể sử dụng các
phản xạ có điều kiện như tạo mối liên hệ cho ăn đồng thời với một âm thanh để về
sau trẻ biểu thò phản ứng khi nghe âm thanh đó. Khám thính giác ở trẻ nhỏ rất công
phu và đa số trường hợp chỉ tiến hành được sau khi cho trẻ vào nằm điều trò trong
phòng bệnh một thời gian. Đặc biệt khó khăn là các trường hợp trẻ điếc lại có kèm
theo trì độn về trí tuệ.
Trong chẩn đoán, cần phân biệt chính xác các trẻ điếc hoàn toàn với các trẻ
còn lại một phần thính giác và các trẻ nghễnh ngãng. Trẻ điếc hoàn toàn là những
trẻ không học nói được một cách tự phát cho đến tuổi đi học, sau khi đến trường
(dành cho trẻ điếc câm) ngôn ngữ phải hình thành một cách nhân tạo bằng các
phương pháp giáo huấn đặc biệt nhờ luyện tập thò giác và xúc giác. Trẻ nghễnh
ngãng tự học nói được nhờ tai còn nghe tiếp nhận được ngôn ngữ mặc dầu không
đầy đủ, việc giáo huấn chủ yếu vẫn sử dụng đường thính giác với các trẻ này.
4. Giáo huấn trẻ điếc câm.
Cần phải có các trường riêng để dạy cho các trẻ điếc câm vì giáo huấn các trẻ
này đòi hỏi nhều trang thiết bò, những phương pháp sư phạm chuyên khoa và giáo
trình riêng mớí có kết quả.
Trẻ điếc câm từ 4 tuổi đã phải bắt đầu đến học ở trường mẫu giáo riêng (thật ra
muốn có kết quả tốt nhất, trẻ điếc câm cần phải được săn sóc ngay từ lúc 18 tháng,
nghóa là thời kỳ một trẻ bình thường bắt đầu học nói). Việc dạy ngôn ngữ ở đây
tiến hành bằng cách sử dụng thò giác, xúc giác và phần thính giác còn lại. Trẻ tập
đọc môi, liên hệ các cử động của bộ máy phát âm với hình ảnh hiện vật hoặc người
và tập bắt chước theo các cử động của các âm nhìn thấy, đồng thời sử dụng cả các
cảm giác sờ. Làm cho trẻ tiếp nhận các rung thanh bằng cách đặt tay trẻ lên trên cổ
và dạy cho trẻ nhận thức cảm giác rung trong khi phát các âm tắc, xát và rung, v
v , trẻ sẽ hiểu rằng mỗi người ở xung quanh nó đều có một tên riêng và khi gọi lên
cái tên đó thì có thể trò chuyện với họ. Chúng ta lợi dụng cả phần còn lại rất nhỏ

của thính giác để nói trực tiếp (ghé sát tai trẻ hoặc sử dụng ống nghe Tillot có chụp
nghe áp vào tai). Nên cho trẻ còn một phần thính giác đeo máy trợ thính transitor
ngay khi lên 2 tuổi, trẻ sẽ có điều kiện tập dần nhận thức thế giới âm thanh bên
ngoài và nếu như trẻ không phân biệt được các âm thanh của ngôn ngữ thì ít nhất
cũng có thể ý thức được phần nào về giai điệu, nhòp điệu của ngôn ngữ, nhờ đó mà
trẻ tập nói sẽ dễ dàng hơn. Dạy đọc môi kết hợp với dạy chữ cái bằng ngón tay sẽ
thuận lợi hơn nhiều. So với chỉ dạy đọc môi đơn thuần, dạy chữ cái bằng ngón tay
kết hợp sẽ giúp cho việc tiếp nhận ngôn ngữ bằng mắt thêm chính xác.
Ở các trường và viện dạy điếc câm ngày nay, người ta đều dùng phương pháp
dạy nói cho học sinh, nghóa là phương pháp dạy cấu âm. Trước kia dùng phương
pháp dạy ngôn ngữ bằng cử chỉ thì mỗi một khái niệm hay từ ngữ đều có một dấu
hiệu bằng cử động quy ước nhất đònh, ngày nay phương pháp này không còn sử
dụng nữa. Cũng trước kia, trong tập phát âm, trẻ điếc câm phải học từng âm hoặc
chắp vần rồi sau đó mới xếp thành từ ngữ (tức là phương pháp phân tích). Ngày nay
người ta dùng phương pháp tổng thể là chủ yếu, ngay từ buổi đầu học phát âm, trẻ
điếc câm đă tập phát nguyên vẹn cả từ ngữ hoặc câu văn đơn giản, tương tự như
cách dạy cho các trẻ nghe được. Nhờ cách viết và tập đọc, học tập ngôn ngữ và cấu
trúc của ngôn ngữ sẽ được phát triển và kiện toàn.
Đối với các trẻ còn một phần thính giác nên sắp xếp vào những lớp riêng hay
trường riêng, trong đó ngoài cách dạy đọc môi còn sử dụng các máy khuếch đại
điện âm (học) cá nhân hoặc tập thể.
Dự phòng điếc câm là một vấn đề vệ sinh phòng dòch, phụ thuộc vào công tác
dự phòng và điều trò tốt nhiều bệnh của bộ máy thính giác và bệnh toàn thân, đặc
biệt là các nhiễm khuẩn cấp xảy ra ngay từ thời kỳ hài nhi. Việc sử dụng đúng mức
các thuốc kháng sinh và tăng cường công tác vệ sinh sẽ làm giảm số lượng các
trường hợp điếc mắc phải.
5. Săn sóc đối với trẻ nghễnh ngãng.
Nghễnh ngãng là một tật của thính giác gây khó khăn cho việc hiểu ngôn ngữ
và cản trở sự tiếp nhận các âm thanh từ thế giới bên ngoài. Nếu nghễnh ngãng xảy
ra từ bé, sẽ gây ra chậm ngôn ngữ và phát âm ngọng. Nghễnh ngãng càng lớn

ngôn ngữ càng bò chậm, chất lượng càng xấu.
Trẻ nghễnh ngãng mức độ nhẹ nghe được tiếng trò chuyện ở khoảng cách dưới
lm-0.2m.
Trẻ nghễnh ngãng mức độ trung bình chỉ nghe được tiếng trò chuyện ở khoảng
cách từ 4m - lm.
Trẻ nghễnh ngãng mức độ nhẹ nghe được tiếng trò chuyện cách xa khoảng 4m.
Tỷ lệ số người nghễnh ngãng theo các thống kê trên thế giới chiếm khoảng 2 -
3%, còn số người điếc câm chiếm khoảng1% dân số. Nghễnh ngãng do điếc dẫn
truyền thường không làm ảnh hưởng cả số lượng và chất lượng của ngôn ngữ do các
tần số cao của âm thanh ngôn ngữ không tiếp thu được hoặc tiếp thu một cách khó
khăn, làm cho ngôn ngữ nghe bò méo mó và sự phát triển của ngôn ngữ bò chậm.
Cần phát hiện sớm các trẻ nghễnh ngãng để có thể kòp thời điều trò phục hồi và sắp
xếp cho trẻ vào học các lớp hoặc trường dành cho trẻ nghễnh ngãng. Trong các lớp
và trường này, giáo viên nói qua micrô và học sinh nghe qua máy khuếch đại tập
thể hoặc máy trợ thính cá nhân kết hợp với đọc môi. Chương trình học cũng giống
chương trình học ở trường phổ thông cho trẻ bình thường.
Công tác phát hiện các tật thính giác nghễnh ngãng, điếc còn một phần thính
giác, điếc câm cần phải tiến hành sớm, từ tuổi hài nhi (dưới 6 tháng) nhờ sự phối
hợp giữa bác só Nhi khoa và TMH (thanh học).
Điều trò phục hồi các tật thính giác ở người lớn và trẻ em tiến hành bằng cách
cho đeo máy trợ thính cá nhân kết hợp với dạy cho đọc môi. Máy trợ thính cần phải
đủ sức khuếch đại, phải phát ra tốt các âm thanh của ngôn ngữ, không được có tạp
âm và phải có bộ lọc thích hợp với tai của người bệnh. Kết quả tốt nhất dùng máy
trợ thính là điếc dẫn truyền. Đối với các điếc tiếp nhận, dùng máy thường ít kết quả
hơn do mất mát với các tần số cao lớn hơn, làm cho khuếch đại của máy dù lớn
cũng không bù trừ nổi hoặc nếu bù trừ được, trẻ vẫn không thể nghe hiểu được lời
nói, và càng khuếch đại to lên thì mức độ nghe hiểu lại càng kém đi.
Mọi người nghễnh ngãng đều phải tập luyện nghe bằng máy trợ thính và nhờ
đó mà kiến thiết lại được các mô hình thính giác của họ. Để chuẩn bò cho người
nghễnh ngãng luyện tập nghe được bằng máy trợ thính, các mô hình thính giác

được biến đổi để bệnh nhân có thể hiểu được các mô hình này, nếu có một thời
gian ngắn luyện tập thính giác sau khi đã có máy trợ thính. Chỉ nên cấp đơn cho
mua máy trợ thính sau khi đo thính lực chính xác.
Đối với trẻ cần huấn luyện thính giác, nên cho đeo máy ngay khi lên 2 tuổi,
mối liên hệ nghe phát âm sẽ được thức tỉnh bằng con đường thính giác được kích
thích. Để cho mối quan hệ đó được thức tỉnh ngay cả đối với trẻ nghễnh ngãng
nặng hay chỉ còn một phần nhỏ thính giác, ta cũng nên cho trẻ đeo máy ngay từ khi
lên 2 tuổi. Ngày nay, người ta tận dụng cả những phần còn lại của thính giác dù rất
nhỏ mà quan điểm xưa kia coi như vô ích vì những trẻ này vẫn còn tiếp nhận được
các yếu tố nhạc tính của ngôn ngữ, nhờ đó mà chúng nói sẽ dễ hiểu hơn.
III. Các rối loạn về giọng.
Các rối loạn về giọng là những rối loạn phát sinh do những biến đổi nhất thời
hoặc lâu dài của chức năng phát âm. Dấu hiệu chủ yếu của các rối loạn này là
khản tiếng (khản giọng). Khản tiếng có thể do rung thanh mất đều đặn bởi khi các
bờ tự do của dây thanh không thẳng hàng, tính đàn hồi của các dây thanh bò biến
đổi hoặc khe thanh môn không hoàn toàn được khép kín. Nếu giọng bò mất hoàn
toàn thì gọi là mất tiếng.
Rối loạn về giọng có hai nguyên nhân: do có tổn thương thực thể ở bộ máy phát
âm (rối loạn thực thể của giọng), hoặc do rối chức năng của bộ máy phát âm mà
không tổn thương thực thể của thanh quản (rối loạn chức năng của giọng).
1. Các rối loạn thực thể của giọng.
Nguyên nhân của rối loạn thực thể của giọng gồm chủ yếu các bệnh của thanh
quản như viêm, khối u, chấn thương và các rối loạn về dây thần kinh. người lớn,
các căn nguyên thực thể chiếm ưu thế (chủ yếu là các nguyên nhân nhiễm khuẩn)
so với các căn nguyên rối loạn chức năng. Ngược lại, ở trẻ thường hay gặp các rối
loạn chức năng.
a. Các rối loạn về giọng do nội tiết.
Cơ quan phát âm và giọng phát triển trong suốt đời người, dưới ảnh hưởng của
các tuyến nội tiết, nhất là tuyến sinh dục, tuyến yên và tuyến thượng thận. m sắc
và cao độ của giọng phụ thuộc trực tiếp vào các tính chất sinh dục cấp hai do các

nội tiết sinh dục hoặc nội tiết của thượng thận mà sự sản sinh và điều hòa là do các
nội tiết của tuyến yên. Khi bệnh nhân bò các bệnh tuyến nội tiết, sẽ phát sinh các
rối loạn về giọng, thể hiện ra chủ yếu bởi sự biến đổi cao độ và âm sắc của giọng.
Tuy nhiên các rối loạn này tương đối hiếm.
Rối loạn về giọng có thể gây ra bởi nội tiết tố tăng dưỡng (anabolique) như khi
dùng testosteron để chữa ung thư vú (carcinoma) cho phụ nữ, giọng trở thành nam
tính hẳn, trầm xuống rất nhiều, cứng và rất khó lên khoảng âm cao. Sự biến đổi về
âm sắc của giọng tồn tại lâu dài, có thể uốn sửa được vò trí và sự ổn đònh của giọng
bằng luyện tập phục hồi.
b. Các rối loạn về vỡ tiếng.
Rối loạn này gồm nhóm riêng các rối loạn về giọng thỉnh thoảng phát sinh ở
tuổi dậy thì vào thời kỳ vỡ tiếng. Do ảnh hưởng tác động của các nội tiết tố sinh
dục mà phát sinh ra một sự biến đổi về giọng ở tuổi dậy thì, chỉ đặc biệt rõ rệt ở
con trai (vỡ tiếng).
Cơ sở của những rối loạn này là sự phát triển quá nhanh của thanh quản cùng
với sự dài ra đột ngột của các thanh đới. Sự biến đổi đột ngột này đưa đến hậu quả
là sự khủng hoảng của giọng, trong đó giọng bò trầm xuống (ở con trai) tới một bát
độ, giọng trở thành cứng và thường nói hai giọng. Đây không phải là một rối loạn
về nội tiết mà do một sự thích nghi không đầy đủ của hệ thần kinh đối với kích
thước mới về giải phẫu của thanh quản và chỉ có tính cách nhất thời.
Vỡ tiếng kéo dài (mutatio prolongata) xảy ra khi sự khủng hoảng của giọng kéo
dài quá lâu. Dấu hiệu chính là nói hai giọng, từ giọng ngực (giọng thật) chuyển đột
ngột sang giọng đầu (giọng giả) và mất khả năng chủ động chính xác về cao độ
giọng.
Tồn tại cách phát âm giọng đầu (vex fistulosa pensisteus) xảy ra khi người con
trai vẫn cố gắng duy trì cao giọng cũ (giọng trẻ con, giọng hoạn giả) và nói mãi
bằng giọng đầu (cao). Tiên lượng của cả hai loại rối loạn này đều dễ chữa.
Điều trò bằng cách huấn luyện phục hồi giọng, trong đó dùng cách ấn từ trước
ra sau phần dưới của thanh quản, làm yếu hoạt động của cơ nhẫn giáp (cơ này duy
trì các dây thanh ở trương lực cao) nhờ đó tạo điều kiện cho đa số trường hợp dễ

dàng có lại được vò trí cao độ giọng đúng đắn. Đối với các trường hợp đã bò lâu
năm, đôi khi cần phải bổ sung thêm tâm lý liệu pháp.
2. Các rối loạn chức năng của giọng.
Các rối loạn chức năng của giọng hay còn gọi là các khàn tiếng cơ năng phát
sinh bởi một rối loạn về chức năng của bộ máy phát âm. Ranh giới của chúng đối
với các rối loạn của giọng do căn nguyên thực thể, tuy nhiên không hoàn toàn cách
biệt vì nếu rối loạn lâu năm cũng có thể sinh ra những biến đổi thực thể ở các dây
thanh.
Đứng về phương diện bệnh sinh, các rối loạn chức năng của giọng được chia ra
làm hai nhóm:
- Nhóm do căn nguyên tinh thần, tức là các loạn thần kinh chức năng .
- Nhóm do dùng giọng quá sức.
Các rối loạn về giọng do căn nguyên tinh thần phát sinh như một phản ứng đối
với các chấn thương mạnh bên ngoài có liên quan với phát âm trong một số bệnh
nghề nghiệp về giọng, các rối loạn này thường thấy ở người lớn nhiều hơn ở trẻ
em. Các rối loạn do dùng giọng quá sức phát sinh do bắt buộc bộ máy phát âm làm
việc quá công suất của nó và chức năng phát âm không đủ sức thích nghi có hiệu
quả với sự đòi hỏi quá cao đó. Hai nhân tố dùng giọng quá sức và ảnh hưởng tác
động tinh thần thường kết hợp với nhau.
a. Các khàn tiếng có nguyên nhân tinh thần.
- Mất tiếng có nguyên nhân tinh thần (trước kia vẫn được gọi là khàn tiếng
Histêri) xảy ra ở những người dễ bò một kích động mạnh về tinh thần nào đó, thể
hiện ra bằng mất tiếng hoàn toàn khi người bệnh thì thào. Điển hình là triệu chứng
mất tiếng đột ngột, thông thường là sau khi ngủ dậy. Soi thanh quản thấy các dây
thanh nhạt màu, chuyển sang tư thế phát âm, khi tiến sát lại gần nhau thì chúng lập
tức tách nhau ra ở tư thế nói thì thào, trong khi đó, tiếng ho vẫn vang.
Tiên lượng thường tốt, tuy nhiên ở những người có tinh thần yếu thường dễ tái
phát.
Điều trò bệnh này gồm huấn luyện phục hồi giọng bằng ám thò. Trong trường
hợp khó thường dùng phương pháp kích thích hạ giọng bằng que bông thanh quản.

Dùng thuốc an thần và thuốc trấn tónh (ataractiques) để hỗ trợ thêm.
- Khàn tiếng co thắt đặc trưng bởi một sự cố gắng quá mức về phát âm trong
khi cấu tạo giọng. Soi thanh quản thấy thanh môn co thắt mạnh và các băng thanh
thất tiến sát lại gần nhau, nhìn bên ngoài thấy các cơ cổ co cứng quá mức (lên gân
cổ) và co thắt thành bụng. Giọng rất xiết, rặn, khan, đôi khi mất tiếng với giọng
đầu cao.
Tiên lượng không chắc chắn.
Điều trò bằng cách huấn luyện phục hồi giọng, điều trò tâm lý liệu pháp và bằng
thuốc, tuy nhiên kết quả không khả quan.
- Giọng thanh thất: loại này thường hiếm, phát sinh do hoạt động tăng cường
quá mức của bộ máy âm do hiệu quả dùng giọng quá sức, đưa đến tiền đình thanh
quản co thắt xiết lại, nhất là các băng thanh thất, tiến sát lại vào đà giữa và phát ra
một giọng trầm, khàn và thô. Soi hoạt nghiệm thanh đới (stroboscope) có thể thấy
bờ trong của các băng thanh thất khép lại gần nhau, có những cử động rung thô sơ,
đôi khi đồng thời có cả rung thanh cấu tạo bởi các dây thanh phía dưới.
Điều trò bệnh khó và lâu, phải tiến hành một cách hệ thống việc huấn luyện
phục hồi giọng, nhằm làm cho giọng phát âm thoải mái không xiết và loại trừ cách
phát âm sai.
- Yếu giọng (Rhonasthenie): một loại thần kinh chức năng của giọng chỉ xảy
ra ở những người chuyên nghiệp về giọng, nhất là các diễn viên, ca só, thường kèm
theo sợ hãi và lo lắng trước khi công diễn. Về triệu chứng, các triệu chứng chủ
quan về loạn thần kinh chức năng như hồi hộp, cảm giác nóng và đằng hắng ở cổ,
cảm giác xiết trong họng, mệt mỏi giọng v.v chiếm ưu thế trong khi các triệu
chứng khách quan soi thanh quản rất nghèo nàn.
Tiên lượng rất quan trọng nếu là giọng hát. Thường bệnh kéo dài rất lâu và
trong một số trøng hợp bệnh nhân không thể tiếp tục nghề hát được nữa.
Điều trò bệnh bằng tâm lý liệu pháp kết hợp với chữa bằng thuốc an thần
(ataractiques) đồng thời với huấn luyện phục hồi chức năng phát âm (thông thường
phối hợp với giáo viên thanh nhạc).
b. Các khàn tiếng do dùng giọng quá sức.

Dùng giọng quá sức là một nguyên nhân quan trọng gây ra các rối loạn về
giọng ở trẻ em cũng như ở người lớn.
Có nhiều cách làm giọng quá sức, trước hết là sử dụng giọng nói quá nhiều như
nói hoặc hát quá nhiều, tiếp đến là sử dụng cường độ giọng quá to như các trẻ la
hét khi chơi đùa, các công nhân phải làm việc trong môi trường nhiều tiếng ầm nên
nhiễm thói quen nói to, ca só trong các dàn hợp xướng đi theo với dàn nhạc, v.v cơ
quan phát âm rất chóng mệt do phải nói hoặc hát không đúng với vò trí và tầm cữ
của giọng mình. Tai hại nhất là phải sử dụng giọng ở vò trí cao khi hát hoặc giáo
viên khi dạy phải la hét các học sinh làm ồn. Thông thường và nguy hiểm nhất
trong các cách làm mệt giọng là cách sử dụng giọng sai, biểu hiện bằng co xiết
thanh quản quá mức làm căng các cơ phía trong thanh quản và phía ngoài cổ, tăng
áp lực thở ra và làm cho xuất thanh của giọng cứng đồng thời các rối loạn rõ rệt về
cơ chế hô hấp.
Ở trẻ con, các rối loạn do dùng giọng quá sức có những đặc điểm lâm sàng
riêng biệt, rất đặc trưng cho trẻ và được gọi là khàn tiếng tăng động ở trẻ con ( hay
khàn tiếng ở trẻ con (randitasinfantilis).
Ở người lớn, những nghề dễ dùng giọng quá sức là diễn viên, ca só, giáo viên,
phát thanh viên, mậu dòch viên v.v Những rối loạn giọng trong các trường hợp
này gọi là các rối loạn về giọng do nghề nghiệp.
Khàn tiếng tăng động ở trẻ con:
Trẻ con sử dụng giọng quá sức chủ yếu là do la hét nhiều trong khi chơi đùa ở
những nơi tập trung nhiều trẻ như trường học, trại hè, các đội đồng ca thiếu nhi,
v.v
Dấu hiệụ lâm sàng chủ yếu là khàn tiếng ở những mức độ khác nhau thông
thường không tương ứng với các biến đổi ở thanh quản. Soi thanh quản trong giai
đoạn đầu chỉ quan sát thấy các rối loạn cơ năng, thanh nhiệt và các sụn phễu xiết
lại và thanh môn co thắt mạnh. Các giai đoạn sau có các biến đổi thực thể do hậu
quả của các kích thích cơ giới, thường thấy nhất là dây thanh sưng toàn bộ thành
hình thoi, có khi phát sinh ra hạt dây thanh (tổ chức biểu bì nhỏ ở bờ tự do và vò trí
chính giữa dây thanh), giọng bò khàn, xiết, cấu tạo với một áp lực phát âm quá

mức. Ngoài soi thanh quản ra, chẩn đoán chức năng phát âm nghóa là theo dõi cách
thức giọng cấu tạo, trương lực của các cơ ngoài cổ, sức nén của bụng, xuất thanh
của giọng cứng, âm vực của giọng cao, độ trung bình của giọng nói khi trò chuyện
v.v Cần khám bổ sung thêm bằng cách đo phế động ký, tức là ghi các cử động hô
hấp (vì như trên đã nói, sự tăng áp lực phát âm và dùng giọng sai thể hiện ra trước
hết bằng các rối loạn hô hấp ).
Khàn tiếng tăng động ở trẻ con thường kéo dài rất lâu, nếu không tích cực điều
trò thì khàn tiếng sẽ khéo dài hàng năm và có thể phát sinh ở các dây thanh những
biến đổi không hồi phục được như teo dọc theo bờ tự do các dây thanh, làm khản
tiếng bò kéo dài và nói rất chóng mệt giọng.
Điều trò: Đối với đa số trường hợp, chữa bảo tồn gồm điều trò phục hồi giọng với
nhiệm vụ chính là uốn sửa cách phát âm, cần phải giữ trẻ yên tónh, không được la
hét và giữ gìn nghiêm túc vệ sinh về giọng. Chỉ riêng đối với các trường hợp có hạt
to ở dây thanh mới cần can thiệp phẫu thuật cắt hạt và sau khi cắt, cũng vẫn rất cần
điều trò phục hồi giọng và tránh la hét để bảo đảm hạt không tái phát. Điều trò
chống viêm chỉ áp dụng trong các trường hợp có kèm các hiện tượng viêm.
Phòng bệnh: Không những tránh cho trẻ con mọi ảnh hưởng gây ra mệt giọng
mà còn phải tránh các điều kiện thuận lợi cho các rối loạn này đã phát sinh. Dự
phòng các bệnh viêm đường hô hấp trên, thể trạng dò ứng, la hét hoặc hát ở những
nơi có nhiều bụi bặm. Phòng bệnh khàn tiếng tăng động ở trẻ con có tầm quan
trọng xã hội vì sẽ ngăn ngừa được cho trẻ những biến hỏng về giọng, sau này
không phục vụ được trong nhiều ngành nghề cần đến giọng.
Các rối loạn về giọng do nghề nghiệp:
Cũng giống như khàn tiếng tăng động ở trẻ con, sự quá sức về giọng ở người
lớn cũng gây ra những rối loạn về giọng phát sinh do một số nghề nghiệp phải
dùng giọng nhiều. Cần phải phân biệt các rối loạn này với các bệnh của đường hô
hấp gây ra bởi nghề nghiệp có tác hại trực tiếp trên niêm mạc thanh quản.
Các cơ chế làm mệt giọng quá sức như đă nói trên là sử dụng giọng quá nhiều,
sử dụng cường độ giọng quá to, dùng giọng ở cao độ, giọng không thích hợp và
nhất là cách thức dùng giọng sai với áp lực phát âm qua mức, xuất thanh cứng,

v.v
Các điều kiện thuận lợi để phát sinh các biến đổi thực thể trong mệt giọng quá
sức là các viêm cấp và mãn tính đường hô hấp, đặc biệt là viêm khô, teo và trạng
thái sau khi cắt aman, thể trạng dò ứng, môi trường sống hoặc làm việc ồn ào
hoặc nhiều bụi… Nghiện thuốc lá cũng dẫn đến các biến đổi nặng và đưa đến bệnh
phù mãn tính, hoặc bò dày ở bờ dây thanh (pachydermie).
Dấu hiệu lâm sàng của các rối loạn về giọng do nghề nghiệp cũng giống như ở
trẻ con bò khàn tiếng tăng động, rối loạn lúc đầu như mộït rối loạn chức năng về
giọng, về sau do bò kích thích quá mức ở các dây thanh mà phát sinh ra các biến đổi
thực thể như xuất hiện các giãn mạch máu nhỏ ở mặt dây thanh, ở bờ tự do rồi xuất
huyết. Các u máu được cấu tạo như thế về sau có thể tạo nên các loại pôlíp, sự kích
thích ở các bờ dây thanh đi đến sự quá sản của biểu bì và phát sinh ra cái gọi là hạt
thanh đới của các ca só. Giọng bò khàn do khe thanh môn không đóng kín được,
giọng còn bò pha tạp bởi tiếng hơi thở thoát ra qua khe thanh môn. Nếu rối loạn kéo
dài lâu năm, các chấn thương do phát âm còn có thể ảnh hưởng đến các phần sâu
hơn của dây thanh đặc biệt dây là chằng đàn hồi (ligamentum elasticum) hoặc cả
đến phần cơ cách cơ và đi đến teo cơ. Dây thanh bò yếu đi và trong khi phát âm vẫn
để tồn tại ở giữa khe thanh môn một khe hở hình thoi. Loại liệt cơ thanh đới này có
tên là bán liệt cơ thanh đới (paresie un iterni) chính là nguyên nhân của khàn tiếng
kéo dài và làm cho giọng rất chóng mệt.
Điều trò: về cơ bản giống điều trò khàn tiếng tăng động ở trẻ con. Khi các biến
đổi thực thể còn ít, có thể điều trò bảo tồn theo phương pháp huấn luyện phục hồi
giọng nhằm loại trừ thói quen đònh hình phát âm sai và tập luyện cố đònh lại cơ chế
phát âm đúng. Đối với đa số các trường hợp hạt thanh đới to và bò dày ở các bờ dây
thanh (pachydemlie) cần phải cắt bỏ, rồi sau mới điều trò huấn luyện phục hồi
giọng. Trong các trường hợp cần thiết, phối hợp với điều trò toàn thân, nghóa là điều
trò chống dò ứng, chống viêm, v.v
Phòng bệnh: Trước hết là tránh làm mệt giọng quá sức bằng bất cứ hình thức
nào, chủ yếu là do cách dùng giọng sai, tiếp đến là phải chữa và đề phòng các
bệnh viêm đường hô hấp và trong khi đang bò nhiễm cần hết sức tránh dùng giọng.

Cuối cùng cần loại trừ tất cả mọi điều kiện có lợi cho việc phát sinh các rối loạn về
giọng do nghề nghiệp như bụi, thuốc lá, tiếng ồn, v.v
IV.Các rối loạn về ngôn ngữ.
1. Chậm phát triển ngôn ngữ (Mutitas prolongata).
Trong sự phát triển của trẻ, ngôn ngữ được xây dựng trên cơ sở các nhân tố di
truyền bên trong như phức hợp các phản xạ có điều kiện do tác động của các chất
kích thích từ môi trường bên ngoài, trước hết là các kích thích thính giác. Sự phát
triển của ngôn ngữ lại phụ thuộc chặt chẽ với sự hoàn chỉnh của hoạt động thần
kinh. Cơ sở cần thiết cho ngôn ngữ phát triển là các điều kiện sinh lý của sự phát
sinh các phản xạ phức tạp không bò hư hỏng, đó là thính giác tạo thành đường vào
chính của ngôn ngữ, đến hệ thống thần kinh trung ương và các trung tâm vận dộng
và cảm thụ của ngôn ngữ được hình thành trong quá trình phát triển cuả vỏ năo,
cuối cùng các cơ quan của bộ máy phát âm cơ quan ngôn ngữ. Nếu vài nhân tố bên
trong hoặc bên ngoài tham dự vào việc xây dựng ngôn ngữ, thì sẽ gây ra các rối
loạn về phát triển ngôn ngữ, ngôn ngữ phát triển chậm hoặc không phát triển và trở
thành câm.
Trong các điều kiện phát triển bình thường, trẻ tự phát nói được các từ ngữ đầu
tiên vào lúc 12-15 tháng, đến 2 tuổi đã có thể nói được những câu ngắn, giản đơn.
Nếu đến 3 tuổi mà ngôn ngữ không phát triển một cách tự phát thì phải đưa trẻ
đến khám chuyên khoa vì bên cạnh chậm ngôn ngữ giản đơn, còn có thể ẩn náu
những nguyên nhân trầm trọng như các tật về thính giác, thiểu năng tinh thần hoặc
có bệnh về thần kinh, v.v
Seeman đã phân loại 10 nguyên nhân làm trẻ không nói:
a. Chậm ngôn ngữ giản đơn.
Gồm các trường hợp trẻ đã quá 3 tuổi mà ngôn ngữ vẫn chưa phát triển và khi
khám sẽ phát hiện được nguyên nhân về thực thể cũng như về tinh thần. Khả năng
trẻ hiểu ngôn ngữ nhiều hơn khả năng nói được ngôn ngữ. Những trẻ này, nếu được
tăng cường dạy dỗ, thì đa số có thể đuổi kòp mức độ ngôn ngữ của các trẻ cùng lứa
tuổi.
b. Không nói do có tật về thính giác.

Các tật về thính giác có thể kìm hãm nghiêm trọng sự phát triển của ngôn ngữ
và như vậy kìm hãm cả khả năng hiểu ngôn ngữ của trẻ. Nếu điếc hoàn toàn, trẻ sẽ
mất khả năng bắt chước ngôn ngữ của những người xung quanh và sẽ bò điếc câm.
Nếu trẻ nghễnh ngãng, ngôn ngữ sẽ phát triển chậm. Chẩn đoán được các tật về
thính giác sẽ giúp ích cho việc điều trò kòp thời và bảo đảm cho việc dạïy dỗ trẻ
được đúng hướng và nhờ đó mà xúc tiến nhanh được sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Khi khám, cần đánh giá chính xác thính lực của trẻ cả số lượng lẫn chất lượng và
xác đònh thể loại, mức độ của tật thính giác. Đa số các trẻ này do bò các biến đổi
thoái hoá ở bộ máy thính giác ngoaiï biên mà trở thành điếc câm hay nghễnh ngãng
nặng. Sự khác biệt giữa trẻ điếc câm và trẻ nghễnh ngãng là khả năng học ngôn
ngữ tự phát, trẻ điếc câm không học nói được một cách tự nhiên mà đối với chúng,
ngôn ngữ phải dạy bằng các phương pháp đặc biệt thông qua thò giác và xúc giác;
trẻ nghễnh ngãng học tập được ngôn ngữ, mặc dầu thường không hoàn hảo vẫn
bằng con đường thính giác.
c. Không nói do mất nhận thức và âm thanh (agnosie acoustique).
Trong một số ít trường hợp nguyên nhân của chậm phát triển ngôn ngữ là có rối
loạn trung ương của thính giác gây ra bởi sự hư hỏng ở trung tâm thính giác. Đặc
trưng ở đây là có rối loạn về nhận thức làm trẻ mất khả năng phân biệt ý nghóa của
các âm thanh nghe được, các âm thanh của ngôn ngữ bò biến hỏng trong khi đó các
âm đơn thuần thì ít bò biến hỏng hơn. Dấu hiệu lâm sàng đôi khi giống với mất
ngôn ngữ thể giác quan, tuy nhiên mất ngôn ngữ chỉ ảnh hưởng đến ngôn ngữ vì
bệnh tích ở trung tâm giác quan của ngôn ngữ ở thùy thái dương bên trái, còn trong
mất nhận thức âm thanh thì tổn thương cả hai bên trung tâm thính giác và ảnh
hưởng đến khả năng phân biệt tất cả mọi loại âm thanh.
Điều trò: rất khó, cần phải luyện tập rất lâu và có hệ thống cách phân biệt các
âm thanh bằng tai nghe.
d. Không nói do thiểu năng tinh thần.
Gây ra bởi tất cả các mức độ trì độn. Đối với các trẻ có mức trì độn nhẹ và vừa,
ngôn ngữ cũng bò chậm và phát âm thường bò ngọng nặng kéo dài, đối với các trẻ
có mức trì độn nặng thì ngôn ngữ không phát triển hoặc tồn tại ở một trình độ rất

thô sơ.
e. Không nói do bò hỏng các vùng ngôn ngữ của vỏ não.
Do có tổn thương thực thể ở các trung tâm cảm thụ hoặc vận động của ngôn ngữ
ở vỏ não, xảy ra trước khi bắt đầu phát triển ngôn ngữ. Nguyên nhân gây tổn
thương có thể là chấn thương khi sinh, viêm não, chấn thương sọ,v.v Khác với
mất ngôn ngữ xảy ra ở những trẻ đã có ngôn ngữ hoàn chỉnh, Seeman gọi đây là
các rối loạn ngôn ngữ (dysphasie) và cũng chia ra hai thể như mất ngôn ngữ, đó là
loạn ngôn ngữ diễn đạt và rối loạn ngôn ngữ tiếp nhận. Thể rối loạn ngôn ngữ diễn
đạt có sự hư hỏng phần vận động của ngôn ngữ, ngôn ngữ trong một thời gian dài
không phát triển, cấu âm bò ngọng, trong khi đó khả năng hiểu ngôn ngữ vẫn được
bảo toàn. Ngược lại, ở thể rối loạn ngôn ngữ tiếp nhận, khả năng hiểu ngôn ngữ bò
rối loạn mặc dù thính lực vẫn nghe được, cùng với hai hình thái đó thường kèm
theo rối loạn đọc và viết sai ngữ pháp.
g. Không nói do có các bệnh đường ngoài tháp.
Ở trẻ múa vờn (athélose) và bò liệt cứng nửa người, ngôn ngữ trên nguyên
tắc bò chậm phát triển và có những biến đổi đặc trưng. Trong các trường hợp nặng
nhất, trẻ bò mất hoàn toàn ngôn ngữ vận động thể hiện ở việc mất khả năng cấu
âm. Trong các trường hợp nhẹ hơn, xuất hiện rối loạn vận ngôn trung ương thể hiện
ở sự cấu âm bò rối loạn đồng thời có các biến đổi về các âm điệu (accents) của
ngôn ngữ, ngôn ngữ trở thành đơn điệu và nhòp điệu bò chậm lại nhiều.
h. Không nói do có tật ở bộ máy phát âm.
Ngôn ngữ có thể bò chậm rất nhiều do có tật ở bộ máy phát âm nhất là tật hở
hàm ếch, hàm ếch có khe hở nên không thể cấu âm đúng một số âm, nhất là các
âm tắc và các âm xát. Các liệt của bộ máy phát âm nguyên nhân ngoại biên hay
trung ương cũng có thể làm chậm ngôn ngữ trong những trường hợp nặng. Dính
cương lưỡi (lingua accreta, ankylo - glossum) chỉ hạn chế cấu âm các phụ âm đầu
lưỡi như r hoặc l, không ảnh hưởng gì đến sự phát triển của ngôn ngữ.
i. Không nói do thiếu chăm sóc về ngôn ngữ.
Phát sinh do không được chăm sóc về ngôn ngữ trong thời gian phát triển
ngôn ngữ, ví dụ: bố mẹ có tật (bò điếc câm), hoàn cảnh phải thay đổi môi trường về

ngôn ngữ, hay do đồng thời một lúc phải học hai ngôn ngữ, v.v
j. Không nói do thể lực quá yếu.
Xảy ra ở trẻ em chậm phát triển về thể lực, sinh ra ít cân vì đẻ thiếu tháng hoặc
suy dinh dưỡng nặng do các bệnh đường tiêu hóa v.v Đối với các trẻ này, ngoài
điều trò thanh học ra còn cần phải điều trò về nhi khoa.
k. Chậm ngôn ngữ do tạng.
Theo Seeman đây là những trường hợp xảy ra bởi rối loạn chức năng của não
cần thiết để phối hợp ăn ý các cử động cấu âm. Piecechtel tìm thấy ở những trẻ này
các bệnh tích của bộ máy thạch nhó mà ông cho là nguyên nhân gây nên các ngôi
thai bất thường khi đẻ và các rối loạn về chức năng thăng bằng về sau này ở những
trẻ đó. Điều nổi bật ở những trẻ này là sự vụng về rõ nét về vận động không những
toàn thân mà cả bộ máy phát âm.
2. Ngọng.
Ngọng là hiện tượng không có khả nâng cấu âm đúng một vài âm hoặc nhóm
âm. Trẻ hoặc khuyết những âm này hoặc thay thế chúng bằng những âm khác.
Tùy theo căn nguyên mà ta chia ngọng ra làm hai loại là ngọng thực thể và
ngọng cơ năng.
a. Ngọng thực thể.
Gây ra bởi các biến đổi thực thể của bộ máy phát âm, của hệ thần kinh trung
ương hoặc do có các rối loạn về thính giác. Rối loạn thính giác đặc biệt nếu ảnh
hưởng đến nghe các âm cao, thường là nguyên nhân ẩn náu gây ra ngọng, nhất là
ngọng các âm gió. Trong trường hợp có các bệnh tích thực thể của các trung tâm
ngôn ngữ hoặc các đường dẫn truyền thần kinh ở não thì sẽ sinh ra rối loạn về cấu
âm trung ương (dysarthrie centrale). Do có các bất thường về giải phẫu học của bộ
máy phát âm nên thường gây ra rối loạn nặng về phát âm như tật hở hàm ếch và ít
gặp hơn là liệt lưỡi, liệt màn hầu hoặc liệt môi.
b. Ngọng cơ năng.
Phát sinh như một rối loạn phát triển của ngôn ngữ, trong đó không tìm thấy
được một biến đổi bệnh lý nào trên các đường tiếp nhận và diễn đạt của ngôn ngữ.
Có thể phân thành hai thể, thể vận động gây ra bởi sự vụng về của bộ máy phát âm

và sự rối loạn các cử động cấu âm tế nhò và thể giác quan gây ra bởi khả năng phân
biệt không đầy đủ của các phần trung ương của bộ máy phân tích thính giác. Trẻ
không phân biệt được các âm một cách đúng đắn bằng tai nghe vì thế không lặp lại
được chúng một cách hoàn hảo trong ngôn ngữ.
c. Triệu chứng.
Ngọng có thể chỉ ảnh hưởng đến từng âm riêng lẻ (ngọng âm), từng nhóm âm
(ngọng âm tiết) hoặc toàn bộ từ ngữ bò phát âm méo mó (ngọng từ ngữ).
Mỗi một loại ngọng lại có tên gọi riêng, rối loạn về phát âm các âm gió (như
âm s, x) gọi là ngọng âm gió (sigmatismus). Ngọng âm gió còn chia làm nhiều loại,
thông thường nhất là khi phát các âm gió, lưỡi thòi ra giữa các răng cửa nên gọi là
giọng âm giữa răng (sigmatismus interdentalis), nếu khi phát các âm gió, lưỡi ép
vào mặt sau các răng cửa thì gọi là ngọng âm gió sau răng (sigmatismus
addentalis), nếu khi phát âm gió, luồng không khí đáng lẽ thoát ra ở đường giữa lại
thoát lệch sang hai bên thì gọi là ngọng âm gió bên (sigmatismus lateralis), nếu khi
phát các âm gió, luồng không khí xuyên lên khoảng mũi thì gọi là ngọng âm gió
mũi (sigmatimus nasalis) v.v
Rối loạn về phát âm âm “r” gọi là ngọng âm r (rhotacismus). Ngọng âm r còn
chia làm nhiều loại, thông thường nhất là ngọng âm “r” màn hầu phát sinh ra khi
bờ tự do của màn hầu rung ít gặp hơn ngọng âm r môi phát sinh khi môi rung và
ngọng âm r giữa răng khi lưỡi di động giữa các răng v.v (Stazykem vysunutym
mezi zuby).
Rối loạn về phát âm “l” gọi là ngọng âm “l” (lambdacismus)
Rối loạn về phát âm “k” gọi là ngọng âm “k” (kapadismus).
d. Điều trò.
Điều trò ngọng gồm hai việc là loại trừ nguyên nhân gây ra ngọng và điều trò
uốn sửa các âm bò rối loạn.
Seeman đã đề ra 4 nguyên tắc chính trong chữa ngọng:
- Thời gian các bài tập phải ngắn:
Dựa vào thực tế là sự tập trung nhiều vào bài tập sẽ làm trẻ chóng mặt, do đó
khả năng phân biệt bằng tai nghe âm thanh đúng của âm luyện tập bò giảm sút. Vì

thế thời gian buổi tập chỉ nên rất (2, 3 phút) nhưng phải luyện tập nhiều lần trong
một ngày (20 đến 30 lần mỗi ngày).
- Sử dụng giám sát bằng tai nghe:
Trẻ ngọng thường không có ý thức về cách phát âm sai của mình vì thế cần thiết
phải luyện tập cho trẻ phân biệt được bằng tai nghe cách phát âm đúng và cách
phát âm sai.
- Nguyên tắc sử dụng các âm bổ trợ:
Xuất phát từ thực tế là các mô hình cấu âm sai thường cố đònh rất vững chắc và
không thể phá vỡ được bằng cách trình bày giản đơn cho trẻ cách thức cấu âm
đúng, vì thế khi tập, tốt nhất là nên xuất phát từ âm mà trẻ đã biết cấu âm đúng và
có vò trí cấu âm tương tự với âm trẻ đang luyện tập. Ví dụ: trong khi tập uốn sửa
các âm gió, ta sử dụng âm bổ trợ “t”. Trong tập âm “r” ta sử dụng “d” v.v âm bổ
trợ được chuyển dần từng bước sang âm mới của âm đang luyện tập.
- Dùng sửa tác động tối thiểu:
Nguyên tắc này gồm tiết kiệm cử động và sức trong khi cấu âm. Khi bắt đầu
luyện tập một âm mới, phải phát âm nhẹ, khẽ và không cần sức để cho âm đó
không khác thường trong khi nói và được sáp nhập nhanh chóng vào các âm khác.
Đa số các trường hợp rối loạn về phát âm có thể uốn sửa được nhất và đối với
các hình thái ngọng cơ năng.
3. Nói giọng mũi.
Nói giọng mũi là rối loạn về tính chất cộng hưởng mũi trong ngôn ngữ. Âm sắc
của cộng hưởng mũi có trong ngôn ngữ là nhờ có sự đóng lại đúng mức của vòng cơ
màn hầu-họng gồm sự tham gia của hàm ếch mềm, các cơ thành bên họng và phần
trên của cơ khít hầu mà khi cơ co thắt tạo nên cái gọi là "Gờ Passavant".
Nếu âm sắc cộng hưởng mũi bò giảm, phải sinh ra giọng mũi đóng, nếu âm sắc
cộng hưởng mũi tăng lên thì sinh ra giọng mũi hở, nếu đồng thời có cả giọng mũi
đóng và giọng mũi hở thì gọi là gòọng mũi pha. Một loại giọng mũi hở gây nên rối
loạn ngôn ngữ do có tật bẩm sinh hàm ếch bò hở.
a. Giọng mũi kín (Rhinophonia clansa, hyporrhinophonia) phát sinh do đường
qua mũi hoặc họng mũi bò tắc hoặc bò hẹp lại, do đó âm thanh của giọng không đi

vào được khoang mũi.
Những biến đổi bệnh lý làm hẹp khoang mũi và họng mũi sẽ gây ra giọng mũi
đóng thực thể. Nhất thời giọng mũi đóng thực thể có thể quan sát thấy trong viêm
mũi cấp, lâu dài có thể quan sát thấy trong các viêm quá phát mãn tính của niêm
mạc mũi, các pôlip mũi, các u mũi lệch hình của vách ngăn, ở trẻ con hay gặp nhất
là các trẻ bò V.A.
Hiếm hơn là hình thái giọng mũi đóng cơ năng gây ra bởi cường chức năng thái
quá của hàm ếch nằm trong điều kiện mũi vẫn thông.
Dấu hiệu của giọng mũi đóng: sự giảm cộng hưởng mũi sinh lý làm biến đổi âm
thanh của một số âm, đặc biệt các âm mũi “m”, “n” sẽ nghe như “b”, “d”, âm
thanh của các nguyên âm bò bóp nghẹt (ức chế) một cách không tự nhiên.
Điều trò: đối với các giọng mũi đóng, cần thiết phải loại trừ bằng phẫu thuật các
nguyên nhân làm mũi tắc. Đôi khi sau phẫu thuật vẫn tiếp tục tồn tại giọng mũi
đóng (ví dụ sau khi nạo V.A) dưới hình thái của giọng mũi do thói quen, phải tiến
hành điều trò thanh học bằng luyệt tập như đối với giọng mũi cơ năng.
b. Giọng mũi hở (rhinophonia aperta, hyperrhinophonia) phát sinh trong
điều kiện đóng màn hầu họng không hoàn hảo do đó âm thanh của giọng nói lên
mũi và giọng sẽ mang một âm sắc rất xấu.
Nguyên nhân của giọng mũi hở là các rối loạn thực thể của hàm ếch như hở
hàm ếch, xẻ màn hầu, ngắn màn hầu bẩm sinh, ngoài ra còn do các liệt màn hầu
hoặc các tổn thương màn hầu do tai nạn v.v Giọng mũi hở cơ năng phát sinh đôi
khi còn do lười nhác về cấu âm. Giọng mũi hở cũng thường thấy do thói quen như
sau khi liệt màn hầu, bạch hầu thanh quản hoặc sau các phẫu thuật ở họng như cắt
amydam, nạo V.A v.v
Dấu hiệu của giọng mũi hở: rối loạn thể hiện bằng âm sắc trong tất cả các
nguyên âm, đặc biệt nhiều nhất đối với âm “i”. Các âm tắc đưọc cấu tạo bằng
tiếng bật yếu đi và trong hở hàm ếch - họng quá lớn thì không thể cấu âm được
chính xác các âm này vì trong khoang miệng không tạo nên được một áp lực cần
thiết do không khí thoát lên mũi.
Trong khi chẩn đoán, cần phân biệt giọng mũi đóng với giọng mũi hở vì các

biện pháp dùng để chữa giọng mũi đóng chống chỉ đònh đối với giọng mũi hở, nếu
áp dụng sẽ làm bệnh nặng hơn, ví dụ nạo V.A.
Điều trò: chữa nguyên nhân gây ra giọng mũi hở. Nếu có các tật về giải phẫu
học phải phẫu thuật chỉnh hình; nếu do liệt, cần cho bệnh nhân uống vitamin B1
hoặc schychnin; nếu do ngắn màn hầu, cần phải tiến hành xoa bóp màn hầu bằng
ngón tay trong một thời gian dài và luyện các bài tập ngữ âm.
c. Giọng mũi pha (ghinophonia mixta):
Phát sinh do nguyên nhân gây giọng mũi đóng và cả nguyên nhân gây giọng
mũi hở nghóa là mũi vừa bò tắc (ở mũi hoặc họng mũi) vừa có kèm theo cả đóng
hàm ếch - họng không kín. Các âm mũi thường bò giọng mũi đóng còn còn đối với
các nguyên âm thì đa số bò giọng mũi hở.
Điều trò: yếu tố giọng mũi đóng trong đa số trường hợp chỉ có thể điều trò bằng
phẫu thuật còn yếu tố giọng mũi hở thì có thể đề cập giải quyết được bằng điều trò
thanh học. Nên tiến hành điều trò trước hết bằng điều trò cơ năng vì chỉ đònh phẫu
thuật trong các trường hợp này thường phải cân nhắc hết sức thận trọng và luôn có
sự cộng tác giữa bác só thanh học và TMH để sau phẫu thuật không gây ra một
giọng mũi hở xấu hơn, còn tai hại hơn là một giọng mũi pha.
4. Rối loạn ngôn ngữ ở trẻ bò hở hàm ếch.
Hở hàm ếch là một rối loạn về phát triển, phát sinh trong những tháng đầu tiên
của thai nhi do sự phát triển không hoàn hảo của hàm ếch của xương hàm trên. Có
thể chỉ giới hạn ở hàm ếch mềm hoặc cả hàm ếch mềm lẫn hàm ếch cứng, hoặc có
thể là hoàn toàn nếu như môi cũng bò xẻ nốt (cheilognatopalatschisis).
a. Triệu chứng.
Trẻ không bú đượïc vì không kiến tạo được trong khoang miệng một áp lực âm
tính cần thiết và phải nuôi bằng phương pháp nhân tạo. Ngôn ngữ bao giờ cũng bò
chậm và đa số trẻ chỉ được bắt đầu phát triển tới khoảng 2 năm. Ở giai đoạn hài
nhi, âm thanh của giọng trẻ bò hở hàm ếch không có gì khác so với ở trẻ bình
thường. Chỉ khi trẻ bắt đầu có ý thức phát âm và bắt chước ngôn ngữ cuả những
người xung quanh thì biểu hiện bên ngoài của ngôn ngữ mới phát triển và có những
dấu hiệu đặc trưng sau:

- Giọng mũi hở:
Do sự đóng hàm ếch - họng không hoàn hảo, mức độ của rối loạn giọng tùy
thuộc vào kích thước của hở, thường là giọng mũi hở được bù trừ bằng V.A và sự
dày lên của niêm mạc khoang mũi.
- Rối loạn cấu âm: (ngọng)
Đó là một loại ngọng rất điển hình ảnh hưởng nhiều nhất đối với các phụ âm.
Các âm tắc không thể cấu tạo được bởi vì trong khoang miệng không tạo ra được
một áp lực nén cao cần thiết và vò trí cấu âm bò di chuyển ra phía sau, thường có khi
tới tận thanh quản đến mức được thay thế bằng các sự bật (nổ) của khe thanh môn.
Các âm gió thường cấu tạo bởi những tiếng rì rào thổi ở mũi (sigmatismus nasalis).
Âm thanh của ngôn ngữ rất xấu, ngôn ngữ tự bản thân thường bò méo mó cho tới
mức độ không hiểu được.
- Giọng hàm ếch (palatophonia):
Loại này phát triển về sau, khi trẻ tới tuổi đi học.
Giọng hàm ếch được cấu tạo một cách thô sơ, rặn, có đặc tính giống tiếng cừu
kêu.
Rối loạn về nét mặt khi nói ở những người bò xẻ hàm ếch phát sinh do người
bệnh cố gắng ngăn cản không cho không khí thoát ra đường mũi mà nhếch mũi lên,
co thắt cánh mũõi. Điều này không những làm mất mỹ quan mà còn ảnh hưởng đến
âm thanh của ngôn ngữ.
b. Điều trò.
Điều trò các rối loạn ngôn ngữ trong hở hàm ếch, điều kiện cơ bản là phải đóng
kín được chỗ hở hàm ếch một cách hoàn hảo và thỏa mãn về phương diện cơ năng.
Điều này có thể thực hiện được bằng cách đeo hàm bòt (điều trò bảo tồn) hoặc bằng
phẫu thuật. Hàm bòt đeo vào sẽ bòt khe hở và ngăn cách khoang họng với khoang
mũi. Điều trò phẫu thuật ngày nay có ưu thế hơn cách chữa bảo tồn bằng đeo hàm
bòt, đó là tạo nên một sự đóng hàm ếch họng mới, giúp ngôn ngữ có thể phát triển
được một cách đúng đắn hoặc có thể luyện tập được bằng cách điều trò thanh lọc.
Yêu cầu cơ bản của điều trò là phải tiến hành phẫu thuật chỉnh hình đúng lúc,
tốt nhất là mổ vào giữa 2 - 3 tuổi để tránh sự hình thành ở trẻ những mô hình ngôn

ngữ bệnh lý do ngọng nặng.
Phẫu thuật chỉnh hình hở hàm ếch ngày nay có 2 loại:
- Phẫu thuật của Veau sau này được Burian cải tiến, còn gọi là phẫu thuật “di
chuyển màn hầu ra sau” (rétroposition du voile) và “khâu dính màn hầu và họng”
(pharyngo fixation). Trong các phẫu thuật này, ta di động các vạt niêm cốt mạc
tách ra từ hàm ếch, di chuyển ra phía sau, khâu lại ở đường giữa (di chuyển màn
hầu ra sau) và bờ sau của màn hầu được cố đònh vào thành họng bằng một vạt niêm
mạc rộng tách ra từ thành sau của họng (khâu dính màn hầu vào họng).
- Phẫu thuật chỉnh hình màn hầu (véloplastie) của Schweckendiek chỉ gồm có
khâu giản đơn hàm ếch mềm ngay từ khi trẻ 8 tháng, khe hở còn lại ởÛ hàm ếch
cứng sẽ dần dần hẹp lại một cách tự nhiên và được khâu lại trong một phẫu thuật
lần hai khi trẻ lên khoảng 12 tuổi.
Theo Burian thì loại phẫu thuật đầu tốt hơn về mặt tạo cơ sở chức năng cho
ngôn ngữ cấu tạo đúng đắn.
5. Lắp (cà lăm).
Lắp là một loại thần kinh chức năng của ngôn ngữ, thường xảy ra ở trẻ con và ở
con trai nhiều hơn ở con gái. Vì lắp liên quan tới ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp,
nên người lắp dễ bò các rối loạn thần kinh chức năng khác gây cho họ sự đau khổ
nặng nề về tinh thần do sự lo sợ khi phải nói.
Các triệu chứng đầu tiên thường biểu hiện là vào khoảng giữa 3 - 5 tuổi, thời
gian mà trẻ bắt đầu nói những câu nói có liên kết với nhau. Thời gian hay xảy ra
lắp nữa là khi trẻ bắt đầu đi học là lúc trẻ bò các loại chấn thương về tâm thần. Ít
khi lắp phát sinh vào tuổi dậy thì và sau tuổi dậy thì thì rất hiếm.
a. Nguyên nhân:
Lắp, cũng như mọi loại chức năng thần kinh khác, là do các ảnh hưởng bên
trong hoặc các ảnh hưởng bên ngoài. Trong số các nguyên nhân bên trong, quan
trọng nhất là nguyên nhân gia truyền (chiếm khoảng 1/3 số trường hợp lắp) tiếp
đến là nguyên nhân bẩm sinh thể hiện ra ở hệ thần kinh thực vật do bò kích thích.
Cũng có giả thiết cho rằng rối loạn về việc chiếm ưu thế của bán cầu đại não cũng
có vai trò nhất đònh vì có liên quan đến việc thuận tay trái.

Trong các ảnh hưởng bên ngoài gây ra lắp, quan trọng nhất là ảnh hưởng của
môi trường sinh sống của bệnh nhân. Tiếp đến có thể là những chấn thương nặng
nề về tâm thần hoặc thân thể, suy yếu do các bệnh nhiễm khuẩn v.v Còn nguyên
nhân lắp do “lây nhau” trong quan hệ với những người lắp thì rất hiếm.
Giả thuyết về phát sinh ra lắp ngày nay được nhiều người biết đến nhất là giả
thuyết của Seeman giải thích các triệu chứng lắp là do các rối loạn về hoạt động
trong chức năng của thể vân - cầu nhạt và não trung gian (diencephala) gây ra bởi
các xúc động mạnh. Đứng về phương diện sinh lý, các xúc động có trung tâm ở
khâu não sẽ bò ức chế bởi hoạt động của vỏ não qua trung gian bởi đường khâu não
- vỏ não.
Đối với các trường hợp suy yếu vỏ não do tạng, các xúc động mạnh như sợ phải
nói trong các biểu hiện đầu tiên của lắp có thể gây ra ức chế các đường liên hệ
giữa khâu nâo và vỏ não; các yếu tố xúc động cùng với các biểu hiện của lắp gây
ra các hiện tượng “ngãng” (lonie) và “lắp” (clonie), được cấu tạo trước ở trong hệ
thống thể vân - cầu nhạt thường chiếm ưu thế.
Một số tác giả như Daubek và Shiling nhấn mạnh về tầm quan trọng của các
ảnh hưởng điều chỉnh của thân não và của tổ chức võng mô (substantia reticularis)
trên cơ chế của ngôn ngữ và sự rối loạn của các yếu tố này có thể gây ra lắp.
Gần đây nhất, nhiều tác giả (ví dụ Tomatis) cho rằng muốn có được sự phối hợp
ăn ý của các cử động khi nói cần phải có được sự tiếp nhận đúng đắn bản thân lời
nói của mình bằng đường tai nghe và cảm giác bản thể. Từ đó cho rằng lắp phát
sinh bởi đường thính giác đi vào, nghóa là cảm giác nghe bản thân lời nói của mình,
giao thoa bằng một cách thức nào đó với đường cảm giác bản thể đi vào. Nếu như
đường thính giác đi vào bò biến đổi ví dụ khi ta làm điếc sự tiếp nhận ngôn ngữ của
mình hoặc làm chậm sự tiếp nhận đó bằng phương pháp nhân tạo bằng máy ghi âm
(hiệu quả Lee) thì các triệu chứng lắp nhất thời sẽ giảm.
b. Triệu chứng của lắp:
Lắp thể hiện ra bằng sự rối loạn phối hợp ăn ý của tất cả các cử động tham gia
vào cấu tạo nên lời nói nghóa là các cử động thở, phát âm và cấu âm. Có thể chia
các triệu chứng của lắp ra làm các triệu chứng bên trong và các triệu chứng bên

ngoài.
Các triệu chứng bên ngoài của lắp gồm các cử động co thắt của các cơ của bộ
máy phát âm thể hiện ra hoặc bằng các “lắp” nghóa là lắp lại các âm tiết, giống
như các cơn co giật, hoặc bằng các “ngãng” giống các cơn co cứng làm người bệnh
không thể phát được một số âm nào đó vì bò co thắt. Ngoài các dấu hiệu cơ bản đó
ra, khi người lắp nói thường còn kèm theo các cử động đồng thời của chân, tay và
của nét mặt. Các rối loạn của lắp càng nặng thêm khi có mặt những người lạ, khi
trẻ bò gọi lên đọc bài, sau những cố gắng về thể lực hoặc tinh thần v.v Các triệu
chứng của lắp giảm đi trong khi hát, nói thầm, khi biến đổi tiết tấu của lời nói.
Các triệu chứng bên trong của lắp cũng rất quan trọng vì đó chính là nguồn gốc
làm dằn vặt và đau khổ cho người bệnh. Đứng hàng đầu là triệu chứng sợ nói
(logophobie), tự giác về tật của mình trong khi nói và sự lo sợ mọi người chế giễu
đã ám ảnh bệnh nhân lâu dài có thể đưa đến những biến đổi nặng nề về tâm thần,
gây nên những phức trạng tự ti, thích sống cô độc và thậm chí trạng thái trầm uất
(état dépressif).
c. Tiên lượng:
Tiên lượng chỉ tốt đối với đa số các trường hợp được chữa sớm, khi lắp mới bắt
đầu. Đối với các trường hợp lắp đã phát triển lâu năm thì thường bò tái phát và việc
chữa trò thường kéo dài lâu (hàng vài năm).
d. Điều trò:
Seeman đề ra phương pháp điều trò phức hợp gồm tâm lý hiệu pháp và điều trò
bằng thuốc:
- Tâm lý liệu pháp:
Là một phần của điều trò cơ bản nhằm giáo huấn nhân cách của người lắp.
Yêu cầu quan trọng của tâm lý liệu pháp là cải biến môi trường sống của bệnh
nhân. Điều trò tâm lý cần loại trừ sự lo sợ của người bệnh khi phải nói, và gây dựng
từng bước lòng tự tin cho họ.
- Điều trò huấn luyện:
Nhằm giải thoát các cử động co thắt khi phát âm cũng như khi cấu âm và làm
kiện toàn khả năng diễn đạt bằng cách tiến hành các bài phối hợp từ ngữ và các

buổi luyện tập nói chuyện.
- Điều trò bằng thuốc:
Nhằm mục đích làm cho người bệnh trở nên bình tónh và đôi khi cần phải gây
hưng phấn cho người bệnh trong trường hợp trầm uất nặng. Với phương pháp này,
ta có thể cho bệnh nhân uống các thuốc an thần như các thuốc có barbituric, có
valériane, có brôm, và gần đây đặc biệt hay dùng các thuốc trấn tónh (ataractiques)
như chlorpromazin, chlorprotixen, thioridazin v.v và các thuốc trấn an
(tranquillisants) như guajacuran, méprobamate, librium, v.v Đối với các trường
hợp trầm uất nặng, có thể sử dụng trong một thời gian ngắn các thuốc
psychomimetique như Dexfenmetrazin, tofranil l0mg-25mg, Mélipramin l0mg-
25mg để kích thích hưng phấn người bệnh lên.
e. Phòng bệnh:
Cần chú ý từ giai đoạn trẻ bắt đầu phát triển ngôn ngữ và thái độ đối với ngôn
ngữ ở trẻ em. Không nên lưu ý trẻ về các thiếu sót nhỏ trong ngôn ngữ, ví dụ thỉnh
thoảng bò lắp hoặc thậm chí vì thế mà đánh mắng trẻ. Cần uốn sửa môi trường gia
đình và trường học, để phòng các xung đột và tránh những xúc động mạnh. Ở lớp
học, cần đối xử với các trẻ có tật nói lắp một cách thận trọng, không nên bắt trẻ
phải đọc nhanh hay phải trả lời nhanh. Đôi khi phát sinh lắp do ảnh hưởng bất lợi vì
cưỡng bách trẻ dùng tav phải nếu trẻ thuận tay trái.
Tiết chế đúng và ngủ tốt cũng góp phần phòng bệnh lắp.
6. Lòu (nuốt chữ) (Tumultus sermonis).
Lòu là một rối loạn ngôn ngữ cũng được xếp vào loại các loạn thần kinh chức
năng, thể hiện bằng nói ngôn ngữ nhanh, cập rập, và thøng hay lập lại, nuốt mất
các vần hoặc có khi cả từ do đó ngôn ngữ trở thành rất khó hiểu được. Sự cập rập

×