Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

những điểm khác biệt và ưu điểm của basel ii so với basel i - vận dụng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.44 KB, 14 trang )

Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
PHẦN 1: GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ BASEL I, BASEL II - NHỮNG ĐIỂM
KHÁC BIỆT VÀ ƯU DIỂM CỦA BASEL II
1. Giới thiệu sơ lược về Basel I và Basel II
1.1. Basel I
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời và đôi nét về Basel I
Vào những năm 1980, hệ thống ngân hàng thương mại trên thế giới phát triển
mạnh và có những dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Nhằm củng
cố hoạt động và tạo ra một cơ chế cạnh tranh bình đẳng của hệ thống ngân hàng, Uỷ ban
Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision - BCBS) được
thành lập bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước
phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ.
Năm 1988, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng Uỷ ban này đã phê duyệt một văn
bản đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về vốn của Basel (the Basel Capital Accord hay Basel I),
yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể
đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất
định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối
thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó.
Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ
biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Ngoài những ảnh
hưởng của quá trình tự do hóa tài chính và sự tiến bộ trong công nghệ ngân hàng cũng
như xu hướng đa dạng hóa các sản phẩm tài chính diễn ra rầm rộ vào những thập kỷ cuối
thế kỷ 20 thì yêu cầu xây dựng một nền tảng so sánh hiệu quả hoạt động ngân hàng và
đảm bảo hạn chế rủi ro trong hệ thống thanh toán liên ngân hàng toàn cầu là động lực dẫn
đến sựra đời của Hiệp ước Basel I và sau đó hơn 10 năm là Basel II (1999).
1.1.2. Mục tiêu của Basel I
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 1
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
Chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu toàn cầu hóa nhằm củng cố sự


ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.
Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh
tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
1.1.3. Nội dung của Basel I
- Nội dung cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế
chung nhất về vốn của ngân hàng. Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 loại: Vốn
cấp 1, Vốn cấp 2. Trong đó: Vốn tự có = Vốn cấp 1+Vốn cấp 2.
Vốn cấp 1 (vốn cơ bản) là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được
công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn;
Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty
con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm tất cả các vốn khác như: Lợi nhuận giữ lại không
công bố; Dự phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung;
Công cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và
các tổ chức tài chính khác.
- Đưa ra tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với
mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng
hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) =Vốn bắt buộc/Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền(RWA)
Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn
thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và
thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.
1.1.4. Những hạn chế của Basel I
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 2
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
Thứ nhất, việc phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản cho vay. Hệ số rủi ro
chưa chi tiết cho rủi ro theo đối tác (ví dụ như khả năng tài chính của khách hàng) hoặc
theo đặc điểm của khoản tín dụng (ví dụ như theo thời hạn). Điều này chỉ ra rằng có thể
các ngân hàng có cùng tỷ lệ an toàn vốn nhưng có thể đối mặt với các loại rủi ro khác

nhau, ở mức độ khác nhau.
Thứ hai, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động. Các lí thuyết về
đầu tư chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư. Theo Basel I, quy
định về vốn tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa
dạng (ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (nhiều rủi ro hơn).
Thứ ba, Basel I chỉ đềcập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến các
rủi ro khác như rủi ro quốc gia, rủi ro ngoại tệ, rủi ro thịtrường, rủi ro hoạt động, …
Thứ tư, một số quy tắc do Basel I đưa ra chỉ có thểvận dụng trong trường hợp
ngân hàng hoạt động theo kiểu ngân hàng đơn, không dựa trên một sự sáp nhập hay hoạt
động theo kiểu tập đoàn ngân hàng, ngân hàng mẹ, ngân hàng – chi nhánh, …
Thứ năm, một số quy định trong Basel I đã không còn phù hợp khi các ngân hàng
dần dần sáp nhập với nhau để tạo thành những tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh cao
và có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, các ngân hàng không còn chỉ hoạt động
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà luôn vươn ra tầm quốc tế.
1.2. Basel II
Basel I dù có nhiều thành tựu đáng nói nhưng vẫn bộc lộ rất nhiều khuyết điểm.
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung
đo lường mới với 3 trụ cột chính. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn
Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành với những ưu điểm vượt trội hơn so
với hệ thống cũ.
1.2.1. Mục tiêu của Basel II
Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; Tạo lập và
duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế; Đẩy
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 3
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro. Đây
được xem như giải pháp nhằm nâng cao các tiêu chuẩn Ngân hàng châu Á. Basel II đưa
ra một loạt các phương án lựa chọn, cho phép quyền tự quyết rất lớn trong các giám sát
hoạt động Ngân hàng. Phương pháp áp dụng rộng hơn cho các trung gian tài chính, các

dạng công ty mẹ con…
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel
I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế điều
tiết dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự điều tiết mà
sẽ dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình.
1.2.2. Nội dung của Basel II
Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc
tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được
tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro tác
nghiệp (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn
đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ,
nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp. Trọng số rủi ro của Basel II
bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.
Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung
cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột
này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro
hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà
hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
Thứ nhất, các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ
vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì
mức vốn đó.
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 4
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội
bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ
vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ
không hài lòng với kết quả của quy trình này.
Thứ ba, giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng hoạt động với mức vốn cao hơn

mức tối thiểu và phải có khả năng bắt các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối
thiểu.
Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân
hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức
nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng
theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân
hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến
những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro
thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro
này.
Basel II cũng đưa ra các khuyến cáo không bắt buộc và các yêu cầu mang tính bắt
buộc đối với ngân hàng, đề nghị các Ngân hàng tuân theo nguyên tắc: “Ngân hàng phải
có chính sách về tính minh bạch và công khai được hội đồng quản trị thông qua. Chính
sách này phải thể hiện rõ các mục tiêu và chiến lược dành cho việc công khai hóa các
thông tin về thực trạng tài chính và hoạt động Ngân hàng”.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra,
các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch
hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu
được rủi ro.
2. Những đóng góp và ưu điểm của Hiệp ước Basel II so với Basel I
2.1. Tổng quan về những đóng góp kinh tế của Hiệp ước Basel II
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 5
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
2.1.1. Tính hợp lý của Hiệp ước Basel II
Hiệp ước Basel II là những tài liệu hướng dẫn mô tả các đề xuất những quy định
nâng cao công tác quản lý rủi ro tín dụng, liên quan đến phạm vi yêu cầu vốn đối với rủi
ro hoạt động, đưa ra các biện pháp cải tiến khác nhau đối với hiệp ước “hiện hữu” và chi
tiết hóa “hoạt động thanh tra, giám sát” cũng như đề ra các trụ cột về “tính kỷ luật của thị

trường”. Ban đầu, Hiệp ước cho phép một thời gian chuyển đổi 3 năm trước khi có hiệu
lực hoàn toàn. Như vậy đến năm 2004 các định chế tài chính tại các nước phát triển tham
gia hiệp ước phải tuân thủ nó. Tuy nhiên, tình hình thực hiện hiệp ước đã bị đình trệ. Đến
tháng 11/2007 thì phía Mỹ mới chính thức chấp nhận áp dụng Basel II. Và tiếp đó là đến
năm 2008 thì tất cả ngân hàng của khối EU mới tiến hành báo cáo về mức độ an toàn vốn
(captial adequacy) theo chuẩn mực Basel mới.
Những quy định mới có phạm vi rất rộng. Nó đưa ra một loạt những chọn lựa, các
chỉ tiêu đo lường phức tạp và toàn diện hơn, bên cạnh việc mô tả công việc đang thực
hiện, với các vấn đề chưa được giải quyết sẽ được tổ chức hợp lý ở những quy định cuối
cùng. Hiệp ước mới bao gồm 3 trụ cột:
Trụ cột 1: Yêu cầu về vốn tối thiểu
Trụ cột 2: Quy trình đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát
Trụ cột 3: Tính kỷ luật thị trường
Ba trụ cột này sẽ góp phần tạo ra một mức độ an toàn và lành mạnh cao hơn trong
hệ thống tài chính.
2.1.2. Những đóng góp cải cách của Hiệp ước Basel II
Những đóng góp kinh tế của Hiệp ước mới mở rộng ra cả quy trình thanh tra, giám
sát và tính kỷ luật của thị trường. Về mặt kinh tế, Hiệp ước mới tỏ ra là một bước tiến bộ
lớn, cụ thể:
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 6
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
Về mặt định lượng công tác đo lường rủi ro tín dụng, Hiệp ước này đưa ra một
chọn lựa giữa các phương pháp “được tiêu chuẩn hóa”, “cơ bản” và “nâng cao”. Nó khắc
phục những hạn chế của các “tỷ số Cooke”, bằng một số hạn chế các trọng số và một
trọng số duy nhất cho mọi đối tác rủi ro 100%. Không có thay đổi nào đối với định nghĩa
về vốn và vốn cấp 1/cấp 2 lẫn hệ số 8%.
Một loạt các tỷ số mới (các tỷ số McDonough) được đưa ra nhằm khắc phục sự
thiếu sót này. Các trọng số về rủi ro xác định tỷ lệ vốn quy định đối với rủi ro tín dụng.
Các ngân hàng đã dựa vào các trọng số quy định và tiền phạt không gắn với rủi ro, dẫn

tới sự bóp méo trong đánh giá rủi ro, giá cả và các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động
đã điều chỉnh với rủi ro v.v… Hiệp ước mới cung cấp một khung “nhạy cảm với rủi ro”
hơn và sẽ tạo ra một động cơ lớn giải quyết “sự không đầy đủ” của dữ liệu rủi ro tín
dụng.
Nó cũng mở rộng phạm vi yêu cầu vốn đối với rủi ro hoạt động. Các đo lường về
rủi ro hoạt động vẫn rất “sơ sài” trong một thời gian bởi vì thiếu thông tin, nhưng hiệp
ước này sẽ kích thích sự thay đổi một cách nhanh chóng.
Từ quan điểm kinh tế, hiệp ước này gặp phải những hạn chế về sự chính xác của
các chỉ tiêu đo lường dựa trên tiền phạt, một hạn chế được làm giảm nhẹ bởi nhu cầu làm
cân đối giữa tính chính xác và tính thực tiễn.
2.2. Ưu điểm của Basel II so với Basel I
Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy
nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơnvào các phương
pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra,giám sát và kỷ luật trên
nguyên tắc thị trường. Do đó, quyền lực của các nhàquản lý quốc gia được tăng lên bởi
họ cần phải đánh giá sự đủ vốn của ngânhàng có tính đến đặc điểm rủi ro cụ thể của nó.
Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả
các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp
khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 7
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Mặc dù đã thiết lập tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% để dự phòng cho các rủi ro, nhưng Basel I chỉ đánh giá
những rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất mà không đề cập đến rủi ro hoạt
động một cách rõ ràng, trong khi rủi ro này đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức
độ ngày càng tăng. Basel II đã mở rộng độ nhạy cảm rủi ro, tập trung hơn đối với các rủi
ro hoạt động và đánh giá xác suất mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Basel II nhạy
cảm hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên
và sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi rovà chính sách rủi ro.

Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0-100 và ưu đãi hơn với cácnước thuộc Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-operation and
Development). Basel II quy định từ 0 - 150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào, bao
gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa nhận
về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn nhưhỗ trợ, đảm bảo, phái
sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
2.3. Hạn chế của Basel II
 Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có thể được
chấp nhận rộng rãi.
 Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu lỳ kinh
doanh.
 Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm dịch vụ có
khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro.
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 8
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
PHẦN 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG BASEL Ở VIỆT NAM
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, NHNN Việt Nam và các TCTD Việt Nam đã có
nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng
cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro của
các NHTM tiến dần từng bước đến các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Theo đó, việc
từng bước áp dụng các chuẩn mực của Basel II được đặc biệt chú trọng, nhất là sau cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thời gian qua.
Việc tiếp cận Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và chi phí khá cao. Các tổ chức tín
dụng phải sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, bao gồm các quy trình, thủ tục và
công nghệ thông tin để đánh giá khách hàng với mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Đối
với một nước có hệ thống ngân hàng mới đang ở giai đoạn phát triển ban đầu như Việt
Nam, việc áp dụng Basel II gặp nhiều khó khăn, thách thức và mất nhiều thời gian. Tuy
nhiên, trước xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính - ngân hàng với nhiều

loại hình dịch vụ ngân hàng mới, việc áp dụng Basel II tại Việt Nam là yêu cầu cấp thiết
nhằm tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro đối với các ngân hàng thương
mại.
1. Về phía cơ quan quản lý, Ngân hàng Nhà nước
1.1. Những quy định cơ bản
Chỉ sau 2 năm kể từ khi Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Luật các Tổ chức
tín dụng (TCTD) được ban hành vào năm 1997, những chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an
toàn lần đầu tiên đã được Ngân hàng nhà nước nghiên cứu và cụ thể hóa bằng 2 Quyết
định: (i) Quyết định số 296/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 quy định về giới hạn cho
vay với một khách hàng của TCTD; (ii) Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày
25/8/1999 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD. Đến ngày
23/4/2003, NHNN có Quyết định số 381/2003/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều, khoản của Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 9
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
dụng ban hành theo Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN ngày 25/8/1999 của Thống đốc
NHNN.
Tiếp theo đến năm 2005, để cụ thể hơn các quy định của Basel, NHNN đã ban
hành các quyết định nhằm thay thế các QĐ 296, 297, bao gồm:
- Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định về các tỷ lệ bảo
đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, trong đó quy định về: (i) Cách xác định Vốn tự
có=vốn cấp I + vốn cấp II; (ii) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: Tổ chức tín dụng, trừ chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài
sản "Có" rủi ro.
- Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của
TCTD. Theo đó, nợ của TCTD được chia làm 5 nhóm dựa trên hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ của mỗi ngân hàng và chủ yếu dựa vào khả năng thu nợ của mỗi khoản vay:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn), Nhóm 2 (Nợ cần chú ý), Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn),

Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn). Tương ứng với từng nhóm
nợ có các mức trích lập dự phòng khác nhau: Nhóm 1: 0%, Nhóm 2: 5%, Nhóm 3: 20%,
Nhóm 4: 50% và Nhóm 5: 100%, đồng thời, các Tổ chức tín dụng phải có biện pháp đặc
biệt đối với các khoản nợ xấu. Đây cũng là cách phân loại nợ mà Hiệp ước Basel đã đưa
ra. Phương pháp trích lập dự phòng theo Quyết định 493 đã tiến khá sát với thông lệ quốc
tế, cụ thể: (i) Có trích lập dự phòng chung và dự phòng riêng; (ii) Có tính giá trị Tài sản
bảo đảm và loại trừ khi tính toán số tiền phải trích lập; (iii) Cho phép các Ngân hàng
thương mại được trích lập dần trong 3 năm, phù hợp với tình hình tài chính và kết quả
kinh doanh tại các Ngân hàng thương mại.
Các quy định tại QĐ 457 và QĐ 493 tuy đã đề cập đến 1 số vấn đề liên quan đến
các điều khoản trong hiệp định Basel nhưng vẫn còn ở mức hạn chế. Chính vì vậy, ngày
20/5/2010, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN quy định
về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, có hiệu lực từ ngày
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 10
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
01/10/2010 và thay thế QĐ 457 và các sửa đổi có liên quan. Trong đó, ngoài việc quy
định lại về việc xác định Vốn tự có= vốn cấp I + vốn cấp II, Ngân hàng Nhà nước đã
hướng dẫn cách xác định tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất, nâng tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng lên 9%.
Thông tư 13 gồm 22 điều, đề cập đến các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động
của tổ chức tín dụng, bao gồm: (i) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; (ii) Giới hạn tín dụng; (iii)
Tỷ lệ khả năng chi trả; (iv) giới hạn góp vốn, mua cổ phần; (iv) Tỷ lệ cấp tín dụng so với
nguồn vốn huy động. Sau khi cân nhắc các ý kiến liên quan đến quy định tại Thông tư 13,
ngày 27/9/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 19/2010/TT-NHNN về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Thông tư 13 và ngày 30/8/2011, Thống đốc NHNN đã ký ban hành
Thông tư số 22/2011/TT-NHNN, theo đó, NHNN chính thức hủy bỏ tỷ lệ cấp tín dụng từ
nguồn vốn huy động quy định tại Thông tư 13, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 19.
Bên cạnh đó, Thông tư số 22 cũng điều chỉnh hệ số rủi ro đối với một số tài sản có bằng
ngoại tệ khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.

Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang khẩn trương hoàn thiện để ban
hành quy định mới về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (thay thế QĐ 493 và các sửa đổi có liên quan).
Đây là bước tiến quan trọng trong việc từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel II tại
Việt Nam.
1.2. Một số điểm khác biệt của các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước so với
chuẩn mực Basel
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, việc trích lập dự phòng của các ngân hàng
Việt Nam dựa trên tình trạng nợ quá hạn của các khoản nợ, các thông số có tính bề mặt
như căn cứ chủ yếu vào số ngày gia hạn nợ và số ngày chuyển sang nợ quá hạn chứ
không dựa trên cơ sở hạch toán kế toán nhằm đánh giá khả năng thu hồi nợ dự kiến. Các
yếu tố định tính khác phản ánh đúng chất lượng và khả năng thu nợ của khoản vay như
tình hình tài chính, rủi ro trong kinh doanh của khách hàng, rủi ro phi tài chính,… đều
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 11
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
chưa được đưa vào Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các Ngân hàng thương mại.
Thanh tra ngân hàng cũng chỉ kiểm tra việc tuân thủ của ngân hàng với quy định mà chưa
kiểm tra mức dự phòng trích lập có phản ánh đúng khả năng thu hồi dự kiến hay không.
Còn theo Hiệp ước Basel, rủi ro tín dụng được xác định chủ yếu dựa trên hệ thống phân
loại nợ nội bộ với hệ thống chỉ tiêu khá phức tạp nhằm đánh giá khả năng thu hồi nợ đối
với từng khoản vay.
Liên quan đến Thông tư 13/2010/TT-NHNN và các Thông tư bổ sung, điều chỉnh
Thông tư 13, tỷ lệ an toàn vốn theo cách tính của Thông tư 13 vẫn dựa theo nội dung của
Basel I. Theo Basel II:
Cách tính CAR theo Basel II đã cộng cả rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp vào
mẫu số của công thức Trong khi đó, theo qui định tại Thông tư 13, mẫu số mới chỉ bao
gồm Tài sản Có rủi ro, nghĩa là chỉ tính đến duy nhất rủi ro tín dụng, chưa phản ánh chính
xác mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bên cạnh đó, trên thực tế
hiện nay ở các nước, hệ số CAR của các ngân hàng thường ở vào mức 12%, nên việc quy

định hệ số CAR ở nước ta trên 9% cũng chưa hẳn mang lại một mức an toàn cho các
ngân hàng thương mại.
Một hệ thống tài chính an toàn yêu cầu các ngân hàng có hệ số an toàn vốn tối
thiểu đạt mức yêu cầu. Việc NHNN yêu cầu các ngân hàng tăng vốn điều lệ lên tối thiểu
lên 3.000 tỉ đồng và tăng CAR lên 9% có thể coi là một vế của kế hoạch tăng hệ số an
toàn vốn cho toàn hệ thống, nhưng chỉ yêu cầu tăng vốn điều lệ và CAR tối thiểu là
không đủ, thậm chí có thể còn làm phát sinh thêm những rủi ro. Trong một số trường
hợp, tăng vốn điều lệ chỉ có tác dụng làm tăng hệ số CAR trong ngắn hạn, còn trong dài
hạn, hệ số này sẽ không thể duy trì ở mức cao. Ngoài ra, việc tăng vốn nhằm nâng cao
CAR, nếu thành công khiến cho tổng tài sản phải tăng lên để đáp ứng mức sinh lời kỳ
vọng, nếu ngân hàng không đủ khả năng quản lý sẽ dẫn tới những rủi ro hoạt động sẽ ảnh
hưởng tiêu cực tới hoạt động của họ.
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 12
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
Ngoài ra, Thông tư chưa đề cập đến các nguyên tắc như Trụ cột số 2 và số 3 của
Basel II (Quy trình kiểm tra, kiểm soát của cơ quan chủ quản và Các nguyên tắc thị
trường). Hơn nữa, trong Trụ cột thứ nhất (Yêu cầu về vốn), Basel II đã đưa ra các cách
tiếp cận khác nhau cho các ngân hàng có quy mô, đặc điểm khác nhau và các ngân hàng
có thể tự lựa chọn cách tiếp cận riêng cho mình trong khi quy tắc xác định mức độ đủ vốn
của Việt Nam áp dụng chung cho tất cả các ngân hàng.
2. Về phía các ngân hàng thương mại
Basel II đã có ảnh hưởng lớn trong việc nâng cao năng lực quản trị điều hành, nhất
là năng lực quản lý rủi ro. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các
TCTD cũng đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng
mình cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp
cận với các chuẩn mực của Basel II. Các NHTM đã chuyển từ quản lý rủi ro thụ động
(với các đặc trưng: Quản lý sau đối với các hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro; Đơn
thuần thực hiện báo cáo các kết quả đã xảy ra) sang quản lý rủi ro chủ động (với các đặc
trưng: Quản lý trước và trong quá trình của các hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro;

Thực hiện giám sát trong quá trình hoạt động, cảnh báo những ngưỡng rủi ro; Đưa ra các
báo cáo rủi ro, phân tích rủi ro). Theo đó:
- Các NHTM đã có bộ phận quản lý rủi ro chuyên biệt, ngoài việc quản lý rủi ro
tín dụng, rủi ro thị trường, các TCTD đã quan tâm đến rủi ro tác nghiệp, một số NHTM
lớn như BIDV, VCB, Vietinbank, Agribank, Techcombank, ACB, Eximbank… đã thành
lập bộ phận quản lý rủi ro tác nghiệp;
- Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Ví dụ: BIDV đang hoàn thiện hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo thông lệ quốc tế với 3 nhóm khách hàng: khách hàng
doanh nghiệp, khách hàng cá nhân và khách hàng là các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào các
thông tin tài chính và phi tài chính của khách hàng, BIDV chấm điểm và xếp khách hàng
thành 10 loại: AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C và D. Đối với mỗi hạng khách
Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 13
Những điểm khác biệt và ưu điểm của Basel II so với Basel I - Vận dụng tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
hàng, BIDV có chính sách riêng, cụ thể như: chính sách về tiếp thị, chính sách về cấp tín
dụng, chính sách về tài sản đảm bảo…
Trong xu thế hội nhập và tự do hóa hoạt động ngân hàng với nhiều loại hình dịch
vụ ngân hàng mới, áp dụng Basel II là yêu cầu cấp thiết và bắt buộc đối với mọi NHTM,
trên cơ sở đó sẽ tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro, mặc dù việc tiếp cận
Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, trong khi hệ thống ngân hàng Việt Nam mới đang ở
giai đoạn phát triển ban đầu. Các TCTD có thể tự xác định được thực trạng rủi ro hoạt
động theo từng lĩnh vực kinh doanh và xác định thế mạnh của ngân hàng trong từng lĩnh
vực kinh doanh để định hướng hoạt động ngân hàng, từng bước áp dụng các chẩn mực
Basel II.
Riêng đối với phương pháp đo lường nâng cao, phần lớn các NHTM Việt Nam
chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn định tính và định lượng do Ủy ban Giám sát ngân hàng
thuộc BIS đề ra nên việc áp dụng phương pháp này đòi hỏi phải có thời gian. Với sự phát
triển của thị trường vốn và yêu cầu của hội nhập quốc tế, nguồn thông tin về các ngân
hàng ngày càng công khai và minh bạch, việc tăng vốn ngày càng khó khăn hơn, đòi hỏi
mỗi ngân hàng phải quan tâm đặc biệt đến hiệu quả sử dụng vốn và khả năng mở rộng

dịch vụ ngân hàng, càng mở rộng qui mô và loại hình dịch vụ thì ngân hàng càng phải
chủ động trong việc đối mặt với rủi ro hoạt động. Trong khi hoạt động ngân hàng còn
tiềm ẩn nhiều rủi ro đáng lo ngại do hệ thống quản trị điều hành và quản trị kinh doanh
của các NHTM còn nhiều yếu kém, các ngân hàng cần thường xuyên đánh giá thực trạng
tình hình tài chính để kịp thời có biện điều chỉnh và can thiệp cần thiết, qua đó có thể
ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro.

Nhóm 13 - Lớp TCDN Đêm 2 - K21 Trang 14

×