BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
~~~~~~*~~~~~~
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ BÊN NGOÀI TẠI NGÂN HÀNG
TMCP ĐÔNG NAM Á SEABANK – CHI NHÁNH HÀ ĐÔNG
Sinh viên thực hiện : PHAN THỊ THANH HOA
Lớp : VBII-8
Mã sinh viên :
Chuyên ngành : TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
HÀ NỘI - 2013
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 3
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ BÊN
NGOÀI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.1. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 3
1.1.1. Hoạt động huy động vốn 4
1.1.2. Cho vay và đầu tư 5
1.1.2.1. Cho vay 5
1.1.2.2. Đầu tư 9
1.1.2.3. Cung cấp các dịch vụ tài chính khác 10
1.2. Huy động vốn từ bên ngoài của Ngân hàng thương mại 11
1.2.1. Các hình thức huy động vốn từ bên ngoài 11
1.2.1.1. Huy động vốn tiền gửi, vay 11
1.2.1.2. Huy động vốn nội tệ và ngoại tệ 15
1.2.1.3. Huy động vốn trong và ngoài nước 16
1.2.1.4. Huy động vốn ngắn, trung và dài hạn từ thị trường 17
1.2.1.5. Huy động vốn từ các cá nhân, hộ gia đình và tổ chức kinh tế 19
1.2.1.6. Huy động vốn từ các nguồn bên ngoài khác 20
1.2.2. Tăng cường huy động vốn từ bên ngoài 21
1.2.2.1. Tăng cường huy động vốn 21
1.2.2.2. Các tiêu chí đánh giá khả năng tăng cường huy động vốn 22
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn từ bên ngoài của NHTM 27
1.2.3.1. Các nhân tố chủ quan 27
1.2.3.2 Các nhân tố khách quan 28
CHƯƠNG 2 30
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ BÊN NGOÀI 30
CỦA NGÂN HÀNG TMCP ĐÔNG NAM Á – CHI NHÁNH HÀ ĐÔNG. .30
2.1. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Đông Nam Á 30
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
2.1.1. Giới thiệu chung về NHTMCP Đông Nam Á 30
2.1.2. Các sản phẩm dịch vụ do ngân hàng cung cấp 32
2.1.3. Mô hình tổ chức 32
2.1.4. Kết quả kinh doanh của ngân hàng trong những năm qua 33
2.2 .Thực trạng huy động vốn từ bên ngoài của NHTMCP Đông Nam Á – Chi nhánh Hà Đông. . .36
2.2.1. Thực trạng huy động vốn 36
2.2.2. Thực trạng về hoạt động tín dụng 38
2.2.3. Các hoạt động khác 38
2.3 Đánh giá thực trạng huy động vốn từ bên ngoài của NHTMCP NHTMCP Đông Nam Á trong
thời gian qua 40
2.3.1 Đánh giá 40
2.3.1.1 Chi phí vốn 40
2.3.1.2 Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn 41
2.3.2. Kết quả 43
2.3.3. Hạn chế và nguyên nhân 44
2.3.3.1. Hạn chế 44
2.3.3.2. Nguyên nhân 44
CHƯƠNG 3 47
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ BÊN NGOÀI 47
TẠI NHTMCP ĐÔNG NAM Á – CHI NHÁNH HÀ ĐÔNG 47
3.1. Định hướng hoạt động huy động vốn của NHTMCP Đông Nam Á 47
3.2. Giải pháp tăng cường huy động vốn từ bên ngoài tại NHTMCP Đông Nam Á – chi nhánh Hà
Đông 48
3.2.1. Mở rộng các hình thức huy động vốn 48
3.2.2. Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt 50
3.2.3. Phát triển các dịch vụ đa dạng liên quan đến huy động vốn 51
3.2.4. Xây dựng một chiến lược khách hàng hợp lý trong huy động vốn 52
3.2.5. Thường xuyên đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ 54
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
3.3. Kiến nghị 55
3.3.1. Kiến nghị đối với NHNN 55
3.3.2. Kiến nghị đối với Chính phủ 56
KẾT LUẬN 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHNN Ngân hàng Nhà Nước
TCTD Tổ chức Tín dụng
TCKT - XH Tổ chức Kinh tế - xã hội
NHTW Ngân hàng Trung ương
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG
Bảng 2.1 : Huy động vốn 37
Bảng 2.2: Tình hình dư nợ 38
Bảng 2.3: Kinh doanh ngoại tệ 38
Bảng 2.4: Hoạt động bảo lãnh 39
Bảng 2.5: Hoạt động thanh toán 40
Bảng 2.6: Tình hình huy động, sử dụng vốn trung, dài hạn 41
Bảng 2.7: Tình hình huy động, sử dụng vốn ngắn hạn 42
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức NHTMCP Đông Nam Á – chi nhánh Hà Đông 33
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại cổ phần là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ. Nhiệm vụ thường xuyên và chủ yếu là huy động vốn, cho vay và
cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Đối với loại hình doanh nghiệp đặc biệt này, thì vốn có một vai trò hết sức
quan trọng. Ngân hàng thương mại là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn và thu lãi,
nhưng, để cung cấp đủ vốn đáp ứng nhu cầu thị trường, ngân hàng sẽ phải tăng
cường huy động vốn từ bên ngoài.
Tại Việt Nam việc huy động vốn của ngân hàng thương mại còn gặp nhiều
khó khăn và có nhiều điểm bất hợp lý, dẫn đến chi phí vốn cao, quy mô không ổn
định, việc tài trợ cho các danh mục tài sản không còn phù hợp làm giảm khả năng
sinh lời, buộc ngân hàng phải đối mặt với các rủi ro. Do đó, việc tăng cường huy
động vốn với chi phí hợp lý và có sự ổn định là một yêu cầu quan trọng và cấp thiết
vơi ngân hàng thương mại.
Để tăng cường huy động vốn ta cần nghiên cứu các hình thức huy động, các
tiêu chí đánh giá huy động vốn từ bên ngoài như quy mô, cơ cấu vốn từ bên ngoài
đủ lớn để tài trợ cho các danh mục tài sản và không ngừng tăng trưởng ổn định;
nguồn vốn có chi phí hợp lý; huy động vốn phù hợp với sử dụng vốn về kì hạn;
quản lý tốt các loại rủi ro liên quan đến huy động vốn. Bên canh đó còn phải phân
tích các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn từ bên ngoài của NHTM.
Trải qua gần 20 năm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, NHTMCP Đông
Nam Á luôn luôn ưu tiên cho việc tăng cường huy động vốn để có thể đáp ứng đủ
nhu cầu vốn cho thị trường. Trong những năm gần đây, giữa các NHTM cũng như
các tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày một cạnh tranh gay gắt, điều đó đòi hỏi
Đông Nam Á phải có những giải pháp huy động vốn đúng đắn, thích hợp mới có
thế thu hút được vốn, từ đó đáp ứng đủ cho nhu cầu thị trường trong nền kinh tế
hiện nay. Vì vậy, sau khi thực tập tại Đông Nam Á -,tôi đã lựa chọn đề tài chuyên
đề tốt nghiệp : “ Tăng cường huy động vốn từ bên ngoài tại NHTMCP Đông
Nam Á - chi nhánh Hà Đông ”.
Đề tài nghiên cứu tập trung các vấn đề cơ bản về tăng cường huy động vốn từ
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
1
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
bên ngoài của NTHM. Phân tích, nghiên cứu hoạt động huy động vốn của NHTM
CP Đông Nam Á trên các khía cạnh : các loại hình, quy mô, cơ cấu, chi phí vốn và
sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn trên cơ sở các số liệu của ngân hàng
từ năm
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề có 3 phần:
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về tăng cường huy động vốn từ bên ngoài của
Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động vốn từ bên ngoài của ngân hàng TMCP Đông
Nam Á - chi nhánh Hà Đông
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn từ bên ngoài từ NHTMCP
Đông Nam Á - chi nhánh Hà Đông
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
2
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ
BÊN NGOÀI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng Điều 20 có giải thích : “ Ngân hàng là
loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan” và “ hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền
này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
NHTM ra đời như một đứa con ưu tú nhất của nền kinh tế hàng hóa và chính
NHTM cũng đã góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế.
Hệ thống NHTM bao gồm : NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, ngân hàng
tư nhân với chức năng chính là kinh doanh thông qua hoạt động trung gian tài chính
và thực hiện các dịch vụ ngân hàng. Hệ thống NHTM hoạt động dưới sự kiểm tra,
giám sát của Nhà nước thông qua các quy chế, quy định về hoạt động và thông qua
việc thực hiện các văn bản, chế độ của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện các định
hướng trong chính sách tiền tệ, tài chính của Nhà nước.
Hoạt động của NHTM bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
+ Tạo nguồn vốn thông qua các hoạt động như : huy động vốn nhàn rỗi trong
dân cư, trong các tổ chức kinh tể trong và ngoài nước dưới các hình thức như gửi
tiết kiệm, phát hành kì phiếu ngân hàng, …; vay từ các tổ chức tín dụng trong và
ngoài nước
+ Sử dụng vốn tự có và vốn vay, thông qua các hoạt động tín dụng thực hiện
các dự án đầu tư dưới hình thức góp vốn hay mua trái phiếu kho bạc…
+ Thực hiện các dịch vụ ngân hàng : thanh toán hộ, thu hộ, …
Ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc tự chủ trong kinh doanh,
thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, tuân thủ các chế độ, chính sách của Ngân hàng
Nhà nước và Chính phủ, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với Bộ Tài chính, bảo
toàn vốn và có lãi.
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
3
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.1.1. Hoạt động huy động vốn
Đối với ngân hàng thương mại, thì hoạt động huy động vốn luôn được quan
tâm hàng đầu, bởi vì nếu huy động được nhiều vốn thì ngân hàng mới có khả năng
mở rộng được hoạt động, cũng như quy mô của ngân hàng. Ngày nay, trước sức ép
của cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải
có những chính sách thu hút nguồn tiền ngày một linh hoạt, để từ đó đáp ứng cho
hoạt động của ngân hàng. Các phương thức huy động vốn mà hệ thống ngân hàng
thương mại thường áp dụng là;
Theo đối tượng huy động:
- Huy động từ dân cư
Trên cơ cở hoạt động của mình ngân hàng thương mại tiến hành huy động các
nguồn tiền nhà rỗi trong dân cư, thông qua các hình thức tiết kiệm, gửi thanh toán,
ủy thác cho ngân hàng đầu tư. Tuy nhiên thì nguồn tiền gửi trong dân cư bao giờ
cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể (nếu không nói là chủ yếu) của ngân hàng thương
mại, Nguồn này vừa có tính ổn định cao, thời hạn chủ yếu là trung và dài hạn, các
khoản chi phí cho giao dịch đối với nguồn này thường thấp về số tương đối, khách
hàng mang tính ổn định cao, ít biến động, rất thuận lợi cho việc hoạch định chính
sách hoạt động của ngân hàng nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng.
- Huy động từ các doanh nghiệp
Các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, thông thường thì các tổ chức
này, không thường xuyên gửi tiền và ngân hàng với mục đích tiết kiệm mà chủ yếu
là dùng vào việc thanh toán. Trên cơ sở nắm bắt được chu kì sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, chu kì hoạt động của các tổ chức, mà ngân hàng đề nghị,
hoặc khuyến khích doanh nghiệp, các tổ chức gửi tiết kiệm theo một số quy định cụ
thể mà hai bên thoả thuận, cũng như quy định hiện hành của pháp luật. Một số
doanh nghiệp Nhà Nước (doanh nghiệp quốc doanh) không được phép gửi tiết kiệm
thì họ lại gửi dưới hình thức biến tướng của tiền gửi tiết kiệm là uỷ thác đầu tư.
- Huy động từ các tổ chức tín dụng
Đối với các ngân hàng thương mại khác, chỉ áp dụng trong trường hợp ngân
hàng thương mại tạm thời thiếu hụt trong thanh toán cho khách hàng, hoặc trong
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
4
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
trường hợp ngân hàng thiếu hụt dự trữ theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước
hoặc để đáp ứng những tình huống bất khả kháng. Tỷ trọng của nguồn này thường
thấp, tính ổn định không cao và không thường xuyên. Các ngân hàng thương mại rất
hạn chế sử dụng tới nguồn này.
Theo mục đích gửi tiền:
- Tiền gửi tiết kiệm
Hoạt động này đem lại cho ngân hàng nguồn vốn chủ yếu trong tổng nguồn
vốn hoạt động. Thông qua tình hình thực tế của ngân hàng, các chỉ số phát triển của
nền kinh tế, nhu cầu sử dụng vốn hiện tại và dự báo trong tương lai, mà các ngân
hàng thương mại có chính sách huy động vốn hợp lí, thường là công cụ lãi suất
nhằm gây sự quan tâm của khách hàng, từ đó thu hút khách hàng tới gửi tiền vào
ngân hàng với những mục tiêu khác nhau, tuỳ thuộc vào nhu cầu của khách gửi tiền
và danh mục mà ngân hàng cung cấp.
- Tiền gửi thanh toán
Nguồn tiền này chủ yếu phục vụ nhu cầu thanh toán thường xuyên hay tiêu
dùng hàng ngày của khách hàng của ngân hàng, nó có tính ổn định không cao, tuy
nhiên các ngân hàng thương mại có thể dùng một phần của nguồn nay để tiến hàng
sử dụng theo mục đích của mình trên cơ sở tính toán hợp lý quy luật biến động của
loại tiền gửi này
- Tiền gửi Uỷ thác đầu tư
Nhiều khách hàng (cả các cá nhân và tổ chức) của ngân hàng có lượng tiền lớn
trong tay, một là họ không có thời gian để đầu tư, hoặc là họ thiếu thông tin nhưng
cũng không muốn gửi tiết kiệm vì lãi suất thấp. Họ uỷ thác cho ngân hàng đầu tư
theo thoả thuận. Hoặc cũng có những doanh nghiệp không được phép gửi tiền tiết
kiệm vào ngân hàng cho nên họ biến tướng dưới hình thức uỷ thác đầu tư.
1.1.2. Cho vay và đầu tư
1.1.2.1. Cho vay
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại để tạo ra
lợi nhuận. Doanh thu từ hoạt động cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí
dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
5
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
các chi phí rủi ro đầu tư.
Kinh tế càng phát triển, doanh số cho vay của các ngân hàng thương mại càng
tăng nhanh và loại hình cho vay càng trở nên vô cùng đa dạng. Ở hầu hết các nước
phát triển hàng đầu thế giới, cho vay của các ngân hàng thương mại đã chuyển dần
từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Khu vực cho vay ngắn hạn nhường chỗ
cho thị trường tài chính - tiền tệ cung ứng. Ngược lại ở hầu hết các nước đang phát
triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ
chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có những tác nhân chủ yếu
như tình hình tăng trưởng, lạm phát…)
Ở một số nước phát triển cho tới nay, khi một ngân hàng được thành lập và đi
vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường xuyên của nó là cho ai vay, và đầu tư
vào đâu. Ở những nước này, đối tương cho vay là điều làm bận tâm nhiều hơn, nếu
không nói là vấn đề quan trọng nhất. Trong khi đó ở các nước phát triển tình hình
lại ngược lại. Vấn đề đặt ra cho các ngân hàng không phải vấn đề cho ai vay, mà lợi
tức có cao không và an toàn không. Thậm chí những lo ngại đại loại như vậy thực tế
đã không còn vì hầu hết họ đã có những thị phần chắc chắn và vấn đề an toàn của
vốn đã có pháp luật bảo đảm. Điều họ quan tâm là làm sao huy động được ngày
càng nhiều tiền cho các khoản đầu tư có sẵn.
Cho vay của ngân hàng thương mại, nói rộng ra là tín dụng ngân hàng thương
mại, là một lĩnh vực phức tạp và thường xuyên cập nhật theo những biến chuyển
của môi trường kinh tế. Để hiểu rõ hơn nữa về hoạt động cho vay chúng ta cần tìm
hiểu những nét đặc trưng quan trọng của nó.
- Khái niệm về hoạt động cho vay.
Tại Việt Nam các quyết định 1627/2001_QĐ_NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc ngân hàng về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối
với khách hàng và hướng dẫn thực hiện số 49/QĐ_HĐQT ngày 31/05/2002 của
NHCT Việt Nam , quyết định số 106/QĐ_HĐQT_NHCT ngày 20/08/2002 về việc
cho vay đối với khách hàng trong hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam, phân
tích đánh giá doanh nghiệp dưới giác độ tài chính _ ngân hàng.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho vay giao cho
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
6
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo
thoả thuận với nguyên tắc có hoản trả cả gốc và lãi.
Định nghĩa trên được các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác áp dụng để làm
tiền đề căn bản cho các hoạt động cho vay của mình.
- Đặc điểm của một hoạt động cho vay.
Tính pháp lý của nghiệp vụ cho vay: Cho vay của ngân hàng là một khái niệm
kinh tế hơn là pháp lý. Các hành vi cho vay của ngân hàng có cùng một logic kinh
tế, hứng chịu rủi ro cho một người mà ngân hàng tin tưởng ứng vốn cho vay, nhưng
nó không chỉ gồm một giao dịch pháp lý mà nhiều loại (cho vay, bảo lãnh, cầm
cố…).
Luật ngân hàng các nước định nghĩa tín dụng như sau: “Cấu thành một nghiệp
vụ tín dụng bất cứ tác động nào, qua đó một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho một
người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này nhưng đảm bảo, bảo
trứng hay bảo lãnh mà có thu tiền”. Định nghĩa này nêu ra 3 trường hợp xét về tính
chất pháp lý, các nghiệp vụ cho vay ngân hàng về cơ bản là:
+ Cho vay ứng trước (cho vay trực tiếp).
+ Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền.
+ Cho vay qua chữ ký (cho vay qua việc cam kết bằng chữ ký).
Các khoản vay đều phải theo một quy trình cho vay, thu nợ nhất định. Thông
thường gồm 5 bước:
Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị vay.
Bước 2: Phân tích tín dụng.
Bước 3: Quyết định cấp tín dụng cho vay.
Bước 4: Giải ngân.
Bước 5: Giám sát thu nợ và thanh lý hợp đồng cho vay.
Lãi suất trong hợp đồng cho vay theo thoả thuận giữa khách hàng và ngân
hàng cho vay. (Ví dụ: Lãi suất cố định, lãi suất thả nổi,…).
Các khoản cho vay có hoặc không có tài sản đảm bảo tuỳ vào việc đánh giá và
xếp hạng khách hàng của ngân hàng cho vay.
Khi kết thúc hợp đồng khách hàng có nghĩa vụ trả gốc và lãi hoặc một số thoả
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
7
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
thuận khác nếu được ngân hàng cho vay chấp nhận. Trường hợp khách hàng không
thực hiện hợp đồng hay không có một điều khoản nào khác thì tài sản đảm bảo
thuộc quyền quyết định của ngân hàng cho vay.
- Những yếu tố cấu thành hoạt động cho vay.
+ Các bên tham gia.
Người cho vay: Là một định chế tài chính hay một người nào đó cho người đi
vay vay một khoản tiền nào đó trên cơ sở hợp đồng cho vay đã được thỏa thuận các
điều kiện về mức vay, thời hạn vay, lãi suất, hình thức trả gốc và lãi, tài sản đảm bảo
…
Người vay: Là người có phương án, dự án cần có vốn để thực hiện nó bao gồm:
+ Các pháp nhân: Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm
hửu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức
khác có đủ điều kiện quy định tại điều 94 của bộ luật dân sự.
Điều kiện của chủ thể vay vốn:
Có năng lực chủ thể: Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự
(Điều 16,18, 96 - Bộ luật dân sự) chịu trách nhiệm pháp lý trong kinh tế và dân sự.
Các cơ quan quản lý nhà nước: Là các cơ quan công quyền như ngân hàng nhà
nước, cơ quan công chứng, toà án, thuế quan … Những cơ quan này có trách nhiệm
kiểm soát việc tuân thủ quy định pháp luật, đồng thời công nhận tính hợp pháp của
các giao dịch cho vay, quyền sở hửu pháp lý đối với tài sản và xét xử giải quyết
tranh chấp.
Tuỳ theo mỗi hình thức cho vay mà các chủ thể trên có liên đới tham gia với
mức độ nhất định hoặc không tham gia vào hình thức cho vay nào đó. Kết quả
những tác động qua lại giữa các bên là hợp đồng cho vay (hơp đồng tín dụng).
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
8
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Chi phí cho vay.
Bao gồm các loai chi phí cơ bản sau.
+ Lãi suất cho vay.
Trong cho vay lãi suất được xác định theo kỳ hạn cho vay ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn và có những cách trả lãi khác nhau như trả lãi trước, trả lãi định kỳ hoặc
trả lãi sau … Người cho vay không chỉ quan tâm đến lãi suất mà còn quan tâm đến
sự an toàn của khoản vay. Còn người vay ngoài vấn đề lãi suất họ còn quan tâm vào
giá tiền của giá trị sử dụng mà họ phải trả có phù hợp với khả năng tài chính và kết
quả kinh doanh mang lại cho họ hay không.
Thông thường, lãi suất cho vay được tính toán dựa trên cơ sở lãi suất cho vay
ngắn hạn, phần bù rủi ro và tỷ lệ phí.
Do vậy lãi suất luôn phải điều chỉnh tuỳ vào thời hạn vay và đối tượng khách
hàng. Mặt khác lãi suất cho vay luôn phải phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô,
chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ đồng thời lãi suất cạnh tranh giữa các
ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác.
Lãi suất trong hợp đồng cho vay, được thể hiện dưới hai mức thoã thuận là áp
dụng lãi suất cố định hay lãi suất thả nổi theo thị trường.
+ Chi phí marketing trực tiếp.
+ Chi phí dự phòng cho trường hợp không thu hồi được vốn cho vay.
+ Chi phí quản lý.
+ Lợi nhuận mong đợi trong tương lai.
+ Chi phí khác.
1.1.2.2. Đầu tư
So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của Ngân hàng có quy mô và tỷ
trọng nhỏ hơn trong mục tài sản sinh lời của Ngân hàng thương mại. Phải sang đến
những năm đầu thế kỷ XIX các Ngân hàng thương mại mới quan tâm mở rộng hoạt
động của mình sang lĩnh vực đầu tư vào các ngành công nghiệp. So với hoạt động
cho vay hoạt động đầu tư đem lại thu nhập cao hơn nhưng rủi ro cao hơn do thu
nhập từ hoạt động đầu tư không được xác định trước vì phải phụ thuộc vào hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp mà Ngân hàng đầu tư vào. Ngoài ra thì trong hoạt
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
9
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
động đầu tư , Ngân hàng được lựa chọn doanh mục đầu tư có lợi nhất cho mình.
Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư, Ngân hàng có thể tham gia vào thị
trường chứng khoán tuỳ quy định của từng quốc gia. Ngân hàng thương mại có thể
tham gia như một người cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán hay đóng
vai trò là nhà đầu tư, mua bán chứng khoán vì mục tiêu kiếm lời cho chính Ngân
hàng. Hoặc thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua uỷ thác của khách hàng.
1.1.2.3. Cung cấp các dịch vụ tài chính khác
Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng
vốn (cho vay và đầu tư) thì Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các dịch vụ
trung gian cho khách hàng của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung
gian bởi vì khi thực hiện các hoạt động này Ngân hàng không đứng vai trò là con nợ
hay chủ nợ mà đứng ở vị trí trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về dịch vụ
mà khách hàng cần.
Ngày nay, các dịch vụ của Ngân hàng không ngừng phát triển cả về số lượng
và chất lượng, các dịch vụ ngày càng đa dạng. Hoạt động trung gian gồm rất nhiều
loại dịch vụ khác nhau: như dịch vụ thu hộ, chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền
gửi tại Ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này đến tài khoản khác ở
cùng một Ngân hàng hay ở hai Ngân hàng khác nhau; dịch vụ tư vấn cho khách
hàng các vấn đề tài chính, dich vụ giữ hộ các chứng từ, vật quý giá; dịch vụ chi
lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự động. Đây là những
khoản chi thường xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn
nhiều thời gian và phiền toái khi thanh toán các khoản này.
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển để
đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện nghiệp vụ trung
gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho Ngân hàng những khoản thu nhập khá quan
trọng. Điều cần lưu ý là dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp Ngân hàng phát triển toàn
diện.Tại các nước phát triển, các Ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau bằng
con đường “phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho
khách hàng, không ngừng tìm tòi những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách
hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển, thể hiện xã hội càng văn minh, nền công
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
10
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận các Ngân hàng không chỉ ở nghiệp vụ cho vay,
mà phân nửa từ các hoạt động dịch vụ mang lại, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro.
Ba lĩnh vực hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay, thực hiện các dịch vụ
trung gian là các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ba dịch vụ đó có
quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển, tạo uy tín cho Ngân
hàng. Có huy động vốn thì mới có nghiệp vụ cho vay, cho vay có hiệu quả phát
triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào, đồng thời muốn cho vay và huy
động vốn tốt thì Ngân hàng phải làm tốt vai trò trung gian, chính sự kết hợp đồng
bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt động của Ngân hàng và tạo thành xu hướng kinh
doanh tổng hợp đa năng của các Ngân hàng thương mại .
1.2. Huy động vốn từ bên ngoài của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Các hình thức huy động vốn từ bên ngoài
1.2.1.1. Huy động vốn tiền gửi, vay
a. Huy động vốn tiền gửi
“ Ngân hàng được nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân và các tổ
chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn và tiền
gửi khác” – Điều 45, Luật các TCTD số 03/1997/QH10
Tiền gửi phân loại theo kỳ hạn bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn ( tiền gửi giao dịch )
Khi tiền mặt, hoặc séc từ một ngân hàng khác được gửi vào ngân hàng A, nếu
muốn sẽ có thể rút tiền ra hoặc chi tiêu vào bất cứ lúc nào, Ngân hàng A sẽ sắp xếp
tiền gửi đó vào nhóm Tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là các khoản gửi với thời gian
không xác định.
Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi và bao gồm 2
loại sau:
+ Tiền gửi thanh toán: là khoản tiền gửi không kì hạn, trước hết được sử dụng
để thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ, và các khoản chi khác
phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn, và thuận tiện.
Đối với tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ 3 thường
được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản.
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
11
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có. Với tài khoản này,
khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một khoảng
thời gian nhất định. Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là một
khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào.
+ Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: Là các khoản tiền được kí gửi với mục
đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần thanh toán,
khách hàng có thể đến ngân hàng để thực hiện chi tiêu. Ngân hàng phải thỏa mãn
yêu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền.
- Tiền gửi có kỳ hạn
Khi gửi tiền vào NHTM theo tài khoản gửi có kỳ hạn, điều ngân hàng cần biết
trước tiên là gửi với thời gian bao lâu. Thông thường định kì có thể là 1 tháng, 3
tháng, 6 tháng, 12 tháng hoặc hơn nữa. Tại Việt Nam, các khoản tiền gửi có kì hạn
thường nằm trong khoảng 6 tháng đến 24 tháng. Nguyên nhân là vì các doanh
nghiệp ở Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn không lớn và
tốc độ quay vòng vốn nhanh, do vây, khó có thể gửi tiền với kỳ hạn dài. Hơn nữa,
nếu gửi tiền có kỳ hạn càng dài mặc dù được hưởng lãi suất cao hơn nhưng khi có
nhu cầu rút tiền đột xuất thì khoản lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền là
rất thấp, do phải chịu lãi suất phạt vì đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân
hàng.
Lãi suất mà ngân hàng trả cho tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn nhiều so với
lãi suất trả cho tiền gửi không ký hạn. Bởi vì, khi đã thống nhất với ngân hàng rằng
sẽ gửi tiền trong khoảng thời gian nhất định, thì có đến 80% số người gửi tiền giữ
được cam kết nói trên. Do vậy, NHTM hoàn toàn yên tâm sử dụng số tiền gửi để
cho vay hoặc đầu tư…Với khoản cho vay ổn định này, ngân hàng sẽ kiếm được
nhiều lợi nhuận hơn. Vì thế, lãi suất trả cho khách hàng cũng phải cao hơn để kích
thích họ gửi tiền nhiều hơn nữa.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết
kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tài
khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa loại
tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau với mức lãi suất khác nhau
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
12
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm
Về bản chất, đây là một phần thu nhập của dân cư chưa sử dụng cho tiêu dùng.
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng ( khoản tiền
tiết kiệm ). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi
tiết kiệm nhằm các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiền tiết kiệm,
đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các
NHTM đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt
tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa
dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
- Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, các tổ chức tín
dụng có thể gửi tiền tại ngân hàng. Tuy nhiên quy mô của nguồn tiền gửi này không
lớn lắm.
b. Huy động vốn vay
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM và NHTW hoặc giữa các
NHTM với nhau hay với các TCTD khác.
Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn huy động của mình khi ngân
hàng đã sử dụng hết nguồn vốn sẵn có mà vẫn không đủ vốn hoạt động. Trong
trường hợp vốn vay trên không đáp ứng được đủ nhu cầu sử dụng của NHTM thì
NHTM sẽ đi vay NHTW.
•Phát hành giấy tờ có giá
Bản chất của nghiệp vụ này là ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ như
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu để huy động vốn nhằm mục đích đã định.
Trong phát hành giấy tờ có giá thì chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với
mệnh giá quy định; trái phiếu là phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại này được ngân
hàng phát hành theo từng đợt, tùy theo mục đích.
Trong huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu
ngân hàng, các NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động. Vì
vậy khi thực hiện huy động vốn dưới các hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
13
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
vào đầu ra để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất, thời hạn và phương
pháp huy động.
Vốn này chỉ được huy động trong thời gian nhất định, khi đã huy động đủ
khối lượng vốn mà NHTM cần thì các ngân hàng sẽ ngừng việc huy động kỳ
phiếu, trái phiếu.
•Vay NHTW
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM.
Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay NHTW. Hình thức cho vay
chủ yếu của NHTW là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn. Các thương phiếu được
NHTM chiết khấu ( hoặc tái chiết khấu ) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền,
NHTM mang những thương phiếu này đến tái chiết khấu tại NHTW. NHTW điều
hành vay mượn một cách chặt chẽ, tùy thuộc chính sách tiền tệ từng thời kì mà
NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.
Thông thường NHTW chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất
lượng (thời gian đáo hạn ngắn và khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của
NHTW trong từng thời kì. Còn trong điều kiện chưa có thương phiếu, NHTW cho
NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
Về phía NHTM, vay tại NHTW là một dịch vụ hết sức tiện lợi vào những khi
NHTW hạ lãi suất chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền tệ nới lỏng để kích
thích đầu tư. Nếu trong thời kì chính sách tiền tệ thắt chặt, lúc này lãi suất chiết
khấu bị đẩy lên cao với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của NHTW, các
NHTM chỉ miễn cưỡng vay trong tình huống này và tìm mọi cách trả nợ rất nhanh.
Khi đó các khoản vay này chỉ chiếm một phần rất ít trong tổng tài sản nợ.
Tùy vào yêu cầu điều tiết của nền kinh tế mà NHTW có thể hạ hoặc nâng lãi
suất chiết khấu.
•Vay các TCTD khác
Là nguồn các NHTM vay lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị trường
liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Đây là hình thức cho vay nhưng thực chất nó
là hình thức tương trợ giữa các ngân hàng để có được sự hợp tác hai bên cùng có
lợi. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu sẽ có thể sẵn long cho các ngân
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
14
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
hàng khác vay. Và ngược lại, các NHTM đag thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn
tức thời để đảm bảo tính thanh khoản.
Nguồn vay mượn từ các TCTD khác để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp
bách và trong nhiều trường hợp sẽ bổ sung hoặc thay thế nguồn vay từ NHTW.
1.2.1.2. Huy động vốn nội tệ và ngoại tệ
a. Huy động vốn bằng nội tệ
•Tiền gửi bằng nội tệ của các tầng lớp dân cư
Đây chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm, nguồn này có quy mô, cơ cấu lớn trong tổng
nguồn huy động bằng nội tệ nhưng tăng trưởng không ổn định. Tiền gửi tiết kiệm
có lãi suất huy động bình quân cao, kỳ hạn tiền gửi danh nghĩa của người dân
thường ngắn, điều này ảnh hưởng đến khả năng sử dụng vốn, khả năng dịch chuyển
kỳ hạn nợ, kết quả kinh doanh và giảm sức cạnh tranh của NHTM.
•Tiền gửi bằng nội tệ của các tổ chức kinh tế - xã hội
Nguồn tiền này cũng có quy mô, cơ cấu lớn trong tổng nguồn huy động. Tiền
gửi này thường là tiền gửi giao dịch hoặc có kỳ hạn ngắn, hưởng lãi suất thấp. Nếu
NHTM huy động được nhiều để cho vay và đầu tư thì vừa kéo dài được chênh lệch
lãi suất trần – sàn, vừa giảm được chi phí vốn bình quân, tăng lợi nhuận.
•Tiền gửi bằng nội tệ của các TCTD khác
Nguồn này có quy mô, cơ cấu nhỏ trong tổng nguồn huy động tiền gửi bằng
nội tệ. Nguồn này có mức tăng trưởng khá cao nhưng chủ yếu là nguồn trong thanh
toán, NHTM không sử dụng nhiều nguồn này để cho vay và đầu tư.
•Vay bằng nội tệ
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM, tuy nhiên, khi cần thì NHTM
thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, NHTW thường quy định tỷ lệ giữa nguồn
tiền huy động và vốn chủ sở hữu. Vì thế, nhiều NHTM vào những giai đoạn cụ thể
phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
Việc đi vay bằng đồng nội tệ chủ yếu là để đáp ứng sự thiếu hụt dự trữ.
b. Huy động vốn bằng ngoại tệ
•Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
15
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư chiếm tỷ trọng nhỏ. Việc huy
động vốn bằng ngoại tệ luôn chịu sự ảnh hưởng từ lãi suất ngoại tệ trên thị trường
quốc tế và tình trạng khan hiếm đồng Việt Nam.
Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) liên tục cắt giảm lãi suất cho vay, từ đó, lãi
suất huy động bằng USD cuả các NHTM giảm mạnh, hệ quả của việc này là người
dân chuyển sang dùng đồng tiền có giá hơn ( đổi USD về VND và gửi tiết kiệm để
hưởng lãi suất cao hơn ).
•Tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCKT-XH: chủ yếu là khoản tiền gửi trong
thanh toán , có kỳ hạn ngắn, thường là 1-3 tháng
•Tiền gửi của các TCTD khác : nguồn này chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng
số vốn huy động bằng ngoại tệ. Tại Việt Nam, đối tượng cho vay chủ yếu là các
NHTM Nhà nước.
•Tiền vay bằng ngoại tệ: cũng giống như tiền vay bằng nội tệ, chỉ khi thực sự
cần thiết thì NHTM mới đi vay, nhất là bằng ngoại tệ với lãi suất cao và có nhiều
biến động, do đó, lượng vay này thường nhỏ.
1.2.1.3. Huy động vốn trong và ngoài nước
a. Huy động vốn trong nước
Huy động vốn trong nước là nguồn đặc biệt quan trọng, nhất là đối với các TCTD
như NHTM. Nguồn có tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn trong nước mà
NHTM có thể huy động được là tiền gửi không kỳ hạn. Nguồn tiền này chủ yếu là
tiền gửi không kỳ hạn của các doanh nghiệp trong nước để phục vụ cho hoạt động
kinh doanh của mình. Thường thì NHTM không trả lãi cho nguồn tiền gửi này
nhưng ở Việt Nam, các ngân hàng vẫn trả lãi mặc dù rất nhỏ để khuyến khích huy
động được nhiều hơn.
Vốn trong nước có quy mô lớn tiếp theo mà NHTM có thể huy động được là tiền
gửi tiết kiệm từ của dân chúng và các doanh nghiệp với mục đích hưởng lợi nhuận
qua lãi suất. Tiền gửi tiết kiệm thường ngắn hạn.
Ngoài ra, việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu cũng mang lại nguồn huy động từ
trong nước cho ngân hàng. Một nguốn vốn nữa mà ngân hàng có thể huy động đó
là đi vay. NHTM có thể vay NHTW hoặc các TCTD khác nhưng ở Việt Nam do
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
16
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
các TCTD chưa phát triển nhiều nên chủ yếu vẫn là NHTM đi vay NHTW. Ngoài
ra một số nguồn vốn khác có thể huy động được trong nước như vay từ công ty mẹ,
vay ủy thác của các tổ chức trong nước…
Đây là những nguồn vốn trong nước mà NHTM có thể huy động từ bên ngoài.
Điều mà NHTM quan tâm khi huy động vốn trong nước chính là lãi suất phải đảm
bảo nhu cầu của thị trường. Bởi vì lãi suất trong nước không được quyết định chỉ
bởi lãi suất nước ngoài, tỷ lệ thay đổi kì vọng tỷ gá hối đoái và mọi chi phí rủi ro
mà còn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi điều kiện thị trường trong nước, bao gồm cung
và cầu đối với tín dụng, cấu trúc của hệ thống tài chính trong nước và tình trạng
lạm phát mong đợi.
b. Huy động vốn ngoài nước
Hiện nay, đối với các NHTM ở Việt Nam được phép huy động vốn của các tổ
chức nước ngoài thông qua các hình thức sau:
- Vay bằng tiền (vay tài chính)
- Nhập khẩu hàng hóa dịch vụ trả chậm theo phương thức mở thư tín dụng
- Thuê tài chính nước ngoài
- Phát hành trái phiếu ra nước ngoài
- Các loại hình vay nước ngoài khác
Để huy động vốn từ nước ngoài thì các NHTM phải có các điều kiện theo quy
định của NHNN ban hành theo Thông tư số 03/1999/TT-NHNN ngày 12 tháng 8
năm 1999 chỉ được sử dụng vốn vay nước ngoài để bổ sung vốn tín dụng và phải sử
dụng đúng mục đích vốn vay.
Các NHTM cần có những giải pháp sử dụng nguồn vốn tín dụng có hiệu quả
và đặc biệt nên sử dụng vào việc triển khai các chương trình quốc gia, tham gia vào
các kế hoạch cụ thể do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định để tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ từ phía Nhà nước.
1.2.1.4. Huy động vốn ngắn, trung và dài hạn từ thị trường
a. Huy động vốn ngắn hạn từ thị trường
Đây là nguồn huy động cơ bản của NHTM, bao gồm:
•Tiền gửi ngắn hạn từ thị trường
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
17
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Là nguồn cơ bản quan trọng nhất, luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn
vốn. Nó không những đáp ứng được nhu cầu kinh doanh ngắn hạn của NHTM mà
còn có sự chuyển hoán kỳ hạn để đầu tư, cho vay dài hạn giúp NHTM giảm bớt
gánh nặng thiếu vốn trung và dài hạn.
•Vay NHTW và các TCTD khác
Các khoản mà NHTW và các TCTD khác cho vay hầu hết đều ngắn hạn chỉ để
khác phục hiện tượng thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay để đáp ứng nhu cầu chi trả cấp
bách trong thời gian ngắn. Việc vay vốn này lãi suất thường cao nên các NHTM chỉ
khi thực sự cần thiết mới huy động thông qua hình thức này.
•Các khoản huy động USD ngoài nước
Các NHTM cũng có thể tìm kiếm nguồn hoạt động bằng cách phát hành phiếu
nợ để huy động từ nước ngoài. Vì USD là loại tiền thông dụng nhất trong thanh
toán quốc tế hiện nay nên vay tiền ở nước ngoài thường là vay USD. KHoản vay
này dùng để bảo đảm các thương vụ tín dụng cho kinh doanh xuất nhập khẩu, trong
đó có Việt Nam.
•Huy động ngắn hạn bằng phát hành RPs ( Repurchase agreements )
RPs là từ viết tắt của khái niệm hợp đồng mua lại. Ngoài những biện pháp nêu
trên, NHTM có thể huy động vốn của thị trường trong vài ngày đến vài tuần bằng
cách phát hành RPs. Đây là một hợp đồng bán chứng khoán giữa ngân hàng và các
đối tượng kinh doanh chứng khoán tương đối thừa tiền mặt trong thị trường như các
công ty tài chính, tổ chức tín dụng, các quỹ tín dụng, các quỹ tiết kiệm, hưu trí, các
công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán hoặc các cá nhân giàu có.
•Huy động ngắn hạn bằng giấy nợ phụ
Đây là nguồn huy động cuối cùng trong các nguồn huy động từ thị trường và
cũng là loại tài sản ít thông dụng nhất. Ngân hàng có thể vay nóng với lãi suất cao
và thời gian ngắn mỗi khi khan hiếm tiền mặt bằng những thỏa thuận với các công
ty hay các tổ chức tài chính… có quan hệ thường xuyên với ngân hàng.
b. Huy động trung và dài hạn
Giống như các doanh nghiệp khác, các NHTM cũng vay mượn bằng cách phát
hành các giấy tờ có giá trên thị trường vốn. Rất nhiều NHTM hiện nay bị thiếu hụt
Sinh viên: Phan Thị Thanh Hoa Lớp: 8A5 -VBII
18