BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
TRẦN THỊ BÍCH NHUẬN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
KHẢO SÁT HAI MƯƠI CÂU THƠ ĐẦU TRONG CHINH PHỤ
DIỄN QUỐC ÂM
Chuyên ngành: Hán Nôm
Sơn La – Năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
TRẦN THỊ BÍCH NHUẬN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
KHẢO SÁT HAI MƯƠI CÂU THƠ ĐẦU TRONG CHINH PHỤ
DIỄN QUỐC ÂM
Chuyên ngành: Hán Nôm
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Diệu Huyền
Sơn La – Năm 2014
Lời cảm ơn!
Khóa luận được hồn thành với sự hướng dẫn khoa học, sự chỉ bảo tận
tình của Thạc sĩ Nguyễn Diệu Huyền, sự quan tâm của phòng nghiên cứu khoa
học, Ban chủ nhiệm khoa, thư viện trường ĐHTB. Cùng các thầy cô giáo trong
khoa Ngữ Văn, và các bạn sinh viên lớp K51 ĐHSP Ngữ Văn.
Nhân dịp khóa luận được công bố, em xin chân thành cảm ơn sự quan
tâm tạo điều kiện thuận lợi của Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, Phòng nghiên
cứu khoa học, và sự cổ vũ động viên của các Thầy, Cô giáo tổ văn học Việt
Nam, Khoa Ngữ văn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới Thạc sĩ Nguyễn Diệu
Huyền – Cơ giáo đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong q trình làm Khóa
luận.
Tác giả
Trần Thị Bích Nhuận
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU....................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ......................................................................................... 1
3. Mục tiêu nghiên cứu....................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4
5.1. Phương pháp Văn bản học Hán Nơm.............................................................. 4
5.2. Phương pháp phân tích ngữ văn học ............................................................... 4
5.3. Thao tác thống kê.......................................................................................... 4
5.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu................................................................... 5
5.5. Phương pháp phân tích lịch sử.................................................................... 5
6. Đóng góp của Khóa luận ................................................................................ 5
7. Kết cấu Khóa luận ......................................................................................... 5
B. NỘI DUNG.................................................................................................... 6
Chương 1. GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA ĐỒN
THỊ ĐIỂM......................................................................................................... 6
1.1. Gia thế của Đồn Thị Điểm ......................................................................... 6
1.2. Cuộc đời của Đoàn Thị Điểm ...................................................................... 8
1.3. Sự nghiệp sáng tác của Đoàn Thị Điểm .................................................... 15
1.3.1. Sáng tác bằng chữ Hán.............................................................................. 15
1.3.2. Sáng tác bằng chữ Nôm ............................................................................ 17
1.4. Đoàn Thị Điểm và tác Chinh phụ diễn quốc âm......................................... 18
1.4.1. Hoàn cảnh sáng tác Chinh phụ diễn quốc âm. ........................................... 18
1.4.2. Vài nét về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm ........................... 19
1.4.2.1. Giá trị nội dung Chinh phụ diễn quốc âm .............................................. 19
1.4.2.2. Giá trị nghệ thuật Chinh phụ diễn quốc âm............................................ 20
* Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 21
Chương 2. KHẢO SÁT HAI MƯƠI CÂU THƠ ĐẦU TRONG CHINH PHỤ
DIỄN QUỐC ÂM ............................................................................................. 22
2.1. Các dị bản hiện tồn.................................................................................... 22
2.2. Căn cứ để xác định văn bản cơ sở .......................................................... 23
2.3. Khảo sát văn bản Nơm ........................................................................... 24
2.3.1. Đặc điểm về hình thức văn bản............................................................... 24
2.3.2. Căn cứ để phân tích và phiên âm chữ Nôm............................................. 24
2.3.3. Phân tích cấu tạo các chữ Nơm trong hai mươi câu thơ đầu của Chinh phụ
diễn quốc âm. (Phụ lục 3)................................................................................. 24
2.3.3.1. Các phép cấu tạo các chữ Nôm trong văn bản...................................... 24
2.3.3.2. Chữ viết tắt hoàn chỉnh một chữ Nôm ................................................. 25
2.3.3.3. Viết tắt một thành tố ............................................................................ 26
2.3.3.4. Tên địa danh được viết bằng chữ Nôm ................................................ 26
2.3.3.5. Những điển cố, điển tích được viết bằng chữ Nôm .............................. 26
2.3.3.6. Các từ láy chữ Nôm............................................................................. 27
2.3.3.7. Những chữ có cấu tạo giống nhau nhưng có âm đọc khác nhau ........... 27
2.3.3.8. Những chữ có âm đọc giống nhau nhưng thuộc phép cấu tạo khác nhau
......................................................................................................................... 28
2.4. So sánh đối chiếu văn bản Nôm với các dị bản ...................................... 28
2.4.1. Những chữ khác nhau giữa các dị bản .................................................... 28
2.4.2. Những chữ có âm đọc giống nhau nhưng thuộc phép cấu tạo khác nhau. 32
2.4.3. Những chữ giống nhau nhưng có âm đọc khác nhau............................... 34
2.5. Một số vấn đề về các bản diễn Nôm........................................................ 35
* Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 35
Chương 3. GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA
ĐOẠN TRÍCH................................................................................................ 38
3.1. Giá trị nội dung ....................................................................................... 38
3.1.1. Phản ánh hiện thực xã hội phong kiến .................................................... 38
3.1.2. Khát vọng hạnh phúc lứa đôi .................................................................. 40
3.1.3. Quan điểm nhân sinh của trí nam nhi gắn bó chặt chẽ với tư tưởng phong
kiến .................................................................................................................. 41
3.1.4. Giá trị nhân đạo ...................................................................................... 42
3.2. Giá trị nghệ thuật .................................................................................... 42
3.2.1. Nghệ thuật sử dụng điển cố, điển tích ..................................................... 43
3.2.2. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ...................................................................... 43
3.2.3. Nghệ thuật miêu tả.................................................................................. 43
3.2.4. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. ............................................. 43
3.2.5. Sử dụng thể thơ truyền thống.................................................................. 44
* Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 45
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................... 47
1. Kết luận....................................................................................................... 47
2. Kiến nghị..................................................................................................... 48
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 1
E. PHỤ LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX là giai đoạn phát triển
mạnh mẽ, không chỉ phong phú về nội dung, mà cịn đa dạng về hình thức. Chúng
được ghi dấu bằng những tác phẩm với những tác giả nổi tiếng. Trong đó, Đồn Thị
Điểm được đánh giá “là một người có tài trong văn nữ giới” [12], “là người nổi tiếng
hay chữ” [20]. Tài năng đó đã được khẳng định thông qua bản diễn Nôm Chinh phụ
diễn quốc âm. Tác phẩm Chinh phụ diễn quốc âm được diễn Nôm từ văn bản Hán
văn của Đặng Trần Côn. Đối với tác phẩm, từ trước đến nay đã có rất nhiều bài viết
và những cơng trình nghiên cứu, chúng đã phần nào giải quyết được những thắc
mắc, cũng như những nghi vấn văn chương xung quanh tác phẩm để có thể đánh giá
những giá trị của tác phẩm. Tuy nhiên, bên cạnh đó cịn có nhiều những giá trị khác
cần được nghiên cứu thêm. Chẳng hạn như:
- Tác phẩm Chinh phụ diễn quốc âm được diễn Nôm như thế nào?
- Các chữ Nôm được sử dụng để cấu thành nên văn bản ra sao?
- Vấn đề khác nhau của các chữ Nôm trong các dị bản được thể hiện như thế
nào?
- Ngồi bản diễn Nơm Chinh phụ diễn quốc âm Đồn Thị Điểm cịn những
sáng tác nào nữa?
- Trong đó, ngồi việc đánh giá một phần những giá trị tác phẩm, chúng ta có
thể tìm hiểu thêm về loại hình văn bản được dùng trong quá khứ trung đại, đó là văn
bản được viết bằng chữ Nơm.
Với bút danh Hồng Hà nữ sĩ. Tài năng văn chương của Đoàn Thị Điểm được
người đời khen là khơng thua, mà có phần vượt trội hơn cả nữ lưu bên Tàu là Tơ
Tiểu Muội hoặc Ban Chiêu. Một nữ sĩ có nhan sắc, tài đức vẹn tồn như Đồn Thị
Điểm là lí do khiến cho mọi người quan tâm, nghiên cứu.
Với Khóa luận có tên: Khảo sát hai mươi câu thơ đầu trong Chinh phụ diễn
quốc âm của Đoàn Thị Điểm, chúng tôi mong muốn giải đáp phần nào những thắc
mắc trên, cố gắng khai thác những tinh hoa mà Đoàn Thị Điểm gửi gắm trong tác
phẩm. Đồng thời, với việc sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể,
đưa ra những nhận định, đánh giá có sức thuyết phục, giải quyết những vấn đề liên
quan đến văn bản Nôm Chinh phụ diễn quốc âm. Ngồi mục đích tiếp cận và khẳng
định một lần nữa những tài năng văn chương đã được nhiều người ngưỡng mộ.
Chúng tôi mong muốn được học tập và trau dồi thêm cho mình những kiến thức và
kinh nghiệm quý báu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Liên quan đến đề tài: Khảo sát hai mười câu thơ đầu trong Chinh phụ diễn
quốc âm của Đoàn Thị Điểm đã có một số bài viết, tác phẩm và những cơng trình
nghiên cứu sau đây:
1
1. Nguyễn Đỗ Mục (1929), Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải, Tân Dân xuất
bản – Hà Nội). Có viết: “Khúc ngâm này chẳng những đáng quý về phương diện
văn chương mà còn đáng quý về phương diện luận lý nữa… Một người đàn bà
trong khi vắng chồng hàng bao nhiêu năm vẫn giữ trọn được bổn phận như thế
phỏng là cái gương quý báu đang soi ở cõi Á Đông này”. [6, 115]
2. Đặng Thai Mai (1949), Giảng văn Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm,
Tư tưởng ấn thư cục xuất bản – Thanh Hóa liên khu IV.
Trong tập sách này, nhà nghiên cứu tập trung sự chú ý của mình vào việc
xác định một vài nét đặc trưng của thể loại Ngâm khúc, tìm hiểu các biện pháp
nghệ thuật và dịch thuật, đi sâu vào một vài đặc điểm của nhân vật trữ tình, trình
bày một phương pháp giảng văn. Nội dung khúc ngâm, theo ông chủ yếu nhằm
miêu tả mối sầu xa cách của đôi vợ chồng trẻ đang sống hạnh phúc, mà phải
chia lìa vì người chồng hăng hái ra đi thực hiện nghĩa vụ làm trai. Cịn vấn đề
chống hay khơng chống chiến tranh tác giả khơng đặt ra.
3. Tạp chí Văn - Sử - Địa số 18 tháng 6 năm 1956, Chinh phụ ngâm khúc,
khúc ca ốn ghét chiến tranh của Phong Châu.
4. Tạp chí Văn - Sử - Địa số 19 tháng 7 năm 1956, Đặng Trần Côn với
Chinh phụ ngâm hay là chống chiến tranh, của Văn Tâm.
5. Hoài Thanh (1957), trong bài bình giảng Chinh phụ ngâm, tại Đại học
Hà Nội. Cũng xác định Chinh phụ ngâm khúc “mang giá trị phản chiến”.
6. Dương Quảng Hàm (1968): Việt Nam văn học sử yếu (Bộ Quốc gia Giáo
dục). Cũng đã nói: “Bao nhiêu tâm sự của một người phụ nữ vắng chồng mà biết
thủ tiết được tả rõ cả ra”. [6, 8]
7. Bùi Hạnh Cẩn (2002), Văn tuyển Đoàn Thị Điểm, dịch - khảo cứu – biên
soạn, 361 trang.
Cuốn sách gồm ba phần: Phần 1, Khảo cứu về cuộc đời và sự nghiệp; Phần 2,
Giới thiệu hai tác phẩm nổi tiếng - bản diễn Nơm “Chinh phụ ngâm” và “Truyền kì
tân phả”. Phần 3 phụ lục [2, 32].
8. Ngô Văn Đức (2002), Định giá Chimh phụ ngâm khúc theo đặc trưng thể
loại – định giá nội dung Chinh phụ ngâm, Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội. Đã
khẳng định được những giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm Chinh phụ
ngâm theo đặc trưng của thể loại ngâm khúc. [6]
9. Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Vân (2007), có tên Nghiên cứu Đồn
Thị Điểm qua “Đồn Thị thực lục”, Đại học Sư phạm Hà Nội. Cơng trình đã nghiên
cứu những vấn đề liên quan đến Đoàn Thị Điểm qua gia phả dòng họ [19]. Với việc
nghiên cứu thành cơng Luận văn Nghiên cứu Đồn Thị Điểm qua “Đồn Thị thực
lục ”, tác giả đã góp phần bổ sung những nhận định đúng đắn về tác giả, tác phẩm
Đoàn Thị Điểm. Đó cũng chính là cơ sở để chúng tơi có thể nhận định tác phẩm
Chinh phụ diễn quốc âm là của Đoàn Thị Điểm.
2
10. Từ điển Văn học (2004), do Đỗ Đức Hiểu chủ biên, Nxb Thế Giới. Trong
mục “Đoàn Thị Điểm” và mục “Chinh phụ ngâm” đã nói rất rõ những vấn đề khái
quát về tác giả, tác phẩm. [17]
11. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Diệu Huyền, có tên Nghiên cứu An Ấp Liệt
Nữ trong Truyền Kỳ Tân Phả của Đoàn Thi Điểm, Đại học Sư phạm Hà Nội, dựa
vào Đoàn Thị thực lục, Luận văn đã khẳng định ngoài những đóng góp về mặt chữ
Nơm, Đồn Thi Điểm cịn sáng tác bằng cả chữ Hán, đã khẳng định một cách đầy đủ
hơn nữa về những đóng góp của bà trong sáng tác văn học. [10]
Ngồi ra, cịn có những bài viết trên mạng như:
12. Lê Văn Hảo, thời Trịnh – Lê Mạt (1592 - 1788), hay hai thế kỉ rực rỡ của
văn hố Thăng Long, chimviet.free.fr.
Bài viết đã nói đến Đồn Thị Điểm như một minh chứng văn hố lịch sử quan
trọng: “Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu Nữ Sĩ Hồng Hà, quê ở Chương Dương
(Hà Tây ngày nay), là một nhà văn, nhà thơ uyên bác, đã từng mở trường dạy học tại
q nhà với đơng đảo học trị trong đó nhiều người sẽ thành đạt. … Đồn Thi Điểm
được người đời tơn sùng, chủ yếu vì đã diễn Nơm Chinh phụ diễn quốc âm, nguyên
tác chữ Hán của Đặng Trần Côn (không rõ năm sinh, năm mất). Từ lâu mọi người
đều nhất trí như vậy, nhưng từ năm 1926 có giả thuyết nói bản diễn Nơm ấy là của
Phan Huy Ích. Hiện nay đã tìm ra sáu bản diễn Nơm khác nhau nhưng chưa có lập
luận nào bác bỏ được một cách thuyết phục Đoàn Thị Điểm là người diễn Nôm
Khúc ngâm tuyệt tác này.
Tuy nhiên, dù bản diễn Nơm là của Đồn Thi Điểm hay của ai khác (hiện nay
chưa có kết luận dứt khốt), chúng ta vẫn có thể khẳng định: qua hình tượng cao q
và sừng sững như núi Vọng Phu của người phụ nữ Việt, nạn nhân đằng đẵng của
chiến tranh đến nỗi:
Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng mn vàn cũng khơng !
Thì bản diễn Nơm hiện hành của Khúc ngâm vẫn là áng văn tuyệt đẹp, được
mến mộ và phổ biến sâu rộng không nhường Truyện Kiều.” [21].
13. Lê Minh Quốc, Đoàn Thị Điểm - Nữ sĩ tài đức vẹn toàn, www.
forum.nxbtre.com.vn [22].
Bài viết đã góp phần bổ sung thêm những tư liệu quan trọng liên quan đến con
người và cuộc đời của Đoàn Thị Điểm.
Những bài viết, tác phẩm và các cơng trình nghiên cứu liên quan đến con người
và sáng tác của Đồn Thị Điểm khơng phải là ít, nhưng những vấn đề có liên quan
đến đoạn trích hai mươi câu thơ đầu trong tác phẩm Chinh phụ diễn quốc âm nói
chung khơng phải là nhiều. Những vấn đề đó được đánh giá hết sức lẻ tẻ, rời rạc và
chủ yếu dưới cái nhìn khái quát chung, mà chưa được đi sâu nghiên cứu một cách rõ
ràng cụ thể từng đoạn trích.
3
Trên nền tảng của những vấn đề liên quan đến tác phẩm Chinh phụ diễn quốc
âm chúng tôi đã thu thập được những nguồn tư liệu quý báu, đó sẽ là những căn cứ
giúp chúng tơi có được những định hướng đúng đắn, để có thể đưa ra những kết luận
đảm bảo được tính chính xác và khoa học nhất trong q trình nghiên cứu.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Thơng qua quá trình: Khảo sát hai mươi câu thơ đầu trong Chinh phụ diễn
quốc âm của Đoàn Thị Điểm, chúng tơi muốn tìm hiểu thêm về tài năng văn chương,
óc sáng tạo nghệ thuật và những giá trị trong hai mươi câu thơ đầu của tác phẩm.
- Cùng với việc nghiên cứu văn bản Nôm từ đặc điểm chung về văn bản, phân
tích phép cấu tạo của các chữ Nơm trong văn bản, để đi đến phân tích chữ Nơm
trong những dị bản khác nhau liên quan đến đoạn trích, để từ đó đưa ra những
phương pháp, định hướng có tính quy luật, tạo lập những cơ sở nền tảng cho việc
tiếp cận các văn bản chữ Nôm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài Khảo sát hai mươi câu thơ đầu trong Chinh phụ diễn quốc
âm của Đoàn Thị Điểm, đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các tư liệu trực tiếp
hoặc gián tiếp liên quan đến hai mươi câu thơ đầu trong Chinh phụ diễn quốc âm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu văn bản chủ yếu tiến hành trong phạm vi tác phẩm Chinh phụ
diễn quốc âm. Trọng điểm của khóa luận này là đi sâu khai thác về một đoạn trích cụ
thể và ở đây là hai mươi câu thơ đầu trong Chinh phụ diễn quốc âm.
Mặt khác, chúng tơi cũng tìm hiểu thêm về gia thế, cuộc đời và sự nghiệp sáng
tác của Đoàn Thị Điểm. Khẳng định thêm những hiểu biết về tác phẩm Chinh phụ
diễn quốc âm, từ đó rút ra một cái nhìn tổng quát hơn về tác phẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp cùng những thao tác nghiên cứu chính được sử dụng trong
khoá luận là:
5.1. Phương pháp Văn bản học Hán Nôm
Phương pháp Văn bản học Hán Nôm là phương pháp xác định tình trạng văn
bản, xác định thiện bản, các bản sao, bản in, giấy in, màu mực... thể chữ, kĩ thuật,,
bảo tàng, kí hiệu,... xác định tác giả và niên đại ra đời của tác phẩm.
5.2. Phương pháp phân tích ngữ văn học
Phương pháp Phân tích ngữ văn học là phương pháp xem xét hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm, những giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật mà tác phẩm hàm chứa.
5.3. Thao tác thống kê
4
Thao tác thống kê là đem những sự vật cùng trong một phạm vi tập hợp lại, sau
đó phân tích chúng xem loại nào cùng một tính chất, hình thức, thể loại, cùng thể
hiện một nội dung cần miêu tả.
5.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Chúng tôi tiến hành so sánh tác phẩm của các dịch giả, đối chiếu giữa các
tác phẩm để chỉ ra những điểm giống và khác nhau giữa các dị bản.
5.5. Phương pháp phân tích lịch sử
Sự xuất hiện của tác phẩm Chinh phụ diễn quốc âm và thể loại ngâm khúc
gắn liên với một giai đoạn văn học, một hoàn cảnh xã hội cụ thể. Việc vận dụng
phương pháp lịch sử để nghiên cứu giúp chúng tơi xác định một cách đúng đắn,
vị trí vai trị và những đóng góp của tác phẩm Chinh phụ diễn quốc âm trong nền
văn học nước nhà.
Tuy trình bày tách bạch các phương pháp và thao tác nghiên cứu như trên,
nhưng trong thực tế, chúng thường có mối liên hệ chặt chẽ khăng khít và hỗ trợ cho
nhau. Vì vậy khoá luận sẽ vận dụng chúng một cách tổng hợp.
6. Đóng góp của Khóa luận
Tìm hiểu thêm về tác giả Đoàn Thị Điểm và tác phẩm Chinh phụ diễn quốc âm.
Cùng với việc nghiên cứu, phân tích và khảo sát các chữ Nôm trong hai mươi
câu đầu của Chinh phụ diễn quốc âm, khóa luận bước đi sâu nghiên cứu, phân tích
được cấu tạo chữ Nơm, so sánh, đối chiếu sự giống và khác nhau giữa các dị bản.
Đồng thời chỉ ra những vấn đề về bản đọc chữ quốc ngữ của văn bản Nôm. Tạo cơ
sở cho việc đi sâu nghiên cứu từng đoạn trích cụ thể trong tác phẩm Chinh phụ diễn
quốc âm, để thấy rõ hơn những giá trị tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong từng đoạn
trích nói riêng và trong tồn tác phẩm nói chung.
7. Kết cấu Khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Gia thế, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Đoàn Thị Điểm
Chương 2: Khảo sát hai mươi câu thơ đầu trong Chinh phụ diễn quốc âm.
Chương 3: Giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
Cuối cùng là Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
5
B. NỘI DUNG
Chương 1. GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA
ĐỒN THỊ ĐIỂM
1.1. Gia thế của Đồn Thị Điểm
Ở làng Hiến Phạm – hay còn gọi là Giai Phạm – tên nôm là làng Giữa, huyện
Văn Giang, nay thuộc tỉnh Hưng n, có một ngơi nhà thờ họ Đồn. Năm 1944,
Trúc Khê Ngơ Văn Triện, đã từng tới thăm và có ghi một câu đối như sau:
Vũ liệt văn khơi quang thế phả
Lê tiền Đồn hậu ký thần ngôn.
Tạm dịch:
Võ giỏi văn tài ngời phả họ
Lê xưa Đoàn mới nhớ lời thần. [2, 10]
Theo tư liệu Đoàn Thị thực lục (Gia phả của dịng họ Đồn), họ Đoàn khởi
thuỷ là họ Lê. Cụ năm đời của Đoàn Thị Điểm là Lê Công Nẫm, làm quan võ đời
Lê, có qn cơng, được phân tước Cơng Hào Tử, chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại
phu, Thái thường tự thiếu khanh. Đồn Thị thực lục ghi:
“Lê Cơng Nẫm là người chăm chỉ, chịu khó, nhanh nhẹn, tính tình thẳng thắn,
điềm đạm, hết sức tận tâm với công việc, nên rất được quan tin dùng. Và vì vậy ơng
đã tiến nhanh trên con đường làm quan”. [20]
Lê Công Nẫm sinh ra Lê Công Vị. “Nhưng ông qua đời lúc Vị cịn nhỏ, khơng
người dạy dỗ, Vị chỉ lêu lổng chơi bời không nối được nghiệp của cha. Lớn lên, Vị
lập gia đình và sinh ra Lê Dỗn Nghi”. [22]
Lê Dỗn Nghi mồ côi cha từ nhỏ, được mẹ chăm lo cho sự học hành. “Khác
hẳn với tính nết của cha, Nghi ham học và nổi tiếng là người hay chữ. Thấy vậy,
người mẹ cố sức nuôi con ăn học. Không đủ tiền thì bán ruộng nương. Hễ thấy sách
hay, sách lạ, dù đắt mấy cũng tìm mọi cách để mua cho con. Nhờ sự chăm sóc chu
đáo của mẹ, Nghi học ngày càng tiến bộ”. [22]. Hồi cịn bé ơng rất thông minh, chăm
chỉ, cần cù, siêng năng học tập và vì thế rất được nhiều người yêu mến. Sau từng
theo học những vị tiến sĩ như Nguyễn Hành ở Hoa Gầu, huyện Văn Giang; Đoàn
Tuấn Hoà ở Cự Đồng, huyện Siêu Loại (xưa thuộc Kinh Bắc, nay thuộc huyện Gia
Lâm, ngoại thành Hà Nội). Gia phả dòng họ ghi: “Dỗn Nghi sinh ra mặt mày sáng
sủa, phong tư ơn nhã, tuổi còn nhỏ mà rất ham học (... ) sớm hôm kinh sử rèn tập, sau
trở nên người văn hay học rộng”. [20]. Ngồi hai mươi tuổi, ơng thi Hương đỗ
Hương Cống (cử nhân). Sau ra Thăng Long thi Hội mấy khoa liền khơng đỗ, Lê
Dỗn Nghi bèn đi dạy học ở kinh kỳ để dùi mài kinh sử và làm nghề bốc thuốc.
Nhân trong một giấc mộng thấy thần nhân bảo ông nên đổi họ mới đỗ đại khoa. Có
thể ơng thấy thầy mình là Đồn Tuấn Hồ cũng lận đận, thi Hội mãi tới năm mươi
tuổi mới đỗ Tiến sĩ, nên đổi sang họ Đoàn.
6
Khi gần hai mươi tuổi, Doãn Nghi được mẹ cưới cho một cô gái họ Nguyễn
sinh được Thị Quỳnh và Doãn Sỹ (Doãn Sỹ sau cũng đỗ Hương cống, làm Tri huyện
tại Châu Hoan - Nghệ Tĩnh). Nguyễn Thị vốn là người q kệch tính vụng về, cơng
việc nội trợ khơng được chu đáo, vì thế mà vợ chồng sau đó bỏ nhau.
Bỏ lại vợ con ở quê nhà – làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc (nay
là Bắc Ninh), Nghi lên Thăng Long trú học. Đoàn Thị thực lục chép: “...hồi này
Dỗn Nghi cịn trọ học ở Thăng Long, ngày ngày qua lại phường Hà Khẩu (nay phố
Hàng Buồm), thường được một người con gái họ Vũ – con một viên quan võ cao cấp
được phong tước Thái Lĩnh Bá, nguyên người làng Vũ Điện, huyện Nam Xương.
Người con gái này được gia đình dạy dỗ từ nhỏ, nên “phong tư tốt đẹp, dáng điệu
khoan thai, nhất là việc kim chỉ thêu thùa lại càng khéo léo”. Vì gặp mặt lâu ngày
thành quen, Dỗn Nghi đem lịng yêu người con gái ấy. Nhân về thăm nhà, ông liền
nhờ mẹ tới cầu hôn để làm vợ thứ”. [20]
Năm 1703, sau khi lấy Doãn Nghi, Vũ thị sinh con trai đầu lịng là Dỗn Ln
Đến năm 1705, Thị Điểm ra đời. Hai anh em đều có vẻ “phong lưu tuấn nhã, thông
minh hơn người. Nếu người anh, ba tuổi đã biết đọc chữ, năm tuổi biết đặt câu, mười
tuổi biết đọc sách thánh hiền thì cơ em cũng giỏi giang không kém” [22]. Từ bé, hai
anh em được nuôi dạy ở gia đình nhà ngoại. Vũ thị vốn là người tài hoa, khéo léo;
khi về nhà chồng, trên thì lấy hiếu thờ mẹ chồng, ngồi thì lấy ăn ở với người thân
tộc. Bà nổi tiếng đảm đang, giỏi việc nhà, hai vợ chồng kính nhau như khách”. Vũ
thị cịn là một người phụ nữ thông minh sắc sảo. Gia phả họ Đồn chép: “...Có lần bà
chỉ nghe hai con đọc sách, ngâm thơ, tuy rằng chưa thấy tác phẩm lần nào, bà cũng
có thể thuộc lịng, đọc lại cả chương mà không sai một chữ. Phàm những sách như
Bách gia chư tử, Tam quốc, Thuỷ Hử, không sách nào là bà không đọc” [20]. Vũ thị
thường giảng giải kinh luân, hiếu hạnh cho các con nghe. Và những điều ấy đã có
ảnh hưởng khơng lớn tới Đồn Thị Điểm về sau.
Cha và anh Đoàn Thị Điểm là những tấm gương sáng về tinh thần hiếu học.
Cha đỗ thi Hương, làm quan đến chức Điển Bạ, được nhận hàm Bát phẩm. Nhưng
ơng vốn tính phóng khống, khơng quen cảnh gị bó, luồn luỵ, nên ơng chọn con
đường dạy học, tuy thanh bạch nhưng cái “tâm” thanh thản. Hơn nữa, ông thấy con
trai mình là Dỗn Sỹ, Dỗn Ln cũng đã từng đỗ Hương cống, tuổi lại đang thời trai
tráng, nên cái mộng tên treo bảng vàng khơng khó khăn gì mấy. Nhất là đối với
Dỗn Ln, ơng lại càng đặt nhiều hy vọng hơn. Do đó, Dỗn Nghi chuyển về dạy
học ở thôn Lạc Viên, huyện An Dương (nay thuộc nội thành Hải Phịng). [10]
Học trị của Dỗn Nghi ở trường Lạc Viên cũng có nhiều người đỗ đạt Hương
cống, Sinh đồ. Ví như Hương cống Trần Kim Giám quê ở Lạc Viên, hiện nay cịn có
tên trong các tấm văn bia tại Lạc Viên và Hiến Phạm. Về An Dương chẳng được bao
lâu đến năm 1729, Doãn Nghi mất. Anh em Doãn Luân làm lễ tang bố ở quê. Học
trị Dỗn Nghi nhiều người góp tiền làm nhà thờ và dựng bia cho thầy học. Nay còn
tấm bia về Dương Kinh tiên sinh (tức là Đồn Dỗn Nghi). Bia dựng năm Kỷ dậu
thời Lê Vĩnh Khánh (1729).
Anh trai là Đồn Dỗn Ln đỗ Giải ngun – hay cịn gọi là thủ khoa trường
thi Kinh bắc. Doãn Luân cũng đỗ Hương cống khi chưa đầy hai mươi tuổi, mấy lần
7
tiếp đó thi Hội nhưng khơng trúng, ơng bèn nối nghiệp cha làm nghề dạy học bà bốc
thuốc. Thời gian này, Dỗn Nghi có hỏi người con gái bạn học là Lê Hữu Hỷ cho
con trai mình là Dỗn Ln (một số sách lại nói là Lê Hữu Mưu). Hỷ và Mưu là anh
em ruột và cùng là bạn học với Đồn Dỗn Nghi. Trong một cuốn gia phả của họ Lê
ở Liêu Xá, huyện Hương Đào (nay là Mỹ Văn Hưng Yên) có chép, con gái Lê Hữu
Hỷ là Lê Thị Vi lấy chồng họ Đoàn quê ở Hiến Phạm, đỗ Giải Ngun. Sau lễ ăn hỏi
ít lâu, khơng may cô Vi lên đậu. Khỏi bệnh, mặt bị rỗ hoa và chân tay lóng ngóng.
Bên nhà gái cho người sang xin huỷ bỏ cuộc hơn nhân này, vì e rằng không đảm bảo
hạnh phúc lâu dài. Mặc dù mấy lần nhà họ Lê đề nghị thôi việc cưới, nhưng lần nào
Dỗn Lân cũng vẫn khơng chịu nghe. Chàng rể họ Đoàn chỉ nêu một lý do đơn giản:
“người ta ở đời đã đính ước nhân dun cùng nhau, thì phải giữ cho thuỷ chung trọn
vẹn. Không khi lành lặn xinh đẹp thì xin cưới, cịn khơng may tàn tật thì ruồng bỏ
nhau”. Rồi vẫn tổ chức lễ đón dâu đoàng hoàng. Thời ấy, ai cũng phục sự đức hạnh
của Dỗn Ln. Lê Thị Vi về nhà họ Đồn, gặp được cảnh nhà chồng, mẹ hiền em
thảo hết lòng giúp đỡ mọi việc cơm nước, vá may. Năm 1726, vợ Dỗn Ln sinh
được con gái đầu lịng là Đồn Lệnh Khương. Ba năm sau cô Vi lại sinh con trai đặt
tên là Đồn Dỗn Y. [10]
Từ khi cha mất, Dỗn Luân đưa vợ con về Hiến Phạm, sau đó chuyển sang Vô
Ngại cũng gần làng quê. Và đây cũng là lúc Đoàn Thị Điểm từ biệt nhà Lê Anh
Tuấn trở về làng quê nuôi mẹ, giúp anh chị quán xuyến việc nhà. Ngay từ khi lọt
lòng, chị em Lệnh Khương và Dỗn Y đều được sự chăm sóc tận tình của bà cơ
Đồn Thị Điểm. Nhưng chẳng bao lâu Đồn Dỗn Ln chết (1735), để lại hai con
nhỏ. Một mình Đoàn Thị Điểm phải quán xuyến việc nhà. Sau khi đưa linh cữu anh
về quê an táng bà trở lại Vô Ngại thay anh dạy học và bốc thuốc để nuôi mẹ, chị dâu
và các cháu nhỏ. Những biến động trong gia đình đã có những ảnh hưởng khơng ít
đến cuộc đời bà [10].
1.2. Cuộc đời của Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm (1705 – 1/11/1748), hiệu là Hồng Hà nữ sĩ. Dù là con gái
nhưng được gia đình nâng niu, nên ngay từ nhỏ Đoàn Thị Điểm đã được cha và anh
dạy cho học. Bên cạnh đó, lại được bà và mẹ dạy cho may vá, thêu thùa, nấu
nướng... cho nên có thể nói, bà là một người khơng chỉ có nhan sắc mà cịn đầy đủ
những phẩm chất cơng - dung - ngôn - hạnh. Gia phả cho biết bà học rất thơng minh,
“miệng nói ra là thành văn chương và làm việc gì cũng có phép tắc” [20]. Nhất là
hiếu hạnh và nữ cơng của bà thì cả vùng đều biết tiếng.
Năm Đồn Thị Điểm 16 tuổi, vì có sắc đẹp, lại có văn tài nên bà đã được
Thượng thư Lê Anh Tuấn quê ở xã Thanh Mai, huyện Tiên Phong, Xứ Đồn – nay
thuộc Ba Vì (ngoại thành Hà Nội) – cũng là thầy học của bà - nhận làm con nuôi,
đưa về Thăng Long nuôi dạy, có ý định về sau sẽ đưa bà vào phủ chúa Trịnh để làm
cung phi. Lúc này bà sống tại phường Bích Câu – Thăng Long. Năm 1661, khoa Tân
Sửu thời Lê Vĩnh Thọ, bác ruột của Lê Anh Tuấn là Lê Trí Bình (trong bia Văn
Miếu ghi là Tiên Linh đỗ Hoàng Giáp) làm đến chức Hiến sát - một chức quan đầu
tỉnh. Lê Anh Tuấn cũng như người bác, đều nổi tiếng thần đồng từ nhỏ. Năm 1694,
trong khoa thi Giáp Tuất thời Lê Chính Hồ, ơng thi đỗ Tiến sĩ, khi đó ơng 24 tuổi.
8
Theo Đoàn Thị thực lục, “Khi bà mới đến nhà Lê Anh Tuấn, quan thượng thư
bắt làm một bài thơ Nôm để thử tài, đầu đề là:
Nhất nhật bất kiến như tam thu
(một ngày không gặp nhau, thấy dài bằng ba thu).
Bà liền ngâm hai câu thơ sau để đối lại:
Những mang mấy khắc giăng cầm hạc, ngỡ đã vài phen đổi lá ngô.
Lê Anh Tuấn đặc biệt khen ngợi, rồi yêu quý như con đẻ.
Đoàn Thị Điểm nổi tiếng “tài nữ”. Hầu như trong kinh, các trấn đều có người
biết danh cơ gái tài hoa họ Đồn. Trong thời gian bà Điểm làm con ni họ Lê ở
phường Bích Câu, bà đã quen biết được những người bạn của cha nuôi, và đã tận
mắt chứng kiến cảnh loạn lạc ở Kinh thành. Trong thời gian này, Lê Anh Tuấn đang
được chúa Trịnh Cương tin dùng. Có lần, thấy mới đầu canh năm đã có “nội sứ” của
chúa Trịnh mang đèn lồng cùng võng lọng tới phường để đón Lê Anh Tuấn cùng
Nguyễn Công Hãng vào phủ chúa bàn bạc công việc. Đôi khi, lại nghe bố nuôi cùng
bạn bè thân của ơng kể chuyện cung đình, trong đó có chuyện vua chúa kén chọn phi
tần. Chuyện nhiều cô gái nhà quan cũng chịu số phận hẩm hiu chả kém gì con nhà
dân thường. Chuyện dâm loạn trong cung cấm, chuyện bọn hoạn quan hoành hoành,
chuyện phủ chúa đặt các Phiên đúng với số Bộ của bên vua Lê, chuyện chúa Trịnh tự
ý bỏ vua này dựng vua khác...
Thời Trịnh Giang làm chúa, tàn bạo lại càng thêm quá quắt. Mới lớn lên, Giang
đã hoang dâm vô độ, hơn nữa, bọn hoạn quan như Hồng Cơng Phụ và Dương
Trọng Liên lại tìm đủ mọi cách để bày vẽ các trị chơi bời xa phí. Chúng thường tổ
chức các cuộc dạo chơi đường phố để tìm đàn bà con gái nhằm giở trị bẩn thỉu, khốn
nạn. Có lần, đi chơi các làng ven hồ Tây, chúng vây bắt các phụ nữ xinh đẹp rồi đưa
vào các nhà nghỉ tại giữa hồ Trúc Bạch hãm hiếp. Có nhiều phụ nữ sợ khơng dám đi
chợ... Giang ngủ cả với người thiếp yêu của bố hắn là Kỳ Viên Phi họ Đặng, làm cho
có mang và kết quả là bà phi họ Đặng này phải uống thuốc độc tự tử. [10]
Trước đây, khi Nguyễn Công Hãng được cử giữ chức giảng dạy cho Giang,
ông đã nhiều lần đem những chuyện đạo đức đời xưa ra để kể, nhằm khuyên răn
Giang, nhưng cũng chẳng ăn thua. Ngay trong lúc học Nguyễn Công Hãng, Giang
cùng bọn Phụ và Liên đã tổ chức vụ bắt cóc Lý Bạch Quyên giữa đêm hội Hoa đăng
ở hồ Tây. Bạch Quyên rất xinh đẹp, là vợ của Đỗ Cảnh, một viên quan võ dưới
quyền Quận gia Đặng Đình Lân (có thể Cảnh là con trai Đỗ Bá Phẩm, người huyện
Thượng Phúc, trấn Sơn Nam. Phẩm tức Quận vân, một người từng giữ những công
việc quan trọng trong phủ chúa Trịnh, cùng ngang hàng với Trương Nhiêu, Nguyễn
Công Hãng, Lê Anh Tuấn...). Sau khi hỏi được chỗ bọn Trịnh Giang giam giữ vợ
mình, Đỗ Cảnh đã cùng Lê Đoan Khải (có sách nói là Lê Anh Vũ) một quan võ đã
được phong tước Hầu, và là con trai Quận Điện, tức Tham tụng Lê Anh Tuấn bày
mẹo đánh tháo. Một hôm, trời vừa nhem tối, hai người mặc võ phục, nai nịt gọn
gàng, cưỡi hai con ngựa hồng tới chùa Phật Tích ở huyện Tiên Du, cứu Lý Bạch
Quyên. Để tránh lộ chuyện, Đỗ Cảnh đã đưa vợ mình về ở nhờ nhà Lê Đoan Khải tại
xã Thanh Mai, huyện Tiên Phong. Đoan Khải đã đem chuyện này nói với bố là Lê
9
Anh Tuấn. Anh Tuấn kể lại cho Nguyễn Công Hãng, là thầy học của Trịnh Giang
nghe. Nhân một số việc như vậy, có lần vào hầu chúa Trịnh Cương, Cơng Hãng và
Anh Tuấn đã đề nghị Trịnh Cương xem xét lại ngôi Tế tử của Giang. Chú Trịnh
Giang cho người về Hồng Vân ở Kinh Bắc để điều tra hư thực. Chính Trịnh Cương
cũng đi điều tra. Khi trở về, Cương ghé vào quê ngoại ở Cổ Bi – Như Kinh thuộc
huyện Gia Lâm nghỉ thì bị bạo bệnh rồi chết ngay đêm hôm ấy ở Cổ Bi. Về việc này,
có người cho là chính bọn Giang và Phụ đã tìm cách đầu độc Trịnh Cương để bịt mọi
đầu mối. Sau khi lên ngơi chúa được ít lâu, Trịnh Giang lần lượt tìm cách giáng chức
Nguyễn Cơng Hãng, Lê Anh Tuấn, Đỗ Bá Phẩm và rồi tất cả những người này đều
bị hắn ép uống thuốc độc chết. Sau đó, nhiều quan chức khác có năng lực, tính thẳng
thắn... như Lê Trọng Thứ, Bùi Sỹ Tiêm, Vũ Công Trấn... cũng bị Giang cách chức
đuổi về làng...[10].
Trên đây toàn là những truyện mà bà Điểm được mắt thấy, tai nghe. Điều này
đã giúp bà rất nhiều trong sự nghiệp sáng tác về sau.
Tại phường Bích Câu này, Đồn Thị Điểm đã gặp Đặng Trần Cơn. Ơng kém bà
Điểm vài tuổi, tài hoa rất mực nên con em nhiều nhà quyền quý đều thích giao du.
Ngay cả với vị khoa bảng như Lê Anh Tuấn cũng rất mến tài của ông. Đối với Đồn
Thị Điểm, Đặng Trần Cơn cũng rất u q khơng chỉ vì nhan sắc, mà về văn học bà
cũng là bậc tài nữ. Chính vì vậy mà Đặng Trần Côn đã nhờ người đánh tiếng cầu
hôn, nhưng bà đùa với chị em bè bạn rằng: “Cái ông Cống Đặng, miệng cịn hơi mùi
sữa ấy, nói làm chi tới chuyện vợ chồng...”.
Tuy sống giữa chốn đô thị phồn hoa, song bà chỉ thích văn chương, khơng ham
phú q, nên cuối cùng đã cố xin trở lại quê nhà. Khi được tin cô Điểm trở về xứ
Đông, Đặng Trần Côn đã gửi theo bài thơ Tình ly biệt tạm dịch:
Một biệt đình xn ngán nỗi niềm
Những mơ nhà cũ ngủ khơn nên
Theo nhau muốn cưỡi vầng trăng sáng
Lại giận Hằng Nga sớm ngủ trên.
(Bùi Hạnh Cẩn)
Mười năm Đoàn Thị Điểm ở phường Bích Câu, tình hình đất nước cịn đỡ rối
ren. Nhưng từ những năm ba mươi của thế kỷ XVIII trở đi, cụ thể là sau khi Trịnh
Giang nắm quyền binh, thì quả là thảm hoạ. Ngồi việc hãm hại những người trung
thực như đã nói ở trên, càng ngày bọn Quận Bào, Quận Thực (tức Hồng Cơng Phụ
và Dương Trọng Liên) càng lũng đoạn, chúng nói gì Giang cũng làm theo như thế.
Bọn chúng cho người đi cướp bóc của cải nhân dân. Vùng Đông Ngân, Gia Lâm và
quanh Hồ Tây ngày ấy còn nhớ mãi chuyện chuyển một cây đa từ Kinh Bắc về Phủ
Chúa (ở gần quãng phố Bà Triệu hiện nay). Ta có thể tưởng tượng cái cảnh một cây
đa rườm rà, to cao gần chục mét, mà chỉ được vận chuyển bằng đòn gánh và tay
khiêng đi bộ hàng chục kilômét, phải đưa qua sông Cái mơng mênh sóng to gió lớn,
thì thấy điều cơ cực của dân chúng những vùng bị chúng huy động vào vụ chuyển
cây như thế nào. Sách cũ có kể, những khu khiêng cây hơi chậm trễ là chúng lấy roi,
10
lấy gậy đánh vụt, thậm chí lấy cả gươm chém phạt nữa. Qua vụ chuyển cây này, số
người chết hàng trăm, cịn số người q, cụt tàn tật thì khơng tính xuể. [10]
Hồi cịn sống, bố Giang là Trịnh Cương tính chuyện cướp ngơi nhà Lê, nên đã
cho xây dựng lâu đài ở Cổ Bi – Như Quỳnh, là nơi quê ngoại của Cương. Nhưng tới
khi Giang làm chúa thì hắn lại bắt dỡ những thứ đã xây dựng ở Cổ Bi – Như Quỳnh
chuyển tới Mi Thự là quê mẹ hắn để xây dựng dinh thự mới và xây Hành cung tại
làng Quế Trạo huyện Yên Phong (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) là q của hoạn quan
Hồng Cơng Phụ.... Kho tàng rỗng tuếch, lụt hạn liên miên, vơ vét bóc lột khơng đủ
chi tiêu, chúng dùng tới cách bán tướng, mua quan. Ví dụ người nào nộp 1.800 quan
tiền thì được bổ Tri huyện, kẻ nào nạp 2.800 quan tiền thì được làm Tri phủ. Hương
cống, Sinh đồ cũng được đổi bằng tiền, bằng thóc. Có anh đồ tể mới hơm trước cịn
đóng khố mổ lợn ở chợ, nhưng nhờ có tiền mua Tri huyện, thế là hơm sau đã trở
thành quan lớn, làm bậc “cha mẹ của dân”, mặc sức làm liều, nói láo.
Tính dân khổ cực khơng cịn chỗ nói. Khoảng hơn chục năm này, sử sách còn
ghi chép tới mấy chục vụ nổi dậy của dân cày các nơi. Nào là Hoan chiếm Hưng
Hoá, Bắc chiếm huyện Nam Chân (Nay là Nam Ninh thuộc tỉnh Hà Nam và Nam
Định), Túa Cao chiếm giữ Thư Trì, Nguyễn Dân chiếm Sơn Tây, Đị Tó giữ Sơn
Dương, Giáo Lỵ giữ Đông Quan, Nho Bồng giữ Phượng Nhân... Lừng lẫy nhất phải
kể đến Quận He từng vùng vẫy bao tỉnh miền Đông, Quận Hẻo từng hùng cứ suốt
dãy Tam Đảo, Hồng Cơng Chất dọc ngang tới cả rừng núi Mường Thanh, xây
thành Bản Phủ (nay tỉnh Điện Biên), quân Tây Bắc kéo về Đông Ngàn, Kim Hoa...
chở hàng bè giống tre Dằng Ngà, tre Gai lên làm hào luỹ. Con cháu tiến sỹ Nguyễn
Mại ở Hải Dương cũng bỏ quan tước, kéo cao cờ khởi nghĩa, anh em họ nhà vua như
Lê Duy Mật cũng tìm cách đánh phá Thăng Long, lời hịch của Phạm Cơng Thế cịn
truyền tụng mãi, nhà chùa, đạo sỹ cũng nổi trống tập hợp dân đinh, chống lại triều
đình ngay dưới mái đền, miếu... Tình hình lắm lúc vơ cùng nhiễu loạn, tới mức các
trấn phải đặt ra lệ đốt lửa báo động truyền đường dải suốt từ Bắc Lang tới Hoan
Diễn. Trai tráng các làng ln ln bị xua bắt đi lính. Ca vè thời ấy đã từng có câu:
Lính vua, lính chúa, lính làng,
Vì chưng bắt lính cho chàng phải ra.
Vì như bắt lính đàn bà,
Để em đi lính lấy và bốn năm.
Tình trạng phụ nữ, nhất là các cô vợ trẻ luôn ln sống trong lo âu, sợ hãi.
Khi cha mất, Đồn Thị Điểm mới 25 tuổi, bà theo gia đình đưa linh cữu thân
phụ về quê nhà, rồi theo anh sang ở làng Vô Ngại, huyện Đường Hào (Yên Mỹ Hưng Yên ngày nay). Sau khi đã hết tang cha, có cậu cơng tử Hoạch Trạch tức Nhữ
Đình Toản (ơng này sau đỗ Tiến Sỹ, làm quan đến Thượng thư) và quan Thượng thư
làng Kim Lũ (gia phả không ghi tên cụ thể) nhờ mối đến dạm hỏi, lại có nhiều người
mộ danh tiếng của bà tới thử tài, cầu hôn. Thế nhưng, Đoàn Thị Điểm kén chồng rất
mực, cho là nếu khơng lấy được chồng ưng ý thì thà chẳng lấy cịn hơn, mặc dù theo
quan điểm hơn nhân thời phong kiến, đến 25 tuổi chưa lấy chồng, người ta cho là đã
quá muộn. [10]
11
Tuổi xuân của Đoàn Thị Điểm đúng vào: Thủa trời đất nổi cơn gió bụi. Khách
má hồng nhiều nỗi chuân chiên... Thiên địa lại phong trần, phận duyên lại “cao số”.
Người tài nữ họ Đồn khơng cam tâm để cho bi luỵ xoay vần. Ngoài việc giúp đỡ
mẹ già và chị dâu về nhà cửa bếp nước, cơ Điểm cịn giảng sách, chấm bài cho học
trò của anh trai những khi Dỗn Ln đau ốm. Chính trong thời gian này, Đồn Thị
Điểm xem rất nhiều sách, từ Hán đến Nơm, của cả phương Bắc, phương Nam, hầu
như những loại sách nổi tiếng bà đều đọc qua. Và cũng trong thời gian này, cô bắt
đầu sáng tác các câu truyện dài hơn của mình như Truyền kỳ tân phả hay là Truyền
kỳ ký ra đời.
Năm 1735, Đồn Dỗn Ln chết. Trên đường đưa linh cữu anh về quê, Đoàn
Thị Điểm đã viết bài văn tế anh rất bi thiết, trong đó có những đoạn xúc động khiến
người nghe, người đọc khơng cầm nổi nước mắt. Chẳng hạn như:
Than ôi! Than ôi!
Kẻ thương anh là em gái,
Kẻ thương em gái là ai?
Một là thương anh công danh mới tiến,
Một là thương em gái cuối cùng không nơi nương tựa....
Hay là:
...Lửa nhan sắc ở nơi trăng xế sương nhà, người tương thức cất lời đau xót.
Nhóm tinh thần vào chỗ rách sách vở sót, kẻ mn sinh ai chẳng thảm thề...
Từ đấy, bà cùng người chị dâu cố sức chèo chống để gia đình khỏi suy sụp, trên
thì phụng dưỡng bà mẹ già yếu, dưới thì ni hai cháu nhỏ ăn học. Theo Đồn Thị
thực lục, trước bà có nghiên cứu sách thuốc, nay ra hành nghề, kiếm tiền độ nhật. Bà
lại làm hộ văn chương cho người khác để có chút tiền tiêu pha.
Về sau, muốn tránh những phiền phức về hôn nhân, Đoàn Thị Điểm đã nhận
lời một bà phi của chúa Trịnh quê ở Đường Hào, vào cung dạy học.
Năm Kỷ Mùi niên hiệu Vịnh Hựu thứ 5 (1739), cuối đời chúa Trịnh Giang, vì
chính sự ở phủ chúa ngày một đổ nát, bà xin thôi dạy học ở trong cung về quê.
Tương truyền, Đoàn Thị Điểm do nghiên cứu nhiều về lý học, đã có thể suy đốn mà
có gieo một quẻ, biết vùng Vô Ngại nơi hiện đương ở sắp trở thành một bãi chiến
trường, nên bà đem gia đình chuyển đến xã Chương Dương, bên bờ sơng Hồng và
mở trường dạy học. Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có người phụ nữ dám
mở trường riêng để đào tạo nhân tài. Đoàn Thị thực lục chép: “Xem qua các chuyện
con gái thời xưa thì thấy, khơng hiếm kẻ có tài học, nhưng chưa từng thấy có kẻ dạy
học trị đỗ đạt”. Quả vậy, trong số học trị của bà có Đào Duy Dỗn, người Chương
Dương vể sau đã thi đỗ Tiến Sỹ (năm 1763). [10]
Chương Dương vốn gần Thăng Long, nhiều người ở Kinh đô mộ tiếng bà tới
cầu hôn. Năm 1742, lúc này Đoàn Thị Điểm đã 37 tuổi, bà nhận lời làm kế thất ông
Nguyễn Kiều.
12
Nguyễn Kiều (1695 - 1771), hiệu là Hạo Hiên, người làng Phú Xá, huyện Từ
Liêm, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Tổ tiên Nguyễn Kiều vốn người trấn Sơn Nam,
cuối thế kỷ XVII, có người lên ở nhờ làng Phú Xá (Xú - Gạ) huyện Từ Liêm. Làng
này ở ven Hồ Tây, phía dưới Chèm Vẽ chưa tới dặm đường. Kiều lúc nhỏ học rất
thông minh, nổi tiếng thần đồng. Khoa Ất Mùi đời Lê Dụ Tông (1715) đậu tiến sĩ,
rồi được bổ chức Đô ngự sử, được phong tước Bá. Ơng cũng là một người nổi tiếng
hay chữ, có tài văn chương. Đặc biệt thơ đi sứ của ông là loại thơ hay, có phong
cách. Ơng cũng đề vịnh danh thắng, núi sông, đền miếu, cũng miêu tả thiên nhiên,
cảnh vật phương Bắc, cũng cảm hoài, xướng hoạ dọc đường đi sứ. Nhưng thơ ơng có
những bài, những câu diễm lệ, ý tứ có phần mới mẻ, giọng thơ tao nhã, tươi đẹp.
Trọng trách với nhà vua, với đất nước, tình cảm đối với cố quốc, gia hương, cảm
hứng trước phong cảnh tình người trên đường tuyết sương mn dặm... [10].
Tài cao tuổi trẻ lại sớm đỗ đại khoa, nên Nguyễn Kiều được các nhà quyền quý
tranh nhau gọi gả con hoặc cháu gái. Vợ đầu của ông là Lê Thị Hằng, con gái Lê
Anh Tuấn, nhưng người vợ này mất sớm và khơng có con. Người vợ kế là cô Đoan,
con gái thám hoa Nguyễn Quý Đức và là em gái Hoàng Giáp Ân đỗ cùng khoa với
Kiều. Cô Đoan sinh được hai trai, một gái rồi cũng qua đời lúc mới ngồi hai mươi
tuổi. Lúc đó, vào khoảng những năm 1740 – 1742. Đầu năm 1742, một phái đoàn Sứ
bộ được chuẩn bị sang phương Bắc. Chánh sứ là Nguyễn Kiều. Phó sứ là Nguyễn
Tơng Kh. Thời gian này, Nguyễn Kiều nhờ người mối lái tới gặp gia đình Đồn
Thị Điểm. Nhưng lần nào cũng bị khước từ.
Ngày lên đường càng gần, những lá thư của Chánh sứ Nguyễn Kiều gửi cho cô
Điểm càng thiết tha khẩn khoản. Trong lá thư về cuối, Nguyễn Kiều đã tâm sự hết
điều, kể cả những tình nghĩa giao du đậm đà thân thiết giữa những người vợ trước, là
bà họ Lê, cũng như bà họ Nguyễn với cô Điểm – trong thời gian cô đang làm con
nuôi ông quận Điệu Lê Anh Tuấn.
Đồn Thị thực lục có chép: “Một hơm bà đương ngồi giảng sách, sỹ tử đứng
vây quanh nghe giảng đến hơn trăm người... Chợt nghe có một kẻ từ ngồi đi vào,
theo sau có vài người bõ già bưng đệ lên một cái hộp, trong hộp có bức thư phong
dán rất kỹ. Bà mở thư ra xem, thấy là bức thư cầu hôn của ông Tiến sỹ Tả thị lang
Nguyễn Kiều. Xem xong bà than rằng: “Ta hồi trẻ kén chồng hơn hai mươi năm, đến
nay đã không để tâm đến việc ấy nữa. Thường bảo giai nhân tài tử xưa nay, gặp gỡ là
một sự khó khăn, chi bằng rửa rạch lịng trần, ni lấy cái khí tượng trong lặng. Nay
người này từ đâu đến, bỗng lại khuấy động lòng ta!” Rồi bà khước từ việc cầu hôn
ấy. Sau hơn một tuần, lại thấy quan Tả thị lang sai cháu gọi bằng cậu ruột đem thư
đến, khẩn khoản nài xin, nói hiện sắp phải sang sứ Trung Quốc mà việc nhà bộn bề,
thiếu người nội trợ, không ai coi sóc... lời thư khẩn thiết, khiến bà khơng cầm được
lịng. Song ngồi bình tĩnh nghĩ lại, bà vẫn thấy là khơng thể đồng ý được. Đám học
trị biết chuyện, cố sức tác thành, cả mẹ bà cũng khuyên lơn, bất đắc dĩ bà mới ưng
thuận vậy.” Những học trị của bà thời đó như Đào Duy Dỗn, Lê Q Đơn, từ đó cơ
giáo Điểm từ biệt trường học Chương Dương về ở phường Bích Câu lần hai. Đồn
Thị Điểm vốn là người quán xuyến. Khi về nhà chồng, bà “quản lý công việc nhà
chồng rất chu đáo, khiến các em chồng cùng đám tỳ thiếp bên chồng đều mến phục”
13
(Đoàn Thị thực lục). Hai vợ chồng cũng rất tâm đầu ý hợp, thường xướng hoạ thơ từ
cùng nhau. Chẳng hạn như bài Hứng thu, hay Niềm vui dạo đêm....
Cưới nhau được hơn một tháng, Nguyễn Kiều phải lên đường đi sứ triều Thanh
(1743), mãi đến năm 1745 mới về. Lệ thường, đi về chừng hai năm. Nhưng lần này,
khi về tới Quảng Tây, gặp lúc nhân dân vùng này nổi lên chống lại triều đình Mãn
Thanh, nên bị nghẽn đường, đoàn sứ bộ Việt Nam phải nấn ná thêm hàng năm trời
nữa trên đất khách. Nguyễn Kiều đã làm nhiều thơ. Trong đó có những câu gửi gắm
hồn mộng mong nhớ tới họ Đoàn trong những ngày tết:
Tứ thơ niềm khách bên đèn mộng
Tiếng pháo hò xe rộn ngõ ngoài...
Trong ba năm vắng chồng, Đoàn Thị Điểm sống chẳng khác gì người “chinh
phụ”, và có lẽ sống trong thời gian này (1743 - 1745), bà đã dịch tác phẩm Chinh
phụ ngâm bằng Hán văn của Đặng Trần Côn ra Quốc âm. Kẻ ở phương trời, người
quê cũ. Khi ở Ngòi Biếc, khi ở Xù - Gạ, bà Điểm phải phụng dưỡng đôi bên mẹ già,
cộng thêm mấy mụn con thơ riêng của chồng, cũng như mấy cháu nhỏ họ Đồn.
Cảnh tình ấy, nỗi niềm ấy, cũng được gửi gắm trong bản dịch Chinh phụ ngâm:
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn hồng hoa dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân kh phụ nhớ thương.
Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa vá đương phù trì.
Lịng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Nay một thân nuôi già dạy trẻ,
Nói quan hồi mang mẻ siết bao.
Nhớ chàng trải mấy sương sao,
Xn từng đổi mới đơng nào có dư....
Tâm tình ấy, cảnh vật ấy đã giúp cho bà thêm rung động trong khi cầm bút dịch
thơ. Sống trong thời điểm đất nước loạn lạc, chiến tranh liên miên, cuộc sống đói
nghèo. Bản thân Đồn Thị Điểm cũng chịu nỗi cơ cực ấy, nên bà đã thấu hiểu những
gì mà Đặng Trần Côn gửi gắm trong tác phẩm.
Sau ngày Nguyễn Kiều trở về, vợ chồng “lại cùng nhau ngâm thơ vịnh phú,
phẩm liễu bình hoa, cùng yêu nhau về tài, kính nhau vì nết” (Đồn Thị thực lục).
Năm 1748, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9, Nguyễn Kiều được bổ chức Đốc đồng
trấn Nghệ An. Đoàn Thị Điểm cùng chồng theo đường thuỷ xi dịng sơng Nhị vào
Nghệ An. Trên đường cùng chồng đi nhậm chức, bà nhuốm bệnh. Đoàn Thị thực lục
có chép: “Phu nhân một hơm thấy trong người bần thần khó chịu, tuy vẫn gượng
cơm cháo, nhưng bệnh tình mỗi ngày cảm thấy một nặng hơn. Khi đến trấn Nghệ An
thì bệnh trở nên trầm trọng”. Ngày 4 tháng 8 (âm lịch), bệnh bà đã rất nguy kịch.
Đến ngày 11 tháng 9 âm lịch năm ấy (Mậu thìn), bà mất, thọ 44 tuổi.
14
Ơng Kiều thương tiếc vơ hạn, khóc vợ khơ cạn nước mắt, và viết bài văn tế rất
cảm động: “Người dẫu trăm thân cũng khơn chuộc, hận đến nghìn đời cũng chẳng
cùng. Kìa những người đàn bà ngu bướng, người ta thường sống lâu tuổi hạc da mồi,
cớ sao người tài hoa tột bậc dường này mà phúc lộc lại rất mỏng manh? Tội nghiệp
thay nương tử, ở yên không có chỗ, nối dõi khơng có con, ngồi 30 tuổi mới lấy
chồng, hơn 40 tuổi đã tạ thế, vùi âm dung ở một chỗ, ném tài nghệ vào khoảng
không, trốn bà từ mẫu đã già, bỏ mấy cháu cơi cịn dại, há chẳng phải là mệnh trời
bất thường mà tạo vật cũng bất công hay sao? Luống để cho người chồng góa bụa,
thở ngắn than dài, ruột sầu đau thắt, mắt lệ tuôn rơi. Việc nhà bề bộn, ai người trông
nom? Cư xử nhỡ lầm, ai người ngăn bảo? Thơ muốn viết ra, ai người bình phẩm?
Sách muốn xem chung, ai người bầu bạn? Mùa thu có trăng, cùng ai thưởng nguyệt!
Vẻ đẹp ngày xuân, ai người cùng ngắm? Than ôi! Đường chia hai ngả, duyệt đứt sáu
năm, vui ít sầu nhiều, tài dài mệnh ngắn”… (Trúc Khê dịch). Sau khi làm lễ “thành
phục” đã quàn quan tài tới một tháng. Hàng ngày, buổi sáng và buổi chiều sau giờ
làm việc, ơng đều đến đây cúng lễ. Được ít lâu, ông chọn ngày, sai người đưa thi hài
bà về an táng ở q. Vì bận việc quan, ơng khơng theo về được, chỉ lập trên bến để tế
lễ trước lúc đưa linh cữu xuống thuyền. Ông đọc một bài văn tế, rồi dặn các hầu
thiếp dọc đường tế một tuần, các con cũng vậy... Các bài văn tế này đều bằng chữ
Hán, trong đó ơng đã so sánh tài văn chương của Đồn Thị Điểm với Tơ Tiểu Muội
(đời Tống) và Ban Chiêu (khoảng 49 - 120) là những nhà văn phụ nữ nổi tiếng của
Trung quốc trước kia, đến nay vẫn được lưu giữ, lời lẽ hết sức bi thiết. Bài văn tế của
Nguyễn Kiều thể hiện nỗi lòng của người chồng thương vợ tha thiết, nỗi mất mát
không gì bù đắp nổi. [10]
Một người thơng minh lỗi lạc, đức hạnh tài hoa như Đoàn Thị Điểm mà cuối
đời toàn gặp những gian nan vất vả. Quan niệm tài mệnh tuơng số, hồng nhan bạc
mệnh của người xưa không hồn tồn là khơng có cơ sở.
1.3. Sự nghiệp sáng tác của Đoàn Thị Điểm
1.3.1. Sáng tác bằng chữ Hán
Theo như Bùi Hạnh Cẩn (trong cuốn Văn tuyển Đoàn Thị Điểm - Dịch - Khảo
cứu – Biên soạn): “Nhiều người nổi tiếng về văn học thời đó như Nguyễn Nghiễm,
Phan Kinh, Nguyễn Bá Lân... thường có thơ từ trao đổi cùng Đoàn Thị Điểm. Gia
phả họ Đoàn ở Hiến Phạm có ghi: nhiều thơ từ của bà Điểm đã được họ Nguyễn ở
Tiên Điền lưu giữ. Ngồi ra, ta cịn có thể tìm thấy sự “dây mơ rễ má” giữa các dịng
ghi ở các cuốn thế phả. Ví dụ như, chị dâu bà Điểm là Lê Thị Vi, con ông nghè Liêu
Xá Đường Hào đã có nhiều chị em gái cùng họ lấy chồng hàng mấy chục nơi khắp
nam bắc. Nào là Như Kinh, Phú Thị, Lạc Đạo, Tây Mỗ, Chương Mỹ, Thiên Bản,
Nghệ Tĩnh... Hoặc như con trai con gái Nguyễn Nghiễm, cũng lấy vợ, lấy chồng ở
đủ các trấn. Nào là Liêu Xá, Như Kinh, Phụ Phượng tủ sách gia đình ở các họ ở
nhiều nơi khác nhau, thường lưu giữ được nhiều tác phẩm chép tay của nhiều tác giả,
rất nhiều trong đó có cả của Hồng Hà nữ sĩ. Tiếc rằng, việc bảo quản của chúng ta
khơng được chú ý, cộng thêm khói lửa chiến tranh liên tiếp, thành ra mất mát nhiều,
bây giờ khơng có chỗ căn cứ tra cứu. [2, 35]
15
Truyền kỳ tân phả là tác phẩm Hán văn cũng rất nổi tiếng của Đoàn Thị Điểm,
tác phẩm cũng được nhiều người biết đến. Ngoài những vấn đề văn học hết sức thú
vị, tác phẩm còn chứa đựng những nội dung sâu sắc: Đề cao trật tự xã hội phong
kiến, phán ánh hiện thực xã hội, đề cao vai trò của người phụ nữ cùng với đó là sự
suy sụp của tầng lớp nho sĩ. Mặt khác thể hiện được óc sáng tạo nghệ thuật qua cách
sử dụng nhiều điển cố, điển tích, lời văn hoa mỹ, diễm lệ, xây dựng những hình mẫu
nhân vật lý tưởng và tài năng kết hợp nhiều hình thức nghệ thuật, Truyền kỳ tân phả
là một tác phẩm văn xuôi báo hiệu bước mở đầu của trào lưu văn học nhân đạo chủ
nghĩa Việt Nam thế kỷ XVIII.
Ngoài ra, qua những sách vở cũ, chúng ta cịn được đọc tác phẩm của Đồn Thị
Điểm viết về những cảnh tượng làm ăn, cày cấy và những lễ hội làng quê ngày ấy
như sau: “có nơi đồng lầy, có nơi gị đất, ruộng vườn màu mỡ… các giống lúa, đậu,
ngô, kê... thứ cao thứ thấp, xanh mượt khắp chốn. Các gò động núi non, Kim Mộc
Thuỷ Hoả Thổ, đỉnh núi đỉnh nhơ, trơng lạ mắt... đó là cảnh đẹp nhất vùng Văn Phủ
Thuận. Tuổi xuân trôi qua khơng trở lại. Ngày ba sửa sang liềm móc, ngày bốn
xuống ruộng cày bừa. Việc nông chăm chỉ hai vụ lo toan...”. [2]
Chẳng hạn: Khi tả cảnh được mùa vui hội, Đoàn Thị Điểm viết:
“Chọn ngày lành tháng tốt, phô đẹp lụa là, họp mặt những cô gái xinh tươi thuỳ
mị, cùng những nàng ca hát óng ả thướt tha, lông my uốn cong như trăng mới, đôi
mắt xanh trong như nước thu... Người múa khéo nhẹ nhàng mềm mại... Người hát
hay giọng điệu hài hồ...” [2]
Trong đó, có những câu nói lên triết lý cuộc đời và biểu lộ chí khí như:
“Tuổi xn quay đi khơng trở lại. Điều q nhất trong cuộc đời là thoả chí
mình... Người mang cày nghĩa, người vác bừa nhân, qua lại thong dong trên đồng
nội cấy cày hai chữ công danh không chút lịng vương. Người khốc tơi, người đội
nón đi về thanh thản chốn nguồn đào, nửa tiếng thị phi không hề tai lọt...”. [2, 33]
Tính chất hài hước vốn là truyền thống dân tộc. Tuy chỉ mấy chục thanh xuân
nhưng đã nhìn tận mắt, nghe tận tai bao cảnh bao điệu vui buồn trong thiên hạ, nỗi
đau khổ, nỗi vấn vương của những tâm hồn phụ nữ. Bà Điểm cũng để lại cho đời sau
đôi chút tư liệu về những nét châm biếm. Có lần ở Chương Dưong, bà đang giảng
nghĩa, sách tới đoạn: Đằng là nước nhỏ lại lọt vào giữa hai nước lớn là Tề và Sở, nên
chỉ việc đối xử bang giao là rất khó khăn... Vừa lúc nhà hàng xem có người lấy hai
vợ đang có chuyện lục đục om sịm trong gia đình, bà đã bảo vui học trò thử tức cảnh
làm thơ với đầu đề “Nước Đằng”.
Ngoài ra, trong dân gian truyền rằng: bà Điểm cịn giúp cháu gái là Đồn Lệnh
Khương chỉnh lý bài thơ Tứ tuyệt như sau:
Đằng quốc xưa nay vốn nhỏ nhen,
Lại thêm Tề Sở ép hai bên.
Quay đầu với Sở e Tề giận,
Ngoảnh mặt sang Tề sợ Sở ghen.
16
Hoặc: Có tài liệu đã ghi chép bài thơ vịnh người gầy và người béo của bà, trong
đó có những câu như:
Béo giống gà nòi đè rạc cánh,
Gầy như cò đói nghển trơng mồi.
Béo ngồi chĩnh chện dư người rước,
Gầy bước xo ro thốn kẻ mời.
Với con người có tài ứng đối hoạt bát, cũng như tài thách đối hóc búa như phần
trên đã nói, thì với những nụ cười hóm hỉnh về những cảnh anh chồng hai vợ mà sợ
cả hai, cho tới nỗi đời giàu sang béo tốt thì được sư phụ, cịn gầy guộc đói rét đành
nỗi hẩm hiu... cũng khơng có gì là vơ lý về sự đa dạng trong văn thơ.
Những sáng tác bằng Hán văn đã chứng tỏ óc sáng tạo văn chương và tài năng
nghệ thuật của Đoàn Thị Điểm, tác phẩm của bà không chỉ phán ánh được hiện thực
xã hội, mà còn chú trọng đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
đương thời. Nội dung các tác phẩm chữ Hán của bà được thể hiện thông qua những
từ ngữ giàu hình ảnh, giàu sắc thái biểu cảm, đồng thời mạng đậm sắc thái cổ điển
Trung Quốc, những từ ngữ đó để thể hiện được những giá trị đích thực của từ Hán,
đó là sự trang trọng, vừa thâm tuý sâu xa, đã thể hiện được tài năng sáng tạo nghệ
thuật của tác giả.
1.3.2. Sáng tác bằng chữ Nôm
Tác phẩm Chinh phụ diễn quốc âm diễn Nôm từ nguyên tác Hán văn của Đặng
Trần Côn. Một tác phẩm viết về chiến tranh, là khúc ngâm của người phụ nữ, là lời
than thở của một người phụ nữ đã có chồng ra chiến trường. Những tình tiết cấu tạo
nên toàn bộ khúc ngâm là nỗi niềm âu lo, sợ hãi, trơng đợi của người vợ trẻ, đầm đìa
nước mắt hàng ngày, ngày đêm trơng ngóng chồng trở về. Những điều đó đã được
Đồn Thị Điểm bày tỏ trong tác phẩm, khiến cho tác phẩm có sức lưu truyền sâu
rộng. Tuy nhiên, về tác phẩm này đã có rất nhiều ý kiến, chẳng hạn: Cho rằng, bản
diễn Nôm Chinh phụ diễn quốc âm của bà là bản đang lưu hành rộng rãi, nhưng từ
1926 lại đây, có ý kiến nói bản đó là bản của Phan Huy Ích (1750 - 1822), cịn bản
của Đồn Thị Điểm, theo Hồng Xn Hãn - nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà nghiên
cứu sử học Việt Nam - lại cho rằng, đó là một bản khác mà trong cuốn Chinh phụ
ngâm bị khảo ông đặt là bản B.... Những thắc mắc đó đã được giải đáp theo như văn
bản Đoàn Thị thực lục tìm thấy trong mục Hồng Hà phu nhân truyện có đoạn: “Hữu
tác trước Chinh phụ ngâm từ truyện vu thế tương truyền giá chinh phụ từ diễn âm
Hồng Hà phu nhân...” .[20]
Từ điều nói trên chúng tơi nghiêng về ý kiến nhận định, Đồn Thị Điểm chính
là tác giả bản Chinh phụ diễn quốc âm mà lâu nay vẫn còn nghi vấn. Và bản diễn
Nôm của bà là bản diễn Nơm đầu tiên, nó có tác dụng kích thích việc diễn Nơm
Chinh phụ ngâm và cũng có ảnh hưởng lớn tới các bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm
khác.
Như vậy chúng ta thấy rằng Đoàn Thị Điểm là một nữ sĩ rất tài năng, ngoài
những sáng tác bằng chữ Hán bà cịn sáng tác bằng cả chữ Nơm, Truyền kỳ tân phả
17
là tác phẩm Hán văn nổi tiếng của bà, không chỉ thành công trên văn đàn văn chương
chữ Hán, bà cịn thành cơng trên cả văn đàn văn chương chữ Nôm với bản diễn Nôm
Chinh phụ diễn quốc âm, khúc ngâm của người phụ nữ với những tiết tấu cấu tạo
nên khúc ngâm là nỗi niềm lo âu, sợ hãi, trơng đợi của người vợ trẻ, ngày đêm trơng
ngóng chồng trở về.
Tác phẩm Chinh phụ diễn quốc âm cho đến nay, có rất nhiều quan điểm, ý
kiến khác nhau xung quanh tác phẩm. Những vấn đề đó sẽ được chúng tôi đề cập
đến một cách chi tiết cụ thể hơn ở phần sau đây của khóa luận.
1.4. Đồn Thị Điểm và tác Chinh phụ diễn quốc âm
1.4.1. Hoàn cảnh sáng tác Chinh phụ diễn quốc âm.
Phan Huy Chú có nói trong sách Lịch triều hiến chương loại chí rằng:
“sách Chinh phụ ngâm do hương cống Đặng Trần Côn soạn, nhân đầu đời Cảnh
Hưng, việc binh nổi dậy, người ta đi đánh giặc phải lìa nhà, ơng cảm thời thế mà
làm ra”. [3]
Đầu đời Cảnh Hưng năm 1740, năm vua Lê Hiển Tông lên ngôi và cải
nguyên. Từ trước, ở Bắc Hà, đã nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân vào
đúng năm 1740, càng trở nên mạnh mẽ đến nỗi tập đoàn thống trị họ Trịnh phải
gây ra một cuộc chinh biến ở trong phủ chúa, hạ Trịnh Giang xuống đưa Trịnh
Doanh lên thay, xoa dịu nỗi phẫn uất của nhân dân đương thời. Nhưng Thăng
Long vẫn ở vào cái thế bốn mặt bị đánh. Ở trấn Đông (tức Hải Dương) có cuộc
khởi nghĩa của anh em Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, ở trấn Sơn Nam, có Vũ
Đình Dung, Đồn Danh Chấn; ở trấn Đồi (Sơn Tây), có Nguyễn Đan Phương –
sau này còn nổi tiếng hơn với danh hiệu Quận Hẻo – mở rộng phạm vi hoạt
động lên đến trấn Thái Ngun phía Bắc. Thêm vào đó qn đội của Lê Duy
Mật, giương cao ngọn cờ “phù Lê, diệt Trịnh”, cũng từ trấn Ninh kéo tới quấy
phá miền Sơn Tây, Hưng Hóa. Hồn cảnh nội chiến đầy tang tóc, đau thương
này đã tạo cho người danh sĩ bất đắc chí kia một nguồn cảm hứng thuận lợi cho
sự sáng tác. [1, 17]
Theo Gaspardonne trong Bibliographie annamile thì năm 1740 là năm
Đặng Trần Côn được bổ tri huyện Thanh Oai. Hẳn Gaspardonne đã căn cứ vào
lời chép trong Hoàng Việt thi tuyển rằng Đặng Trần Côn được bổ chức ấy trong
đời Cảnh Hưng vào hiểu đó là năm đầu đời Cảnh Hưng (1740). Hiểu như vậy có
thể khơng thực chính xác vì việc ấy có thể xích lui sau đó vài năm; trước đó
Đặng trần Cơn được bổ Huấn đạo phủ - phủ nào, khơng có tài liệu nào ghi rõ
nhưng có lẽ cũng ở chung quanh kinh kỳ, vì Tang thương ngẫu lục cịn chép đơi
câu đối Hán văn ĐặngTrần Côn viết để lễ Khổng tử ở Văn Miếu trong dịp nhận
chức. Có điều chắc chắn là năm 1740, Đặng Trần Cơn đã rời bỏ Thăng Long và
đó đúng lúc ơng có thể viết Chinh phụ ngâm, một tác phẩm un thâm địi hỏi
người viết phải có thời giờ và phải chuyên tâm vào nó. [1, 17]
Mọi khảo cứu đều đi tới kết luận. Chinh phụ ngâm được sáng tác trong
khoảng năm 1740 – 1742, vào một thời kỳ rối ren bậc nhất của lịch sử Việt
18
Nam. Quả thực khúc ngâm đã là con đẻ của thời đại, và đương thời nổi lên một
vấn đề có ý nghĩa thời sự nóng hổi. [1, 17]
Thời điểm Đồn Thị Điểm diễn Nôm Chinh phụ diễn quốc âm vào khoảng năm
1742. Khi bà 37 tuổi, Đoàn Thị Điểm nhận lời kết hơn với ơng Nguyễn Kiều, một
tiến sĩ gố vợ. Lấy nhau chưa đầy một tháng thì chồng đi xứ sang Trung Quốc. Xa
cách ba năm, cuộc sống chẳng khác nào tình cảnh của người chinh phụ. Có lẽ nhờ
thế mà Đồn Thị Điểm diễn Nơm Chinh phụ diễn quốc âm hay đến mức, người ta
nhớ bản diễn Nôm của bà hơn là nhớ nguyên tác của Đặng Trần Côn.
1.4.2. Vài nét về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
Nhan đề: 征 婦 演 國音Chinh phụ diễn quốc âm: lời than vãn của người phụ
nữ có chồng đi đánh trận.
Ngồi ra có tên Nơm khác là: Chinh phụ ngâm bị lục, Chinh phụ ngâm diễn
ca, Chinh phụ ngâm diễn âm từ khú.Chinh phụ ngâm
Chinh phụ ngâm nguyên tác Hán văn là khúc ngâm dài 483 câu làm theo
thể thơ trường đoản cú (các câu dài ngắn khác nhau), bản diễn Nôm dài 408 câu
làm theo thể thơ song thất lục bát. Trong đó nổi bật lên những nội dung chính đó
là:
1.4.2.1. Giá trị nội dung Chinh phụ diễn quốc âm
Chinh phụ diễn quốc âm mang hình thức một lời độc thoại nội tâm mà vai
chính, cũng là vai duy nhất đứng ra độc thoại trong câu truyện là một người vợ
có chồng tham gia cuộc chiến do triều đình phong kiến chủ xướng nói về nỗ
khổ, phải sống cô đơn, buồn tủi khi xa chồng. Mở đầu, nhà thơ đã dựng lên một
khung cảnh chiến trường ác liệt, đất nước thanh bình khơng cịn nữa, nhà vua
truyền hịch kêu gọi mọi người tham gia chiến cuộc. Và nàng chinh phụ hình
dung ra cảnh chồng nàng lên đường giúp nhà vua. Chàng hùng dũng trong chiếc
chiến bào màu đỏ và cưỡi con ngựa trắng như tuyết. Chàng ra đi với quyết tâm
giành hàng loạt những thành trì để dâng lên vua. Cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến,
kết thúc, chinh phụ trở về phòng khuê và tưởng tượng ra cảnh sống của chồng
nơi chiến địa. Hình ảnh lẫm liệt của người chinh phu tới đây bỗng chìm vào giữa
một chiến trường đầy oan hồn, tử khí và nàng thấy trào lên trong lòng nỗi lo sợ
khủng khiếp về nỗi khổ của chồng và niềm đau khổ không nguôi về cuộc sống
đơn chiếc của bản thân nàng. Phần chủ yếu của khúc ngâm nhằm diễn tả tâm
trạng trăn trở, cô quạnh của chinh phụ. Chồng ra đi, quá kỳ hạn không thấy trở
về, cũng không chút tin tức, nàng đành tính chu kỳ thời gian bằng qun hót,
đào nở, sen tàn. Nàng phả làm thay những công việc của chồng và lúc nào cũng
trơng ngóng ngày chồng trở về, nàng giở kỷ vật của chồng ra xem để tự an ủi:
xuân qua rồi đông tới, ngày lại ngày nàng quanh quẩn trước hiên, sau rèm, vò võ
trước đèn khuya, một mình đối diện với hoa với nguyệt… khơng cảnh nào
khơng gợi “trăm sầu nghìn não”. Tìm chồng trong thực khơng được nàng tìm
trong mộng, nhưng tỉnh mộng nàng chỉ buồn thêm. Cuối cùng chán trường đến
tuyệt vọng, nàng không còn làm việc, biếng trang điểm; nàng lo sợ tuổi trẻ qua
đi thì cịn đâu là hạnh phúc, thấy thân phận của mình khơng bằng chim mng,
19
cây cỏ, suốt đời được “liền cành”, “liền cánh”, và thiết tha khẩn cầu được sống
hạnh phúc cùng chồng ở kiếp này. Kết thúc khúc ngâm, chinh phụ hình dung cái
ngày chồng nàng chiến thắng trở về giữa bóng cờ và tiếng ca khải hoàn. Chàng
sẽ được nhà vua ban thưởng, và vợ chồng nàng từ đây sẽ được sống hạnh phúc
bên nhau trong thanh bình.
Ra đời giữa lúc phong trào nơng dân khởi nghĩa chống Triều đình phong
kiến ở nửa thế kỷ XVIII đang lên cao trào, Chinh phụ diễn quốc âm là tác phẩm
đề cập đến cuộc chiến tranh phi nghĩa do nhà nước phong kiến Lê – Trịnh phát
động lúc bấy giờ, nhằm đàn áp phong trào nông dân khởi nghĩa. Nhà thơ tố cáo
cuộc chiến tranh này từ hai phía: đối với người chinh phu ra đi, chiến tranh là
hình ảnh chết tróc tàn lụi (Hồn tử sĩ gió ù ù thổi / Mặt chinh phu trăng dõi dõi
soi); đối với người chinh phụ ở nhà, chiến tranh là cô đơn, sầu muộn (Trâm cài
xiêm thắt thẹn thùng / Lệch làn tóc rối, lỏng vịng lưng eo). Tóm lại, chiến tranh
phi nghiã thực sự đối lập với cuộc sống của con người. Nhìn chung, tác giả ý
thức được tai họa của chiến tranh, nhưng chưa thấy rõ tính chất của nó. Chính vì
thế ở đoạn đầu khúc ngâm, tác giả cịn lý tưởng hóa hình ảnh người chinh phu
lúc ra đi, và kết thúc khúc ngâm, còn để cho người chinh phụ tưởng tượng chồng
nàng sẽ trở về trong quang vinh, mặc dầu văn mạch gượng ép của câu thơ cũng
nói lên rằng, đó chỉ là ảo tưởng. Dĩ nhiên, khơng vì thế mà khúc ngâm giảm bớt
giá trị. Bởi lẽ, ý nghĩa sâu xa của nó là ở chỗ, nó đặt vấn đề hạnh phúc lứa đôi,
hạnh phúc tuổi trẻ, không phải chỉ trên phương diện thuần túy tinh thần, mà ít
nhiều đã mang màu sắc một sự khát khao mãnh liệt, được gần gụi, được ân ái
(Sánh nhau cùng dạn díu chữ duyên…). Và vấn đề hạnh phúc của tình yêu, được
đặt ra trong chiều hướng chuyển hóa về màu sắc như thế, lại được khẳng định
bằng sự đối lập với lý tưởng công danh của chế độ phong kiến (Thà khuyên
chàng đừng chịu tước phong), cũng như đối lập với quan niệm thông thường về
“quả phúc” của nhà phật (Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau). Vì thế khúc ngâm
đạt được một giá trị nhân đạo sâu sắc. [18, 260]
1.4.2.2. Giá trị nghệ thuật Chinh phụ diễn quốc âm
Cả nguyên tác Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Cơn và bản diễn Nơm của
Đồn Thị Điểm, đều có những thành tựu hết sức to lớn. Với bút pháp tượng
trưng, ước lệ được nâng lên mức cao, Đặng Trần Côn đã biết chiết ra từ trong
kho tàng văn thơ chữ Hán những câu phù hợp nhất đối với ý tứ của mình, và vận
dụng thành cơng vào việc sắp xếp thành một kết cấu hồn chỉnh, như một sáng
tạo mới mẻ, phô diễn thật sát những trạng thái khác nhau của nỗi lòng người
chinh phụ. Thể thơ trường đoản cú mà ông sử dụng rất giàu nhạc tính; tiết tấu
nhịp điệu biến hóa sinh động tùy theo u cầu của nội dung. Đó chính là lý do
khiến cho đương thời, tác phẩm đã được nhiều người hâm mộ, xem như mẫu
mực về sự uẩn súc, tinh luyện của văn chương. Biết phát huy những ưu điểm
vốn có của ngun tác, nhưng mặt khác khơng câu nệ bám sát từng câu, từng
chữ, đồng thời lại biết tiếp thu những thành tựu của các bản diễn Nôm đã ra đời
trước, bản diễn Nôm Chinh phụ diễn quốc âm với ưu thế của thể thơ song thất lục
bát, quả đã vươn tới một nghệ thuật tài tình. Ngơn ngữ trong sáng và hiệ đại:
gieo vần, ngắt nhịp và phối thanh rất khéo léo; láy âm, điệp chữ rất đắt, toàn
20