Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

quản lý làng xã huyện phổ yên (thái nguyên) qua hương ước cải lương thời cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 158 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

pp
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





VŨ THỊ THU HƢƠNG



QUẢN LÝ LÀNG XÃ HUYỆN PHỔ YÊN
(THÁI NGUYÊN) QUA HƢƠNG ƢỚC CẢI LƢƠNG
THỜI CẬN ĐẠI



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ






Thái Nguyên, 2012





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




VŨ THỊ THU HƢƠNG


QUẢN LÝ LÀNG XÃ HUYỆN PHỔ YÊN
(THÁI NGUYÊN) QUA HƢƠNG ƢỚC CẢI LƢƠNG
THỜI CẬN ĐẠI

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã ngành: 60.22.54

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đàm Thị Uyên



Thái Nguyên, 2012




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các cứ liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa
từng đƣợc công bố trong bất kì công trình nào.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012
Tác giả luận văn


Vũ Thị Thu Hương




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan i
Mục lục ii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN PHỔ YÊN VÀ HƢƠNG ƢỚC

CẢI LƢƠNG HUYỆN PHỔ YÊN 9
1.1. Khái quát về huyện Phổ Yên 9
1.1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 9
1.1.2 Lƣợc sử hình thành huyện Phổ Yên 12
1.1.3 Dân cƣ và truyền thống 15
1.1.4 Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội huyện Phổ Yên
trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945 21
1.2 Hƣơng ƣớc cải lƣơng huyện Phổ Yên 26
1.2.1 Khái quát về hƣơng ƣớc 26
1.2.2 Hƣơng ƣớc cải lƣơng huyện Phổ Yên 39
1.2.2.1 Hình thức văn bản của hƣơng ƣớc 40
1.2.2.2 Nội dung cơ bản của hƣơng ƣớc 42
Chƣơng 2. QUẢN LÝ KINH TẾ, HÀNH CHÍNH LÀNG XÃ HUYỆN
PHỔ YÊN (THÁI NGUYÊN) QUA HƢƠNG ƢỚC CẢI LƢƠNG
THỜI CẬN ĐẠI 48
2.1. Khái niệm làng xã và quản lý làng xã 48
2.1.1 Khái niệm làng xã 48
2.1.2 Khái niệm quản lý làng xã 50
2.2 Quản lý kinh tế, hành chính làng xã huyện Phổ Yên qua hƣơng ƣớc cải
lƣơng thời cận đại 51
2.2.1 Quản lý kinh tế 51
2.2.1.1 Quản lý ruộng đất 51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
2.2.1.2 Việc sƣu thuế 56
2.2.1.3 Việc chi thu 59
2.2.1.4 Quản lý tài sản chung 61
2.2.1.5 Quản lý, bảo vệ sản xuất nông nghiệp 62

2.2.2 Quản lý hành chính 64
2.2.2.1 Quản lý bộ máy cấp xã, thôn 64
2.2.2.2 Quản lý hộ khẩu, hộ tịch ở làng xã 73
Chƣơng 3. QUẢN LÝ VĂN HÓA, XÃ HỘI LÀNG XÃ HUYỆN PHỔ
YÊN QUA HƢƠNG ƢỚC CẢI LƢƠNG THỜI CẬN ĐẠI 79
3.1 Quản lý văn hóa 79
3.1.1 Việc giáo dục 79
3.2.2 Việc giữ vệ sinh, bảo vệ môi trƣờng 80
3.1.3 Việc cƣới xin, ma chay 81
3.1.4 Việc khao vọng, hƣơng ẩm và vị thứ đình trung 86
3.1.5 Việc tế tự 88
3.2 Quản lý xã hội 94
3.2.1 Việc canh phòng, giữ gìn an ninh trật tự 94
3.2.2 Việc cấp cứu 100
3.2.3 Việc giữ trật tự chốn công cộng 102
3.2.4 Việc bài trừ đồi phong –bại tục 103
3.2.5 Việc kiểm soát ngƣời lạ đến làng 106
3.2.6 Việc kiện cáo 107
3.3. Một số nhận xét 108
3.3.1 Từ góc độ quản lý Nhà nƣớc 108
3.3.2 Từ góc độ tự quản làng xã 112
KẾT LUẬN 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO 123
PHỤ LỤC


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Theo dòng chảy của lịch sử, có những thứ sẽ mất dần đi, nhƣng có
những thứ sẽ lại ngày càng phát huy đƣợc vai trò, thế mạnh của mình trong
thời đại mới và tồn tại mãi mãi. Cũng nhƣ vậy, mô hình tổ chức làng xã đã
xuất hiện từ sớm và vẫn còn tồn tại bền vững cho đến tận ngày nay.
Trong suốt tiến trình lịch sử dân tộc, làng xã luôn đóng vai trò quan
trọng trong mọi mặt đời sống xã hội, là cơ sở, là nền tảng của văn hóa, văn
minh Việt Nam. Bởi vậy, việc quản lý làng xã luôn là “điều trăn trở của mọi
thời đại” [15, tr. 9]. Các chính quyền nhà nƣớc, từ các triều đại phong kiến
cho đến chính quyền thực dân đô hộ và kể cả Nhà nƣớc ta hiện nay đều luôn
luôn cố gắng tìm ra những biện pháp tối ƣu để quản lý làng xã. Có quản lý
đƣợc làng xã với vị trí là đơn vị hành chính cấp cơ sở của nhà nƣớc, có ổn định
đƣợc xã hội làng xã nói riêng thì mới ổn định đƣợc xã hội quốc gia nói chung.
Ngƣợc dòng lịch sử, có thể thấy cha ông ta đã có những kinh nghiệm
hết sức quý báu trong vấn đề quản lý làng xã, thể hiện qua việc soạn thảo và
sử dụng hƣơng ƣớc. Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, hƣơng ƣớc là
“cƣơng lĩnh tinh thần”, “cƣơng lĩnh về nếp sống” của một cộng đồng cƣ dân
Việt ở nông thôn, là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ trong làng, giữa
làng với Nhà nƣớc. Đây là một di sản văn hóa quý báu, một nguồn tài liệu có
giá trị nghiên cứu về nhiều mặt.
Thế nhƣng, số phận của hƣơng ƣớc cũng thăng trầm cùng các biến cố
lịch sử. Sau gần nửa thế kỉ bị đặt ngoài lề cuộc sống, kể từ sau năm 1989 đến
nay hƣơng ƣớc đã trở lại nguyên giá trị trong làng xã hiện đại. Đảng và Nhà
nƣớc ta đã “khuyến khích biên soạn hƣơng ƣớc để làm cơ sở tổ chức, quản lý
trên địa bàn” (Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ƣơng
Đảng khóa VII, 6/1993). Với hàng loạt các nghị quyết, thông tƣ, chỉ thị của



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề này, phong trào “tái lập hƣơng ƣớc” đƣợc đẩy
mạnh trên cả nƣớc nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển nông thôn mới
do Đảng và Nhà nƣớc đề ra.
Cũng nhƣ nhiều địa phƣơng trên cả nƣớc, Thái Nguyên nói chung và
huyện Phổ Yên nói riêng đã tích cực hƣởng ứng, thực hiện phong trào xây
dựng làng văn hóa. Với vị trí giao lƣu thuận lợi (phía Bắc giáp thành phố Thái
Nguyên, phía Nam giáp thành phố Hà Nội), cho nên so với nhiều huyện trong
tỉnh, Phổ Yên là nơi có nền kinh tế phát triển, trở thành một trong những
trung tâm công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên. Trong tình hình tốc độ đô thị
hóa diễn ra nhanh chóng, việc bảo lƣu các giá trị truyền thống là điều rất cần
thiết. Song trên thực tế, kết quả trong phong trào xây dựng làng văn hóa ở
Thái Nguyên nói chung và Phổ Yên nói riêng còn khá khiêm tốn. Một trong
những nguyên nhân của thực trạng này là những hạn chế, bất cập trong việc
soạn thảo, ban hành hƣơng ƣớc mới. Các bản “Quy ƣớc làng văn hóa” đƣợc
biên soạn chủ yếu dựa trên những văn bản hƣớng dẫn của Chính phủ, khá xa
vời, cứng nhắc, nặng tính áp đặt đối với làng quê. Do đó, việc nghiên cứu, tìm
hiểu về “Quản lý làng xã huyện Phổ Yên (Thái Nguyên) qua hương ước cải
lương thời cận đại” sẽ góp phần khắc phục hạn chế và bổ sung cho hƣơng
ƣớc mới, để hƣơng ƣớc mới sẽ thực sự đi vào cuộc sống, góp phần cùng với
pháp luật điều chỉnh mối quan hệ làng xã. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu về
“Quản lý làng xã huyện Phổ Yên (Thái Nguyên) qua hương ước cải lương
thời cận đại”, chúng ta sẽ rút ra đƣợc những bài học quý báu về vấn đề quản
lý hành chính và quản lý về mọi mặt trong đời sống sinh hoạt làng xã của Nhà
nƣớc trung ƣơng ở cấp địa phƣơng. Qua những bài học kinh nghiệm (với cả
những thành công và hạn chế) sẽ giúp chúng ta soi rọi vào quá trình cải cách
hành chính, cải cách tƣ pháp…ở cấp làng xã hiện nay, để có thể kế thừa và
phát huy di sản về quản lý làng xã của cha ông trong lịch sử.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Với những ý nghĩa trên, đồng thời là một ngƣời con của quê hƣơng
Thái Nguyên, ngƣời viết chọn đề tài “Quản lý làng xã huyện Phổ Yên (Thái
Nguyên) qua hương ước cải lương thời cận đại” làm vấn đề nghiên cứu cho
luận văn Thạc sĩ của mình. Với năng lực của bản thân và điều kiện mọi mặt
có hạn, chắc chắn luận văn sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
nhận đƣợc sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô và bạn bè đồng nghiệp để ngƣời
viết đƣợc học hỏi và hiểu sâu sắc hơn về vấn đề này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hƣơng ƣớc là sản phẩm văn hóa độc đáo gắn liền với lịch sử làng xã
ngƣời Việt và một số nƣớc Đông Á khác nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc Với vai trò là công cụ tự quản, điều chỉnh các mối quan hệ cộng đồng
làng xã, hƣơng ƣớc có tác động sâu sắc và toàn diện đến mọi mặt của đời
sống làng xã. Nó trở thành “chìa khóa” giúp chúng ta tìm hiểu về chốn hƣơng
thôn trong các thời kỳ lịch sử đã qua. Do vậy mà hƣơng ƣớc đã trở thành một
đề tài lý thú, hấp dẫn đối với các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc, thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau nhƣ lịch sử, văn hóa, dân tộc học, pháp lý, ngôn ngữ…
Ở nƣớc ta, có thể nói chƣa bao giờ hƣơng ƣớc lại đƣợc quan tâm và đề
cập đến nhiều nhƣ hiện nay. Hàng loạt các cuộc hội thảo bàn về hƣơng ƣớc lệ
làng đã đƣợc tổ chức nhƣ: “Mấy vấn đề về quản lý xã hội nông thôn hiện nay-
thực trạng và giải pháp”(2/1993), “Vai trò của hƣơng ƣớc mới trong việc xây
dựng nông thôn mới và quản lý Nhà nƣớc đối với việc ban hành hƣơng ƣớc
trong giai đoạn hiện nay”(1996), “Vai trò của hƣơng ƣớc mới tại nông thôn
đồng bằng Bắc Bộ hiện nay”(1997), “Xây dựng và thực hiện hƣơng ƣớc, quy
ƣớc làng văn hóa – thực trạng và giải pháp”(2001) Đặc biệt, vào ngày
15/03/2011, tại thành phố Hà Tĩnh đã diễn ra buổi tọa đàm khoa học với chủ

đề “Văn hóa quản lý làng xã” do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh
cùng với Đại học Nanzan (Nhật Bản), Viện Việt Nam học và khoa học phát


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
triển thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức. Tại buổi tọa đàm, nhiều nhà
khoa học đã nêu kiến nghị: Cần coi quản lý làng xã là một nội dung của cải
cách hành chính công tại Việt Nam. Quản lý nông thôn, quản lý làng xã nói
riêng và đổi mới quản lý xã hội nói chung là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm nhằm đáp ứng thực tiễn của công cuộc cải cách hành chính, phát triển đất
nƣớc trong tình hình kinh tế hiện nay.
Do nội dung hết sức phong phú, hƣơng ƣớc đã đƣợc các học giả nghiên
cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tiếp cận hƣơng ƣớc trong mối quan hệ với cơ
cấu tổ chức làng xã, trên bình diện là một công cụ tự quản cũng đã có rất
nhiều tác giả với nhiều công trình khoa học nhƣ:
Tác giả Lê Hồng Phong với tác phẩm “Xã thôn Việt Nam” (NXB Văn –
Sử -Địa, 1959). Trong tác phẩm này, bên cạnh việc trình bày về những nghiên
cứu dân tộc học ở các xã thôn miền Bắc, miền Trung, miền Nam dƣới chế độ
phong kiến, tác giả đã tập trung nghiên cứu nội dung về chế độ công điền,
công thổ, chế độ sở hữu ruộng đất, bộ máy quản lý thôn xã đƣợc khảo sát
trong thời kỳ Pháp thuộc.
Năm 1994, hai tác giả Phan Đại Doãn và Nguyễn Quang Ngọc đã cho
xuất bản cuốn “Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch
sử” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994). Trong tác phẩm này, các tác giả
đã dành hơn 30 trang phác thảo về kinh nghiệm quản lý làng xã qua các thời
kỳ lịch sử (trong đó có thời kỳ cận đại qua các hƣơng ƣớc cải lƣơng). Đồng
thời tác phẩm cũng gợi mở cho chúng ta một số điểm trong việc liên hệ chính
sách quản lý làng xã các thời kỳ trƣớc với giai đoạn hiện nay để rút ra một số

nhận xét, bài học.
Tác giả Bùi Xuân Đính với các tác phẩm: “Lệ làng phép nƣớc” (NXB
Pháp lý, Hà Nội, 1995) và “Hƣơng ƣớc và quản lý làng xã” (NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1988). Trong tác phẩm “Lệ làng phép nƣớc”, tác giả đã đề cập


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
đến mối quan hệ hai chiều giữa lệ làng và phép nƣớc, qua đó phân tích những
giá trị pháp lý và tác động 2 mặt của lệ làng. Còn với tác phẩm “Hƣơng ƣớc
và quản lý làng xã”, tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của hƣơng ƣớc trong
quản lý làng xã, đƣa ra những gợi mở cho vấn đề xây dựng và phát huy vai trò
của hƣơng ƣớc mới trong quản lý làng xã hiện nay.
Năm 2003, Nguyễn Huy Tính đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ
Luật học với đề tài “Hƣơng ƣớc mới – một phƣơng tiện góp phần quản lý xã
hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay”(từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh). Luận án
phân tích những biến đổi lịch sử từ hƣơng ƣớc làng xã cổ truyền đến hƣơng
ƣớc mới, khẳng định hƣơng ƣớc mới là phƣơng tiện tự quản, tự điều chỉnh
hữu hiệu của làng xã, có quan hệ biện chứng với pháp luật, đồng thời tác giả
cũng đƣa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện hƣơng ƣớc mới.
Năm 2006, cuốn “Làng Việt Nam – đa nguyên và chặt” của khoa Lịch
sử - Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội (NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội) đƣợc xuất bản trên cơ sở tập hợp các bài viết tiêu biểu của GS Phan Đại
Doãn trong cả sự nghiệp nghiên cứu về làng xã cùng với nhiều bài viết khác
của các đồng nghiệp, bạn bè, học trò của ông. Đây đƣợc coi là công trình mới
nhất nghiên cứu về làng xã Việt Nam cho đến nay. Trong tác phẩm này,
chúng ta có thể tìm đọc một số bài viết liên quan ít nhiều đến đề tài, trong đó
có bài viết của tác giả Nguyễn Quang Ngọc: “Cấp thôn trong thiết chế chính
trị xã hội nông thôn Việt Nam”. Các bài viết trong tác phẩm này giúp ngƣời

viết có cơ sở để hiểu rõ hơn về sự hình thành làng xã trong lịch sử, đồng thời
cung cấp thêm nhiều tƣ liệu liên quan đến chính sách quản lý làng xã cũng
nhƣ mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và làng xã nói chung qua các thời kỳ lịch sử.
Ngoài ra còn rất nhiều các công trình nghiên cứu khác của nhiều tác giả
đã đƣợc tập hợp thành sách hoặc đăng rải rác trên các báo, tạp chí nghiên cứu
(Nghiên cứu lịch sử, Dân tộc học, Nhà nƣớc và Pháp luật…) mà ở đây do


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
điều kiện không cho phép nên ngƣời viết không thể nêu ra đầy đủ (xin đƣợc
trình bày ở phần Tài liệu tham khảo).
Có thể nói, các tác phẩm trên đây là những nguồn tài liệu hết sức quan
trọng, góp phần định hình hƣớng tìm hiểu cho đề tài. Đồng thời, cũng qua
việc nghiên cứu, tham khảo các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu
đi trƣớc, ngƣời viết nhận thấy cho đến nay vẫn chƣa có công trình nào nghiên
cứu chuyên biệt, cụ thể về “Quản lý làng xã huyện Phổ Yên (Thái Nguyên)
qua hương ước cải lương thời cận đại”. Vì vậy, đây chính là cơ sở, là yêu cầu
khá cao tạo động lực để ngƣời viết đi vào nghiên cứu đề tài của mình.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài:
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các biện pháp quản lý làng xã của
cha ông ta đƣợc phản ánh trong hƣơng ƣớc của các làng xã thuộc huyện Phổ
Yên (Thái Nguyên) thời kỳ cận đại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Huyện Phổ Yên (Thái Nguyên).
Về thời gian: Thời kỳ cận đại (tập trung nghiên cứu thời kỳ từ 1921
đến trƣớc 1945).
3.3. Nhiệm vụ của đề tài

Thứ nhất: Khái quát một số nét chung về hƣơng ƣớc và hƣơng ƣớc cải
lƣơng huyện Phổ Yên.
Thứ hai: Tìm hiểu các biện pháp quản lý làng xã của cha ông ta qua
nguồn tƣ liệu là hƣơng ƣớc huyện Phổ Yên thời kỳ cận đại.
Thứ ba: Đƣa ra một số nhận xét, đánh giá về kết quả của công cuộc
“cải lƣơng hƣơng chính” của thực dân Pháp trên địa bàn huyện Phổ Yên.
Đồng thời nhận xét, đánh giá về tính tự quản của các làng xã huyện Phổ Yên
thông qua hƣơng ƣớc.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
- Nguồn tài liệu chung:
Các sách chuyên khảo nhƣ: “Về hương ước lệ làng” (Lê Đức Tiết),
“Hương ước và quản lý làng xã” và “Lệ làng phép nước” (Bùi Xuân Đính),
“Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử”(Phan Đại
Doãn, Nguyễn Quang Ngọc), “Quản lý xã hội nông thôn nước ta hiện nay –
một số vấn đề và giải pháp” (Phan Đại Doãn), “Luật tục và phát triển nông
thôn hiện nay ở Việt Nam” (Kỷ yếu hội thảo khoa học, Viện nghiên cứu văn
hóa dân gian)
Các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành (Nghiên cứu
Lịch sử, Nhà nƣớc và Pháp luật…)
- Nguồn tư liệu hương ước:
Bao gồm 33 bản hƣơng ƣớc của huyện Phổ Yên (Thái Nguyên) ra đời
từ năm 1936 đến năm 1942 và một số bản quy ƣớc văn hóa của các xóm, phố
thuộc huyện Phổ Yên đƣợc tạo lập từ năm 2002 đến nay.
- Các văn bản của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng quy ƣớc làng

văn hóa và xây dựng làng văn hóa.
- Tư liệu điền dã .
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng phƣơng pháp lịch sử kết
hợp với phƣơng pháp logic là chủ yếu. Ngoài ra có sử dụng phƣơng pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đánh giá để có thể hiểu vấn đề một
cách sâu sắc và toàn diện hơn.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn trình bày một cách hệ thống những biện pháp chủ yếu của cha
ông ta trong quản lý làng xã đƣợc thể hiện qua các bản hƣơng ƣớc cải lƣơng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
của huyện Phổ Yên thời kỳ cận đại. Qua đó giúp cho những ngƣời trực tiếp
soạn thảo quy ƣớc làng văn hóa ở huyện Phổ Yên có cái nhìn đúng đắn và đầy
đủ hơn về hƣơng ƣớc cải lƣơng, biết chắt lọc, kế thừa những tinh hoa trong
quản lý làng xã của ông cha để vận dụng vào công cuộc đổi mới nông thôn ở
quê hƣơng hiện nay.
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về hƣơng
ƣớc cải lƣơng của huyện Phổ Yên thời kỳ trƣớc Cách mạng tháng Tám cho
nên nó có giá trị về mặt tƣ liệu, góp phần vào việc biên soạn lịch sử và địa chí
huyện Phổ Yên. Đồng thời, luận văn còn có một ý nghĩa thiết thực nữa là
cung cấp nguồn tài liệu bổ ích cho công tác giảng dạy lịch sử địa phƣơng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng
Chƣơng 1: Khái quát về huyện Phổ Yên và hƣơng ƣớc cải lƣơng huyện
Phổ Yên

Chƣơng 2: Quản lý kinh tế, hành chính làng xã huyện Phổ Yên (Thái
Nguyên) qua hƣơng ƣớc cải lƣơng thời cận đại
Chƣơng 3: Quản lý văn hóa, xã hội làng xã huyện Phổ Yên (Thái
Nguyên) qua hƣơng ƣớc cải lƣơng thời cận đại




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN PHỔ YÊN VÀ HƢƠNG ƢỚC
CẢI LƢƠNG HUYỆN PHỔ YÊN

1.1. Khái quát về huyện Phổ Yên
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1.1 Vị trí địa lý
Phổ Yên là huyện trung du nằm ở vùng phía Nam tỉnh Thái Nguyên,
trong giới hạn địa lý có toạ độ từ 21,19 đến 21,34 độ vĩ Bắc, 105,40 đến
105,56 độ kinh Đông; phía tây giáp huyện Tam Đảo (tỉnh Vĩnh Phúc); phía
bắc, tây bắc giáp thành phố Thái Nguyên, huyện Đại Từ và thị xã Sông Công
(tỉnh Thái Nguyên); phía đông và đông bắc giáp các huyện Hiệp Hoà (tỉnh
Bắc Giang) và Phú Bình (tỉnh Thái Nguyên); phía nam giáp huyện Sóc Sơn
(thành phố Hà Nội). Huyện lỵ Phổ Yên đặt tại thị trấn Ba Hàng, cách tỉnh lỵ
Thái Nguyên 26km về phía Nam và cách thủ đô Hà Nội 56 km về phía Bắc.
Xƣa nay, Phổ Yên đều giữ vị trí cửa ngõ phía Nam của tỉnh Thái Nguyên.
1.1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Đất đai
Huyện Phổ Yên có tổng diện tích tự nhiên 258,87 km2 (trong đó, diện

tích đất nông nghiệp 124,99 km2, bằng 48,69% tổng diện tích tự nhiên; diện
tích đất lâm nghiệp 73,68 km2, bằng 28,7% tổng diện tích tự nhiên; diện tích
đất nuôi trồng thuỷ sản là 3,26 km2, diện tích đất phi nông nghiệp là
51,67km2, diện tích đất ông cha sử dụng là 3,09 km2 ).
Căn cứ vào các chỉ tiêu về loại đất, tầng dầy và độ dốc của đất, toàn
huyện có 120,045 km2 đất thích hợp cho sản xuất nông nghiệp và 50,39 km2
đất thích hợp cho sản xuất lâm nghiệp. Trên 50% diện tích đất nông nghiệp ở
Phổ Yên là đất bạc màu, đất vàng nhạt trên đá cát, độ phì kém [18, tr. 956].


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Khí hậu
Khí hậu Thái Nguyên nói chung và Phổ Yên nói riêng mang những đặc
điểm chung của khí hậu miền Bắc, đƣợc hình thành dƣới sự tác động kết hợp
của những nhân tố về nhiệt đới và gió mùa trong khu vực Đông Nam Á. Khí
hậu đƣợc chia làm 4 mùa rõ rệt, mùa đông thì khô và lạnh, mùa hè thì nắng và
mƣa nhiều. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,7 độ C, cao nhất là 39,6 độ C
vào các tháng 6, 7, 8. Nhiệt độ thấp nhất là 13,2 độ C vào các tháng 12, 1
năm sau, có gió từ biển Đông thổi vào đem đến cho địa phƣơng một lƣợng
mƣa phong phú. Lƣợng mƣa trung bình hàng năm là 2.000mm đến 2.500mm,
độ ẩm không khí bình quân từ 79% đến 98,3% [18, tr. 953].
Điều kiện tự nhiên trong vùng là môi trƣờng thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp với các loại cây trồng đa dạng (kể cả cây ngắn ngày và cây dài ngày),
cây nhiệt đới, cận nhiệt đới. Tuy nhiên, do ảnh hƣởng vùng là trung du và
miền núi, sự phân hoá mùa cũng gây khó khăn cho hoạt động sản xuất nhƣ
mùa đông có sƣơng muối, mùa hè thiếu nƣớc đất khô…
Sông ngòi
Phổ Yên có 2 con sông chảy qua:

"Một con sông từ cổng Thống Thƣợng chảy xuống đến địa phận xã
Hoàng Đàm dài 63 dặm, rộng 3 trƣợng, sâu 4 thƣớc. Có nhiều bãi đá ngầm,
thuyền bè đi lại khó khăn, chỉ chảy đổ vào sông Nguyệt Đức tỉnh Bắc Ninh"
[58, tr. 769].
"Sông Mão ở cách huyện Đại Từ 12 dặm về phía Bắc, nguồn từ sơn
phận hai xã Lục Dã và Điềm Điểm thuộc Châu Định, chảy về phía Đông Nam
qua các huyện Văn Lãng, Đại Từ và Phổ Yên đến huyện Thiên Phúc tỉnh Bắc
Ninh cũng đổ vào sông Nguyệt Đức" [51, tr. 172].
Hai con sông kể trên hiện nay là sông Cầu và Sông Công. Sông Cầu xuôi
về phía Đông và Đông Nam của huyện, chủ yếu qua xã Tiên Phong, tạo ranh


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
giới tự nhiên giữa huyện Phổ Yên và huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang). Sông
Công là dòng chảy từ Tây Bắc xuống Đông Nam qua xã Phúc Thuận, Vạn
Phái, tạo ranh giới nhƣ hai phần thành hai vùng rõ rệt. Tả ngạn gần nhƣ đồng
bằng, hữu ngạn có nhiều đồi núi. Hai con sông này hợp tại ngã ba Vát (thôn
Phù Lôi, xã Thuận Thành). Với lƣu lƣợng nƣớc tƣơng đối lớn vào mùa mƣa
mang nhiều phù sa, đem lại nguồn lợi tự nhiên cho huyện, nhƣng lịch sử cũng
ghi nhận nhiều lần hai con sông lớn này đã đƣa lũ về gây thiệt hại cho nhân
dân quanh vùng. “Năm 1959 xảy ra trận lũ lụt lịch sử của hệ thống sông Cầu
đỉnh lũ ở Chã (Đông Cao) lên tới 11,75m, trên mức báo động số 3, đã làm
tràn quãng đê Trà Thị (Đông Cao), có chỗ sâu 0,5m” [7, tr. 5]. “Ngày
21/10/1969, ở suối Quân Cay, xã Phúc Thuận, lƣợng mƣa 1 giờ trong phạm vi
200 km2 tại đây lên tới 325mm, tạo nên lũ quét, nƣớc chảy nhƣ thác đổ làm
chết 26 ngƣời) [16, tr. 958]. “Để chống lại những trận lũ lụt gây thiệt hại lớn,
các xã ven sông đã phát động phong trào rộng khắp trồng tre chống xói lở, cát
bồi nhƣ ở Tiên Phong, Tân Hƣơng, Tân Phú…” [7, tr. 6]. Đoạn hạ lƣu sông

Công (từ xã Nam Tiến xuống thôn Phù Lôi, xã Thuận Thành) có 15 km đê ở 2
bên sông. Năm 1976, hồ Núi Cốc đƣợc xây dựng tạo ra nguồn dự trữ nƣớc và
điều hoà dòng chảy của sông.
Bên cạnh những khó khăn do lũ lụt, các con sông cũng mang lại phù sa
màu mỡ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp, một số nơi nhân
dân còn trồng nguyên vật liệu phục vụ nghề thủ công và tiểu thủ công nghiệp.
Đồng thời 2 con sông này cũng là đầu mối giao thông huyết mạch trong việc
giao lƣu buôn bán của huyện với các tỉnh khác. Điều này đã đƣợc ghi nhận
trong sử sách: “phƣờng Bến Đại Phùng thuộc tổng Tiểu Lễ, huyện Thiên
Phúc, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc, nơi ấy chính là bến sông Chã trên dòng Sông
Cầu, thuộc xã Đông Cao, Phổ Yên ngày nay. Bến Đại Phùng thuộc hạ lƣu con
sông Cầu, dòng sông mở rộng và độ dốc thấp, dân cƣ đông đúc và có nhu cầu


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
trao đổi hàng hoá nhiều, thuyền bè qua lại khá tấp nập. Các ngày phiên chợ,
nhiều thuyền lớn chở gạo, mắm, gốm, sành sứ từ Phả Lại, Bắc Ninh lên bán.
Khi về họ chở các hàng hoá của vùng đất Thái Nguyên nhƣ cam, quýt Hà
Châu, đồ đan lát,… Chính đƣờng thuỷ khá thuận lợi đó mà sản phẩm địa
phƣơng ở vùng ven sông cũng đƣợc lƣu thông, trao đổi” [52, tr. 8]. Còn sông
Công thì có cảng Đa Phúc là cảng sông lớn nhất tỉnh Thái Nguyên. Trên địa
bàn xã Thành Công có hồ Suối Lạnh là hồ nhân tạo lớn nhất huyện Phổ Yên.
Đặc điểm nổi bật của huyện Phổ Yên là có Quốc lộ số 3 và đƣờng sắt
Hà Nội - Thái Nguyên chạy dọc từ nam lên bắc, mang lại cho huyện nhiều
thuận lợi về kinh tế - xã hội[18, tr. 954-955].
1.1.2 Lược sử hình thành huyện Phổ Yên
Theo các nguồn sử liệu xƣa, từ thời Hùng Vƣơng dựng nƣớc, khu
vực đất đai của huyện bây giờ thuộc bộ Vũ Đình (1 trong 15 bộ của nƣớc

Văn Lang). Huyện Phổ Yên thời thuộc Minh gọi là huyện An Định (Yên
Định), sách Đồng Khánh dƣ địa chí có ghi: “Huyện Phổ Yên tên huyện đặt
từ thời thuộc Minh. Nhà Lê vẫn theo thế, qua các triều không đổi, nay là
huyện Phổ Yên” [58, tr. 769].
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh thắng lợi, năm 1428 vƣơng
triều Lê đƣợc thành lập, Lê Thái Tổ chia cả nƣớc thành 5 đạo, Thái Nguyên
thuộc về Bắc đạo. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), để tăng cƣờng sự thống
nhất hành chính, Lê Thánh Tông chia cả nƣớc thành 12 đạo Thừa Tuyên, đổi
lộ làm phủ, đổi trấn làm châu. Thái Nguyên gọi là Thái Nguyên thừa tuyên
Ninh Sóc kiêm lĩnh 3 phủ, 8 huyện, 9 châu. Trong đó huyện Phổ An (Phổ
Yên) có 25 xã, 5 tổng thuộc phủ Phú Bình, từ năm 1483 thuộc xứ Thái
Nguyên, từ năm 1533 thuộc trấn Thái Nguyên.
Năm đầu thời Gia Long Phổ Yên là 1 trong 9 huyện của phủ Phú Bình.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Năm 1831 vua Minh Mạng đã cải cách hành chính, đổi trấn thành tỉnh,
trấn Thái Nguyên đƣợc đổi thành tỉnh Thái Nguyên (1 trong 13 tỉnh của miền
Bắc nƣớc ta lúc đó). Tỉnh Thái Nguyên có 2 phủ Phú Bình và Thông Hoá,
Huyện Phổ Yên thuộc phủ Phú Bình huyện “lỵ sở trƣớc đặt ở xã Lợi Xá, nay
bỏ” [51, tr. 156].
Theo sách “Tên làng xã Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX các tỉnh (từ Nghệ
An trở ra)”, huyện Phổ Yên nửa đầu thế kỷ XIX gồm 6 tổng, 25 xã, 1 trang.
Tổng Hoàng Đàm gồm 5 xã: Hoàng Đàm, Lợi Xá, Sơn Cốt, Đắc Hiền,
Cốt Ngạnh.
Tổng Thượng Vụ gồm 4 xã: Thƣợng Vụ, Thƣợng Nhân, Đan Hà, Hạ
Đạt. Tổng Thượng Kết, gồm 3 xã: Thƣợng Kết, Hạ Kết, Cát Nê.
Tổng Thống Thượng gồm 6 xã,1 trang: xã Thống Thƣợng, Trung Năng,

Phúc Thuận, Thảo Đẳng, Kinh Bảng, Thống Hạ và trang Tân Yên.
Tổng Vạn Phái gồm 3 xã: Vạn Phái, Nông Vụ, Hạ Vụ
Tổng Nhã Luật gồm 3 xã, 1 phƣờng: xã Nhã Luật, Dƣơng Luật, Thanh
Lộc và phƣờng Đại Hữu (Thuỷ Cơ).
Tời đời vua Đồng Khánh nhà Nguyễn (1886 - 1888), các tổng Tiên Thù,
Tiểu Lễ (huyện Hiệp Hoà), Thƣợng Giã (huyện Thiên Phúc - phần đất cực
Nam và Đông Nam huyện Phổ Yên nay) thuộc về phủ Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh.
Dƣới thời Pháp thuộc, từ tháng 10/1890 đến tháng 9/1892, huyện Phổ
Yên nằm trong phủ Phú Bình, thuộc tiểu Quân khu Thái Nguyên- Đạo quan
binh I Phả Lại. Từ tháng 10/1892, Phổ Yên là một huyện thuộc phủ Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên. Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thực dân
Pháp bỏ đơn vị hành chính cấp phủ. Phổ Yên là một huyện thuộc tỉnh Thái
Nguyên gồm 6 tổng, với 24 làng. Năm 1918, Phổ Yên là 1 phủ (trong số 2 phủ, 3
huyện, 3 châu của tỉnh Thái Nguyên) gồm 7 tổng, với 37 làng. Cụ thể:
Tổng Hoàng Đàm gồm 9 xã: Hoàng Đàm, Sơn Cốt, Lợi Xá, Cải Đơn
(Cải Đan), Đắc Hiền, Thung Hạc, Cốt Ngạnh, Thanh Thù, Đại Hữu.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Tổng Nghĩa Hương gồm 5 xã: Cầu Đông, Vân Dƣơng thƣợng, Vân
Dƣơng hạ, Cống Thƣợng, Yên Mễ (An Mễ).
Tổng Tiểu Lễ gồm 5 xã: Tiểu Lễ, Đông Cao, Vân Phú, Tảo Địch, Tử Thù.
Tổng Tiên Thù gồm 4 xã: Tiên Thù, Thù Lâm, Giã Thù, Xuân Trù.
Tổng Thượng Giã gồm 5 xã: Thƣợng Giã, Phù Lôi, Chiều Lai, Cầu
Sơn, Kim Tỉnh.
Tổng Vạn Phái gồm 3 xã: Vạn Phái, Nông Vụ, Hạ Vụ.
Tổng Thượng Vụ gồm 6 xã: Thƣợng Vụ, Đan Hà, Thƣợng Nhân, Hạ
Đạt, Tân Yên, Phố Cò [28, tr. 802-804]

Theo Sắc lệnh số 148/SL ngày 25/3/1948 của Chủ tịch nƣớc nƣớc Việt
Nam dân chủ cộng hoà, phủ Phổ Yên đƣợc đổi thành huyện Phổ Yên.
Ngày 1/7/1956, Khu Tự trị Việt Bắc đƣợc thành lập (theo Sắc lệnh 268-
SL của Chủ tịch nƣớc VNDCCH), huyện Phổ Yên tách khỏi tỉnh Thái
Nguyên, để trở thành một huyện của tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 15/6/1957, huyện
Phổ Yên đƣợc nhập lại về tỉnh Thái Nguyên, thuộc Khu Tự trị Việt Bắc và
xóm Thông tách khỏi xã Thuận Thành (huyện Phổ Yên), sáp nhập vào xã
Hồng Kỳ, huyện Đa Phúc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 26/10/1967, Bộ Nội vụ ra Quyết định số 416/NV thành lập Thị
trấn Nông Trƣờng Bắc Sơn.
Ngày 26/11/1970, Bộ trƣởng Phủ Thủ tƣớng ra Quyết định số 72-BT
sáp nhập xã Đại Xuân vào xã Tiên Phong thuộc huyện Phổ Yên.
Ngày 9/9/1972, Bộ trƣởng Phủ Thủ tƣớng ra Quyết định số 41-BT
thành lập các thị trấn Mỏ Chè, Ba Hàng, Bãi Bông, thuộc huyện Phổ Yên.
Ngày 7/4/1974, Bộ Nội vụ ra Quyết định số 136/ NV đổi tên các xã Hợp
Thành thành Vạn Phái, Tân Tiến thành Đông Cao, Thắng Lợi thành Cải Đan.
Ngày 1/10/1983, các xóm Tân Thắng, Đồng Đẳng tách khỏi xã Phúc
Thuận để hợp nhất với xã Phúc Thọ (huyện Đại Từ), xóm Yên Ninh (xã Phúc
Trìu, huyện Đồng Hỷ) thành xã Phúc Tân, thuộc huyện Đồng Hỷ.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Ngày 2/4/1985, các xã Phúc Tân, Bình Sơn, Bá Xuyên, Tân Quang tách
khỏi huyện Đồng Hỷ, sáp nhập về huyện Phổ Yên.
Ngày 11/4/1985, thị trấn Mỏ Chè và các xã Cải Đan, Tân Quang, Bá
Xuyên tách khỏi huyện Phổ Yên để thành lập thị xã Sông Công (theo Quyết
định số 113-HĐBT).
Theo Quyết định 2869/QĐ-UB ngày 4/11/2003 của Uỷ ban nhân dân

tỉnh Thái Nguyên, huyện Phổ Yên có 18 đơn vị hành chính gồm 3 thị trấn (Ba
Hàng, Bắc Sơn, Bãi Bông), 15 xã (Thuận Thành, Trung Thành, Đông Cao,
Tân Hƣơng, Tiên Phong, Tân Phú, Đồng Tiến, Nam Tiến, Hồng Tiến, Đắc
Sơn, Vạn Phái, Thành Công, Minh Đức, Phúc Thuận, Phúc Tân) với 309 xóm
và 18 tổ dân phố [18, tr. 955-958].
1.1.3 Dân cư và truyền thống
Dân cư
Huyện Phổ Yên từ lâu vẫn là nơi làm ăn sinh sống của đồng bào nhiều
dân tộc. Dƣới thời Pháp thuộc, sau khi thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc
địa, cƣớp đất lập đồn điền, mộ lao động từ các tỉnh miền xuôi lên, năm 1932
dân số Phổ Yên là 14.183 ngƣời. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, dân
số Phổ Yên là 28.400 ngƣời. Sau hòa bình lập lại (tháng 7/1954), toàn huyện có
7.252 hộ với 34.234 nhân khẩu. Theo tổng điều tra dân số ngày 1/4/1989, dân
sô Phổ Yên là 118.596 ngƣời. Năm 2010, dân số toàn huyện là 138.817 ngƣời
(trong đó có 69.960 nữ; 12.587 ngƣời sống ở thành thị); ngƣời Kinh chiếm
92,42%, ngƣời Sán Dìu 6,25%, ngƣời Tày 0,59%, ngƣời Dao và ngƣời Nùng
đều chiếm 0,29%, ngƣời Mƣờng 0,06%, còn lại 0,1% là ngƣời các dân tộc
khác. Trừ ngƣời Dao sống chủ yếu ở các xã chân dãy núi Tam Đảo, còn các
dân tộc khác sống xen kẽ với nhau.
Mật độ dân số trung bình toàn huyện tăng từ 514 ngƣời /km
2
(năm 2002)
lên 536 ngƣời/km
2
(năm 2010). Thị trấn Ba Hàng có mật độ dân số cao nhất


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16

(3.328 ngƣời/km
2
), xã Phúc Tân có mật độ dân số thấp nhất (89 ngƣời/km
2
).
Cƣ dân ở Phổ Yên gồm nhiều dân tộc khác nhau, có bộ phận đã định cƣ từ lâu
đời, có bộ phận là dân phu đƣợc bọn chủ các đồn điền ngƣời Pháp và ngƣời
Việt tuyển mộ vào làm thuê cho chúng, có bộ phận là đồng bào các tỉnh Hà
Nam, Thái Bình, Hà Đông… di cƣ, phiêu bạt lên sinh cơ, lập nghiệp. Nhân
dân các dân tộc Phổ Yên đã sống xen kẽ với nhau từ lâu đời và có truyền
thống đoàn kết, yêu thƣơng, đùm bọc lẫn nhau [18, tr. 958].
Truyền thống lịch sử
Nhân dân các dân tộc Phổ Yên vốn có truyền thống lịch sử từ lâu đời.
Ngay từ khoa thi đầu tiên của khoa cử Nho học (năm 1075), đến khoa thi cuối
cùng của nhà Lê Trung hƣng (năm 1879), trong số 10 ngƣời của đất Thái
Nguyên đỗ Tiến sĩ (học vị cao nhất dƣới thời phong kiến), huyện Phổ Yên có
2 ngƣời là Nguyễn Cấu và Đỗ Cận.
Từ thế kỷ thứ X, dƣới sự chỉ huy của Lý Thƣờng Kiệt, nhân dân Phổ
Yên đã trực tiếp tham gia xây dựng phòng tuyến phía Bắc sông Cầu (một
phần phòng tuyến kéo dài qua địa bàn huyện Phổ Yên ngày nay) và trực tiếp chiến
đấu, góp phần đánh bại quân xâm lƣợc Tống ngay trên mảnh đất quê mình.
Thế kỷ XII, nhân dân Phổ Yên đã cùng Dƣơng Tự Minh (thủ lĩnh
phủ Phú Lƣơng) chăm lo xây dựng phủ Phú Lƣơng ngày càng phồn thịnh,
chiến đấu bảo vệ và giữ yên bờ cõi khu vực phía Bắc Đại Việt. Đầu thế kỷ
XV, hàng trăm ngƣời dân Phổ Yên đã cùng với tƣớng quân Lƣu Nhân
Chú tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, đánh đuổi
quân xâm lƣợc Minh, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Cuối thế kỷ XV,
Đỗ Cận (ngƣời làng Thống Thƣợng, nay thuộc xã Minh Đức, huyện Phổ
Yên) đỗ Tiến sĩ, đƣợc bổ nhiệm làm Tham nghị xứ Quảng Nam đã cho
thợ giỏi, dùng gỗ tốt đục đẽo, chạm khắc thành khung ngôi đền, mang về

quê dựng thay thế ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của dân làng vùng Sơn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Cốt. Đền đƣợc nhân dân Sơn Cốt và nhân dân vùng Lục Giáp thờ cúng,
ghi nhận và tƣởng nhớ công lao của vị anh hùng dân tộc Dƣơng Tự Minh,
tƣớng quân Lƣu Nhân Chú và Tiến sĩ Đỗ Cận.
Từ năm 1740 đến năm 1750, nhân dân Phổ Yên tham gia nghĩa
quân do Nguyễn Danh Phƣơng chỉ huy, đắp thành, xây lũy, dựng căn cứ ở
núi Độc Tôn (cách huyện Phổ Yên 66 dặm về phía Nam) chống lại triều
đình nhà Lê (Lê Hiển Tông). Trong cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân
(ở Bảo Lạc – Cao Bằng) chống lại triều đình nhà Nguyễn (1833-1835),
Phổ Yên vừa là địa bàn hoạt động của nghĩa quân, vừa là lá chắn phía
nam bảo vệ căn cứ của cuộc khởi nghĩa.
Dƣới thời Pháp thuộc, Phổ Yên là đầu mối giao thông, là địa bàn chuyển
tiếp giữa miền ngƣợc và miền xuôi, nên ngoài việc tổ chức bộ máy cai trị chặt
chẽ từ huyện, tổng xuống đến các thôn, xã nhƣ các huyện, phủ khác trong
tỉnh, thực dân Pháp còn đặt thêm ở Phổ Yên các đồn binh ở Trinh Nữ, Sơn
Cốt, Phố Cò, Phúc Thuận để đàn áp nhân dân ta.
Trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) do Hoàng Hoa Thám lãnh
đạo, nhiều gia đình ở làng Phù Lôi (tổng Thƣợng Giã) đã trở thành cơ sở tiếp
tế, trạm liên lạc bí mật cho nghĩa quân. Nhiều gia đình ở khu vực rừng Nghè,
xóm Đồi (tổng Hoàng Đàm) là cơ sở bí mật của nghĩa quân Yên Thế đi, về,
nắm tình hình, thu gom lƣơng thực, tiếp tế cho nghĩa quân. Trên địa bàn
huyện Phổ Yên đã diễn ra nhiều trận chiến đấu quyết liệt giữa nghĩa quân Yên
Thế và quân Pháp. Thực dân Pháp đã phải thừa nhận:“Toàn bộ địa bàn Nam
Thái Nguyên đều quy thuộc Đề Thám và có thái độ chống đối rõ rệt nhà cầm
quyền Pháp và nhà cầm quyền bản xứ”. Đêm 30, rạng 31/8/1917 nổ ra cuộc

khởi nghĩa của binh lính ngƣời Việt trong quân đội Pháp ở thị xã Thái
Nguyên do Trịnh Văn Cấn và Lƣơng Ngọc Quyến lãnh đạo, trong số 131 lính
khố xanh trực tiếp tham gia khởi nghĩa thì có 8 binh lính là ngƣời Phổ Yên.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Trên địa bàn Phổ Yên đã diễn ra một số trận chiến đấu ác liệt giữa quân khởi
nghĩa Thái Nguyên và quân Pháp, nổi bật là trận Đèo Nứa (ngày 6/10/1917)
và trận thôn Đồi, tổng Hoàng Đàm (ngày 16/10/1917). Trận Đèo Nứa, quân
Pháp đã phải thừa nhận “là một trận ác liệt nhất trong chiến dịch” truy lùng
nghĩa quân của chúng và trận thôn Đồi (tổng Hoàng Đàm), số sĩ quan và binh
lính Pháp bị chết và bị thƣơng đã buộc quân Pháp phải điều xe ô tô từ Hà Nội
lên chở mấy chuyến mới hết.
Từ sau ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), Phổ Yên đã là
địa bàn hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng nhƣ Trƣờng
Chinh (Tổng Bí thƣ Đảng), Hoàng Quốc Việt (Ủy viên Ban Thƣờng vụ Trung
ƣơng Đảng) Tháng 10/1941, lực lƣợng vũ trang cách mạng và nhân dân Phổ
Yên đã bảo vệ tuyệt đối an toàn lớp huấn luyện Nghị quyết Hội nghị Trung
ƣơng (5/1941) cho cán bộ Trung ƣơng Đảng các vùng lân cận và cán bộ Xứ
ủy Bắc Kỳ do đồng chí Trƣờng Chinh (Tổng Bí thƣ Đảng) tổ chức tại Tiên
Thù. Từ năm 1942, tổng Tiên Thù đƣợc Trung ƣơng Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ
chọn làm nơi đặt cơ sở in báo “Cờ giải phóng” và tổ chức nhiều hội nghị, mở
nhiều lớp huấn luyện cán bộ cách mạng.
Đêm 21/11/1942, tại bến đò Thù Lâm, nhân dân thôn Yên Trung (tổng
Tiên Thù, nay thuộc xã Tiên Phong) đã chèo đò đƣa đồng chí Trƣờng Chinh
(Tổng Bí thƣ Đảng) từ bên kia sông Cầu nhanh chóng vƣợt sang Soi Quýt,
thoát khỏi cuộc bao vây, lùng bắt của giặc Pháp. Cuối năm 1942, đầu năm
1943, địa bàn tổng Tiên Thù (huyện Phổ Yên) cùng với xã Kha Sơn (huyện

Phú Bình – Thái Nguyên) và xã Hoàng Vân (huyện Hiệp Hòa – Bắc Giang)
đƣợc Trung ƣơng xây dựng thành An toàn khu II (nơi ở và làm việc của cơ
quan và các đồng chí lãnh đạo Trung ƣơng Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ). Nhân
dân và lực lƣợng tự vệ tổng Tiên Thù đã hết lòng giúp đỡ, chở che và bảo vệ
tuyệt đối an toàn cho các cơ quan và các đồng chí lãnh đạo Trung ƣơng và Xứ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
ủy, làm thất bại các đợt tấn công và khủng bố của địch vào An toàn khu II
(tháng 3/1943 và tháng 9, tháng 10/1944).
Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945, cuối tháng
3/1945, nhân dân Phổ Yên đã phá các kho thóc của Nhật ở các đồn điền Chã,
Thác Nhái, Sơn Cốt chia cho dân nghèo cứu đói và làm chủ hầu hết các xã
vùng nông thôn trong huyện.
Các ngày 19, 20/8/1945, nhân dân Phổ Yên đã nổi dậy bao vây huyện
lỵ, buộc Tri huyện Đồng Mạnh Tƣ, Cai Dƣơng và Đội Sát phải đầu hàng, trao
lại cho ta toàn bộ vũ khí, ấn tín, giấy tờ, tài liệu.
Ngày 21/8/1945, tại Đền Giá (thuộc xã Tân Tiến, nay là xã Đông Cao),
Ủy ban dân tộc giải phóng lâm thời huyện Phổ Yên đƣợc thành lập, gồm 9
ngƣời do đồng chí Trần Mạnh Hùng làm Chủ tịch. Tiếp theo, Ban Cán sự
Đảng huyện Phổ Yên gồm các đồng chí Nguyễn Thị Thuận, Nguyễn Thị
Lịch, Quang Huy do đồng chí Nguyễn Thị Thuận làm Trƣởng ban và các tổ
chức Cứu quốc của Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân đƣợc thành lập và Huyện
bộ Việt Minh ra đời. Tháng 10/1945, Đảng bộ Phổ Yên đƣợc thành lập,
Huyện ủy lâm thời gồm các đồng chí Nguyễn Bá Cƣơng, Trần Mạnh Hùng,
Trịnh Văn Thƣ. Đầu năm 1946, nhân dân Phổ Yên đã cơ bản tiêu diệt đƣợc
“giặc đói”, cuối năm 1946, tiêu diệt đƣợc 36% “giặc dốt”, giữ vững đƣợc an
ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn.

Trong kháng chiến chống Pháp, Phổ Yên vừa là cửa ngõ phía Nam của
tỉnh Thái Nguyên, vừa là cửa ngõ phía Nam của trung tâm căn cứ địa Việt
Bắc – thủ đô kháng chiến của cả nƣớc Trong chiến dịch Việt Bắc thu – đông
1947, sau 5 ngày trực tiếp chiến đấu (từ 16 đến 21/12/1947), quân dân Phổ
Yên đã trực tiếp đánh 20 trận lớn nhỏ, góp phần quan trọng cùng với quân
dân trong tỉnh và bộ đội chủ lực đập tan cuộc hành quân “Xanh tuya” càn quét
vào Thái Nguyên của địch.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
Trong cuộc hành quân “Phôcơ” (Chó Biển) tấn công lên thị xã Thái
Nguyên của địch, từ ngày 29/9 đến ngày 12/10/1950, quân dân Phổ Yên chặn
đánh quân Pháp từ Đa Phúc tấn công lên thị xã Thái Nguyên, tiêu diệt 36 tên,
làm bị thƣơng 52 tên khác. Đại đội 225 (bộ đội địa phƣơng Phổ Yên) đã bắn
rơi 1 máy bay chiến đấu của địch bằng súng bộ binh.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Phổ Yên đã huy động 17.212 lƣợt
ngƣời đi dân công hỏa tuyến, đƣợc Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thái
Nguyên tặng 3 lá cờ danh dự, 3 cá nhân đƣợc tặng Huân chƣơng, 302 cá nhân
khác đƣợc tặng Bằng khen.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Phổ Yên đã có
1.031 ngƣời tòng quân giết giặc, 451 ngƣời đã anh dũng hy sinh ngoài mặt
trận, đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ghi công là liệt sĩ.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc (1954-1975), Phổ Yên là trọng
điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Toàn huyện xây dựng đƣợc 36 trận địa dân
quân, tự vệ trực chiến phòng không bắn máy bay địch bay thấp bằng súng bộ
binh. Trung đội trực chiến phòng không của dân quân du kích các xã Nam
Tiến, Trung Thành, Thành Công đã trực tiếp chiến đấu nhiều trận với máy
bay Mỹ. Tiểu đội dân quân du kích xã Thuận Thành làm nhiệm vụ thả “màn

khói” chống máy bay Mỹ ném bom Lade, bảo vệ cầu Đa Phúc đạt hiệu quả cao.
Trong 10 năm trực tiếp kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc (1965-1975),
quân và dân huyện Phổ Yên đã động viên đƣợc 4.997 con em ƣu tú của mình
vào bộ đội đánh Mỹ, có 1.124 ngƣời đã anh dũng hy sinh, đƣợc công nhận là
liệt sỹ. Với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
ngƣời”, trung bình mỗi năm, nhân dân Phổ Yên đã đóng góp cho tiền tuyến
12.000 tấn lƣơng thực, 350 tấn thịt lợn và thịt trâu bò. Năm 1975, Phổ Yên ủng
hộ 2 tỉnh Khánh Hòa, Kon Tum kết nghĩa 53 con trâu và 126 tấn thóc.
Trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (tháng 2/1979), huyện Phổ
Yên tuyển quân vƣợt chỉ tiêu 2%, huy động 3 tiểu đoàn dân quân du kích, tự

×