Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
Hiện nay, toàn cầu hóa đang là xu hướng chủ đạo của nền kinh tế thế giới, và
Việt Nam cũng không nằm ngoài tiến trình đó. Chúng ta đã và đang ký kết vào các
thoả thuận song phương cũng như đa phương về các vấn đề liên quan tới kinh tế và xã
hội,…. Đồng hành cùng sự hội nhập của nền kinh tế nói chung, các Ngân hàng
thương mại cũng tự hoàn thiện và phát triển phục vụ cho nhu cầu ngày càng lớn và đa
dạng của các thành phần trong nền kinh tế. Khi Việt Nam gia nhập WTO thì vấn đề
phát triển hệ thống các Ngân hàng thương mại lại càng trở nên cấp thiết .
Hệ thống ngân hàng Việt Nam so với các nước trên thế giới lạc hậu chừng
khoảng 50 năm. Để nâng cao sức cạnh tranh cho ngân hàng trong nước, Đảng và
Chính phủ đã đề ra chủ trương " Chiến lược phát triển ngân hàng 2001-2010 ". Qua
10 năm tích cực nỗ lực ngành ngân hàng đã có những bước tiến khá vững chắc, từng
bước tham gia vào thị trường tài chính thế giới.
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam là một trong năm ngân hàng thương mại
lớn nhất nước ta hiện nay và đang hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
Vietcombank là ngân hàng đa năng ở nước ta, cung cấp sản phẩm dịch vụ tài chính
đồng bộ, đa dạng và có tính cạnh tranh cao cho dân cư và doanh nghiệp nhằm thoả
mãn nhu cầu của khách hàng và đóng góp vào sự phát triển cảu cộng đồng. Trong đó,
Vietcombank chi nhánh Hà Nội là một chi nhánh quan trọng hàng đầu trong hệ thống
của Vietcombank, có đóng góp không nhỏ cho sự thành công của Vietcombank Viêt
Nam
Đầu tư theo dự án là một xu thế tất yếu trong quá trình tiếp tục đổi mới hoạt
động của Vietcombank chi nhánh Hà Nội theo hướng hội nhập. Rủi ro trong loại hình
này nói chung là cao xong lợi nhuận lại rất lớn. Để giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu
quả đầu tư cho các dự án, các cán bộ tín dụng của Vietcombank chi nhánh Hà Nội đã
từng bước thực hiện tốt công tác thẩm định dự án. Thẩm định dự án tức là thẩm định
kỹ thuật; thẩm định kinh tế và thẩm định tài chính. Trong đó thẩm định tài chính dự án
là bước hết sức quan trọng cần quan tâm hàng đầu trong quy trình thẩm định. Nhận
thức được vai trò và tầm quan trọng của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư nên
em đã chọn đề tài " !"#
"! $"%" làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
&'()*+,-./0 $1
& $21 &3!%4-',-
# $!5
& $613!3!%4-',-
"#"! $"%5
& $0178++3!
%4-'!"#"! $"%
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
&9:"71&;"7<&=>"?&@"AB<"
CD"7DEF"7&DGHI&JH"7K"?"7
9:"7E
2525!%4-'.,-# $!
252525Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm đặc điểm của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại được hiểu là một trong những tổ chức tài chính mà có vai trò
đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Với lịch sử hàng trăm năm hình thành và phát
triển, ngân hàng thương mại đã trải qua nhiều loại hình, cũng như phương thức hoạt
động đa dạng. Thế nên, cũng sẽ có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau cho khái niệm
ngân hàng thương mại. Sau đây là một vài định nghĩa được sử dụng nhiều nhất:
Luật Ngân hàng của Pháp quy định :”ngân hàng thương mại là những xí
nghiệp hay cơ sở thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức ký thác hay
hình thức khác .Số tiền này được dung cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu , tín
dụng hoặc dịch vụ tài chính.”
Luật Ngân hàng Ấn Độ bổ sung năm 1950 lại quy định :”Ngân hàng là cơ sở
nhận các khoản tiền ký thác để cho vay , tài trợ hay đầu tư “.
Luật Ngân hàng Mỹ lại quy định :”Ngân hàng thương mại là một công ty kinh
doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động dịch vụ khác trong ngành tài
chính”.
Ở Việt Nam . pháp lệnh Ngân hàng 1990 có quy định : “Ngân hàng thương
mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu của nó là thường xuyên
nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho
vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán “. Đến năm 1997 ,
luật các tổ chức tín dụng quy định :”Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”.
Trong đó “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cung cấp
tín dụng và cung cấp dịch vụ thanh toán”.
Nếu đứng trên khía cạnh các nghiệp vụ cơ bản nhất của ngân hàng thương mại
thì có thể hiểu đơn giản là Ngân hàng thương mại là tổ chức nhận tiền gửi cho vay vốn
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
. Tuy nhiên với sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và hoạt động ngân
hàng nói riêng , có thể định nghĩa một cách đầy đủ hơn như sau :
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất . Và nó còn thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một
tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế .
Qua những khái niệm kể trên có thể kể ra những đặc điểm cơ bản của ngân
hàng thương mại
- Là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ vì mục tiêu lợi
nhuận. Ngân hàng thương mại về bản chất là doanh nghiệp nói chung, vì vậy cũng
hoạt đông theo mục tiêu lợi nhuận bằng việc kinh doanh mặt hàng là tiền tệ.
- Hoạt động kinh doanh của NHTM được phân vào nhóm hoạt động kinh doanh
có mức độ rủi ro cao. Khác với các ngành kinh doanh sản xuất, thương mại thuần túy
khác, Ngân hàng tham gia vào thị trường tài chính. Thị trường này có đặc điểm là diễn
biến rất nhanh và khó đoán biết, lại chịu tác động bởi rất nhiều yếu tố trong nền kinh
tế. Điều này gây ra rủi ro cho ngân hàng thương mại, chính vì thế Ngân hàng thương
mại được xếp vào hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao.
- Sự tồn tại của NHTM phụ thuộc vào sự tin tưởng của khách hàng. Đặc điểm
này của Ngân hàng xuất phát từ cơ cấu nguồn vốn của nó, Một ngân hàng chỉ có vốn
chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, phần có tỷ trọng lớn là tiền gửi
của khách hàng. Ngân hàng có giữ được uy tín, giành được sự tin tưởng của khách
hàng thì mới hi vọng huy động được tiền gửi của dân chúng. Nếu ngân hàng đột nhiên
mất uy tín với khách hàng còn có khả năng khách hàng đến rút tiền ồ ạt, ngân hàng sẽ
có khả năng mất thanh khoản. Bởi lẽ tiền ngân hàng đi cho vay thì không thu hồi ngay
được, trong khi nguyên tắc khách hàng đến rút tiền lúc nào phải tất toán lúc đó. Chính
vì muốn dành sự tin tưởng của khách hàng mà ngân hàng không ngừng quảng bá
thương hiệu, gia tăng uy tín của mình, ví dụ như việc luôn đặt địa điểm làm việc ở
những vị trí trung tâm, mặt phố lớn cũng chỉ nhằm gia tăng sự tin tưởng của khách
hàng đối với mình.
- Các ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng dây chuyền tới nhau. Cũng chính
vì đặc điểm này mà công chúng rất sợ khi có một ngân hàng lâm vào tình trạng phá
sản. Bởi lẽ, ngân hàng có thể hoạt động được dựa trên niền tin, nếu một ngân hàng sụp
đổ, công chúng sẽ lo lắng cho tiền của mình ở các ngân hàng khác (bởi lẽ các ngân
hàng đều có ít nhiều quan hệ tài chính với nhau), và từ đó rút tiền ồ ạt, khiến cho các
ngân hàng khác, dù có tình hình tài chính lành mạnh cũng có khả năng mất thanh
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
khoản làm nguy cơ phá sản tăng cao. Hiệu ứng này nhanh chóng lan rộng trong ngành
ngân hàng gây khủng hoảng ngân hàng.
1.1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại.
Với lịch sử hình thành và phát triển khá dài của mình , ngân hàng thương mại
ngày nay thực hiện rất nhiều các hoạt động tài chính khác nhau. Tuy nhiên, lĩnh vực
hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại tập trung vào nhiệm vụ nhận tiền gửi và
cho vay. Đó là hai mặt của hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng này là một kênh
dẫn vốn từ người có tiền đến người thiếu tiền. Ngoài ra, với lương vốn mà ngân hàng
huy động được thì còn được dùng cho nghiệp vụ thanh toán, thực hiện các dịch vụ ủy
thác của khách hàng.
a) Hoạt động huy động vốn.
Hoạt động huy động vốn là hoạt động đầu tiên, là điều kiện cho các hoạt động
khác của ngân hàng. Hoạt động này có nhiệm vụ huy động nguồn vốn từ các nguồn
khác nhau trong nền kinh tế.
Hoạt động nhận tiền gửi có lẽ được ra đời trước tiên và là nguồn quan trọng của
ngân hàng thương mại ngay cả khi tính tới thời điểm hiện tại. Xét đến hoạt động này
có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tiền gửi như: chính sách lãi suất, phương
thức trả lãi và tình hình kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, tình hình thu nhập và chi tiêu
ngân sách của Chính Phủ, phong tục tập quán thói quen từng vùng, niền tin của công
dân đối với ngân hàng và Nhà Nước , địa điểm ngân hàng, các dịch vụ mà ngân hàng
cung cấp. Ngân hàng cần hết sức chú ý tới các nhân tố này vì nguồn tiền gửi có tỷ
trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng và nó được thanh toán khi khách hàng
yêu cầu ngay cả khi kỳ hạn chưa đến hạn. Hoạt động huy động vốn được thể hiện dưới
các hình thức sau:
Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi5
. Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân
hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh khá cao và để có được nguồn
tiền có chất lượng tốt , các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau
và thực hiện chúng.
+Tiền gửi có kỳ hạn.
Với hình thức này, ngân hàng sẽ đứng ra huy động lượng tiền của các tổ chứ
kinh tế xã hội. Và sẽ trả lại họ khi đến một thời điểm nhất định. Lãi suất và cách trả lãi
sẽ được 2 bên thống nhất. Hình thức này tuy có đôi chút ràng buộc về thời điểm hoàn
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
gốc tuy nhiên lại có ưu điểm là lãi suất cao hơn hình thức tiền gửi thanh toán, nên
được những đối tượng khách hàng dự trù được thời điểm cần vốn của bản thân lựa
chọn.
+Tiền gửi không kỳ hạn.
Bao gồm các loại tiền gửi thanh toán,tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của các
tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư. Đó là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra bất kỳ
lúc nào khi họ cần. Nên ngân hàng cần phải có lượng tiền dự trữ để trả cho khách hàng
khi họ cần để đảm uy tín của ngân hàng.
+Tiền gửi của các ngân hàng khác.
Loại tiền gửi này thường có chức năng để thanh toán hộ giữa các ngân hàng với
nhuu.Ví dụ như ngân hàng Mỹ , để thanh toán dễ dàng cho một đối tác tại Việt Nam
có thể mở một tài khoản tiền gửi ở ngân hàng Ngoại Thương. Loại tiền gửi này thường
có quy mô nhỏ, tuy nhiên trong thời kỳ gần đây khi mà lãi suất huy động trở nên rất
cao nhiều ngân hàng sẵn sang huy động vốn với giá đắt từ ngân hàng khác để đáp ứng
nhu cầu thanh khoản của mình, thì việc các ngân hàng lớn thừa tiền gửi vào tài khoản
của ngân hàng nhỏ lấy lãi là chuyện có xảy ra.
Tiền vay
+Vay Ngân hàng nhà nước(NHNN).
Vay Ngân hàng nhà nước là khoản tiền nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi
trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu dự trữ bắt buộc các ngân hàng
thương mại thường thường vay NHNN, hình thức này được thực hiện chủ yếu là tái
chiết khấu.
+Vay các tổ chức tín dụng khác.
Đây là khoản các ngân hàng vay mượn của nhau và vay của các tổ chức tín dụng
khác trên thị trường liên ngân hàng.
+Vay trên thị trường vốn.
Cũng giống như các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế khác cac Ngân hàng thương
mại cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ như: kỳ phiếu, tín phiếu , trái
phiếu ra thị trường vốn. Ở thời điểm hiện tại nhiều ngân hàng còn phát hành trái phiếu
chuyển đổi, nhằm thu hút nguồn vốn đa dạng hơn cho mình.
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
b) Hoạt động tín dụng.
Với nguồn tiền huy động được của mình ngân hàng thực hiện các hoạt động
cho vay ngược trở lại nền kinh tế. Trong nền kinh tế, luôn luôn tồn tại những cá nhân,
những tố chức mà nhu cầu chi tiêu, đầu tư của họ lớn hơn số tiền mà họ có. Ngân hàng
thương mại thỏa mãn được nhu cầu này. Nhũng cá nhân có thể có những khoản vay
tiêu dùng như mua nhà ô tô trả góp, những công ty có được nguồn tài trợ từ phía ngân
hàng để tiến hành hoạt động tổ chức kinh doanh. Những dự án cần vốn lớn có thể trở
thành hiện thực nhờ vay vốn ngân hàng. Những hoạt động này mang lại cho ngân hàng
lợi nhuận từ tiền lãi.
Đa số nguồn vốn mà ngân hàng huy động được đưa vào hoạt động tín dụng, đây
là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng thương mại bởi vì chỉ có lãi suất
cho vay mới bù đắp cho các chi phí của ngân hàng. Các hoạt động tín dụng bao gồm .
Hoạt động cho vay.
Hoạt động này là một trong những hoạt động đầu ra; và cũng là hoạt động quan
trọng nhất quyết định đến sự thành bại của ngân hàng, chỉ khi nào ngân hàng điều
hành tốt hoạt động này thì các hoạt động khác nói chung của ngân hàng mới đem lại
hiệu quả cao. Căn cứ vào các hình thức phân loại khác nhau ta có thể phân loại như
sau:
Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Cho vay không kỳ hạn: Là loại hình cho vay mà khách hàng có thể trả tiền bất kỳ
thời gian nào họ có tiền mà không bị ràng buộc bởi thời gian.
- Cho vay ngắn hạn bao gồm:
+ Cho vay ngắn hạn thông thường: là loại cho vay có thời hạn ít hơn một năm
như: Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá: Vì thời gian đáo hạn ngắn nên
nghiệp vụ này ít rủi ro và khiến dòng vốn ngân hàng trở nên linh hoạt. Thời hạn cho
vay ngắn sẽ dẫn đến nâng cao tính thanh khoản trong quản lý tài sản có của ngân hàng.
Hoạt động chiết khấu là tiền đề để người mua thực hiện được các hoạt động kinh
doanh của mình và có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng.Bên cạnh đó tất cả
những người ký tên trên thương phiếu đều chịu trách nhiệm liên đới theo quy định của
pháp luật. Với nghiệp vụ này ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu ở NHTƯ khi
họ gặp khó khăn về vốn . Nghiệp vụ chiết khấu mang lại lợi ích cho ngân hàng thương
mại tuy nhiên vẫn có rủi ro xảy ra. Cho nên trước khi thực hiện nghiệp vụ này ngân
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
hàng phải nghiên cứu kỹ khách hàng đến xin chiết khấu , xem xét các thương phiếu ,
mối quan hệ của những người liên quan đến thương phiếu.
+Cho vay cầm cố, thế chấp: Đây là hình thức cho vay trả góp từng phần và vật
thế chấp của người đi vay đối với ngân hàng. Thường vật thế chấp là bất động sản như
đất đai…Ngân hàng giám định kỹ về tình hình tài sản cũng như chủ quyền cảu nó
trước khi quyết định cho vay để mua, cũng như quan tâm đến tính ổn định và mức cao
hay thấp của thu nhập người xin vay nhằm hạn chế rủi ro xảy ra.
- Cho vay trung dài hạn: Là hình thức tín dụng trên 12 tháng đến 5 năm đối với
người cho vay trung hạn và trên 5 năm đến hết thời hạn khấu hao tài sản cố định đối
với người cho vay dài hạn.
• Căn cư vào thành phần kinh tế :
Cho vay đối với thành phần kinh tế quốc doanh.
Cho vay với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
• Căn cứ vào mục đích cho vay:
Cho vay phát triển sản xuất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng.
Cho vay thanh toán công nợ.
• Căn cứ vào tính chất bảo đảm :
Cho vay có bảo đảm.
Cho vay không có bảo đảm.
• Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng:
Cho vay bằng tiền.
Cho vay bằng tài sản.
Hoạt động cho thuê tài chính.
Là hoạt động tín dụng trung; dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa
bên cho thuê là tổ chức tín dụng và khách hàng thuê.Trong đó, nói rõ bên cho thuê sẽ
mua tài sản và cho bên khách hàng thuê và trong thời hạn thuê khách hàng phải trả tiền
thuê theo quy định của hợp đồng. Khi kết thúc hợp đồng khách hàng có thể mua lại
hoặc tiếp thụ thuê tài sản đó theo các điều khoản trong hợp đồng.Trong thời hạn thuê
các bên không bên nào được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng.
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
c) Thực hiện các dịch vụ ủy thác của khách hàng.
Hoạt động mua bán ngoại tệ :
Mua bán ngoại tệ là việc ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền lấy một loại
tiền khác và hưởng phí dịch vụ, dịch vụ này có rủi ro cao đòi phải có trình độ chuyên
môn cao và phải được sự cho phép của NHNN cho nên chỉ thường do các ngân hàng
lớn thực hiện.
Bảo quản vật có giá.
Ngân hàng thực hiện lưu trữ các vật có giá cho khách hàng , ngân hàng giữ và giao
cho khách hàng tờ biên nhận.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Các cá nhân và tổ chức gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng có thể thực hiện thanh
toán giá trị hàng hoá và dịch vụ hộ khách hàng. Hình thức này được thanh toán bằng
séc, UNC, nhờ thu L/C, các loại thẻ, cung cấp mạng lưới thanh toán diện tử kết nối
các quỹ cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần…Các ngân hàng còn thực hiện thanh
toán bù trừ với nhau thông qua hệ thống liên ngân hàng.
Quản lý ngân quỹ.
Nhiều ngân hàng cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ trong đó
ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu
tư phần thặng dư tạm thời vào các chứng khoán sinh lời… cho đến khi khách hàng cần
tiền mặt để thanh toán.
Bảo lãnh.
Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang
thiết bị, phát hành chưng khoán, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác. Dịch vụ này
dựa vào uy tín của khách hàng.
d) Các hoạt động khác
Ngoài các dịch vụ trên cũng có các dịch vụ:
- Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn.
- Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
- Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
252565Hoạt động cho vay theo dự án của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái quát về dự án khách hàng vay vốn
a) Khái niệm dự án đầu tư:
Có thể xem xét khái niệm dự án đầu tư dưới nhiều gĩc độ khác nhau Ví dụ như
Ngân hàng thế giới World Bank , một tổ chức tài chính quốc tế lớn nhất và có vai trò
quan trọng trong việc cung cấp vốn, viện trợ kinh tế kỹ thuật, thúc đẩy đầu tư vào các
nước đang phát triển thông qua các chương trình và dự án đầu tư đã xem “Dự án là
tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí có liên quan với nhau được hoạch định
nhằm đạt được những mục tiêu nào đó trong một khoảng thời gian nhất định.”
Còn theo “Quy chế đầu tư và xây dựng” theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8
tháng 7 năm 1999 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Dự án là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở
rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số
lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong
khoảng thời gian xác định.”
b) Đặc điểm của dự án đầu tư
- Mỗi dự án đầu tư đều phải có mục tiêu xác định và phục vụ cho mục đích phát
triển, sinh lời nhất định.
- Các hoạt trong khuôn khổ dự án đầu tư phải là hoạt động có hệ thống, có kế
hoạch, không tuỳ tiện.
- Dự án đầu tư bị khống chế bởi thời hạn. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án
sẽ làm mất cơ hội phát triển, kéo theo những bất lợi, tổn thất cho nhà đầu tư và nền
kinh tế nói chung.
- Dự án đầu tư chịu sự ràng buộc về nguồn lực. Thông thường, các dự án bị ràng
buộc về vốn, vật tư, lao động. Đối với các dự án quy mô càng lớn thì mức độ ràng
buộc về nguồn lực càng cao, càng phúc tạp và bị chi phối bởi nhiều mối quan hệ như
chủ đầu tư, nhà tư vấn, nhà thầu, các nhà tài trợ, nhân công …
c) Phân loại dự án đầu tư của các NHTM
- Theo loại hình dự án được chia thành dự án giáo duc đào tạo; dự án nghiên cứu
và phát triển; dự án đổi mới; dự án hỗn hợp .
- Theo thời hạn dự án được chia thành dự án ngắn hạn, dự án trung hạn, dự án dài
hạn
- Theo lĩnh vực dự án được chia thành dự án xã hội, dự án kinh tế, dự án tổ chức,
dự án kỹ thuật, dự án hỗn hợp.
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
- Theo người khởi xướng dự án được chia thành dự án của cá nhân, dự án tập thể,
dự án quốc gia, dự án quốc tế.
-Theo cấp độ dự án được chia thành dự án lớn và dự án nhỏ. Đây là cách phân loại
phổ biến nhất đối với các dự án đầu tư.
1.1.2.2. Khái niệm đặc điểm cho vay theo dự án.
Cho vay theo dự án, nếu hiểu một cách đơn giản là hoạt động tín dụng theo hình
thức dự án. Đây là hình thức mà các Ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác là người
cho vay đối với dự án. Khi đó chủ đầu tư sẽ là khách hàng vay vốn, các chi phí phát
sinh của dự án chính là đối tượng cho vay.
Sau đây chính là những đặc điểm nổi bật của hình thức cho vay theo dự án:
a)Vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án.
Vì hình thức cho vay theo dự án thường có thời gian dài, rủi ro tương đối cao hơn nên
để giảm bớt rủi ro ngoài việc quy định tài sản đảm bảo, ngân hàng cho vay còn quy
định rõ ràng khách hàng cần thiết phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án. Tỷ lệ
vốn chủ sở hữu này tùy thuộc vào mức độ rủi ro và hiệu quả của dự án.
b)Thời hạn trả nợ và nguồn trả nợ.
Thời hạn trả nợ vay còn tùy thuộc vào tính chất đặc điểm của dự án đầu tư. Nhưng thời
hạn trả nợ cũng có thể rút ngắn trong trường hợp hiệu quả của dự án mang lại cao.
Việc trả nợ trước hạn sẽ giúp ngân hàng thu được nợ chắc chắn, nhưng đôi khi ảnh
hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng. Nguồn trả nợ đối với khoản vay được
hình thành từ nhiều nguồn, nhưng chủ yếu là nguồn khấu hao và một phần từ lợi
nhuận dự án.
c)Giải ngân trong cho vay dự án.
Khoản cho vay một dự án có thể được giải ngân một lần (với dự án nhỏ ) hoặc giải
ngân nhiều lần (với dự án lớn ,dài hạn , ngân hàng không cho khách hàng rút vốn khi
các nhu cầu chi tiêu liên quan tới dự án chưa phát sinh, và nhằm đảm bảo cho khách
hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích. Việc giải ngân có thể được tiến hành căn cứ vào
tiến độ công việc hoàn thành của dự án.
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
d)Lãi suất cho vay
. Nhìn chung lãi suất cho vay theo dự án là lãi suất cho vay trung và dài hạn nên cao
hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Tùy thuộc vào thỏa thuận giữa ngân hàng và khách
hàng mà hợp đồng tín dụng quy định lãi suất cố định hay thả nổi .Việc thu lãi có thể
thực hiện định kỳ hàng tháng, năm hay theo số dư nợ thực tế.Khách hàng có thể trả
tiền lãi cùng nợ gốc tại mỗi kỳ hạn trả nợ hoặc trả tiền lãi vào một ngày nào đó trong
kỳ theo thỏa thuận
1.1.2.3.Quy trình cho vay theo dự án5
Sơ đồ 1.1: Quy trình cho vay theo dự án của NHTM:
Bước 1: Khách hàng gửi hồ sơ vay vốn đến NH. Bộ hồ sơ vay vốn gồm:
- Giấy đề nghị vay vốn (theo mẫu).
- Hồ sơ pháp lý.
- Hồ sơ kinh tế (chứng minh khả năng tài chính của khách hàng).
- Hồ sơ dự án đầu tư.
- Hồ sơ về khoản vay.
- Hồ sơ đảm bảo tiền vay.
NH kiểm tra tính đầy đủ về số lượng và tính pháp lý của hồ sơ vay vốn.
Bước 2: Thẩm định:
Việc chấp nhận hay từ chối cho vay một dự án của khách hàng phải dựa vào kết
quả thẩm định dự án. Cán bộ tín dụng dựa vào các thông tin thu thập được, đánh giá
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Hướng dẫn khách
hàng lập hồ sơ vay
vốn, tiếp nhận và
kiểm tra hồ sơ
Thẩm định
Trình duyệt hồ sơ
vay vốn, phán
quyết cho vay
Lập, đàm
phán và
ký kết
hợp đồng
Tất toán khế
ước, thanh lý
hợp đồng và
lưu trữ hồ sơ
Giám sát, theo dõi
cho vay. Thu nợ
và xử lý các vấn
đề phát sinh
Giải
ngân
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
khách hàng và thẩm định dự án. Thẩm định khách hàng về năng lực pháp lý, tình hình
sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính. Thẩm định dự án về mục tiêu dự án, thẩm
định tài chính dự án (tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư
ROI, Thời gian thu hồi vốn vay, Giá trị hiện tại NPV, tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR…)
Bước 3: Trình duyệt hồ sơ vay vốn, phán quyết cho vay:
Sau khi thẩm định khách hàng vay vốn và thẩm định dự án, cán bộ tín dụng phải
đưa ra được những kết luận về tình hình tài chính của khách hàng, tính khả thi của dự
án, mức độ đáp ứng các điều kiện tín dụng, điều kiện của tài sản đảm bảo. Từ đó, lập
tờ trình thẩm định và trình duyệt hồ sơ vay vốn cho cấp lãnh đạo phê duyệt các ý kiến
đã được đệ trình trong tờ trình.
- Đề nghị duyệt cho vay/ không duyệt cho vay và nêu rõ lý do.
- Phương thức cho vay.
- Số tiền cho vay cao nhất.
- Lãi suất cho vay.
- Thời hạn cho vay.
- Cách thức trả nợ gốc, lãi vay.
Bước 4: Lập, đàm phán và ký kết hợp đồng
Sau khi đã có sự phê duyệt, cán bộ tín dụng soạn thảo và đàm phán các điều
kiện của hợp đồng với khách hàng. Ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng
và cán bộ tín dụng làm thủ tục giao nhận giấy tờ liên quan đến tài sản đảm bảo vay
vốn.
Bước 5: Giải ngân vay vốn, giám sát sử dụng vốn vay:
- Lập hồ sơ rút vốn vay.
- Kiểm tra các căn cứ giải ngân.
- Trình duyệt giải ngân.
Bước 6: Giám sát, theo dõi khoản vay. Thu nợ và xử lý các vấn đề phát sinh:
Cán bộ tín dụng kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng, theo dõi khoản
vay, việc trả nợ gốc và lãi của khách hàng khi đến hạn; vấn đề giải chấp tài sản đảm
bảo tiền vay, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn trả nợ gốc và lãi cũng như việc miễn
giảm lãi, chuyển nợ quá hạn
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
Bước 7: Tất toán khế ước, thanh lý hợp đồng, lưu hồ sơ.
Khi khách hàng trả hết nợ gốc và lãi, cán bộ tín dụng phối hợp với bên kế toán
đối chiếu, kiểm tra số tiền trả nợ gốc, lãi, phí để tất toán khế ước, khoản vay.
2565 3!%4-',-#
$!5
1.2.1. Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại.
Đặc điểm quan trọng nhất của dự án là tính lạc hậu từ lúc có ý tưởng đầu tư đến
lúc bắt đầu và kết thúc dự án. Vì thế cả chủ dự án người cho vay và các đối tượng khác
cần quan tâm tới công tác thẩm định, đặc biệt là công tác thẩm định tài chính dự án.
Thẩm định dự án bao gồm thẩm định kỹ thuật; thẩm định kinh tế và thẩm đinh tài
chính. Đối với các đối tượng khác nhau thì mục tiêu thẩm định là khác nhau. Đối với
chủ đầu tư có thể là để xem lợi tức thu về là bao nhiêu , đối với chính phủ có thể xem
là lợi ích xã hội mang về là bao nhiêu. Còn đối với ngân hàng mục tiêu thẩm định là
để:
- Thứ nhất làm tăng khả năng thu hồi nợ của ngân hàng tăng được vòng quay
của vốn tín dụng.
- Thứ hai làm tăng khả năng sinh lời của dự án cho ngân hàng giảm được sự
chậm chễ, chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, chi phí thiệt hại do không thu hồi được
vốn đã cho vay và yêu cầu kiểm tra tối thiểu.
- Thứ ba làm cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng cho phép ngân hàng có
những khách hàng trung thành và những khoản lợi nhuận luận lớn bổ sung cho vốn
đầu tư. Và một trong những hoạt động quan trọng nhất trong công tác thẩm định là
công tác thẩm định tài chính dự án.
1.2.1.1.Khái niệm công tác thẩm định tài chính dự án của ngân hàng thương mại
Thẩm định tài chính dự án là tập hợp các hoạt động đánh giá xem xét phân tích các chi
phí và lợi ích tài chính dự tính của dự án. Lợi ích tài chính dự tính của dự án được xem
xét thông qua các dòng tiền thu và dòng tiền chi dự toán. Thông qua lợi ích tài chính
dự tính và qua các chỉ tiêu tài chính để ngân hàng quyết định cho vay hay bác bỏ cho
vay.
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
1.2.1.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại.
a) Thẩm định tổng vốn đầu tư
Đây là một nội dung quan trọng, cần xem xét đầu tiên khi bắt đầu tiến hành
phân tích tài chính dự án. Tổng vốn đầu tư của dự án gồm toàn bộ số vốn cần thiết để
thiết lập và đưa dự án đi vào hoạt động. Tính toán chính xác tổng mức vốn đầu tư có ý
nghĩa quan trọng đối với tính khả thi của dự án. Nếu vốn đầu tư mà thấp hơn yêu cầu
thì dự án không thể thực hiện được và ngược lại, nếu dự tính cao hơn yêu cầu thực tế
thì sẽ không thể phản ánh chính xác hiệu quả tài chính của dự án. Tổng mức vốn đầu
tư được chia ra làm hai loại là vốn cố định và vốn lưu động ban đầu.
Vốn cố định:
Vốn cố định là vốn dùng để chi trả cho những chi phí sau đây:
- Chi phí dùng để phục vụ công tác chuẩn bị: là những chi phí trước khi thực hiện dự
án. Chi phí này là loại chi phí gián tiếp hoặc có liên quan đến việc tạo ra và vận hành
và khai thác các tài sản cố định để đạt được mục tiêu đầu tư. Chi phí này bao gồm:
+ Chi phí cho việc điều tra, khảo sát để lập, trình duyệt dự án.
+ Chi phí cho việc cho tư vấn, thiết kế, chi phí cho quản lý dự án.
+ Chi phí cho việc đào tạo, huấn luyện…
Các chi phí kể trên không dễ dàng tính toán chính xác được. Vì vậy, phải được xem
xét cẩn thận các khoản mục để dự trù cho chính xác.
- Chi phí cho việc xây lắp và mua sắm thiết bị bao gồm các khoản mục sau:
+ Chi phí ban đầu về mặt bằng. Chi phí này cần phải đồng bộ với quy
định của Bộ tài chính về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển.
+ Chi phí để chuẩn bị mặt bằng xây dựng.
+ Giá trị của nhà xưởng và kết cấu hạ tầng sẵn có.
+ Chi phí để xây dựng mới hoặc cải tạo nhà xưởng hoặc cấu trúc hạ tầng.
+ Chi phí dành cho việc mua máy móc thiết bị (gồm cả lắp đặt và chạy
thử), phương tiện vận tải.
+ Các loại chi phí khác…
Vốn lưu động ban đầu:
Vốn lưu động ban đầu gồm tất cả các loại chi phí để tạo ra tài sản lưu động ban
đầu cho chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên, chi phí này bao gồm:
- Vốn dùng để phục vụ sản xuất: chi phí nguyên vật liệu, điện, nước, nguyên
nhiên liệu, phụ tùng…
- Vốn lưu thông: thành phần tồn kho, sản phẩm dở dang, hàng hoá bán chịu,
vốn là tiền mặt…
Vốn dự phòng1
Là tổng mức vốn đầu tư dự tính của dự án cần phải được xem xét theo từng giai
đoạn của quá trình thực hiện đầu tư và được xác định rõ ràng bằng tiền Việt, ngoại tệ,
hoặc bằng các loại tài sản khác…
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
Dưới giác độ của ngân hàng thương mại, việc biết chính xác dự án cần bao
nhiêu vốn để thực hiện rất quan trọng. Nếu tính toán được con số này sẽ biết được quy
mô dự án, là dự án cỡ nhỏ vừa hay là dự án lớn; kết hợp với việc biết số vốn mà chủ
đầu tư đã có sẽ biết được rằng số tiền mà chủ đầu tư yêu cầu vay ngân hàng có đúng
với nhu cầu của dự án hay không. Điều này tránh việc chủ đầu tư chiếm dụng vốn
ngân hàng trong trường hợp số tiền yêu cầu vượt quá nhu cầu thực tế dự án hoặc
ngược lại, số tiền vay không đủ để thực hiện dự án. Việc biết được số tiền cần vay của
chủ đầu tư cũng để cho ngân hàng biết được xem liệu rằng số vốn hiện có của mình có
đủ để tài trợ cho dự án hay không.
b) Thẩm định nguồn vốn, cơ cấu vốn sự đảm bảo của nguồn vốn tài trợ cho
dự án và tiến độ bỏ vốn.
Một dự án có thể có các nguồn tài trợ là ngân sách nhà nước, ngân hàng cho
vay, vốn góp vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết, vốn tự có hoặc nguồn khác. Để
đảm bảo cho tiến độ đầu tư của dự án, vừa để tránh ứ đọng nguồn vốn, các nguồn tài
trợ cần phải đượ xét về mặt số lượng và về thời gian tài trợ. Các nguồn vốn dự định
này cần phải được đảm bảo chắc chắn, sự đảm bảo này có trên cơ sở pháp lý và cơ sở
thực tế. Ví dụ, nếu là vốn góp cổ phần hoặc liên doanh liên kết cần phải có sự cam kết
về tiến độ và lượng vốn góp của các cổ đông hoặc các bên liên doanh. Nếu là vốn tự
có cần phải có bản giải trình về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 3 năm
gần nhất nhằm chứng tỏ doanh nghiệp đã, đang và sẽ tiếp tục hoạt động có hiệu quả,
và do đó đảm bảo có vốn để thực hiện dự án.
Tiếp đó, cần phải so sánh nhu cầu về vốn với khả năng cung cấp vốn cho dự án
từ các nguồn về số lượng và thời gian. Nếu khả năng lớn hơn hoặc ít nhất là bằng nhu
cầu thì dự án được chấp nhận. Nếu khả năng nhỏ hơn nhu cầu thì cần phải hoặc là tìm
them nguồn huy động thêm, hoặc là giảm quy mô của dự án. Nếu giảm quy mô của dự
án thì nên kèm theo việc nghiên cứu lại cái yếu tố kỹ thuật của dự án có bị thay đổi
không. Cơ cấu của nguồn vốn là điều cần quan tâm tiếp theo, nghĩa là tính toán tỷ lệ
từng nguồn chiếm trong tổng mức vốn đầu tư dự kiến.Sau đó trên cơ sở đó lập tiến độ
huy động vốn cụ thể. Tiến độ huy động vốn cần phải tính tới trường hợp có biến động
CPI.
Dưới giác độ ngân hàng, công tác thẩm định này giúp cho ngân hàng biết
được dự án sẽ được tài trợ bằng những nguồn nào, số tiền mà các nguồn đó đóng góp;
và cả thời điểm các nguồn đó tiến hành giải ngân. Biết được điều này nhằm mục đích
là để ngân hàng biết chắc rằng dự án có vốn đủ về lượng và phù hợp về mặt thời gian.
Nói cách khác ngân hàng luôn đặt câu hỏi trong tiến trình thực hiện dự án liệu rằng
đến mỗi bước lượng vốn cung cấp từ nguồn xác định có đủ và kịp thời hay không ? Để
đi đến mục đích cuối cùng là sự hoàn thành của dự án.
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
Khi thực hiện nội dung thẩm định này, ngân hàng còn biết được cơ cấu tài trợ
cho dự án. Dự án dùng vốn chủ sở hữu hay là dùng nợ là chủ yếu; hoặc là sử dụng cân
đối vốn chủ và nợ. Điều này giúp cho ngân hàng tính toán các chỉ tiêu tài chính để
thấy rủi ro của dự án là như thế nào, liệu có phải doanh nghiêp quá lạm dụng nợ, từ đó
làm tăng rủi ro của dự án.
c) Thẩm định chi phí sản xuất và giá thành:
Sau đó, ngân hàng tiếp tục thẩm định chi phí sản xuất và giá thành phẩm dự
kiến. Tổng chi phí này gồm hai loại chi phí là chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản
xuất. Chi phí sản xuất là các loại chi dành cho nguyên nhiên liệu chi phí tiền lương
nhân công, chi phí quản lý, chi phí lãi vay và khấu hao tài sản cố định. Chi phí ngoài
sản xuất bao gồm các loại như chi phí quảng cáo, chi phí lưu thông sản phẩm và các
chi phí khác… Ngân hàng cần phải xác định giá thành chính xác của từng loại sản
phẩm, từ đó đánh giá khoản mục chi phí tạo nên giá thành sản phẩm liệu có hợp lý
không, so sánh với giá thành sản phẩm của của các sản phẩm tương tự hiện có trên thị
trường. Khi tính toán giá thành sản phẩm cần căn cứ vào tổng chi phí, chênh lệch giá,
xác định được hao hụt ngoài dự kiến để tiến hành phân bổ cho lượng thành phẩm một
cách hợp lý. Trong quá trình thẩm định phải chú ý đến chi phí dành cho sản xuất sản
phẩm, các loại khấu hao (hữu hình và vô hình), kiểm tra lương nhân công, phân bổ lãi
vay , tính toán các mức thuế.
Chính vì chi phí là một trong những con số hết sức quan trọng trong một dự án
đầu tư không chỉ với chủ đầu tư mà còn rất quan trọng đối với ngân hàng thương
mại. Nắm rõ được chi phí này, từ đó ngân hàng có thể tính toán thêm các chỉ tiêu khác
về lợi nhuận (nếu biết doanh thu) như ROA, ROE… Như đã nói ở trên ngân hàng cần
biết những chi phí ấy là cao hay thấp, phù hợp hay không phù hợp, liệu rằng chi phí
cho khấu hao( một phần nguồn thu của ngân hàng) có bị chủ đầu tư dùng phương pháp
khấu hao nhanh mà trở nên bất hợp lý hay không v…v
d) Thẩm định doanh thu và lợi nhuận của dự án:
Doanh thu của dự án là giá trị hàng hóa, dịch vụ được tạo ra bởi dự án tính
bằng tiền thu được trong từng năm dự kiến. Cán bộ thẩm định cần chú ý tới các chỉ
tiêu sau tổng sản lượng, tổng doanh thu, lợi nhuận trước thuế, công suất hoạt động…
Doanh thu cần được xác định rõ ràng theo từng nguồn dự kiến trong từng năm.
Thường thì trong những năm đầu, hoạt động doanh thu đạt thấp hơn những năm sau.
Lợi nhuận của dự án là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất các sản
phẩm. Lợi nhuận của dự án mà cán bộ thẩm định quan tâm bao gồm lợi nhuận gộp, lợi
nhuận ròng trước thuế, lợi nhuận ròng sau thuế…
Dưới giác độ ngân hàng, doanh thu là nguồn thu của dự án và gián tiếp là
nguồn thu của ngân hàng thông qua lợi nhuận. Vì thế tính toán được con số này là rất
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
quan trọng, con số này giúp ngân hàng có thể tính được một vài chỉ tiêu về doanh thu
nhằm đánh giá dự án. Ngoài ra việc biết doanh thu và chi phí, ngân hàng có thể biết
được lợi nhuận dự án và từ đó biết được khả năng thu hồi nợ của mình.
e) Thẩm định dòng tiền dự kiến:
Dòng tiền ròng = Tổng các khoản thu trong kỳ - Chi phí trong kỳ
NCF = B - C
Trong đó, khoản thu trong kỳ (ký hiệu là B): nó có thể là doanh thu thuần của các
năm trong kỳ, giá trị thanh lý tài sản cố định ở các thời điểm trung gian (khi các tài sản
này hết tuổi thọ quy định) và thời điểm cuối cùng của dự án.
Các khoản chi trong kỳ (ký hiệu là C): là chi phí vốn đầu tư ban đầu để tạo ra
tài sản cố định và lưu động ở thời điểm ban đầu và tạo ra tài sản cố định ở các thời
điểm trong đời dự án, chi phí hàng năm của dự án (chi phí này không gồm khấu hao)
…
Dự án có thể ghi nhân doanh thu cao, nhưng tuy nhiên điều thực sự mà ngân
hàng cần để thu về khoản tiền hàng kỳ của mình là dòng tiền của dự án. Bởi lẽ có dòng
tiền dương và đủ mới có thể chi trả cho các khoản nợ gốc và lãi đến kỳ trả nợ. Nếu
dòng tiền không đủ để thanh toán nợ gốc và lãi cho ngân hàng hằng kỳ thì thực sự việc
tài trợ cho dự án là không khả thi. Ngân hàng cần hết sức chú ý công tác này nhằm hạn
chế rủi ro cho mình.
f) Thẩm định chỉ tiêu chi phí sử dụng vốn của dự án:
Để tính được các chỉ tiêu hiệu quả tài chính, đặc biệt là những chỉ tiêu hiệu quả
tài chính liên quan đến tỷ suất chiết khấu, ta phải tính được chi phí sử dụng vốn bình
quân.
k
m
k
kk
m
k
I
rI
r
1
1
.
=
=
Σ
Σ
=
Trong đó:
I
k
: số vốn đầu tư của nguồn số thứ k
r
k
: lãi suất tương ứng của nguồn thứ k
m: số các nguồn vốn huy động được cho dự án
Tỷ suất 3 được dùng trong thẩm định tài chính dự án.
g) Thẩm định các chỉ tiêu phân tích tài chính dự án (hiệu quả đầu tư):
Có khá nhiều chỉ tiêu đánh giá dự án về mặt tài chính, tuy nhiên các chỉ tiêu
phổ biến và cơ bản nhất thường được dùng trong thẩm định tài chính dự án là
Giá trị hiện tại của thu nhập thuần – NPV (Net Present Value):
NPV là thu nhập ròng có được do thực hiện dự án được chiết khấu về thời điểm
hiện tại. Chỉ tiêu NPV giúp đánh giá được đầy đủ quy mô lỗ lãi của cả đời dự án. Với
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
ý nghĩa như thế, NPV được cho là chỉ tiêu quan trọng nhất dùng để đánh giá và lựa
chọn dự án. NPV được tính theo công thức sau đây:
i
ii
n
i
r
CB
NPV
)1(
0
+
−
Σ=
=
- Đánh giá theo chỉ tiêu này theo nguyên tắc sau đây:
+ Chỉ chấp nhận dự án có NPV > = 0
+ Trong tập hợp các dự án có NPV dương mà các điều kiện khác như nhau
chọn dự án có NPV lớn nhất.
- Nhược điểm của chỉ tiêu NPV :
+ Không biết được lợi ích thu được từ một đồng vốn đầu tư.
+ Phụ thuộc vào cách lựa chọn tỷ suất chiết khấu
+ Không áp dụng được trực tiếp để so sánh, lựa chọn các dự án có vòng đời
hay vốn đầu tư khác nhau .
Hệ số hoàn vốn nội bộ IRR (Internal Rate of Returns):
Hệ số hoàn vốn nội bộ được định nghĩa là mức lãi suất mà nếu dùng nó làm tỷ
suất chiết khấu để chuyển các khoản thu và các khoản chi của dự án trong suốt thời
gian thực hiện dự án về thời gian hiện tại, thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi, hay
nói cách khác là NPV sẽ bằng không. Đây là một chỉ tiêu rất cơ bản trong phân tích
tài chính dự án. Nó cho biết mức lãi suất mà dự án có thể đạt được. Dự án được chọn
lựa khi IRR
da
> MARR (Minimum Attractive Rate of Return). MARR là mức lãi suất
thấp nhất có thể chấp nhận được. Nó hầu như được ước lượng trên cơ sở kinh nghiệm
của người chủ đầu tư hoặc ngân hàng thẩm định. IRR
da
tính theo công thức:
0
)1()1(
00
=
+
Σ−
+
Σ
==
i
i
n
i
i
i
n
i
r
C
r
B
Ưu điểm: tính toán được mà không cần biết số liệu về tỷ suất chiết khấu.
Nhược điểm: không thể xác định được IRR trong trường hợp dòng tiền bị biến dị, thay
đổi nhiều lần từ (-) sang (+) hoặc ngược lại, vì sẽ cho rất nhiều đáp số khác nhau.
Thời gian hoàn toàn vốn (Pay - back Period):
Thời gian hoàn vốn của dự án là thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi
toàn bộ số vốn đầu tư lúc đầu đã bỏ ra. Nó chính là khoảng thời gian cần thiết để hoàn
trả số vốn đầu tư ban đầu bằng các lợi nhuận thuần hoặc tổng lợi nhuận thuần và khấu
hao thu hồi hàng năm.
Thời gian hoàn vốn được tính theo hai cách: Thời gian hoàn vốn giản đơn và
thời gian hoàn vốn tính đến chiết khấu.
Thời gian hoàn vốn giản đơn:
0
00
=Σ−Σ
==
i
T
i
i
T
i
CB
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
Chỉ tiêu này cho phép tính toán một cách nhanh chóng nhưng không xét đến giá
trị thời gian tiền nên không mang nhiều ý nghĩa thực tiễn.
Trong đó 1 là thời gian hoàn vốn chưa tính đến giá trị thời gian của tiền.
Thời gian hoàn vốn có chiết khấu:
0
)1()1(
00
=
+
Σ−
+
Σ
==
i
i
T
i
i
i
T
i
r
C
r
B
Trong đó: là khoảng thời gian hoàn vốn có tính chiết khấu.
Ưu điểm: Mang tính thực tế rất cao, có thể là căn cứ để ra quyết định đầu tư,
giảm thiểu rủi ro bởi lẽ dữ kiện trong những năm đầu của dự án lúc nào cũng đạt độ tin
cậy cao hơn.
Nhược điểm: Không hề cho biết thu nhập nhiều hay ít sau kỳ hoàn vốn, trong
thực tế, đây cũng là mối quan tâm rất lớn của nhà đầu tư. Có nhiều dự án thời gian đầu
mang lại thu nhập rất thấp, nhưng triển vọng về lâu dài lại rất khả quan.
Điểm hoà vốn của dự án (Break - Even Point):
Điểm hoà vốn của dự án là điểm mà tại đó, doanh thu vừa đủ để trang trải các
khoản chi phí. Ở điểm hoà vốn, tổng doanh thu bằng tổng chi phí, nên tại đây dự án
vẫn chưa có lãi nhưng cũng không lỗ. Vì thế nên chỉ tiêu này cho biết khối lượng sản
phẩm, mức doanh thu thấp nhất cần phải đạt được của dự án để đảm bảo bù đắp được
chi phí bỏ ra. Điểm hoà vốn còn được đánh giá bằng chỉ tiêu hiện vật (sản lượng tại
điểm hoà vốn) hoặc chỉ tiêu giá trị (doanh thu tại điểm hoà vốn). Nếu sản lượng hoặc
doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc doanh thu của dự án tại điểm hoà
vốn thì dự án sẽ lãi, ngược lại nếu thấp hơn thì dự án sẽ lỗ. Vì vậy, chỉ tiêu điểm hoà
vốn càng nhỏ càng tốt khi đó mức độ an toàn của dự án càng cao và thời gian thu hồi
vốn sẽ càng ngắn. Có hai phương pháp xác định điểm hoà vốn đó là phương pháp đại
số và phương pháp đồ thị.
Theo phương pháp đại số, ta gọi x là khối lượng sản phẩm sản xuất hoặc bán
đựơc, x
0
là khối lượng sản phẩm tại điểm hoà vốn, f là chi phí cố định, v là chi phí
biến đổi trên một đơn vị sản phẩm (biến phí), x là tổng biến phí, p là đơn giá sản
phẩm. Ta có hệ phương trình sau:
y
DT
= px
y
CF
= v.x + f
Tại điểm hoà vốn thì px
0
= vx
0
+ f suy ra:
Sản lượng hoà vốn:
vp
f
x
−
=
0
Doanh thu điểm hoà vốn:
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
p
v
f
DT
−
=
1
0
Ta cũng có thể tính các loại điểm hoà vốn khác nhau như điểm hoà vốn lãi lỗ,
điểm hoà vốn hiện kim hoặc điểm hoà vốn trả nợ dựa trên phương pháp trên.
Số lần quay vòng của vốn lưu động:
ciW
i
L
0
=
Trong đó O
i
: Doanh thu thuần bình quân của năm nghiên cứu
W
ci
: Vốn lưu động bình quân kỳ nghiên cứu
Nếu L = [L] : dự án có số quay vòng vốn tỷ lệ thuận với hiệu quả hoạt động
của dự án. L > [L] : dự án không đạt được hiệu quả hoạt động, cần phải được sửa đổi.
Trong đó [L] là số vòng quay vốn lưu động bình quân năm cho phép.
Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư:
Ivo
Wipv
RRi
=
Trong đó:
W
ipv
: Lợi nhuận thuần thu được năm thứ i theo mặt bằng giá trị khi kết quả đầu
tư bắt đầu phát huy tác dụng.
I
vo
: Tổng vốn đầu tư thực hiện tính đến thời điểm kết quả đầu tư bắt đầu phát
huy tác dụng.
Trường hợp RR
i
= [RR
i
], dự án có tỷ suất sinh lời vốn đầu tư càng lớn thì hiệu
quả tài chính dự án càng cao. RR
i
< [RR
i
], dự án đầu tư không đạt hiệu quả phải được
sửa đổi bổ sung. Trong đó, [RR
i
] là tỷ suất sinh lời vốn đầu tư cho phép.
Trên đây là một số chỉ tiêu thường được sử dụng trong phân tích, đánh giá hiệu
quả tài chính dự án. Tuỳ theo yêu cầu hoặc tình huống cụ thể mà người thẩm định có
thể lựa chọn rất nhiều các chỉ tiêu khác nữa nhằm đưa ra đánh giá tổng quan hơn( ví
dụ như tỷ suất sinh lời vốn tự có, tỷ suất sinh lời vốn đầu tư tính cho toàn bộ công
cuộc đầu tư…)
1.2.2. Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại
1.2.2.1.Khái niệm hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Công tác thẩm định tài chính dự án là một bước hết sức quan trọng trong
công tác thẩm định nói chung. Tuy nhiên vì các lý do chủ quan cũng như khách quan,
công tác thẩm định tài chính dự án tại các tổ chức tín dụng khác nhau tồn tại những
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
nhược điểm khác nhau. Không chỉ các tổ chức tín dụng nảy sinh nhu cầu hoàn thiện
công tác thẩm định tài chính dự án. Đối với chủ đầu tư việc hoàn thiện công tác thẩm
định tài chính dự án có thể đơn thuần là việc làm sao cho thủ tục thật đơn giản và
nhanh chóng, để ngân hàng có thể càng sớm giải ngân càng tốt. Đối với cơ quan quản
lý thì việc hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án góp phần chọn lọc được các
dự án tốt trong nền kinh tế để tài trợ cho chúng giúp chúng phục vụ lợi ích kinh tế
cũng như các mục đích xã hội khác. Hoạt động này còn làm làm minh bạch hơn tình
hình tài chính của các công ty v v.
Còn về giác độ là ngân hàng thương mại hoàn thiện công tác thẩm định tài
chính dự án trong hoạt động cho vay là việc : hoàn thiện về nội dung, qui trình,
phương pháp, tổ chức trong hoạt động thẩm định tài chính dự án nhằm gia tăng chất
lượng hiệu quả cho vay theo dự án , với chi phí thấp hơn và thời gian ngắn hơn.
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
1.2.2.2.Các chỉ tiêu đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại
a) Chất lượng hiệu quả cho vay dự án.
Để có thể đánh giá xem liệu rằng công tác thẩm định tài chính dự án có đạt hiệu quả
chưa ? Trước hết, cần biết mục đích của công tác thẩm định tài chính dự án là gì và
mục đích ấy đã hoàn thành chưa?
Mục đích cuối cùng của công tác thẩm định tài chính dự án là việc góp phần chọn
được ra các dự án hiệu quả . Các dự án này thu hồi đầy đủ được gốc vay và lãi vay
đúng hạn.
Việc có đạt được mục đích cuối cùng này không ít nhiều đánh giá chất lượng công tác
thẩm định tài chính dự án.
Các dự án cho vay càng hiệu quả có thể xem như việc thẩm định tài chính dự án là
tương đối thành công (Tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng thẩm định tài chính
còn nhiều thiếu sót mà dự án vẫn có hiệu quả) ; và ngược lại càng có nhiều dự án cho
vay không hiệu quả, thì nhiều khả năng chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân
hàng có vấn đề.
Chính vì thế, có thể nói thông qua việc đánh giá chất lượng hiệu quả cho vay theo dự
án mà có thể đánh giá được chất lượng hoạt động thẩm định tài chính dự án. Hay nói
cách khác, chất lượng hiệu quả cho vay dự án là một chỉ tiêu đánh giá công tác thẩm
định tài chính dự án.
b) Chi phí thẩm định.
Chi phí thẩm định trong công tác thẩm định tài chính dự án là toàn bộ chi phí phục
vụ cho công tác này được tính bằng đơn vị tiền.
Lợi ích của công tác thẩm định tài chính dự án là không thể bàn cãi, tuy nhiên hoạt
động này cũng phát sinh chi phí, thậm chí chi phí không hề nhỏ. Chính vì vậy chi phí
cho công tác này cũng là điểu các ngân hàng đáng lưu tâm.
Nếu công tác thẩm định tài chính dự án mặc dù có thể đưa ra đầy đủ chính xác chi phí
và lợi ích từ dự án; tuy nhiên lại với chi phí thẩm định lớn thì công tác thẩm định này
vẫn chưa hoàn thiện. Hay nói cách khác chi phí thẩm định cũng là một trong những chỉ
tiêu đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án của ngân hàng thương mại.
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
c) Thời gian thẩm định.
Như đã trình bày ở trên, dự án có đặc điểm là sẽ lạc hậu từ khi hình thành ý tưởng
đầu tư đến khi bắt đầu được thực hiện. Chính vì thế nếu thời gian thẩm định kéo dài thì
các yếu tố đầu vào đầu ra đến khi dự án bắt đầu thực hiện sẽ không còn như trong dự
liệu ban đầu nữa. Lúc ấy, có thể nảy sinh các rủi ro cho chủ đầu tư, hoặc do tâm lý chờ
đợi kéo dài, họ không còn muốn vay tại ngân hàng nữa, làm ngân hàng có khả năng
mất khách hàng. Về phía ngân hàng, nếu công tác thẩm định gây quá nhiều thời gian
sẽ hạn chế thời gian dành cho các hoạt động khác, gây chi phí cho ngân hàng (bởi lẽ
thời gian cũng là chi phí). Nếu công tác thẩm định tài chính dự án có chính xác và đầy
đủ mà thời gian thực hiện lại lâu thì công tác này còn chưa hoàn thiện. Hay nói cách
khác thời gian thẩm định cũng là một trong những chỉ tiêu đánh giá công tác thẩm
định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
2505 &'L*8 MN
3!%4-',-# $!
Chất lượng thẩm định tài chính dự án ở ngân hàng thương mại phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau, muốn nâng cao chất lượng hoạt động trên ngân hàng phải xem xét
từng nhân tố. Thông thường chất lượng thẩm định tài chính chịu sự tác động của một
số nhân tố sau:
1.3.1. Về phía ngân hàng
1.3.1.1.Thông tin:
Thông tin là cơ sở để phân tích đánh giá, là nguyên liệu cho quá trình tác
nghiệp sau này của cán bộ thẩm định. Để có kết quả thẩm định chính xác cao thì phải
có được thông tin, số liệu đầy đủ, chính xác trên nhiều mặt khác nhau. Để có được
nguồn thông tin cần thiết cho dự án, ngân hàng có thể dựa vào các thông tin do chủ
đầu tư cung cấp hoặc thu thập thông tin từ nhiều nguồn liên quan đến vấn đề cần đánh
giá và tiến hành sắp xếp thông tin, sử dụng các phương pháp xử lý thông tin một cách
phù hợp theo nội dung của quy trình thẩm định.
Hiện nay, để có được thông tin về khách hàng của mình không hề khó khăn đối
với ngân hàng; tuy nhiên làm sao để có những thông tin chính xác là vấn đề ngân
hàng phải quan tâm. Thông thường để thuận lợi cho việc đi vay, dự án mà chủ đầu tư
đưa đến NH đều có tính khả thi và mang tính chủ quan của người lập, các báo cáo tài
chính của doanh nghiệp cho thấy tình hình tài chính là lành mạnh. Nếu NH chỉ dựa
vào các thông tin này thì kết quả thẩm định không phản ánh đúng thực chất hiệu quả
của dự án. Như vậy, việc thiết lập hệ thống thông tin đầy đủvà chính xác được đặt ra
như một nhu cầu cấp bách đối với công tác thẩm định dự án, thiết lập được một hệ
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
thống thông tin như thế giúp cho NH rất nhiều trong việc nâng cao chất lượng thẩm
định tài chính dự án đầu tư của NH.
1.3.1.2.Cán bộ thẩm định:
Trong quá trình thẩm định tài chính dự án, cán bộ thẩm định luôn đứng ở vị trí
trung tâm. Bởi lẽ, họ chính là người trực tiếp tiến hành hoạt động thẩm định tài chính
dự án đầu tư. Mà thẩm định tài chính dự án đầu tư không hề là nghiệp vụ đơn giản, đòi
hỏi cán bộ thẩm định không những phải có kiến thức sâu về nghiệp vụ, am hiểu các
lĩnh vực cho vay, đầu tư của ngân hàng mà còn cần phải có những hiểu biết về những
vấn đề có liên quan như: Thuế, môi trường, thị trường, khoa học công nghệ…Vì thế,
phần nào hiệu quả của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phụ thuộc lớn vào
chất lượng nhân tố con người. Sự hiểu biết về toàn bộ những kiến thức về khoa học,
kinh tế và xã hội mà người thẩm định có được đều thông qua quá trình đào tạo và sự
bồi dưỡng kiến thức mà có. Kinh nghiệm, kỹ năng là những gì tích luỹ được thông qua
hoạt động thực tế; năng lực là khả năng nắm bắt, xử lý công việc trên cơ sở những tri
thức, kiến thức đã tích luỹ. Tính kỷ luật, phẩm chất đạo đức tốt của cán bộ thẩm định
là một trong các điều kiện để đảm bảo cho chất lượng thẩm định.
Để đạt được chất lượng tốt trong thẩm định tài chính dự án, yêu cầu quan trọng
trước tiên đối với cán bộ thẩm định là phải nắm vững chuyên môn nghiệp vụ. Phải
nắm vững các văn bản quy phạm pháp luật, các chế độ chính sách do Nhà nước ban
hành quy định đối với các lĩnh vực như Ngân hàng, xây dựng cơ bản, tài chính kế
toán…
Như vậy, cán bộ thẩm định là nhân tố quyết định chất lượng thẩm định tài chính
dự án đầu tư. Cần thông tin gì? Lấy Ở đâu? Áp dụng những chỉ tiêu nào để đánh giá
tiến hành bởi cán bộ thẩm định. Do vậy, muốn nâng cao chất lượng thẩm định tài
chính dự án đầu tư, trước hết bản thân trình độ kiến thức, đạo đức của cán bộ thẩm
định phải không ngừng được cải thiện.
1.3.1.3.Phương pháp thẩm định và các tiêu chuẩn thẩm định1
Phương pháp thẩm định là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thẩm
định tài chính dự án. Với nguồn thông tin có được, vấn đề đặt ra với là làm như thế
nào? Lựa chọn phương pháp nào, chỉ tiêu nào để thẩm định dự án để đạt hiệu quả tốt
nhất có thể. Mỗi dự án có một đặc trưng, không phải bất cứ dự án nào cũng cần phải
áp dụng và tính toán tất cả các chỉ tiêu trong hệ thống thẩm định. Việc sử dụng phương
pháp nào, chỉ tiêu nào để thẩm định phụ thuộc vào quyết định của mỗi ngân hàng. Với
mỗi dự án, phương pháp tốt nhất là phương pháp phù hợp nhất nhưng chưa chắc rằng
phương pháp đấy là hiện đại nhất. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, những phương
pháp thẩm định tài chính dự án hiện đại giúp cho việc phân tích, đánh giá dự án được
toàn diện, chính xác và hiệu quả hơn. Song điều quan trọng là ngân hàng phải biết áp
SV: Nguyễn Sơn Tùng
Lớp: Thị trường chứng khoán 50