BÀI 1:
NHẬP MÔN THUẾ
KHÁI NIỆM - VAI TRÒ - CHỨC NĂNG CỦA THUẾ TRONG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC
Khái niệm - phân loại thuế với lệ phí, phí
Chức năng - vai trò của thuế
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH THUẾ TRONG LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chế định thuế dưới thời phong kiến
Chế định thuế dưới thời Pháp thuộc
Chế định thuế thời kỳ sau CMT8 năm 1945 đến năm 1975
PHÂN LOẠI THUẾ
Căn cứ để phân loại thuế
Các loại thuế cơ bản áp dụng ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam
CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH MỘT LUẬT THUẾ
Tên gọi của luật thuế
Những qui định chung
Căn cứ tính thuế
Chế độ kê khai nộp thuế, thu thuế
Chế độ miển, giảm thuế
Chế độ xử lý vi phạm và khen thưởng
TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THUẾ
Quá trình hình thành và phát triển bộ máy quản lý nhà nước về thuế ở Việt Nam
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thuế hiện nay
I. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA THUẾ TRONG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm, phân biệt thuế với lệ phí, phí.
Top
1.1 Khái niệm:
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải
thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà
nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng
nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã
hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp
luật.
Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các giai cấp
đối kháng và sự xuất hiện của Nhà nước - pháp luật.
Thuế là một thực thể pháp lý nhân định nhưng sự ra đời và tồn tại của nó không
chỉ phụ thuộc vào ý chí con người mà còn phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế -
xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Sự xuất hiện Nhà nước đòi hỏi cần phải có của cải vật chất cần thiết chi cho hoạt
động thường xuyên của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho Nhà nước tồn tại,
duy trì quyền lực và thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình. Trong điều
kiện có các giai cấp, tồn tại chế độ tư hữu cùng với phạm vi hoạt động của Nhà
nước ngày càng mở rộng thì chế độ đóng góp theo phương thức tự nguyện của
dân cư trong chế độ cộng sản nguyên thủy không còn phù hợp nữa. Ðể có được
lượng của cải cần thiết, Nhà nước đã sử dụng quyền lực của mình ban hành pháp
luật, ấn định bắt buộc các thể nhân và pháp nhân phải đóng góp cho Nhà nước
một phần của cải mà họ làm ra và hình thành qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước.
Ban đầu những của cải vật chất này được thu nộp dưới hình thức hiện vật, dần
dần thuế được chuyển sang hình thức tiền tệ. Ðồng thời với việc ấn định nghĩa vụ
thu nộp của cải vật chất đối với dân cư, Nhà nước đảm bảo việc thực hiện các
nghĩa vụ đó bằng bộ máy cuỡng chế của Nhà nước.
Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu để thuế tồn tại và
phát triển. Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu khách quan,
thuế ra đời xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước và sự tồn tại
của thuế không tách rời quyền lực Nhà nước.
Thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành.
ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành qũy ngân
sách Nhà nước và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội nên
thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp.
Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật của các nước. Chẳng hạn ở
nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy định: cấm mọi sự thu thuế để
dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu không được Quốc hội chấp thuận. ở
Pháp, Quốc hội Pháp quy định: bất cứ một khoản thuế nào nếu không được Quốc
hội chấp thuận thì không được áp dụng. Hiến pháp của nước Cộng hòa Pháp năm
1791 quy định Quốc hội Pháp có quyền biểu quyết và định đoạt các Luật thuế.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hội có
nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy vậy, do
yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có thể giao cho Uớy
ban Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một số loại thuế thông
qua hình thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế.
Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp nhân và thể nhân
đối với Nhà nước không mang tính đối giá hoàn trả trực tiếp.
Thuế là nghĩa vụ thanh toán mà các thể nhân và pháp nhân khi có các dấu hiệu và
điều kiện được quy định cụ thể trong Luật thuế thì phải thực hiện đối với Nhà
nước và được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất dưới hình thức
giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
Nhà nước thu thuế làm phát sinh quan hệ phân phối giữa Nhà nước với các thể
nhân và pháp nhân trong xã hội. Ðối tượng của quan hệ phân phối này là của cải
vật chất được biểu hiện dưới hình thức giá trị.
Sự tồn tại và phát triển của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm của
phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến
vai trò, nội dung, đặc điểm của thuế. Do đó, cơ cấu và nội dung của cả hệ thống
pháp luật thuế và từng Luật thuế phải được nghiên cứu, sửa đổi bổ sung, cải tiến
và đổi mới kịp thời nhằm thích hợp với tình hình, nhiệm vụ của từng giai đoạn.
Ðồng thời phải tổ chức bộ máy phù hợp, đủ sức đảm bảo thực hiện các quy định
pháp luật về thuế đã được Nhà nước ban hành trong từng thời kỳ.
Hệ thống pháp luật thuế được coi là phù hợp không chỉ nhìn một cách phiến diện
vào số lượng các Luật thuế nhiều hay ít, vào mục tiêu đơn thuần là động viên tài
chính vào ngân sách Nhà nước mà phải được phân tích một cách toàn diện, chặt
chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế, với đời sống xã hội, không đối lập với quyền
lợi và khả năng đóng góp của nhân dân.
Ở nước ta trước cải cách chế độ thu ngân sách Nhà nước, Luật thuế chỉ áp
dụng đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể và
cá thể. Ðể thực hiện chế độ thu ngân sách Nhà nước phù hợp với cơ chế thị
trường, phát huy vai trò của các hình thức thu ngân sách Nhà nước, cuộc cải cách
chế độ thu ngân sách Nhà nước được thực hiện trên cơ sở Nghị quyết Quốc hội
khóa VIII kỳ họp thứ IV năm 1989. Kết qủa của cuộc cải cách này đưa đến việc
áp dụng thống nhất chế độ thu thuế đối với tất cả các thành phần kinh tế, không
phân biệt hình thức sở hữu, hình thức kinh doanh. Từ đây thuế thực sự trở thành
nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước và thuế chiếm tỷ trọng cao trong cơ
cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
1.2 Phân biệt thuế với lệ phí, phí.
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo quy định của pháp luật của các cá nhân và
pháp nhân đối với Nhà nước không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp.
Lệ phí là khoản thu vừa mang tính chất phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về việc
thực hiện một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp
cho ngân sách Nhà nước.
Phí là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường xuyên hoặc bất thường
như phí về xây dựng, bảo dưỡng, duy tu của Nhà nước đối với những hoạt động
phục vụ người nộp phí.
Thuế và lệ phí, phí đều là nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và đều mang tính
pháp lý nhưng giữa chúng có sự khác biệt như sau:
Xét về mặt giá trị pháp lý:
Thuế có giá trị pháp lý cao hơn lệ phí, phí. Thuế được ban hành dưới dạng văn
bản pháp luật như: Luật, Pháp lệnh do Quốc hội và ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua. Trình tự ban hành một Luật thuế phải tuân theo một trình tự chặt chẽ.
Trong khi đó lệ phí, phí được ban hành đưới dạng Nghị định, Quyết định của
chính phủ; Quyết định của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
Nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Xét về mục đích và mức độ ảnh hưởng đối với nền kinh tế - xã hội thì thuế có 3
tác dụng lớn:
· Tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
· Ðiều chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý và định hướng phát
triển kinh tế.
· Ðảm bảo sự bình đẳng giữa những chủ thể kinh doanh và công bằng xã hội.
Qua đó chúng ta thấy thuế có tác động lớn đến toàn bộ qúa trình phát triển kinh tế
- xã hội của một quốc gia, đồng thời thuế là một bộ phận rất quan trọng cấu thành
chính sách tài chính quốc gia.
Trong khi đó lệ phí, phí không có những tác dụng nói trên, nó chỉ có tác dụng tạo
nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, việc tạo nguồn này không phải
dùng đáp ứng nhu cầu chi tiêu mọi mặt của Nhà nước, mà trước hết dùng để bù
đắp các chi phí hoạt động của các cơ quan cung cấp cho xã hội một số dịch vụ
công cộng như: dịch vụ công chứng, dịch vụ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền
sử dụng tài sản, dịch vụ hải quan
Ngoài dấu hiệu là thuế được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà
nước, thuế còn được phân biệt với lệ phí, phí ở chổ các cá nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước nhưng không trên cơ sở được hưởng những lợi
ích vật chất tương ứng mang tính chất đối giá. Trong khi đó hình thức lệ phí, phí
và công trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc
của lệ phí và phí chỉ xảy ra khi chủ thể nộp lệ phí, phí thừa hưởng trực tiếp những
dịch vụ do Nhà nước cung cấp.
Bên cạnh đó, thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế thể hiện ở chổ Nhà nước thu thuế từ
các cá nhân và pháp nhân trong xã hội nhưng không bị ràng buộc bởi trách nhiệm
phải hoàn trả lại cho người nộp. Người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được các
lợi ích vật chất từ việc sử dụng các dịch vụ công cộng do Nhà nước sử dụng các
khoản chi của ngân sách Nhà nước để thực hiện các chính sách kinh tế xã hội
chung cho cả cộng đồng. Tuy nhiên, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết
tương đồng với khoản tiền thuế mà họ đã nộp cho Nhà nước. Tính chất này của
thuế cho phép chúng ta phân biệt thuế với lệ phí, phí và các khoản thu mà Nhà
nước tập trung vào ngân sách Nhà nước nhưng ràng buộc trách nhiệm hoàn trả
cho đối tượng nộp dưới các hình thức như vay nợ, tạm ứng cho ngân sách Nhà
nước.
Xét về tên gọi và mục đích.
Mục đích của từng loại lệ phí rất rõ ràng, thường phù hợp với tên gọi của nó. Nói
một cách chính xác hơn, tên gọi của loại lệ phí nào phản ánh khá đầy đủ mục
đích sử dụng loại lệ phí đó.
Mỗi một Luật thuế đều có mục đích riêng. Tuy nhiên, đa số các sắc thuế có tên
gọi không phản ánh đúng mục đích sử dụng, mà thường phản ánh đối tượng tính
thuế.
Nói chung mục đích của việc sử dụng của các loại thuế thường là tạo nguồn qũy
ngân sách Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi ngân sách Nhà nước, thực hiện
chức năng quản lý xã hội của Nhà nước.
2. Chức năng, vai trò của thuế.
Top
2.1 Chức năng của thuế.
Chức năng của một sự vật hay một hiện tượng là sự thể hiện công dụng vốn có
của nó. Ðối với một phạm trù kinh tế - xã hội thì chức năng phản ánh sự tác động
của nó - là một phương thức đặc biệt biểu hiện những thuộc tính vốn có của phạm
trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng có tính ổn định tương đối của nó trong
suốt thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng.
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có của
các quan hệ tài chính. Tuy nhiên thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận
động và các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.
Căn cứ vào nội dung cùng với qúa trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế,
chúng ta thấy rằng thuế thực hiện các chức năng sau đây:
Chức năng phân phối và phân phối lại: là chức năng cơ bản, đặc thù của thuế.
Ngay từ lúc ra đời thuế là phương tiện dùng để động viên nguồn tài chính vào
ngân sách Nhà nước (có ở tất cả các kiểu Nhà nước).Về mặt lịch sử, chức năng
huy động nguồn tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh
ra thuế.Thông qua chức năng này, các qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước được
hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự hoạt động thường xuyên và tồn tại
của Nhà nước. Bằng chính chức năng này, Nhà nước tiến hành tham gia phân
phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội.
Chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập của thuế là sự huy động một bộ
phận thu nhập quốc dân dưới hình thức tiền tệ vào ngân sách Nhà nước. Phần lớn
thuế đánh trên hàng hóa và thu nhập. Người có thu nhập cao và sử dụng nhiều
hàng hóa, dịch vụ là người nộp thuế nhiều hơn. Số tiền này sau đó laiỷ được Nhà
nước chi nhằm thực hiện chính sách kinh tế-xã hội, tạo ra tính công bằng tương
đối cho xã hội.Trong một chừng mực nhất định, chức năng phân phối và phân
phối lại đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát huy tác dụng chức năng điều tiết
của thuế.
Chức năng phân phối và phân phối lại có vị trí ngày càng quan trọng. Ðiều này
được giải thích bởi sự phát triển, mở rộng các chức năng của Nhà nước và việc
thực hiện nhiều chính sách khác nhau, trong đó có việc can thiệp của Nhà nước
vào các qúa trình kinh tế.
Chức năng điều tiết đối với nền kinh tế.
Chức năng điều tiết của thuế được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ những năm
đầu của thế kỷ XX và gắn liền với vai trò điều chỉnh của Nhà nước đối với nền
kinh tế. Việc tăng cường vai trò kinh tế - xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi
tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên và hậu qủa tất yếu là đòi hỏi Nhà nước phải
mở rộng qũy tài chính Nhà nước, hình thành chủ yếu từ việc thu thuế. Nhu cầu về
nguồn tài chính càng lớn thì Nhà nước cần phải tăng cường các chức năng của
thuế để tác động một cách có hiệu qủa đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong qúa
trình đó chức năng phân phối và phân phối lại và chức năng điều chỉnh của thuế
đã được sử dụng một cách hiện thực.
Ðiều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã được dự liệu
trước vào trong qúa trình huy động tập trung nguồn tài chính. Bằng cách sử dụng
nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu đi sự
tích lũy tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả năng thanh toán của dân
cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh tế, Nhà nước đã thực
hiện điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trong phạm vi quốc gia.
Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình thức
thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp
thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của
người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào
qũy đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội.
Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông
qua thuế ngay càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên lợi
ích kinh tế của các chủ thể vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế,
sự can thiệp của Nhà nước không mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể
phải kinh doanh hay không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các
chủ thể kinh doanh.
Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức
năng phân phối và phân phối lại của thuế là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự vận
động và phát triển của chức năng điểu tiết. Nhưng chức năng điều tiết của thuế
cũng có tác động ngược lại đến chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập.
Nguồn tài chính mà Nhà nước tập trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự
can thiệp của Nhà nước trên diện rộng và theo chiều sâu tới qúa trình sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của
Nhà nước nhằm vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tạo điều
kiện để tăng thu nhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng
để mở rộng phạm vi tác động của chức năng phân phối và phân phối lại.
Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loại trừ các mâu thuẩn
nội tại trong mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sự tăng cường chức năng
phân phối và phân phối lại làm cho nguồn thu của Nhà nước tăng lên. Ðiều đó có
nghĩa là mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực hiện các chương trình
kinh tế xã hội. Mặc khác, việc tăng cường chức năng phân phối và phân phối lại
một cách qúa mức làm tăng gánh nặng thuế và hậu qủa là làm giảm động lực phát
triển kinh tế, trong nhiều trường hợp làm hạn chế vai trò của chức năng điều tiết.
Ðó là tính hai mặt của thuế, nó có khả năng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế một
cách tích cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của
sự tác động đó cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch
định, xây dựng, ban hành các chính sách pháp luật về thuế của Nhà nước trong
từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội nhất định.
2.2 Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường.
Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với ngân sách Nhà nước
và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế, Nhà nước
tập trung được một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình thành nên qũy ngân
sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông qua việc
ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ quy
định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể,
các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế hoá
các chính sách kinh tế - xã hội cuả Nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân
tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những điều
kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự thay
đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai trò
hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của thuế
được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập trung một
phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các
pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan
trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp
luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước. Hầu hết ở các quốc
gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của
nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm
vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật
thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng
được nhu cầu chi ngày càng tăng.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay
nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có
trả. Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội,
chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài.
Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng
thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều chỉnh được hầu hết các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội. Ðây là
nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước.
Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời
sống xã hội.
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn có
vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến
pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng
pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt
Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông
qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện
chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước
trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế
về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm
thuế Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò
này của pháp luật thuế được thể hiện ở chổ pháp luật thuế là công cụ tác động
đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng
của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy
hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến
cung - cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung - cầu
của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng
kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến
cung - cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến
tiêu dùng.
Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuê,ỳ Nhà nước tác động đến các
quan hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng
hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập
khẩu đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó.
Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến
khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định
khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự
khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính
chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất
yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với
những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các
quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế
nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các
doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động
tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng
hợp lý và có hiệu qủa các nguồn lực cuả đất nước trong việc điều chỉnh cung -
cầu và cơ cấu kinh tế.
Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế và công bằng xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề,
các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công
bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thế nhân và pháp nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống
nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện
hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật
thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử
dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất cân đối về
mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế
làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở
chổ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết
thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi
của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, vế thuế suất đều
có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp luật
thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế
suất Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò của
pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh
tế thị trường.
II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ÐỊNH THUẾ TRONG LỊCH SỬ NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
Lịch sử nước ta mặc dù đã hình thành từ rất lâu nhưng cho đến tận thể kỷ XI,
đời vua Trần Thái Tông (1225 - 1237) thì việc đánh thuế mới được hình thành
một cách có tổ chức và có hệ thống. Ngược dòng lịch sử, chúng ta tìm hiểu khái
quát về chế định thuế hình thành và phát triển trong lịch sử Nhà nước và pháp
luật Việt Nam.
1. Chế định thuế dười thời phong kiến.
Top
Ngay từ thời phong kiến, các cấp lãnh đạo dưới chế độ quân chủ đã biết tổ chức
hệ thống thu thuế để làm nguồn thu cho công qũy của nhà Vua. Tuy vậy từ các
triều đại nhà trần trở về sau này, sự tổ chức, cách đánh thuế và thu thuế mới được
ghi chép và có hệ thống.
1.1 Chế định thuế dưới triều đại nhà Trần:
Thuế ở nước ta được hình thành từ đời nhà Trần, rõ rệt nhất là vào thời vua Trần
Thái Tông. Theo sử sách ghi nhận vào thời nhà Trần có 2 loại thuế chính được áp
dụng đó là thuế thân và thuế điền:
Thuế thân: căn cứ vào diện tích ruộng mà đánh thuế. Ai có một, hai mẫu ruộng
thì phải đóng 1 quan tiền/ 1 năm; ai có 4 mẫu thì đóng 2 quan; ai có 5 mẫu trở lên
thì đóng 3 quan; ai không có mẫu nào thì không phải đóng thuế.
Thuế điền (thuế ruộng): đóng bằng thóc. Một mẫu ruộng tư thì chủ điền phải
đóng 100 thăng thóc. Còn ruộng công thì: đối với ruộng quốc khố thì hạng nhất
mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch, hạng nhì mỗi mẫu 4 thạch, hạng ba mỗi mẫu 3 thạch;
đối với thác điền ( ruộng thưởng cho quan lại có công): hạng nhất mỗi mẫu đánh
thuế 1 thạch thóc; hạng nhì 3 mẫu lấy 1 thạch; hạng ba 4 mẫu lấy 1 thạch. Với
ruộng ao thì mỗi mẫu lấy 3 thăng thóc thuế. Ruộng muối thì phải đóng bằng tiền.
1.2 Chế định thuế dưới triều đại nhà Hồ.
Từ thời nhà Trần việc đóng thuế đã trở thành lệ và hầu như không thay đổi đáng
kể vào thời nhà Hồ. Chỉ có quy định tăng hạn ngạch thuế thân: cứ 2 mẫu 6 sào trở
lên thì đóng 3 quan tài tiền mặt một năm.
1.3 Chế định thuế dưới triều đại nhà Lê.
Ngoài thuế ruộng (thuế điền), còn đặt thêm thuế đất (thổ), thuế đất bãi trồng dâu
nuôi tằm.
1.4 Chế định thuế dưới thời chúa Trịnh.
Ngoài việc duy trì các loại thuế như trước, Chúa Trịnh ở miền bắc còn đặt ra
thêm các loại thuế khác như:
Thuế Mỏ (khai thác hầm mỏ), thuế đò (lệ phí giao thông), thuế chợ, thuế thổ sản
có thể xem như thuế tài nguyên bây giờ.
Thuế tuần tuy: đánh vào các thuyền buôn.
Thuế muối: tăng thuế muối cao hơn thời nhà Trần.
Thuế thổ sản: như vàng, bạc, đồng, kẽm, tre, gỗ, tơ, lụa
1.5 Chế định thuế dưới thời Chúa Nguyễn.
ở miền nam, ngoài thuế điền, thuế mỏ, chúa Nguyễn đặt ra thêm thuế xuất cảng,
nhập cảng đánh vào các tàu buôn ngoại quốc cập bến và dời bến.
1.6 Chế định thuế dưới thời nhà Nguyễn.
Thời Vua gia Long: Bên cạnh việc quy định lại các loại thuế như thuế thân, thuế
điền, vua Gia Long còn đặt ra các loại thuế mới như:
· Thuế sản vật: đánh vào cây quế (đánh vào việc khai thác cây quế ở rừng), ai
đóng thuế sản vật cây quế thì được miễn trừ thuế thân.
· Thuế Yến: đánh vào khai thác yến sào, ai nộp thuế yến thì được tha việc
binh lính.
· Thuế hương liệu, thuế sâm, thuế gỗ tất cả nộp bằng tiền hoặc sản vật.
· Ðịnh lại thuế đánh vào các tàu bè ngoại quốc ra vào buôn bán.
· Thuế mỏ.
Thời Vua Minh Mạng: Chế độ thuế vẫn duy trì như thời Vua Gia Long.
Thời Vua Thiệu Trị: chính sách thuế vẫn như thời vua Minh Mạng.
Thời Vua Tự Ðức: Có thêm thuế nha phiến đánh vào việc bán thuốc phiện.
Sử sách đã ghi nhận một số triều đại được coi là tiến bộ ( Lý, Trần, Lê Sơ): ngoài
việc giữ nước, mở mang kinh tế, phát triển dân trí và xây dựng một nền văn hóa
có bản sắc dân tộc còn theo đuổi một số chính sách thuế hợp lòng dân, nêu được
các mẫu mực về việc sử dụng chi tiêu công theo quan điểm phục vụ quốc kế dân
sinh, lợi ích nước nhà.
Có thể nhận xét rằng, hệ thống thuế trong các triều đại phong kiến ở nước ta có
đặc điểm chung là thiếu những chuẩn mực về đạo lý và pháp lý cần thiết, đáp ứng
về cơ bản và lâu dài ý chí và lợi ích của nhân dân. Việc thu thuế và sử dụng công
quỹ trong rất nhiều trường hợp lại do các bậc Vua chúa toàn quyền quyết định,
không phải dựa trên các các suy nghĩ chín chắn mà xuất phát từ ý thích hoặc tính
khí thay đổi rất thất thường của mình. Bên cạnh chế độ trung ương tập quyền rất
gò bó, lịch sử còn ghi nhận tình trạng " phép Vua thua lệ làng" đã hình thành từ
rất lâu ở các địa phương mà hậu qủa tất yếu là đẻ ra một chế độ thuế hà khắc, một
tầng lớp quan lại nhũng nhiểu với nhân dân trong hàng ngàn năm qua. Kết cục bi
thảm nhưng đầy lôgic đã xảy ra như là một tất yếu lịch sử không thể đảo ngược:
chế độ phong kiến suy tàn vào cuối thế kỷ XIX, để lại một đất nước kém mở
mang rơi vào sự thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp.
2. Chế định thuế dưới thời Pháp thuộc.
Top
Cơ chế tài chính do Pháp thiết lập ở Ðông Dương đầu thế kỷ XX không nằm
ngoài mục đích bao trùm là vơ vét của cải của thuộc địa. Dưới thời Pháp thuộc,
thuế được huy động vào hệ thống ngân sách thuộc địa gồm nhiều tầng nấc, nhưng
chúng lại không được chuyển thành nguồn tài trợ cho sự phát triển của xã hội mà
lại được chuyển về chính quốc, theo đúng mục tiêu của chủ nghĩa thực dân.
Chính phủ thuộc địa Pháp đặt ra các thuế ngoại ngạch tức là loại thuế gián thu
như thuế tiêu thụ thuốc lá, thuế rượu, thuế muối, thuế đoan (thuế quan); thuế trực
thu thì có thuế môn bài, thuế thổ trạch. Hệ thống ngân sách của nhà nước thuộc
địa bao gồm:
Ngân sách Ðông Dương và các ngân sách phụ thuộc của nó là: ngân sách đặc biệt
về tiền vay nợ và ngân sách riêng của sở hoả xa.
Ngân sách các xứ bên trong liên bang: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Cao miên, Ai
lao và Quảng Châu văn.
Ngân sách các tỉnh và thành phố.
Ngân sách xã ở các làng.
Trên thực tê,ỳ một hệ thống ngân sách như vậy đã thể hiện như một hệ thống cực
kỳ phản động, mang tính chất bóc lột và vơ vét. Nhưng chính nó đã tạo tiền đề
quan trọng dẫn đến cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/ 1945, chấm dứt ách đô hộ của
chế độ thực dân Pháp tồn tại gần 100 năm.
3. Chế định thuế thời kỳ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến năm
1975
Top
3.1 Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 đến năm 1954.
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, Chính phủ ta chủ trương bãi bỏ hẳn sắc
thuế mang tính chất phi nhân đạo như: thuế thân, thuế thổ trạch ở thôn quê và
một số tạp thuế vô lý; miễn thuế điền thổ cho vùng bị lụt và giảm thuế điền 20%
trong toàn quốc; đình chỉ thu thuế ở miền Nam.
Sau năm 1946, Nhà nước một mặt bắt đầu cải tiến chế độ thuế, tăng thuế suất
nhiều loại thuế; mặc khác, vẫn tiếp tục dựa vào những đóng góp mới như: Qũy
"tham gia kháng chiến" năm 1949, Qũy "Công lương" và thuế điền thổ. Mặc
khác, Chính phủ cũng vận động nhân dân vay dưới hình thức công trái, đồng thời
còn dựa vào nguồn phát hành tiền tệ.
Ðến năm 1951, bên cạnh việc thống nhất quản lý tài chính Nhà nước, Chính phủ
còn ban hành chính sách pháp luật thuế mới được xây dựng trên nguyên tắc: công
bằng, thích hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội và điều kiện chiến tranh. Chính
sách pháp luật thuế thống nhất bao gồm 7 loại thuế là:
Thuế nông nghiệp.
Thuế công thương nghiệp.
Thuế hàng hóa.
Thuế xuất nhập khẩu.
Thuế sát sinh.
Thuế trước bạ.
Thuế tem.
Trong số các loại thuế này thì thuế nông nghiệp giữ vai trò quan trọng. Tuy nhiên
các loại thuế này vẫn chưa được cấu trúc thành một hệ thống pháp luật thuế hoàn
chỉnh và cũng chưa có tác dụng đáng kể.
3.2 Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975.
Ðây là giai đoạn mà nền tài chính đứng trước nhiều thuận lợi và thử thách mới.
Một mặt, Việt Nam đã đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi một cách vĩnh
viễn, nhưng mặc khác, đất nước lại bị chia cắt. Sau hiệp định Geneve, Chính phủ
chỉ lần lượt ban hành các loại Luật thuế mới trên cơ sở sửa đổi, bổ sung các chế
độ thuế đã ban hành từ năm 1951 ở vùng tự do cũ để áp dụng thống nhất, bao
gồm 12 loại thuế sau:
Thuế doanh nghiệp.
Thuế hàng hóa.
Thuế sát sinh.
Thuế buôn chuyến.
Thuế thổ trạch.
Thuế kinh doanh nghệ thuật.
Thuế môn bài.
Thuế trước bạ.
Thuế muối.
Thuế rượu.
Thuế xuất nhập khẩu và chế độ thu quốc doanh.
Trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, thuế công thương nghiệp được sửa đổi
đáng kể: từ một hệ thống thuế tương đối ít chuyển sang một hệ thống với nhiều
hình thức thuế khác nhau, áp dụng trên nhiều khâu của qúa trình sản xuất , lưu
thông hàng hóa, sử dụng nhiều loại thuế suất khác nhau có sự phân biệt giữa các
ngành nghề sản xuất, kinh doanh, phân biệt kinh tế tập thể và tư nhân và nhiều
biện pháp ưu đãi khác nhau.
Trong thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Nhà nước đã áp dụng thí
điểm chế độ thu mới gọi là thu quốc doanh. Mức thu quốc doanh được xác định
riêng cho từng mặt hàng tùy theo giá cả Nhà nước quy định và chỉ thu ở khâu sản
xuất. Năm 1962, Nhà nước còn ban hành chế độ trích nộp và sử dụng lợi nhuận
của các xí nghiệp. Theo chế độ này, lợi nhuận của các doanh nghiệp quốc doanh
phải trích nộp một phần vào ngân sách Nhà nước; phần lợi nhuận còn lại, doanh
nghiệp được dùng để lập qũy doanh nghiệp, bổ sung kinh phí chuyên dùng, đầu
tư một phần vào việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
bổ sung vốn lư động. Các doanh nghiệp công tư hợp doanh trong thời kỳ này
được chuyển sang làm nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước như các doanh nghiệp
quốc doanh, có nghĩa là phải nộp thu quốc doanh và lợi nhuận chứ không phải
nộp thuế như trước. Chế độ thuế này được duy trì ở miền Bắc cho đến ngày giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3.3 Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1990.
Thời kỳ 1975 - 1980:
Trong thời kỳ này, miền bắc vẫn tiếp tục thực hiện hệ thống pháp luật thuế đã ban
hành từ trước, có sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Còn miền Nam thì có áp
dụng một số loại thuế cũ của chính quyền Sài Gòn trên cơ sở xóa bỏ một số loại
thuế phản tiến bộ và sửa đổi bổ sung để thích ứng với điều kiện đất nước thống
nhất.
Thời kỳ 1980 -1990:
Trong thời kỳ này, cả nước áp dụng hệ thống pháp luật thuế thống nhất, nhưng hệ
thống pháp luật thuế hiện hành này ngày càng tỏ ra có nhiều nhược điểm, cản trở
sự phát triển các yếu tố của nền kinh tế thị trường đang nảy sinh với các đặc
điểm:
· Sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp quốc doanh
thì thực hiện chế độ thu quốc doanh, thu trích nộp lợi nhuận cùng với các hình
thức thu khác, trong khi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác lại
chịu sự tác động của thuế.
· Thu quốc doanh đã bộc lộ nhiều nhược điểm căn bản. Về thực chất, đây là
một loại thuế đa thuế suất với hàng trăm thuế suất; điều này đặc biệt gây khó
khăn cho việc quản lý và hành thu.
Giai đoạn từ 1990 đến nay:
Từ giữa những năm 1980, cùng với công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế, hệ
thống pháp luật thuế Việt Nam đã được nghiên cứu và đến năm 1990 một hệ
thống pháp luật thuế mới được hình thành, bao gồm hệ thống chính sách pháp
luật thuế và hệ thống quản lý Nhà nước về thuế. Giai đoạn này được đặc trưng
bởi sự hình thành một hệ thống pháp luật thuế hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay,
bao gồm 9 loại thuế:
Thuế nông nghiệp.
Thuế doanh thu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế lợi tức.
Thuế xuất nhập khẩu (mậu dịch và phi mậu dịch).
Thuế tài nguyên.
Thuế thu nhập.
Thuế nhà đất.
Thuế vốn (khoản thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước).
Ngoài ra còn có một số phí và lệ phí có tính chất như thuế như: lệ phí môn bài, lệ
phí trước bạ, lệ phí giao thông, thuế sát sinh.
III. PHÂN LOẠI THUẾ
Top
Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống pháp luật
thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng và quản lý hệ
thống thuế, chúng ta tiến hành sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành
những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế.
Phân loại thuế là việc sắp xếp các loại thuế trong hệ thống pháp luật thuế
thành những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định.
1. Căn cứ để phân loại thuế.
Top
Tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội
mà cơ cấu và nội dung các Luật thuế có khác nhau. Cũng tùy thuộc vào cơ sở,
mục đích phân định, thông thường thuế được phân loại theo các tiêu thức sau:
1.1 Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào ngân sách Nhà nước,
thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần thu
nhập của người tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối
với người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở
chổ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu
là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản
xuất, kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu
thuế.
Ở nước ta thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của các
pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chổ người nộp thuế theo
quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động
viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế.
ở nước ta thuộc loại thuế này gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông
nghiệp
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng
trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
1.2 Căn cứ vào đối tượng đánh thuế.
Theo cách phân loại này thuế được chia thành:
Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia tăng.
Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt
Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao.
Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất.
Thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế tài
nguyên, thuế sử dụng đất, sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước.
Thuế khác và lệ phí, phí.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát
huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực
hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp luật thuế.
2. Các loại thuế cơ bản áp dụng ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam.
Top
Do thể chế chính trị, kinh tế của các nước không giống nhau nên hệ thống pháp
luật thuế của mỗi quốc gia đều có tính chất đặc thù riêng. Chúng ta nghiên cứu sơ
lược về hệ thống chính sách pháp luật thuế ở một số nước xã hội chủ nghĩa và các
nước có nền kinh tế thị trường.
2.1 Hệ thống pháp luật thuế của một số nước xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, một số nước xã hội chủ nghĩa đã có những thay đổi về chính sách kinh
tế và tài chính, áp dụng cơ chế kinh tế thị trường, tăng cường giao lưu thương
mại với nhiều nước trên thế giới, trong khu vực cũng như ngoài khu vực, không
phân biệt thể chế chính trị. Một số nước đã áp dụng chính sách pháp luật thuế với
nhiều ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài để thu hút vốn đầu tư. Do đó các Luật
thuế về cơ bản cũng có nhiều thay đổi. Tuy nhiên mục đích của Luật thuế vẫn là
điều tiết thu nhập nhằm đảm bảo công bằng và chính sách thuế vẫn có xu hướng
thiên về loại gián thu.
Nói chung, hiện nay tại một số nước xã hội chủ nghĩa, các Luật thuế với thuế suất
cũng như cách tính thuế đang được áp dụng có nhiều điểm tương đồng, phù hợp
với chuẩn mực chung với Luật thuế của các nước tiên tiến trên thế giới.
Chẳng hạn, hiện nay nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đang áp dụng các loại
thuế sau đây:
Thuế giá trị gia tăng.
Thuế doanh thương.
Thuế tiêu thụ.
Thuế tài nguyên.
Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế thu nhập cá nhân.
Thuế địa ốc tại thành phố.
Thuế trị giá đất.
Thuế môn bài.
Thuế con niêm.
Thuế quan.
Ngoài ra, có nước còn áp dụng các loại thuế khác như:
Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
Thuế môn bài.
Thuế trước bạ.
2.2 Hệ thống pháp luật thuế của một số nước áp dụng cơ chế kinh tế thị trường.
Pháp luật thuế của các nước tư bản đã có từ rất lâu đời và luôn được bổ sung, sửa
đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ngày một phát triển.
Hệ thống pháp luật thuế của các nước tư bản áp dụng nhiều Luật thuế khác nhau,
được phân loại và xếp thành hệ thống như sau:
Thuế trực thu: gồm có:
Thu nhập công ty.
Thuế thu nhập cá nhân.
Thuế môn bài hay thuế nghề nghiệp.
Thuế tài sản.
Thuế gián thu: gồm có:
Thuế tiêu thụ đặc biệt (thuế tiêu dùng).
Thuế giá trị gia tăng.
Thuế hí cuộc.
Thuế quan.
Thuế trước bạ và con niêm.
Về cơ bản các nước có nền kinh tế thị trường đều áp dụng các Luật thuế trên đây
và coi đây là nguồn thu cơ bản cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên cũng tùy theo
cơ chế kinh tế và tổ chức xã hội của mỗi nước mà có sự thay đổi trong cách tính
thuế và thuế suất.
IV. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH MỘT LUẬT THUẾ
Top
Luật thuế do Quốc hội ban hành, quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ. Xem xét cấu
tạo một Luật thuế là xem xét sự sắp xếp, bố trí các quy phạm pháp luật theo các
nội dung điều chỉnh. Ơớ nước ta, các Pháp lệnh, Nghị quyết do Uớy ban Thường
vụ Quốc hội ban hành chứa đựng các quy phạm pháp luật thuế, thực hiện chức
năng điều chỉnh của Luật thuế nên cũng có cấu tạo tương tự Luật thuế.
Thông thường, Luật thuế có cấu tạo gồm các bộ phận chủ yếu sau: tên gọi;
những quy định chung; căn cứ tính thuế; đối tượng nộp thuế; chế độ kê khai, nộp
thuế, thu thuế; chế độ miễn, giảm thuế; nghĩa vụ và trách nhiệm của đối tượng
nộp thuế; chế độ xử lý vi phạm; khen thưởng và giải quyết khiế nại về thuế.
1. Tên gọi của luật thuế.
Top
Tên Luật thuế thường được xác định trên cơ sở tên gọi loại thuế được quy định.
Tên gọi của một Luật thuế được xác định theo đối tượng tính thuế hoặc nội dung
và tính chất của các hoạt động làm phát sinh điều kiện pháp lý để áp dụng.
2. Những quy định chung.
Top
Phần quy định chung trong Luật thuế bao gồm các quy định về nguyên tắc áp
dụng và phạm vi áp dụng của Luật thuế như quy định đối tượng nộp thuế, đối
tượng không thuộc diện chịu thuế, nguyên tắc về việc thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế của đối tượng nộp thuế, trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan thu thuế.
Ðối tượng nộp thuế là các pháp nhân và thể nhân có nghĩa vụ phải nộp thuế cho
Nhà nước khi có các điều kiện được dự liệu trong Luật thuế.
Ðối tượng không thuộc diện chịu thuế là trường hợp các thể nhân và pháp nhân
có các hoạt động tương tự các điều kiện được dự liệu nhưng Luật thuế quy định
không thuộc phạm vi điều chỉnh thì các hoạt động đó không thuộc diện chịu thuế
theo quy định trong Luật thuế.
Nguyên tắc thu, nộp thuế được quy định trong Luật thuế thể hiện một cách tổng
quát quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế; trách nhiệm, quyền hạn của cơ
quan thu thuế.
3. Căn cứ tính thuế.
Top
Trong các Luật thuế đều có các quy phạm quy định thuế được tính dưạ trên căn
cứ nào. Tùy thuộc nội dung, tính chất của từng loại thuế mà các căn cứ tính thuế
được quy định cụ thể. Các căn cứ tính thuế bao gồm các yếu tố cơ bản là đối
tượng tính thuế và thuế suất. Ngoài ra trong một số loại thuế, căn cứ tính thuế còn
được quy định bao gồm một số yếu tố khác như số lượng hàng hoá, giá tính
thuế
Ðối tượng tính thuế:
Là căn cứ quan trọng nhất để tính thuế, phản ánh nội dung kinh tế - xã hội, nguồn
gốc của bộ phận của cải được tập trung vào qũy ngân sách Nhà nước, thể hiện
tính chất độc lập của một loại thuế trong hệ thống pháp luật thuế. Do đó, các Luật
thuế quy định đối tượng tính thuế của mỗi loại thuế có tính độc lập. Chẳng hạn,
đối tượng của thuế thu nhập doanh nghiệp là thu nhập chịu thuế
Biểu thuế:
Là bảng tập hợp các thuế suất hoặc các mức thuế nhất định trong một Luật thuế
được áp dụng để thu thuế đối với từng quan hệ cụ thể cụ thể.
Thuế suất:
Là mức thuế thể hiện mức độ động viên của Nhà nước trên một đơn vị của đối
tượng tính thuế. Tuỳ theo từng Luật thuế mà người ta áp dụng các mức thuế suất
khác nhau. Biểu thuế gồm có các hình thức sau:
· Biểu thuế thông thường bao gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất áp
dụng ổn định và thống nhất cho toàn bộ đối tượng tính thuế.
· Biểu thuế lũy tiến bao gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất áp dụng
càng cao theo quy mô của đối tượng tính thuế. Biểu thuế lũy tiến có hai hình
thức: biễu thuế lũy tiến toàn phần và biểu thuế lũy tiến từng phần.
+ Biểu thuế lũy tiến toàn phần bao gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất áp
dụng thay đổi theo mức cao hơn đối với toàn bộ đối tượng tính thuế nếu đối
tượng tính thuế thuộc bậc quy định. Hay nói cách khác thuế được tính chung trên
toàn bộ đối tượng tính thuế theo thuế suất tương ứng.
+ Biểu thuế lũy tiến từng phần bao gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất
được áp dụng thay đổi theo mức cao hơn đối với từng phần của đối tượng tính
thuế nếu đối tượng tính thuế thuộc bậc quy định.
Biểu thuế lũy thoái bao gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất áp dụng giảm
dần tương ứng với sự tăng lên của đối tượng tính thuế ở các bậc. Hiện nay pháp
luật thuế Việt Nam cũng như phổ biến ở nhiều nước trên thế giới không quy định
loại thuế lũy thoái. Việc áp dụng biểu thuế lũy thoái trong thu thuế mang tính cá
biệt ở một số nước.
Trong công tác hoạt động xây dựng pháp luật, việc quy định các mức thuế
suất cũng như hình thức biểu thuế thể hiện thái độ của Nhà nước trong việc động
viên nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế
- xã hội.
4. Chế độ kê khai, nộp thuế, thu thuế.
Top
Chế độ kê khai thuế quy định trong Luật thuế thể hiện các quyền và nghĩa vụ của
đối tượng nộp thuế trong việc chấp hành sổ sách kế toán, hóa đơn chứng từ và
cung cấp tài liệu, sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn liên quan đến việc tính và thu
thuế. Tùy thuộc vào yêu cầu của việc tính thuế đối với từng loại thuế mà Luật
thuế và các văn bản pháp luật thuế có liên quan quy định nội dung pháp lý về
nghĩa vụ kê khai củ đối tượng nộp thuế.
Chế độ thu, nộp thuế bao gồm các quy định về quyền, nghĩa vụ của đối tượng
nộp thuế và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong công tác thu nộp thuế và
phương thức thu nộp thuế.
Hành vi hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế được thể hiện ở
việc nộp đủ và đúng thời hạn số thuế phải nộp. Thời hạn nộp thuế quy định trong
các Luật thuế và các văn bản pháp luật thuế được xác định phù hợp với nội dung,
tính chất của từng loại thuế.
Thu thuế:
Là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong Luật thuế có các quy
định về trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nước Nhà nước trong việc thực
hiện hoạt động thu thuế như cơ quan thuế, cơ quan hải quan, kho bạc Nhà nước.
Ngoài ra, trong các Luật thuế còn quy định trách nhiệm, quyền hạn của các cơ
quan hành chính Nhà nước các cấp, cơ quan Nhà nước có liên quan trong qúa
trình thực hiện việc thu thuế hoặc trách nhiệm, quyền hạn của các tổ chức và cá
nhân thực hiện ủy nhiệm việc thu thuế.
5. Chế độ miễn, giảm thuế.
Top
Miễn giảm thuế là yếu tố ngoại lệ được quy định trong các Luật thuế. Chế độ
giảm thuế, miễn thuế được áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân là đối
tượng nộp thuế nhưng có các dấu hiệu và sự kiện được dự liệu trong Luật thuế thì
được giảm một phần số thuế phải nộp hoặc được miễn nộp thuế theo thời hạn do
từng Luật thuế quy định.
Chế độ giảm, miễn thuế thường được quy định thành một chương riêng trong
Luật thuế nhằm thực hiện chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước.
6. Chế độ xử lý vi phạm và khen thưởng.
Top
Ðể đảm bảo cho pháp luật thuế được thực hiện một cách triệt để, tập trung đúng,
đủ, kịp thời nguồn thu từ thuế vào ngân sách Nhà nước, các Luật thuế đều có quy
định các biện pháp chế tài của Nhà nước đối với các thể nhân và pháp nhân vi
phạm Luật thuế, khen thưởng đối với các thể nhân, pháp nhân hoàn thành tốt
nhiệm vụ thu thuế.
Các biện pháp chế tài được áp dụng để đảm bảo sự tuân thủ Luật thuế bao gồm
các biện pháp cưỡng chế hành chính và cưỡng chế tư pháp.
Mỗi Luật thuế sẽ quy định cụ thể cấp có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
cưỡng chế hành chính, giải quyết các khiếu nại, tố cáo trong qúa trình áp dụng
Luật thuế.
V. TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THUẾ
1. Qúa trình hình thành và phát triển bộ máy quản lý Nhà nước về
thuế ở Việt Nam.
Top
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập cho đến nay, cùng với sự
phát triển của ngành tài chính, tổ chức bộ máy tài chính nói chung và tổ chức bộ
máy thu thuế nói riêng được phát triển và hoàn thiện dần, từng bước phù hợp với
cơ chế quản lý kinh tế tài chính phù hợp với tổ chức hành chính Nhà nước và tổ
chức quản lý sản xuất, kinh doanh.
Trước khi tiến hành cải cách hệ thống pháp luật thuế áp dụng chung cho tất cả
các thành phần kinh tế, bộ máy thu thuế Việt Nam được tổ chức như sau:
Bộ máy thu thuế được tổ chức theo từng thành phần kinh tế, phù hợp với chế độ
thu thuế áp dụng cho mỗi thành phần kinh tế, đó là:
· Bộ máy thu quốc doanh và quản lý tài chính xí nghiệp quốc doanh: chịu
trách nhiệm quản lý các khoản thu từ xí nghiệp quốc doanh.
· Bộ máy thu thuế nông nghiệp: chịu trách nhiệm quản lý thu thuế hợp tác xã
nông nghiệp và cá thể.
· Bộ máy thu thuế công thương nghiệp: chịu trách nhiệm quản lý thu thuế
công thương nghiệp đối với kinh tế tập thể, cá thể kinh doanh công thương
nghiệp.
Ðối với khu vực xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, Nhà nước thực hiện quản lý và
thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thông qua bộ máy thu thuế là Tổng cục hải
quan.
Về hình thức tổ chức cũng có nhiều thay đổi qua các thời kỳ: có lúc bộ máy thu
thuế được tổ chức thành hệ thống dọc, trực tuyến từ trung ương xuống đến quận,
huyện; có lúc bộ máy thu thuế được tổ chức thành một bộ phận nằm trong cơ cấu
bộ máy của cơ quan tài chính các cấp.
2. Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về thuế hiện nay.
Top
Ðể phù hợp với tình hình mới của đất nước, yêu cầu cấp bách phải tổ chức bộ
máy thu thuế thống nhất trong cả nước. Ngày 7/8/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban
hành Nghị định số 281/HÐBT về việc thành lập bộ máy thu thuế Nhà nước trực
thuộc Bộ Tài chính. Ngày 21/8/1991 Bộ Tài chính ra Quyết định số 316 TC-
QÐ/TCCB thành lập Tổng cục Thuế Nhà nước trực thuộc Bộ tài chính làm nhiệm
vụ quản lý thuế nội địa. Việc quản lý thuế xuất nhập khẩu do Tổng cục Hải quan
tiếp tục thực hiện.
2.1 Nguyên tắc tổ chức hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước về thuế.
Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tổ chức bộ máy quản lý thu thuế Nhà nước được tổ chức thống nhất từ trung
ương đến cơ sở, cùng thực hiện nhiệm vụ tổ chức thực hiện các Luật thuế trong
cả nước.
Tính thống nhất và hệ thống trong tổ chức bộ máy thu thuế được thể hiện ở các
điểm sau:
· Hệ thống thu thuế Nhà nước thực hiện chức năng quản lý thống nhất trong
cả nước về công tác thu thuế và các khoản thu khác của ngân sách Nhà nước đối
với tất cả các thành phần kinh tế; không một tổ chức hay cá nhân nào được đứng
ra tổ chức thu thuế nếu không được sự ủy quyền của cơ quan thuế.
· Các nghiệp vụ thu thuế và các khoản thu khác đối với các đối tượng nộp
thuế được chỉ đạo và tổ chức thực hiện thống nhất trong toàn ngành thuế nhằm
đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật thuế và các chế độ thu khác.
· Cơ quan thuế các cấp được tổ chức theo một mô hình thống nhất. Việc
quản lý biên chế, cán bộ, kinh phí chi tiêu, thực hiện các chính sách đối với cán
bộ cũng như tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ thuế được thực hiện thống nhất
trong toàn ngành thuế.
Cơ quan thuế địa phương chịu sự lãnh đạo song trùng của Bộ trưởng Bộ tài chính
và Chủ tịch Uớy ban nhân dân tỉnh.
Các cơ quan thuế từ trung ương đến địa phương nằm trong hệ thống các cơ quan
Nhà nước, có tư cách pháp nhân.
2.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thuế.