Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

LỢI ÍCH KINH tế và PHÂN PHỐI CHO TIÊU DÙNG cá NHÂN TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.31 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, sự tồn tại và phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách
quan. Một trong những yêu cầu của nền kinh tế thị trường là phải quan tâm đến lợi
ích kinh tế của các chủ thể kinh tế, bảo đảm sự công bằng bình đẳng trong xã hội
cần thực hiện tốt vấn đề phân phối cho tiêu dùng cá nhân, đây là động lực đòn bẩy
của phát triển kinh tế. Để hiểu rõ vấn đề này hôm nay tôi xin giới thiệu với các
đồng chí bài: LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ PHÂN PHỐI CHO TIÊU DÙNG CÁ NHÂN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Căn cứ biên soạn bài giảng:
1. Giáo trình chính trị (dùng tập huấn cán bộ Ban chỉ huy quân sự cấp xã liên thông
từ TCCN lên CĐ ngành QSCS)
2. Tập đề cương bài giảng môn chính trị, đào tạo liên thông từ TCCN lên CĐ
ngành QSCS theo hình thức vừa học vừa làm, Trường Sỹ quan Lục quân 1; Hà Nội
2013.
I. LỢI ÍCH KINH TẾ
1. Bản chất, vai trò của lợi ích kinh tế
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều bao gồm một hệ thống phức hợp các lợi
ích. Trong đó, lợi ích kinh tế có ý nghĩa quan trọng và quyết định nhất.
1
- Khái niệm
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, phản ánh mục đích và động cơ khách quan
của các chủ thể khi tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ
sản xuất quyết định.
+ Lợi ích kinh tế có liên quan chặt chẽ đến nhu cầu của con người, bắt nguồn
từ nhu cầu và là cái để thoả mãn nhu cầu, do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định.
+ Đây là nhu cầu bất kỳ mà là những nhu cầu vật chất, chỉ có nhu cầu vật
chất mới làm nẩy sinh lợi ích kinh tế.
+ Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, nó xuất hiện gắn với
những điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội và con người.
Lợi ích kinh tế được biểu hiện ở mức độ của cải vật chất mà mỗi con người


có được khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Bản chất:
Lợi ích kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong các hoạt
động kinh tế để tạo ra của cải vật chất.
+ Những quan hệ đó chính là quan hệ sản xuất trong một xã hội.
=> Vì vậy, lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất trong
mỗi xã hội nhất định, được quy định một cách khách quan bởi phương thức sản
xuất, bởi hệ thống quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Không có các lợi ích kinh tế nằm ngoài các quan hệ sản xuất, mà nó là sản
phẩm của quan hệ sản xuất, là hình thức tồn tại và biểu hiện của quan hệ sản xuất.
( Đăt câu hỏi 3 mặt của QHSX, gồm: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối),
trong đó lợi ich kinh tế sẽ thể hiện qua phân phối.
+ Quan hệ kinh tế quyết định lợi ích kinh tế thông qua vị trí và vai trò của
mỗi người, mỗi chủ thể hoạt động kinh tế - xã hội.
Mỗi chế độ xã hội đều dựa trên một hệ thống quan hệ sản xuất nhất định,
theo đó sẽ có một hệ thống lợi ích kinh tế tương ứng. Giai cấp nào nắm quyền sở
hữu tư liệu sản xuất thì cũng có quyền chi phối cả hệ thống lợi ích kinh tế.
2
Ví dụ: trong xã hội CSNT giai cấp chủ nô nắm tư liệu sản xuất, đương nhiên
sẽ được hưởng nhiều lợi ích về mặt kinh tế, giai cấp nô lệ chỉ được coi là công cụ
biết nói, chủ nô cho bao nhiêu biết bấy nhiêu.
+ Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất.
* Lợi ích kinh tế còn bao hàm trong đó mục đích và sự lựa chọn những
phương thức hoạt động nhằm thoả mãn những nhu cầu khách quan của cuộc sống.
Ví dụ: sản xuất mặt hàng nào đem lại lợi nhuận cao là do con người đặt ra.
* Nó cũng thể hiện trong tất cả bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.
Cần nhận rõ rằng, ở đâu có hoạt động sản xuất - kinh doanh thì ở đó có lợi ích kinh
tế và chủ thể sản xuất kinh doanh cũng đồng thời là chủ thể của lợi ích kinh tế.
- Vai trò của lợi ích kinh tế
+ Trong hệ thống lợi ích của con người, lợi ích kinh tế giữ vai trò quyết định

nhất, chi phối các lợi ích khác.
Đây là một trong những vấn đề rất trọng yếu của sản xuất và đời sống.
Trong hệ thống lợi ích của con người nói chung như: lợi ích kinh tế, chính
trị, tư tưởng, văn hoá xã hội thì lợi ích kinh tế giữ vai trò quyết định nhất, chi
phối các lợi ích khác.
Bởi lẽ, lợi ích kinh tế gắn liền với nhu cầu vật chất, là nhu cầu cơ bản cho
con người và xã hội tồn tại và phát triển. Khi lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ là
điều kiện thực hiện các lợi ích khác.
Ví dụ: các cuộc đấu tranh của các giai câp như nô lệ, nông dân, vô sản bước
đầu trước hết là vì mục đích kinh tế.
+ Lợi ích kinh tế giữ vai trò "động lực kinh tế" thúc đẩy con người và các
chủ thể kinh tế quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh.
* Nó giúp quan tâm đến kết quả sản xuất - kinh doanh; gắn bó những con
người lao và tạo ra động cơ, thôi thúc sự say mê trong hoạt động sản xuất - kinh
doanh của họ.
* Quan điểm duy vật lịch sử cho thấy, mọi động lực, suy đến cùng đều do
3
động lực kinh tế quyết định.
=> Vì vậy, lợi ích kinh tế nếu được nhận thức và thực hiện đúng thì nó sẽ
trở thành động lực cơ bản của sự tiến bộ xã hội nói chung, phát triển sản xuất -
kinh doanh nói riêng.
+ Lợi ích kinh tế củng cố, duy trì các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể
sản xuất - kinh doanh.
* Con người tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới những lợi ích
kinh tế tương xứng với kết quả sản xuất - kinh doanh.
* Ngược lại, không mang lại lợi ích, hoặc lợi ích không được thực hiện đầy
đủ thì sẽ làm cho các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bị xói mòn, thậm chí
dẫn đến chỗ rạn nứt, làm phát sinh những tiêu cực trong sản xuất - kinh doanh.
Ví dụ: người làm nhiều mà hưởng ít sẽ làm mối quan hệ chủ tớ, người làm
thuê theo hướng tiêu cực.

* Vai trò động lực của lợi ích kinh tế được thể hiện qua: tiền lương, giá cả,
thuế, lợi tức, lợi nhuận v.v…
Những phạm trù này được nhà nước vận dụng thông qua việc ban hành các
chính sách kinh tế. Những chính sách và quyết định kinh tế đó có liên quan đến lợi
ích của cá nhân người lao động, của doanh nghiệp và của nhà nước.
Trong các xã hội khác nhau, do quan hệ sản xuất thống trị khác nhau nên vai
trò động lực của lợi ích kinh tế cũng được biểu hiện khác nhau.
Ví dụ: Trong chủ nghĩa tư bản, động lực trực tiếp thúc đẩy các nhà tư bản là
lợi nhuận siêu ngạch. Các nhà tư bản đã đua nhau cải tiến kỹ thuật, áp dụng công
nghệ mới vào sản xuất, nhờ vậy nền sản xuất xã hội có những bước tiến dài.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, do đang tồn
tại nhiều thành phần kinh tế, nên cũng còn nhiều hình thức lợi ích kinh tế khác
nhau và tất yếu cũng xuất hiện nhiều mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế đó.
Một trong những yêu cầu của nền kinh tế là phải kịp thời phát hiện mâu
thuẫn giữa các lợi ích và tìm cách giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn đó, tạo
4
ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
2. Phương hướng vận dụng hệ thống lợi ích kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Hệ thống lợi ích kinh tế
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại nhiều chế độ
sở hữu về tư liệu sản xuất (toàn dân, tập thể, tư nhân), nhiều thành phần kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh, do đó sẽ tồn tại một hệ thống lợi ích
kinh tế phức tạp, đa dạng, với nhiều hình thức khác nhau.
+ Từ góc độ khái quát chung nhất, có hệ thống lợi ích kinh tế xã hội - tập thể
- cá nhân người lao động.
+ Từ góc độ các thành phần kinh tế, hệ thống lợi ích kinh tế gồm có các phân
hệ lợi ích tương ứng với từng thành phần. ( 4 thành phần kinh tế)
+ Từ góc độ bốn khâu của quá trình tái sản xuất, có hệ thống lợi ích tương
ứng với từng khâu: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. (có lợi ích trong sản

xuất, trong phân phối )
=> Ba loại lợi ích này có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó lợi ích
cá nhân người lao động là động lực trực tiếp. Trong điều kiện lâu dài thì lợi ích
toàn xã hội đóng vai trò chủ đạo, bởi vì lợi ích này thể hiện mục đích và nhiệm vụ
phát triển của tiến bộ xã hội và nó cũng bao quát những lợi ích kinh tế căn bản của
tập thể người lao động cũng như của mỗi thành viên trong xã hội.
Quá trình giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế là tạo ra những điều
kiện trong đó việc thực hiện các lợi ích sao cho cùng một hướng và đảm bảo tính
hàng đầu của lợi ích xã hội, cái có lợi đối với xã hội thì phải có lợi đối với tập thể,
cá nhân và mỗi doanh nghiệp.
=> Đó là nguyên tắc cơ bản của sự kết hợp lợi ích kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phương hướng vận dụng các lợi ích kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta
5
+ Thứ nhất, nhà nước phải xây dựng hệ thống chính sách nhằm khai thác
những tiềm năng to lớn trong xã hội.
Thể hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
+ Thứ hai, xác định về lượng của các nhóm lợi ích kinh tế và quan hệ tỷ lệ
giữa các nhóm thông qua hệ thống công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô.
+ Thứ ba, kết hợp hài hoà các lợi ích dân tộc và quốc tế trên cơ sở tuân thủ
nguyên tắc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Nguyên tắc đó là: bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau.
Bởi vì:
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cá nhân, doanh nghiệp… chỉ hành động
khi họ thấy được lợi ích kinh tế của mình. Nhưng do có nhiều lợi ích kinh tế khác
nhau và vì lợi ích riêng của mỗi cá nhân, vì lợi ích cục bộ, trước mắt có thể làm tổn
hại đến lợi ích chung của cộng đồng (tập thể và toàn xã hội).
Vì vậy, Nhà nước phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế,

hướng chúng vào một quỹ đạo chung, tạo động lực lâu bền, mạnh mẽ và vững chắc
cho sự phát triển. (với tư cách là người tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế)
Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế phải tính đến sự đan
cài, chế ước, tác động qua lại giữa các lợi ích kinh tế, đó là lợi ích xã hội, lợi ích
tập thể, lợi ích bản thân người lao động. Đồng thời, phải tính toán một cách toàn
diện, đảm bảo lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích toàn cục và bộ phận.
Ví dụ: thông qua các hình thức thuế thu nhập cá nhân, phân phối lại, phúc
lợi an sinh xã hội.
Ở nước ta hiện nay, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đã nói lên sự không
đồng nhất về lợi ích kinh tế - xã hội. Tương ứng với nó có nhiều quy luật kinh tế
hoạt động.
Các quy luật kinh tế phát huy tác dụng trên cơ sở những quan hệ kinh tế
tương ứng và trực tiếp quy định, chi phối sự hình thành các lợi kinh tế của từng giai
6
cấp, từng tầng lớp dân cư trong xã hội.
=> Vì vậy, sự kết hợp các lợi ích kinh tế có ý nghĩa quan trọng, nhằm tạo ra
động lực để thúc đẩy mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Thực hiện vấn đề này, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng chỉ rõ: “ thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn
quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững
hơn cho phát triển kinh tế - xã hội”.
=>Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế, đảm bảo lợi ích trước
mắt và lâu dài, lợi ích toàn cục và bộ phận.
II. PHÂN PHỐI CHO TIÊU DÙNG CÁ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Các hình thức phân phối cho tiêu dùng cá nhân trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a) Phân phối theo lao động.
- Vị trí

Là hình thức phân phối cơ bản dưới chủ nghĩa xã hội, được thực hiện trong
các thành phần kinh tế nhà nước và tập thể.
- Tính khách quan của phân phối theo lao động.
+ Do thành phần kinh tế nhà nước và tập thể dựa trên chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ở các cấp khác nhau.
Các thành phần kinh tế này đều dựa trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất ở các cấp độ khác nhau. Người lao động làm chủ những tư
liệu sản xuất, nên tất yếu cũng làm chủ về phân phối, phân phối phải vì lợi ích của
người lao động.
Có nhiều cách phân phối vì lợi ích của người lao động: phân phối theo nhu
cầu, phân phối bình quân, phân phối theo lao động. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và ngay cả trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản (chủ nghĩa xã
7
hội) cũng chưa thể thực hiện phân phối theo nhu cầu mà chỉ có thể phân phối theo
lao động.
Đồng thời, trong thời kỳ này lao động chưa thực sự trở thành nhu cầu của
cuộc sống mà vẫn còn là phương tiện để kiếm sống, còn những tàn dư ý thức, tư
tưởng của xã hội cũ để lại như: coi khinh lao động, ngại lao động chân tay, chây
lười, làm ít muốn hưởng nhiều,v.v Trong điều kiện đó, thực hiện phân phối theo
lao động sẽ khuyết khích người lao động tích cực trong lao động, giáo dục kẻ lười
biếng, gắn sự hưởng thụ của mỗi người với sự cống hiến của họ.
+ Do trong thời kỳ quá độ có sự khác biệt về tính chất trình độ lao động dẫn
tới sự cống hiến của mỗi người khác nhau.
Mặt khác, do sự cống hiến mỗi người khác nhau, do đó phải căn cứ vào lao
động đã cống hiến cho xã hội của mỗi người để phân phối, nếu không sẽ rơi vào
chủ nghĩa bình quân, kìm hãm sự phát triển sản xuất.
+ Do lực lượng sản xuất chưa phát triển cao, chưa có đủ sản phẩm để phân
phối theo nhu cầu.
Vì phân phối do sản xuất quyết định, cho nên làm nhiều, hưởng nhiều; làm
xấu, làm ít hưởng ít, có khi phải bồi thường lại cho nhà nước.

- Nội dung của phân phối theo lao động
Xã hội dành một phần tư liệu tiêu dùng phân phối cho người lao động căn cứ
vào số lượng, chất lượng hay kết quả lao động mà họ đã cống hiến, không phân biệt
giới tính, chủng tộc và dân tộc. (trên cơ sở bảo đảm người có sức lao động được
quyền lao động)
- Căn cứ để phân phối theo lao động
+ Dựa vào số lượng lao động hoặc số lượng sản phẩm làm ra.
Số lượng lao động: được đo bằng thời gian lao động (giờ, ngày, tuần, tháng),
hoặc số lượng sản phẩm làm ra.
+ Trình độ thành thạo lao động hoặc chất lượng sản phẩm làm ra.
+ Hiệu quả sản xuất kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp.
8
+ Điều kiện và môi trường lao động
Như: nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm lao động ở những vùng có nhiều khó
khăn, xa xôi, hẻo lánh như miền núi, hải đảo…
Hình thức cụ thể như: tiền công, tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp
Tiền công trong các đơn vị sản xuất kinh doanh; tiền lương trong các đơn vị
sự nghiệp, hành chính; tiền thưởng; tiền phụ cấp.
- Tác dụng và hạn chế của phân phối theo lao động
+ Tác dụng
* Phân phối theo lao động là phương thức phân phối hợp lý, có tác dụng thúc
đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm và thái độ lao động, củng cố kỷ luật
lao động, tăng năng suất lao động.
* Phân phối theo lao động còn kích thích mọi người học tập, nâng cao trình
độ văn hoá, tích cực rèn luyện tay nghề, nâng cao hiệu quả lao động.
* Trên cơ sở đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của người
lao động, vừa bảo đảm tái sản xuất sức lao động, vừa tạo mọi điều kiện cho người
lao động phát triển toàn diện.
* Hình thức phân phối theo lao động là hình thức phân phối tiến bộ, công
bằng nhất.

+ Hạn chế
Phân phối theo lao động, về nguyên tắc vẫn là sự bình đẳng trong khuôn khổ
pháp quyền tư sản, tức là sự bình đẳng trong xã hội sản xuất hàng hoá theo nguyên
tắc sự trao đổi ngang giá.
Hạn chế của phân phối theo lao động là điều không thể tránh khỏi trong giai
đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Chỉ khi nào, cùng với sự phát triển toàn diện của cá nhân, năng suất lao động
của họ ngày càng cao và tất cả các nguồn của cải của xã hội đều tuôn ra dồi dào,
người ta mới có thể vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của cái pháp quyền tư sản và
xã hội mới có thể thực hiện phân phối theo nhu cầu. Chỉ khi đó mới có sự bình
9
đẳng thực sự.
b) Các hình thức phân phối trong các thành phần kinh tế khác.
- Trong đơn vị kinh tế hợp tác bậc thấp, phân phối dựa kết quả lao động và
theo góp vốn cổ phần.
Ví dụ: trong sản xuất của một doanh nghiệp tư nhân: người công nhân sẽ
được hưởng tiền lương từ kết quả lao động đồng thời cũng được hưởng tiền từ số
vốn anh ta góp vào trong sản xuất.
- Trong các đơn vị kinh tế cá thể, tiểu chủ, thu nhập của người lao động phụ
thuộc vào sở hữu tư liệu sản xuất, vốn đầu tư và khả năng sản xuất kinh doanh.
Đó là tài năng sản xuất kinh doanh của chính bản thân họ.
Ví dụ: trong kinh doanh cá thể: sự phân phối đó phụ thuộc vào khả năng kinh
doanh, tiếp thị sản phẩm.
- Trong các đơn vị kinh tế tư bản tư nhân phân phối dựa trên sở hữu vốn cổ
phần, sở hữu tư bản, giá cả sức lao động, v.v
Ví dụ: trong công ty nước ngoài việc phân phối đó do giá cả sức lao động, do
đóng góp cổ phần ( người đóng góp là những cổ đông). Nhiều người lao động tìm
việc sẽ trả tiền công ít đi, ít người lao động hoặc ngành nghề đó đòi hỏi kỹ thuật
cao nên phải trả tiền cao hơn )
c) Phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội

- Vị trí
Đây là hình thức phân phối bổ sung cho phân phối theo lao động.
Phân phối thu nhập cá nhân thông qua quỹ phúc lợi tập thể và phúc lợi xã
hội, góp phần nâng cao mức sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Sự phân phối này có ý nghĩa rất quan trọng vì nó góp phần:
Phát huy tính tích cực lao động của mọi thành viên trong xã hội.
Nâng cao thêm mức sống của toàn dân.
Có ý nghĩa quan trọng đối với những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn.
Làm giảm sự chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các thành viên trong
10
cộng đồng.
- Nội dung
Người lao động được hưởng các nhu cầu vật chất,tinh thần thông qua các
quỹ phúc lợi xã hội.
Như: quỹ phúc lợi công cộng, quỹ xóa đói giảm nghèo, quỹ hõ trợ người
nghèo, học tập chữa bệnh.
- Tính hợp lý của quỹ phúc lợi xã hội hiện nay( Yêu cầu)
` Phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quỹ phúc lợi tập thể và phúc lợi xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong
quá trình phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng, song quỹ đó chỉ có ý
nghĩa tích cực khi được quy định và sử dụng một cách hợp lý, phù hợp với yêu cầu
và điều kiện khách quan, cụ thể là:
+ Quỹ phúc lợi xã hội không vượt quá khả năng của nền kinh tế.
+ Tốc độ tăng thu nhập trực tiếp của người lao động tăng nhanh hơn tốc độ
tăng phúc lợi xã hội.
+ Phúc lợi xã hội phải được giải quyết theo tinh thần xã hội hóa vì lợi ích của
người lao động.
Việc sử dụng quỹ phúc lợi tập thể và phúc lợi xã hội phải có hiệu quả, thiết
thực, phù hợp với lợi ích và nhu cầu bức thiết của quần chúng, phát huy cao nhất
tác dụng của nó.

2. Các giải pháp định hướng xã hội chủ nghĩa trong phân phối cho tiêu
dùng cá nhân thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam
- Phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, tăng năng suất lao động
xã hội
Phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại là điều kiện nhằm bảo đảm
tốt cho tiêu dùng cá nhân.
+ Phương thức phân phối còn do số lượng sản phẩm có thể phân phối quyết định.
Do vậy, muốn thực hiện được ngày càng đầy đủ sự công bằng xã hội trong
11
phân phối cho tiêu dùng cá nhân thì phải sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm.
+ Để tạo ra được nhiều sản phẩm, phải phát triển lực lượng sản xuất theo
hướng hiện đại.
Phải khơi dậy và phát huy được mọi tiềm năng vật chất, tinh thần của đất nước.
Đẩy mạnh tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, chống chủ nghĩa
bình quân và thu nhập bất hợp lý, bất chính
+ Cơ sở
* Tiền công, tiền lương nhìn chung vẫn chưa phù hợp với cơ chế kinh tế mới.
Tiền lương chưa thực sự là thước đo giá trị sức lao động, chưa đảm bảo tái
sản xuất sức lao động, chưa trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc.
Tiền lương vẫn còn mang tính chất bình quân, bao cấp.
* Nhà nước chưa làm chủ hoàn toàn trong việc kiểm soát và quản lý tiền
lương, thu nhập nói chung của các cá nhân trong xã hội.
* Việc phân phối thu nhập cá nhân, ngoài tính chất bình quân còn thiếu công bằng,
chứa đựng những chênh lệch bất hợp lý giữa các vùng, miền, ngành… khác nhau.
Tiền lương thực tế giảm sút do giá tăng, đời sống của người lao động còn
nhiều khó khăn…
+ Biện pháp
* Cần có chính sách phân phối bảo đảm thu nhập của người lao động có thể

tái sản xuất sức lao động.
* Gắn chặt tiền công, tiền lương với năng suất, chất lượng và hiệu quả sức
lao động; đảm bảo quan hệ hợp lý về thu nhập cá nhân giữa các ngành nghề.
Ví dụ: kết luận số 63 ( kết luận trung ương khóa 7 năm 2013 về “ cải cách
chính sách tiền lương bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng
cải cách đến năm 2020”
* Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính, tiền tệ hoá tiền lương và thu
12
nhập, xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối.
Ví dụ: việc sử lý các thành viên trong công ty môi trường đô thị ở thành phố
Hồ Chí Minh với mức lương 2 tỉ/ năm.
- Điều tiết hợp lý thu nhập giữa các tầng lớp dân cư
+ Cơ sở
Trong thời kỳ quá độ ở nước ta có sự sự chênh lệch về mức thu nhập giữa
các tập thể, cá nhân.
Mặt khác, nhà nước phải hạn chế sự chênh lệch thu nhập quá đáng để không
dẫn tới sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập, bằng cách điều tiết thu nhập và
các giải pháp quản lý.
Ngay cả trong các nhà nước tư bản chủ nghĩa cũng phải điều tiết thu nhập
nhằm duy trì sự ổn định xã hội.
Ở nước ta, việc điều tiết thu nhập càng quan trọng, nhằm hạn chế sự chênh lệch
quá đáng về thu nhập để không dẫn tới sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập.
+ Biện pháp
Điều tiết thu nhập cá nhân được thực hiện thông qua hình thức điều tiết
giảm và điều tiết tăng thu nhập.
* Điều tiết làm giảm thu nhập cá nhân được thực hiện thông qua hình thức
thuế thu nhập cá nhân và hình thức tự nguyện đóng góp của cá nhân có thu nhập
cao vào quỹ phúc lợi xã hội, từ thiện… trong đó, thuế thu nhập cá nhân là hình thức
quan trọng nhất.
Đối với nước ta, mục đích của điều tiết giảm thu nhập là để thực hiện từng

bước sự công bằng xã hội, đồng thời không triệt tiêu động lực tăng thu nhập hơn
nữa của các bộ phận dân cư có thu nhập cao.
Để giải quyết tốt việc này, cần nắm vững thu nhập cá nhân trên cơ sở phân
biệt được chính xác các nguồn thu nhập cá nhân, bằng các biện pháp giáo dục, hành
chính và kinh tế.
* Điều tiết làm tăng thu nhập cá nhân được thực hiện thông qua ngân sách
13
nhà nước, ngân sách của các tổ chức chính trị - xã hội, các quỹ bảo hiểm, các khoản
trợ cấp, phụ cấp, các hình thức tín dụng…
Nhằm trợ giúp thường xuyên cho người có thu nhập thấp, những người thuộc
diện chính sách xã hội, những người không may gặp rủi ro,v.v
- Khuyến khích làm giàu đúng pháp luật đi đôi với thực hiện có hiệu quả các
chính sách xoá đói giảm nghèo
Mục tiêu phấn đấu của chúng ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Vì vậy, nhà nước tạo điều kiện, giúp đỡ bằng nhiều biện pháp khuyến khích
làm giàu theo pháp luật.
+ Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở
mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động.
* Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp
luật, phát triển dịch vụ việc làm. Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các
nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, vươn lên thoát đói nghèo vững
chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo.
* Khắc phục tình trạng bao cấp, ỷ lại. Phân bố lại dân cư và lao động trên
địa bàn cả nước. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, tạo điều
kiện cho mọi người lao động tự tạo việc làm, tự tìm việc làm phù hợp .
+ Thực hiện xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và các hoạt động nhân
đạo, từ thiện.
Trước mắt là phải thực hiện tốt các chương trình kinh tế như:
* Chương trình xoá đói, giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng,

vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chương trình giải quyết việc làm.
* Các chính sách về phát triển cơ sở hạ tầng, trợ giúp đầu tư phát triển sản
xuất tại vùng nông thôn, nhất là nông thôn miền núi.
- Kết hợp khuyến khích bằng lợi ích vật chất với giáo dục chính trị tư tưởng.
Cùng với việc khuyến khích lợi ích vật chất đối với người lao động, phải coi
14
trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho họ.
Con người có nhu cầu vật chất và văn hoá, nên chịu sự thúc đẩy của những
động lực kinh tế và tinh thần.
Động lực kinh tế không thể tách rời động lực tinh thần. Do đó, Trước mắt,
cần làm rõ nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của người lao động, động viên mọi
người tích cực tham gia lao động sản xuất, đấu tranh đẩy lùi những hiện tượng tiêu
cực như làm bừa, làm ẩu, làm hàng giả, gian lận, chạy theo lợi ích cục bộ.
Phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức cần
kiệm, tôn trọng pháp luật, … để xây dựng và phát triển đất nước.
KẾT LUẬN
Lợi ích kinh tế và phân phối cho tiêu dùng cá nhân là động lực quan trọng để
thúc đẩy phát triển kinh tế ở mọi nền kinh tế nói chung. Đối với nước ta, trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần thực hiện đa dạng nhiều hình thức sở hữu với
nhiều thành phần kinh tế. Xuất phát từ mô hình chủ nghĩa xã hội mà nước ta đang
xây dựng, đó là một xã hội vì con người,bảo đảm công bằng, việc phân phối theo
tiêu dùng là một điều kiện quan trọng nhằm bảo đảm cho các đối tượng trong xã
hội được hưởng những thành quả tốt đẹp nhất trong xã hội. Do đó cần thực hiện
nhiều hình thức phân phối khác nhau, để phát huy sức mạnh trọng sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Làm rõ hệ thống lợi ích kinh tế và phương hướng vận dụng các lợi ích
15
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ?
2. Trình bày nguyên tắc phân phối theo lao động và các giải pháp định hướng

xã hội chủ nghĩa trong phân phối cho tiêu dùng cá nhân trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ?
16

×