Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Con đường mới của vật lý - phần kết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.06 KB, 12 trang )

CON ĐƯỜNG MỚI CỦA VẬT LÝ HỌC

258
LIỆT KÊ NHỮNG KHÁI NIỆM VÀ Ý TƯỞNG KHÁC BIỆT SO VỚI
CÁC TÀI LIỆU TRUYỀN THỐNG
Chương I.
1. Khái niệm vật chất
2. Khái niệm không gian
3. Khái niệm vận động
4. Khái niệm thời gian
5. Trật tự lôgíc các phạm trù triết học cơ bản
6. Khái niệm thực thể vật lý
7. Khái niệm hạt cơ bản
8. Hệ quy chiếu
9. Đại lượng véc tơ và tổng các đại lượng véc tơ
10. Đặc tính vô hướng của quãng đường
11. Khái niệm năng lượng
12. Đặc tính véc tơ của năng lượng
13. Khái niệm ngoại năng và quan hệ biện chứng giữa nội năng và ngoại
năng
14. Khái niệm cơ năng và định luật bảo toàn năng lượng toàn phần
15. Nguyên lý hữu hạn
16. Nguyên lý nội năng tối thiểu
17. Nguyên lý cho-nhận năng lượng
18. Nguồn gốc của hiện tượng quán tính
19. Khái niệm chuyển động theo quán tính
20. Nguyên lý tác động tối thiểu
21. Mô men động lượng ảo của hệ các vật thể ở khoảng cách xa nhau
22. Định luật quán tính tổng quát
CON ĐƯỜNG MỚI CỦA VẬT LÝ HỌC


259
23. Định luật 2 tổng quát của động lực học
Chương II.
24. Khái niệm khối lượng quán tính chung
25. Khái niệm khối lượng quán tính riêng
26. Quan hệ giữa khối lượng quán tính và khối lượng hấp dẫn
27. Khái niệm động năng (chỉ có nghĩa trong trường lực thế)
28. Sự phá vỡ định luật bảo toàn động lượng trong các va chạm lệch tâm
29. Biểu thức năng lượng toàn phần của thực thể vật lý và biểu đồ diễn biến
năng lượng trong chuyển động rơi tự do
30. Biểu thức năng lượng toàn phần của thực thể vật lý và biểu đồ diễn biến
năng lượng trong chuyển động theo quán tính
31. Tính lượng tử quỹ đạo của trường hấp dẫn
32. Khái niệm tự quay (chỉ có nghĩa trong trường lực thế)
Chương III.
33. Khái niệm electron và positron không có khối lượng hấp dẫn
34. Khái niệm cường độ trường và từ cảm
35. Hình thức luận của trường điện động – từ trường
36. Định luật vạn vật hấp dẫn tổng quát (điện và hấp dẫn)
37. Bán kính tác dụng của dipol trong trường điện
38. Khái niệm “hấp dẫn tích” hình thành từ dipol
39. Sự đi xuyên qua nhau của electron và positron
40. Sự phụ thuộc kích thước các hạt cơ bản vào trạng thái năng lượng
41. Cấu trúc của photon
42. Giả thuyết về va chạm giữa photon với các thực thể vật lý khác
43. Giả thuyết về biểu hiện như sóng của hạt photon
CON ĐƯỜNG MỚI CỦA VẬT LÝ HỌC

260
44. Hiệu ứng “nhiễu xạ hấp dẫn” trong thiên văn học

45. Trạng thái năng lượng của nguyên tử
Chương IV.
46. Sự hình thành các hạt sơ cấp từ DR
47. Cấu trúc MP của các hạt sơ cấp
48. Giả thuyết về sự hình thành tương tác mạnh từ tương tác giữa các DR ở
cự ly nhỏ hơn bán kính tác dụng
49. Giả thuyết về sự hình thành tương tác yếu từ kết quả nguội dần của phản
ứng tạo thành các hạt sơ cấp
50. Giả thuyết về vận tốc lan truyền tương tác của trường lực thế lớn hơn
vận tốc ánh sáng
51. Tương tác giữa các vật thể chuyển động nhanh











CON ĐƯỜNG MỚI CỦA VẬT LÝ HỌC

261
LỜI KẾT
“Vì tôi đứng trên vai những người khổng lồ”
Isaac Newton
Việc phải trình bầy một cuốn sách mà nội dung của nó, về thực chất, chủ
yếu lại chỉ dựa vào những vấn đề chưa được đăng tải ở bất cứ một tạp chí nào,

chưa từng được công nhận ở bất cứ đâu, hơn thế nữa, lại còn đang cần phải được
nghiên cứu tiếp, là một việc làm xưa nay hiếm, trái với trình tự thông thường đã
được chấp nhận rộng rãi. Nhiều người cũng đã khuyên tác giả gửi đăng một số nội
dung cơ bản vào những tạp chí nước ngoài có uy tín, nếu được chấp nhận thì trên
cơ sở đó mới tổng hợp lại thành một cuốn sách. Tác giả cũng đã từng thử gửi bài
nhưng, rất tiếc, bản dịch sang tiếng Anh có chất lượng quá thấp, vì bản thân mình
không thạo tiếng Anh, còn các trung tâm dịch thuật lại thiếu các chuyên gia
chuyên nghành nên rút cuộc không đem lại kết quả gì. Tuy nhiên, cho dù có được
các bản dịch khả dĩ đi chăng nữa thì khả năng được chấp nhận đăng trong các tạp
chí có uy tín là rất mong manh vì nội dung mà tác giả sửa đổi hoàn toàn không
phù hợp một chút nào với trào lưu tư tưởng của thời đại với nghĩa là dường như
nó quá tầm thường; thậm chí đã có một vài báo cáo được gửi cho các hội nghị vật
lý toàn quốc thôi mà cũng đã bị từ chối.
Thật ra, xét về mặt phương pháp luận, khi phải đối mặt với một hiện tượng
đặc biệt, không giống như những hiện tượng thông thường khác, việc áp dụng các
giải pháp thông thường mới là chính là phi lôgíc, trái lại, cần phải có các cách tiếp
cận khác, cũng phải đặc biệt tương ứng. Nội dung của cuốn sách này làm thay đổi
vật lý học ngay từ gốc rễ của nó bao gồm từ nền tảng tư tưởng cho tới các khái
niệm, quy luật ... (tới hơn 50 hạng mục đã được liệt kê) kể từ Galileo với nguyên
lý quán tính, nguyên lý tương đối trở lại đây – đó là việc mà trong lịch sử của
khoa học vật lý chưa ai từng làm như vậy cả. Einstein đã làm cuộc cách mạng lần
CON ĐƯỜNG MỚI CỦA VẬT LÝ HỌC

262
thứ nhất với thuyết tương đối hẹp, nhưng lại vẫn quan niệm về “sự tồn tại tự thân”
và do đó vẫn giữ lại nguyên lý quán tính và nguyên lý tương đối, chỉ chấp nhận
thêm tiên đề “vận tốc ánh sáng trong HQC quán tính không phụ thuộc vào chuyển
động của nguồn sáng”. Khi làm cuộc cách mạng lần thứ hai với thuyết tương đối
rộng, Einstein từ bỏ HQC quán tính nhưng lại vẫn công nhận nguyên lý tương
đương – trường hấp dẫn tương đương với “trường quán tính”, nhưng như thế có

khác gì vẫn công nhận tồn tại “khối lượng quán tính tự thân” – nguyên nhân dẫn
đến cái gọi là “trường quán tính” đó và chính bản thân cái gọi là HQC quán tính
nữa – kết quả của quan niệm “tồn tại tự thân”? Đó là một động thái xét cho cùng
là không triệt để.
Với cơ học lượng tử, tình trạng còn tồi tệ hơn khi vừa chấp nhận “sự tồn tại
tự thân”, lại vừa chỉ thỏa mãn với hình thức biểu hiện của các hiện tượng như
“lưỡng tính sóng-hạt, “lượng tử hóa quỹ đạo”, thay vì phải từ bỏ ngay chính “sự
tồn tại tự thân” mà quay về với “sự tồn tại phụ thuộc” vốn là bản chất của thế giới
tự nhiên. Tình hình cũng không hề được cải thiện hơn khi người ta tìm mọi cách
gắn kết với thuyết tương đối hẹp để cho ra đời điện động lực học lượng tử, rồi lý
thuyết trường lượng tử, và bước tiếp theo là tìm mọi cách gắn nó với thuyết tương
đối rộng bất chấp tính “bất hợp tác” có căn nguyên từ chính bản chất của 2 lý
thuyết này. Sự “cố kiết” đó dẫn đến việc “sáng chế ra” những “không gian n >3
chiều một cách nhân tạo, hoàn toàn rời xa bản chất vật lý. Tóm lại, kiểu gì thì vẫn
còn lại ít nhất một yếu tố bất định của quá khứ tồn đọng đó là “khối lượng quán
tính tự thân” (hệ quả tất yếu của “sự tồn tại tự thân”) đầy bí ẩn.
Chính vì tính hy hữu này của CĐM, tác giả mới quyết định lựa chọn một
giải pháp cũng “hy hữu”, chẳng giống ai, là tập hợp tất cả các nghiên cứu của
mình, cho dù là chưa hoàn chỉnh và còn lâu mới đầy đủ, thành một cuốn sách có
tính hệ thống hơn với hy vọng, như đã nói tới ở ngay lời mở đầu, là sẽ có ai đó

×