ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PGS–TS Võ Hưng
ThS Nguyễn Thò Kim Loan
ThS Phạm Thò Bích Ngân
BỆNH HỌC
MÔI TRƯỜNG
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA
TP HỒ CHÍ MINH – 2006
3 4
LỜI NÓI ĐẦU
Trong tiến trình phát triển và hội nhập, để phát triển bền
vững, mỗi quốc gia đều có chiến lược và kế hoạch phát triển riêng
nhưng không nằm ngoài khuôn khổ hoạch đònh chung của toàn thế
giới.
Phát triển bền vững không chỉ là phát triển, sử dụng và bảo
vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên lâu bền, mà còn là bảo vệ môi
trường và đòi hỏi các chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng
bởi vì con người cũng là một nguồn tài nguyên. Ô nhiễm môi
trường đã dẫn đến hệ lụy của nó là bệnh tật, giảm sút sức khoẻ và
sự giảm sút khả năng lao động của nhân loại.
Giáo trình Bệnh học Môi trường được biên soạn nhằm mục
đích cung cấp cho học viên hệ Cao học chuyên ngành Sử dụng và
bảo vệ tài nguyên môi trường những khái niệm cơ bản và các mối
liên quan chặt chẽ giữa môi trường và bệnh tật, từ đó giúp học
viên có được những kiến thức cơ bản có thể đònh hướng trong việc
đưa ra các giải pháp cải thiện môi trường, nâng cao sức khoẻ
người lao động và sức khoẻ cộng đồng.
Ngoài ra, giáo trình có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho các giảng viên, sinh viên ngành Khoa học Môi trường –
Bảo hộ lao động, cũng như các ngành Xã hội học, Tâm lý, Giáo
dục học.
Chúng tôi đã cố gắng biên tập những kiến thức cơ bản nhằm
đảm bảo tính Khoa học, tính giáo khoa, tính logic và tính Việt
Nam của một giáo trình.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong việc biên soạn cho phù hợp
với lónh vực môi trường và sức khoẻ, song giáo trình này không
tránh khỏi những thiếu sót về nhiều mặt. Tập thể tác giả rất mong
nhận được nhiều ý kiến đóng góp và bổ sung của bạn đọc để có
thể sửa chữa cho giáo trình được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn.
Tập thể tác giả.
5 6
MỞ ĐẦU
Trong chiến lược “Ổn đònh và phát triển kinh tế xã hội đến
năm 2000” (Đại hội 8) và văn kiện đại hội 8 đều ghi rõ “Đất
nước ta đang ở thời kỳ phát triển mới. Đẩy mạnh công nghiệp hóa
– hiện đại hóa (CNH–HĐH) là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghóa xã hội (CNXH), trong đó con
người ở vò trí trung tâm, vì mục tiêu và động lực chung của sự
phát triển là vì con người, do con người”.
Mọi chương trình dự án của Nhà nước, mọi hoạt động nhằm
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội đều nhằm vào đích cuối
cùng là cuộc sống ngày càng tốt đẹp của con người cả về vật
chất lẫn tinh thần, bởi vì chính con người làm nên tất cả, con
người làm thay đổi xã hội, phát triển xã hội. Do đó chính con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển xã hội, kinh tế.
Con người là một thực thể sinh học tồn tại trong tổng thể
các mối quan hệ hài hòa với nhau. Về bản chất con người được
cấu tạo từ những đơn vò nhỏ nhất là các tế bào sống. Các tổ chức
cơ quan, bộ máy cơ thể đảm nhiệm những chức năng nhất đònh
cho sự sống của con người. Từ khi sinh ra, tăng trưởng, phát triển
và già đi con người luôn tồn tại trong môi trường tự nhiên và xã
hội, chòu tác động từ nhiều phía, trong mối quan hệ chằng chòt
của nhiều yếu tố có tác động lẫn nhau. Môi trường xã hội là môi
trường giữa con người với con người, với tư cách là:
– Cá thể khi đại diện cho loài người – cá thể của một loài.
– Cá nhân khi là thành viên của xã hội – cá nhân trong một
cộng đồng.
– Nhân cách khi đóng vai trò chủ thể của hoạt động xã hội
Các mối liên hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với
cộng đồng, cộng đồng với cộng đồng theo huyết thống, sắc tộc,
tôn giáo, xu hướng, các vấn đề truyền thống, bản sắc dân tộc,
đạo đức, lối sống… đều là những nhân tố xã hội luôn tác động
phức tạp đến con người. Với bản chất di truyền nhất đònh con
người tồn tại và phát triển với tư cách cá nhân hay cộng đồng
trong mối liên quan chặt chẽ với môi trường, tác động qua lại với
môi trường bằng những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực khác
nhau. Mức độ ảnh hưởng đó đến con người ngày nay, khác hẳn
với sinh vật, phụ thuộc vào thái độ cư xử của con người đối với
môi trường.
Nghiên cứu các quy luật tác động giữa môi trường và con
người phải được đặt trong mô hình thống nhất không tách rời
giữa tinh thần và thể xác, không tách rời giữa nhân cách và sinh
thể. Đó là công việc của nhiều lónh vực khoa học khác nhau, do
nhiều ngành khoa học riêng rẽ tiến hành nhưng tất cả đều hướng
về một mục tiêu thống nhất với điều cốt lõi là lấy con người làm
trung tâm. Bảo vệ môi trường cũng chính là vì con người và do
đó cũng không phải là trách nhiệm của riêng ai. Giáo trình này
chỉ giới hạn trong một phạm vi hẹp chủ yếu là tác động của môi
trường (chủ yếu là môi trường tự nhiên) đến cộng đồng người
nhằm hướng tới những giải pháp tổng thể hạn chế ảnh hưởng
xấu, bảo vệ sức khỏe trước mắt và lâu dài cho cộng đồng để lao
động có hiệu quả vì mục tiêu phồn vinh của toàn thể cộng đồng.
Đây chưa phải là một giáo trình Bệnh học thuần túy vì đối tượng
của bệnh học là bệnh nhân và mục tiêu của bệnh học là điều trò
bệnh, đưa trả sức khỏe lại cho người bệnh. Đối tượng của giáo
7 8
trình này là con người bình thường trong môi trường với những
tác động từ nhiều phía gây nhiều hiệu quả khác nhau, cái tích
cực và tiêu cực đan xen nhau, cái xấu lẫn với cái tốt. Mục tiêu
của Giáo trình là trang bò cho học viên những hiểu biết căn bản
về mối quan hệ của các nhân tố môi trường với bản thân con
người trong nhân cách đích thực của họ trước cộng đồng, có quan
hệ mật thiết với cộng đồng nhằm bảo vệ sức khỏe của cộng đồng
trước mắt và lâu dài. Đó cũng là mục tiêu không riêng một giáo
trình này. Tuy nhiên cái khác là ở nội dung và phương pháp
nghiên cứu.
Giáo trình không đi sâu vào những biện pháp kỹ thuật công
nghệ mà chỉ nêu lên những nguyên lý tổng quát dựa trên những
phương pháp nghiên cứu cộng đồng mà một trong những phương
pháp được ứng dụng rộng rãi là Dòch tễ học, nhằm thu thập
những thông tin cơ bản về sức khỏe, tìm hiểu sự phân bố bệnh tật
và yếu tố quyết đònh sự phân bố đó. Dòch tễ học nghiên cứu các
nhóm người, cộng đồng người (chứ không phải là cá thể), phân
tích các nhóm người có bệnh và không có bệnh, tìm ra sự khác
biệt và tiến tới các yếu tố tác động đến quá trình sinh bệnh. Tác
nhân gây bệnh là một bộ phận của tổng thể môi trường. Chính
quan niệm này thể hiện tính đa dạng trong quan hệ giữa con
người với môi trường mà con người là trung tâm của các mối
quan hệ đó.
Có ba cách nghiên cứu dòch tễ học:
– Dòch tễ học mô tả: quan sát, ghi chép các hiện tượng, các
diễn biến, các đặc điểm thấy được ở các đối tượng nghiên cứu.
Đó là phương pháp kinh điển mà ngày nay không ai dừng lại ở
việc mô tả này.
– Dòch tễ học phân tích: mang tính chất của một quy trình
thử nghiệm, sử dụng các nhóm đối chứng, sử dụng các tỷ lệ rút
ra được từ các nhóm để so sánh đối chiếu.
Quá trình thu thập dữ liệu có thể tiến hành theo nhiều cách:
+ Điều tra, hồi cứu: sử dụng những hồ sơ, số liệu thống kê,
tư liệu có sẵn để phân tích, giải trình. Nhược điểm là có khi
không đầy đủ hoặc không đủ tin cậy, phiến diện, chất lượng
không đảm bảo.
+ Điều tra thực đòa: là cách thức phổ biến và cần thiết
(ngay cả khi có điều tra hồi cứu, cũng như kết quả thực nghiệm ở
phòng thí nghiệm) vẫn còn phải được kiểm chứng tại thực đòa)
Ở đây việc chọn mẫu điều tra là vô cùng quan trọng. Mẫu
là một bộ phận của quần thể, cộng đồng. Kết luận rút ra từ mẫu
chỉ có giá trò khi mẫu về số lượng là đủ lớn, về chất lượng là
không chệch và đại diện được cho toàn bộ cộng đồng mà ta
nghiên cứu. Phương pháp lấy mẫu đủ tin cậy thống kê được quy
đònh trong phương pháp thống kê sinh học.
– Dòch tễ học can thiệp: Đây là giai đoạn rất quan trọng
nhưng phần lớn các công trình nghiên cứu đều không đi tới được
giai đoạn này bởi vì nó đòi hỏi thời gian và tốn kém thì mới làm
được. Tuy vậy, nó rất cần thiết và không thể làm khác được nếu
muốn công trình nghiên cứu đi tới được hiệu quả hữu ích cho
cộng đồng.
Từ những dẫn liệu điều tra được cho phép chúng ta đặt ra
giả thiết, tiến hành các thử nghiệm về các giả thiết, các mô hình,
9 10
các biện pháp để qua đó thử nghiệm tính hiệu quả của nó sang
cộng đồng. Thông thường người ta phải chọn mẫu bởi vì:
– Không cách nào thu thập được số liệu trên toàn bộ quần
thể vì sẽ quá lớn, quá tốn kém, quá mất thì giờ, có thể sai sót rất
lớn vì quá nhiều người tham gia.
– Do đó chỉ có thể lấy mẫu, là bộ phận của quần thể. Kết
luận rút ra từ mẫu sẽ đại diện cho quần thể vì thế nó phải đủ lớn
để phù hợp quy luật số đông và không chệch.
– Xác đònh cỡ mẫu phải tùy thuộc vào tính chất nghiên
cứu, mức độ sai số cho phép.
Số trung bình của quần thể là
x
, của mẫu sẽ là x
1,
x
2 ,
x
3
…
x
n.
Số trung bình sẽ dao động quanh số trung bình lý thuyết của
quần thể, tuân theo luật phân phối chuẩn và có độ lệch trung
bình là m
x
.
Độ lệch trung bình của mẫu bằng độ lệch của quần thể chia
cho căn số của n số cá thể.
X
=
()
12 n
xx...x
n1
+++
−
∑
,
()
2
i
xx
n1
−
δ=
−
∑
m
x
=
n
δ
n
=
x
m
δ
Trong thực tế khi cần xác đònh cỡ mẫu phù hợp thì ta làm
thăm dò một số cá thể để tìm được δ, rồi xác đònh độ chính xác
cần thiết và sử dụng công thức:
n =
2
2
4
c
δ
để rút ra số lượng mẫu tối thiểu cần thiết
trong đó c = sai số cho phép
Ví dụ: Khi nghiên cứu về chiều cao của một nhóm cư dân,
ta thăm dò 60 thành viên và có δ
= 5cm, c = 0,5cm.
Số lượng mẫu ta cần có làn =
2
2
45
0, 5
×
= 400 người (là đủ).
Với việc khảo sát tỷ lệ thì ta dùng công thức:
2
pq
c
Ví dụ trong đó:
p: tỷ lệ nhiễm bệnh
1 – p = q: tỷ lệ không nhiễm
Hãy lấy một ví dụ về nghiên cứu ảnh hưởng của môi
trường đến sức khỏe của dân cư ở một đòa bàn đô thò hóa tại
TPHCM:
Một cụm dân cư khoảng 20 nóc nhà quanh năm ngập ngụa
ở gần ngã tư 4 xã giáp ranh giữa huyện Bình Chánh và quận Tân
Bình có 41 em từ 6 – 10 tuổi, có tỷ lệ bệnh khác xa với 48 em ở
38 nóc nhà thuộc một cụm dân trên đường Tân Kỳ – Tân Quý
thuộc Bình Hưng Hòa, nơi khô ráo nhưng chòu nhiều bụi do giao
thông và do lò thiêu Bình Hưng Hòa.
Số liệu khảo sát như sau:
Bảng 1:
11 12
Bệnh ngoài da Bệnh tiêu
chảy
Môi trường
Có Không Có Không
Nước thải chảy tràn, ô nhiễm nặng
Nước thải ít, môi trường tương đối
khô.
35
8
6
40
31
9
10
39
Bảng 2:
Bệnh đường hô hấp Môi trường
Có bệnh Không bệnh
Nhiều bụi
Ít bụi
28
12
13
36
(Nguồn: Số liệu rút gọn từ đề tài nghiên cứu “Tác động
của đô thò hóa, công nghiệp hóa đến môi trường sống dân cư một
số vùng ngoại thành năm 2002)
Các chỉ số được dùng để mô tả sự liên quan giữa bệnh tật
và tiếp xúc với yếu tố độc hại được tính theo mô thức bệnh
chứng như sau:
Bảng 3:
Bệnh
Có Không Tổng số
Có a b a + b
Không c d c + d
Tiếp xúc
Tổng số a + c b + d a+b+c+d
a: Số người tiếp xúc và mắc bệnh
b: Số người tiếp xúc nhưng không mắc bệnh
c: Số người không tiếp xúc mà vẫn mắc bệnh
d: Số người không tiếp xúc và không bệnh
a + b: Tổng số người có tiếp xúc
c + d: Tổng số người không tiếp xúc
a + c: Tổng số người có bệnh
b + d: Tổng số người không mắc bệnh
– Tỷ lệ nhiễm bệnh ở nhóm có tiếp xúc: a /(a + b)
– Tỷ lệ nhiễm bệnh ở nhóm không tiếp xúc: c /(c + d)
– Nguy cơ tương đối RR (Relative Risk) = (a/a + b) / (c/c
+d)
= a (c + d) / c (a + b)
– Chỉ số chênh (Odd Ratio) OR = (a/c)/ (b/d) = ad/bc
Tỷ lệ nhiễm bệnh da và bệnh tiêu chảy ở nhóm tiếp xúc
nhiều nước thải bẩn.
– Bệnh da:35 / (35 + 6) = 35/ 41 = 85,4%
13 14
– Bệnh tiêu chảy: 31 / (31 + 10) = 31/ 41 = 75,6%
Tỷ lệ mắc bệnh da và bệnh tiêu chảy ở nhóm ít tiếp xúc
với nước thải bẩn.
– Bệnh da = 8 / (8 + 40) = 8 / 48= 16,7%
– Bệnh tiêu chảy: 9 / (9 + 39) = (9/ 48)= 18,8%
Tỷ lệ nhiễm bệnh hô hấp ở nhóm tiếp xúc nhiều với bụi
– Bệnh hô hấp: 28 / (13 + 28) = 28 / 41 = 68,3%
Tỷ lệ mắc bệnh hô hấp ở nhóm ít tiếp xúc với bụi
– Bệnh hô hấp: 12 / (12 + 36) = 12 / 48 = 25,0%
Nguy cơ tương đối (RR) cho biết số lần nguy cơ phát bệnh
ở nhóm tiếp xúc so với nguy cơ phát bệnh ở nhóm không tiếp
xúc với môi trường nước thải bẩn.
– Bệnh da: (35x48) / (8x41) = 1680 / 328 = 5,12 lần
– Bệnh tiêu chảy: (31x48) / (9x41) = 1488/ 369 = 4,03 lần
Nguy cơ tương đối (RR) cho biết số lần nguy cơ phát bệnh
ở nhóm tiếp xúc so với nguy cơ phát bệnh ở nhóm không tiếp
xúc với môi trường nhiều bụi.
– Bệnh hô hấp = (28x48) / (12x41) = 1344 / 492 = 2,73 lần
Chỉ số chênh (OR) là sự chênh lệch giữa số mắc bệnh ở nhóm
tiếp xúc so với số mắc bệnh ở nhóm không tiếp xúc với môi trường
xấu.
– Bệnh da = (35x40)/ (6x8) = 1400 / 48 = 29,2 lần
– Bệnh tiêu chảy = (31x39) / (9x10) = 1209/ 90 = 13,4 lần
– Bệnh hô hấp = (28x36) / (12x13) = 1008 / 156 = 6,46 lần
Trên đây là một khảo sát ngẫu nhiên, chưa nói lên thực
trạng bệnh tật vì chưa có những nghiên cứu đầy đủ về dòch tễ
học. Tuy nhiên cũng đã thấy có một mối tương quan giữa ô
nhiễm môi trường và bệnh tật phổ biến khiến chúng ta phải suy
nghó.
15 16
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ HỆ SINH THÁI
NGƯỜI
Mục tiêu
Trên cơ sở giới thiệu vắn tắt về môi trường và hệ sinh thái,
học viên cần đọc lại những vấn đề đã học về sinh thái môi
trường để nắm được những nội dung chủ yếu sau đây:
– Hệ sinh thái người trước hết cũng là một hệ sinh thái tự
nhiên, trong đó một loài sinh học được tách ra để trở thành nhóm
qui chiếu, đó là con người; sự hiện diện của con người làm biến
đổi các hệ sinh thái tự nhiên, phá vỡ sự cân bằng thông thường
của chúng. Tất cả phụ thuộc vào mật độ dân số và các giai đọan
phát triển văn hóa– hình thái kinh tế của họ.
– Từ chỗ lệ thuộc hoàn toàn vào tài nguyên môi trường,
con người tiến tới chỗ chinh phục rồi khai thác triệt để tài
nguyên môi trường dẫn đến làm cạn kiệt và suy thoái môi
trường.
– Con người trở thành thủ phạm nhưng đồng thời cũng là
nạn nhân của suy thoái môi trường.
– Nghiên cứu sinh thái học người là cơ sở khoa học để xây
dựng mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên.
1.1. Hệ sinh thái người
1.1.1 Phương thức sống:
Sống là phương thức tồn tại với những thuộc tính đặc biệt
của vật chất trong những điều kiện nhất đònh của sinh quyển.
Trong quá trình xuất hiện, phát triển và tiến hóa, sự sống
luôn gắn chặt với môi trường mà nó tồn tại. Không hề có sự sống
ngoài môi trường và cũng không thể có sự sống trong môi trường
mà nó không thích ứng được. Mối quan hệ giữa quần xã sinh vật
và môi trường sống bao quanh dưới tác động của năng lượng mặt
trời tạo nên một hệ thống mở gọi là hệ sinh thái.
Con người là loài sinh học cao cấp nhất có những đặc thù
về cấu tạo, chức năng và quan hệ đặc biệt đối với môi trường.
Môi trường sống của con người cũng chứa đựng nhiều đặc thù
như:
– Môi trường tự nhiên vốn sẵn có và tiếp diễn dưới tác
động qua lại với con người.
– Môi trường văn hóa xã hội do con người tạo ra. Chỉ có
con người mới có môi trường này.
– Phương thức thích nghi sinh học với môi trường tự nhiên
yếu dần dù nó vẫn tồn tại và diễn biến.
– Phương thức thích nghi bằng sản phẩm văn hóa phát triển
mạnh lên.
Từ đó có hệ sinh thái người mà con người, khác với mọi
sinh vật khác, thích nghi một cách chủ động với môi trường.
Con người khai thác môi trường để phục vụ cuộc sống. Với
dân số tăng nhanh, môi trường đang bò khai thác tùy tiện, đang
17 18
cạn kiệt với nhòp độ báo động. Thế cân bằng sinh thái bò vi phạm
nghiêm trọng, trên diện rộng, trên phạm vi toàn thế giới.
Một khoa học mới được hình thành là Sinh thái học người
hay có lúc còn gọi là Sinh thái học nhân văn. Đó là một khoa học
liên ngành, có sự kết hợp giữa sinh thái học (thuộc về khoa học
tự nhiên) với đòa lý học, xã hội học v.v… (thuộc về khoa học xã
hội)
Sinh thái học là bộ phận của sinh học chuyên nghiên cứu
môi trường, tác động giữa sinh giới và môi trường xung quanh,
đảm bảo sự tồn tại, phát triển và tiến hóa của sinh giới.
Sinh thái học người lấy đối tượng nghiên cứu là con người
và mối quan hệ giữa con người và môi trường sống của con
người trong tư cách quần thể hay cộng đồng người.
1.1.2 Các hình thái kinh tế:
Cùng với sự phát triển tiến hóa của bản thân con người, sự
chuyển biến từ hệ sinh thái tự nhiên sang hệ sinh thái người trải
qua quá trình phát triển tiến hóa từ thấp đến cao của các hình
thái kinh tế: Hái lượm, săn bắt, đánh cá, chăn thả, nông nghiệp,
công nghiệp – đô thò hóa và hậu công nghiệp
HÁI LƯM
: là hình thái kinh tế nguyên thủy nhất, con
người thu lượm nguồn thức ăn có sẵn, công cụ là rìu tay bằng đá
(đá nguyên và đá ghè), cuốc bằng sừng, dụng cụ khác bằng
xương. Hình thái kinh tế nguyên thủy này kéo dài suốt thời đại
đá cũ(từ 3 triệu đến 100.000 – 40.000 năm trước đây). Năng suất
thấp. Dân cư thưa thớt, còn phụ thuộc hoàn toàn vào môi trường
tự nhiên.
SĂN BẮT – ĐÁNH CÁ
: đã manh nha từ giai đoạn hái
lượm với các loài động vật nhỏ. Từ trung kỳ đá cũ (100.000 năm)
mới phát triển với thú lớn. Huy động lực lượng đông người, khỏe
mạnh để săn đuổi, vây bắt, đánh bẫy. Nhờ săn bắt kết hợp hái
lượm, cuộc sống có phần no đủ hơn, xuất hiện sự phân công lao
động sơ khai. Có thêm nguyên liệu mới để sử dụng là da, xương
làm lều ở, chăn đắp, áo quần.
Vào thời đại đá mới (10.000 – 8.000 năm trước đây) xuất
hiện cung tên, giáo mác, lao phóng, có thêm phương thức săn
bắn – không đòi hỏi đông người mà hiệu quả hơn.
Đánh cá manh nha từ thời đá giữa (12.000 – 15.000 năm
trước đây) phát triển cao ở thời đá mới. Có lao với ngạnh nhọn,
có móc, tiến tới dùng lưới và có thuyền mảng đánh cá xa bờ. Đã
phát hiện ra lửa, tìm cách giữ lửa, cách lấy lửa. Đó là cuộc cách
mạng kỹ thuật đầu tiên của nhân loại.
Hiệu quả khai thác tự nhiên đã khá hơn nhưng sự can thiệp
của con người vào tự nhiên chưa có gì lớn, cân bằng sinh thái
vẫn còn. Mức độ khai thác tài nguyên vẫn còn đủ kòp cho hồi
phục.
CHĂN THẢ
: Thuần dưỡng và chăn nuôi gia súc (cùng với
trồng trọt) là thành tựu kinh tế lớn nhất trong thời đại đá mới vốn
đã được manh nha từ thời đá giữa. Thú được thuần dưỡng phổ
biến là chó, dê, cừu, bò, heo…
Sang thời đại kim khí (4000–5000 năm trước công nguyên)
có thêm lừa, ngựa với những đàn gia súc lớn hàng vạn con trên
thảo nguyên. Hình thành lối sống du mục của các bộ lạc chăn
19 20
nuôi, có thêm nguồn thức ăn: thòt sữa và nguyên liệu da, lông.
Tiến dần đến sử dụng gia súc vào cày, kéo, vận tải. Hình thành
việc chọn lọc giống mới (dù chưa hoàn toàn có ý thức) cho năng
suất cao. Xuất hiện sự can thiệp vào cân bằng sinh thái: hà mã,
voi rừng, tê giác đã bò tiêu diệt khá nhiều, phá rừng lấy đất đai
trồng trọt ảnh hưởng xấu đến điều kiện sống của thú rừng.
NÔNG NGHIỆP
: phát triển rộng khắp vào thời đá mới.
Ngũ cốc được trồng chủ yếu là: lúa mì, mạch, ngô, lúa. Ngoài ra
đã có đậu, mè, rau, củ, cây ăn quả và cây lấy dầu.
Lúa nước xuất hiện ở vùng ven sông lớn, cùng với việc dự
trữ nước, đưa nước vào đồng ruộng, đắp đê bảo vệ mùa màng.
Bò ngựa dùng phổ biến vào cày kéo trong nông nghiệp.
Dấu ấn chủ yếu là tính phong phú và sự cân bằng sinh thái
chưa bò phá vỡ nghiêm trọng. Cuộc sống ổn đònh trong thời đá
mới. Sự phân công trong xã hội nông nghiệp ngày một rõ. Một
bộ phận đã tách rời canh tác mà chăm chú vào sản xuất công cụ
phục vụ canh tác như cày cuốc và phục vụ sinh hoạt như cối
xay…Những sản phẩm có tính hàng hóa này sẽ được trao đổi dưới
dạng mua bán và thò trường sơ khai cũng hình thành ở những nơi
tương đối tập trung đông người chuyên sản xuất và giao dòch,
mua bán. Đô thò sơ khai cũng hình thành từ đó.
CÔNG NGHIỆP
: bắt đầu muộn nhưng làm biến đổi sâu sắc
giới tự nhiên trong thời gian vô cùng ngắn so với toàn bộ lòch sử
tự nhiên. Hình thái kinh tế này được bắt đầu bằng việc sáng tạo
động cơ hơi nước. Đó là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần
thứ hai của nhân loại, trong đó hệ thống kỹ thuật mới được hình
thành, công trường thủ công được chuyển sang nền đại sản xuất
tư bản chủ nghóa.
Máy móc tạo năng suất lớn, tác động mạnh mẽ đến môi
trường sống:
– Nông nghiệp với máy móc phát quang, phá rừng, xây
dựng công trình thủy lợi, đại thủy nông.
– Khai thác mỏ phá hủy sinh thái rừng và tài nguyên động
thực vật, ảnh hưởng xấu đến đòa tầng.
– Năng lượng tiêu thụ nhiều: than, dầu mỏ, khí đốt phát
sinh ô nhiễm môi trường.
– Chủ nghóa thực dân tiêu diệt hàng loạt động vật rừng,
phá hủy nghiêm trọng tài nguyên rừng (và nhiều bộ lạc người
cũng bò tiêu diệt) tạo những cuộc di cư lớn trong lòch sử. Người
da đen bò bắt làm nô lệ để khai thác những vùng đất mới mà bọn
thực dân phương Tây đã xâm chiếm được. Một sự thay đổi căn
bản về bản đồ dân số trên thế giới.
– Nguồn năng lượng truyền thống cạn kiệt nhanh. Môi
trường ô nhiễm ngày càng trầm trọng. Dân số thế giới tăng quá
độ. Đa dạng sinh học suy giảm. Khoảng cách giàu nghèo giữa
các cộng đồng ngày càng lớn. Xung đột môi trường ngày càng
gay gắt và mang rõ tính xung đột chính trò – xã hội.
Một nét tiêu biểu là hiện tượng đô thò hóa: Thực tế thì đô
thò đã xuất hiện từ sự phát triển nông nghiệp tạo ra dư thừa, cùng
sự phát triển thủ công nghiệp tách rời nông nghiệp tạo tiền đề
cho đô thò hóa.
21 22
Một bộ phận dân cư tách ra khỏi việc đồng áng để tập
trung lại thành các thò trấn. Thò trấn đầu tiên đã xuất hiện từ 3 –
4 ngàn năm trước công nguyên nhưng đô thò hóa quy mô thế giới
chỉ bắt đầu trong thế kỷ 19.
Đặc trưng của đô thò là: Các thành tố tự nhiên được thay
thế bởi tạo phẩm văn hóa với một mạng lưới cấu trúc vệ tinh vây
quanh (thò trấn, trang trại, thôn ấp liên kết nhau qua hệ thống
giao thông)
+ Các biểu hiện phong phú về văn hóa (từ phong tục tập
quán, tâm lý trở đi), đời sống vật chất và tinh thần.
+ Bên ngoài cứ tưởng là tách rời khỏi tự nhiên nhưng thực
tế gắn bó mật thiết, thể hiện bằng việc sử dụng lương thực thực
phẩm, nhiên liệu và nguyên liệu.
+ Tăng dân số là hiện tượng rất phổ biến dẫn tới mở rộng
phạm vi đô thò, tiêu thụ nhiều sản phẩm và nhiều hệ quả phát
triển khác: Nghiêm trọng nhất là ô nhiễm môi trường, trước hết
là ô nhiễm không khí (do công nghiệp, giao thông và sinh hoạt)
+ Đặc điểm cơ bản của đô thò như một trung tâm tiêu thụ
tài nguyên là không hề thay đổi trong suốt quá trình phát triển.
Giải quyết vấn đề đô thò hóa phải xem xét trong mối quan
hệ với nhiều nhân tố ảnh hưởng toàn cục như: dân số, đất đai,
lương thực và các tài nguyên khác. Đó là một yêu cầu trong
chiến lược sinh thái môi trường.
HẬU CÔNG NGHIỆP
: Hay còn gọi là SIÊU CÔNG
NGHIỆP (Super Industrialism). Đó là giai đoạn mới được dự báo
trong sự phát triển với tốc độ cao về kỹ thuật công nghệ cũng
như văn hóa xã hội với nhu cầu hưởng thụ rất cao. Điều đó đòi
hỏi nếp suy nghó mới về cách ứng xử trong hệ sinh thái, dưới
khẩu hiệu phát triển bền vững. Đó là chiến lược toàn cầu về quy
hoạch lại toàn bộ tài nguyên trên trái đất.
Giáo sư Đặng Hữu đã có một dự báo về hình thái kinh tế
hậu công nghiệp như sau:
Trong 15 năm qua do tác động của cách mạng khoa học
công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng, nền kinh tế thế giới
đang biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ về cơ cấu, chức năng và phương
thức hoạt động. Đó là bước ngoặt lòch sử có ý nghóa trọng đại đưa
nền kinh tế toàn cầu từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức,
đưa nền văn minh loài người từ văn minh công nghiệp sang văn
minh trí tuệ với 10 đặc điểm chủ yếu sau:
1. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế: Ý tưởng đổi mới và công
nghệ mới tạo ra nhiều việc làm mới và nâng cao chất lïng cuộc
sống, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, dòch chuyển cơ cấu nhanh.
2. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan
trọng nhất, tiên tiến nhất. Mọi doanh nghiệp đều có sản xuất
công nghệ, nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghệ trong
đó khoa học và sản xuất được nhất thể hóa, ít có phân biệt giữa
phòng thí nghiệm và công xưởng
3. Công nghệ thông tin được ứng dụng vô cùng rộng rãi
trong mọi lónh vực, mang thông tin đa phương tiện phủ khắp cả
nước, nối kết hầu hết gia đình và tổ chức. Thông tin trở thành tài
23 24
nguyên quan trọng. Mọi lónh vực đều có tác động của công nghệ
thông tin.
4. Dân chủ hóa được thúc đẩy. Mọi người đều được truy
cập thông tin cần thiết dẫn đến dân chủ hóa, công khai hóa các
hoạt động và tổ chức điều hành xã hội. Các chính sách của nhà
nước và của các tổ chức đều được thông tin kòp thời. Người dân
có thể nghiên cứu, phát biểu ý kiến ngay lập tức. Không còn tình
trạng bưng bít thông tin.
5. Xã hội học tập: Giáo dục rất phát triển. Người dân được
học thường xuyên ở trường, ở trên mạng và học từ xa. Đầu tư cho
giáo dục và khoa học chiếm tỷ lệ cao nhất. Đầu tư vô hình (giáo
dục, khoa học, con người) cao hơn đầu tư hữu hình (cơ sở vật
chất). Phát triển con người là nhiệm vụ trọng tâm.
6. Tri thức trở thành vốn quý nhất, là nguồn lực hàng đầu tạo
nên tăng trưởng. Tri thức không bò mất đi lúc sử dụng mà được
chia sẻ, tăng lên và hầu như không bò tốn kém khi chuyển giao.
7. Sáng tạo đổi mới thường xuyên là động lực tăng trưởng
hàng đầu. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút
ngắn, có khi chỉ mấy năm thậm chí chỉ mấy tháng. Các doanh
nghiệp muốn trụ được và phát triển, phải luôn đổi mới công nghệ
và sản phẩm. Trước đây người ta hay chọn những công nghệ đã
chín muồi. Ngày nay người ta phải tìm công nghệ mới nẩy sinh vì
chín muồi là sắp tiêu vong.
8. Các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát
triển. Trong cùng một lónh vực khi một công ty thành công thì
các công ty khác phải tìm cách chuyển hướng hoặc sát nhập
9. Toàn cầu hóa: Thò trường và sản phẩm mang tính toàn
cầu. Sản phẩm ở bất cứ nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt
khắp thế giới. Phần lớn các sản phẩm đều được thực hiện từ
nhiều nơi trên thế giới, là kết quả của công ty ảo, xí nghiệp ảo,
làm việc từ xa…
10. Thách đố văn hóa: Các xã hội phải có nhiều nỗ lực để
bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa của mình để tránh bò hòa
tan.
1.2. Ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái đến con người
1.2.1 Ảnh hưởng của phương thức sống và thức ăn
Karl Linné từ thế kỷ 18 đặt con người vào bộ linh chưởng
(Primates). Thực ra bản chất con người vừa là cơ thể sinh học
(Somatic) vừa là văn hóa (Cultural). Quá trình khai thác môi
trường từ cây cỏ, động vật và sự thích nghi với điều kiện sống
này là xuất phát điểm sâu xa dẫn đến chế tác công cụ. Và sáng
tạo công nghệ chính là biểu trưng của văn hóa. Đó là sự thích
nghi mới – thích nghi văn hóa, thể hiện trên những cấu tạo và
chức năng mới của cơ thể:
– Hoàn thiện khả năng cầm nắm hướng tới chế tác và cải
tiến công cụ.
– Tăng cường ý nghóa của kích thích thò giác trên cơ sở
phát triển thò giác.
– Thoái hóa hàm răng, chuyển chức năng cầm nắm từ
răng sang bàn tay, chuyên biệt hóa chi sau với chức năng đi
thẳng.
25 26
– Phức tạp hóa cấu trúc và chức năng não bộ, đặc biệt là
các trung khu liên quan đến hoạt động tổng hợp (ngôn ngữ, chữ
viết). Việc tăng cường sử dụng protein động vật, tạo thêm cơ sở
vật chất có liên quan đến toàn bộ hoạt động sống của cơ thể và
tiến hóa của các loại hình người. Chế độ dinh dưỡng có ảnh
hưởng đến biến dò các đặc điểm cơ thể:
Ví dụ: Bộ tộc Maxai chăn nuôi, ăn thòt nhiều, cao lớn hơn
đến 10 cm và 10 kg so với bộ tộc Kaknia ở Kênia chuyên trồng
trọt. Môi trường sinh thái và chế độ dinh dưỡng tạo ra những dò
biệt khá lớn về đáp ứng sinh học.
Ví dụ: Tiến bộ văn hóa (y học) làm yếu hoặc loại trừ một
số áp lực chọn lọc nhưng lại khơi mào cho một số áp lực mới:
AIDS, các bệnh về tim mạch …
Văn hóa, một mặt là sự đáp ứng trước áp lực môi trường,
mặt khác lại là áp lực tạo nên tính đa hình di truyền. Vì vậy với
con người, hai mặt sinh học và văn hóa không tách rời nhau.
1.2.2. Ảnh hưởng của yếu tố khí hậu
Biểu hiện ở nhiều trạng thái khác nhau theo mùa, theo đòa
lý v.v… đều là tổng hợp của nhiều thành phần như nhiệt độ, độ
ẩm, gió, mây, mưa, nắng, tuyết v.v…Các tác động này được thông
qua nhiều rào chắn tự nhiên (sông, hồ, biển, núi, cây, rừng v.v …)
và văn hóa (nhà cửa, đường sá …) tạo thành khí hậu đòa phương,
tiểu khí hậu, vi khí hậu.
Điều hòa nhiệt là thích nghi sinh học chủ đạo liên quan đến
các chức năng của tổ chức cơ thể. Một số cơ cấu góp phần đảm
bảo tốt thích nghi với khí hậu. Nhiệt độ môi trường thay đổi thì
nhiệt độ da cũng biến thiên theo, nhưng nhiệt độ trung tâm cơ
thể bao giờ cũng ổn đònh, vào khoảng 36–
0
37
C .
1.2.3. Ảnh hưởng của môi trường đòa hóa
Hàm lượng khoáng chất trong thành phần sinh hóa cơ thể
liên quan đến quá trình biến đổi nội bào (tạo xương, điều hòa áp
lực thẩm thấu v.v …). Tương quan về tỷ lệ số lượng các thành
phần khoáng trong môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến thành
phần khoáng cơ thể, từ đó ảnh hưởng đến sinh trưởng, tăng
trưởng, phát triển: Bệnh bướu cổ liên quan đến hàm lượng iod,
sâu răng liên quan đến hàm lượng fluor trong nước, v.v …
1.3. Tác động tương hỗ của con người và hệ sinh thái
Con người là một thành viên trong các hệ sinh thái tự nhiên
quanh mình, có quan hệ tương hỗ thông qua các mắt xích thức
ăn, hoạt động lao động sản xuất nhưng đặc biệt là thái độ đối xử
đối với môi trường. Con người gây ra:
– Biến đổi và suy thoái các hệ sinh thái tự nhiên. Tài
nguyên cạn kiệt. Xuất hiện nhiều hệ sinh thái nhân tạo không hề
ổn đònh: đô thò, hồ chứa nước, đập dâng, cảnh quan văn hóa…
– Ô nhiễm môi trường.
– Suy giảm đa dạng sinh học: Nhiều loài sinh học bò tuyệt
diệt, trở nên quý hiếm.
– Suy giảm chất lượng cuộc sống của chính mình. Chất
lượng cuộc sống phụ thuộc vào trình độ phát triển xã hội, môi
trường sống, quan hệ xã hội, cụ thể là việc làm, thu nhập, hưởng
thụ và an ninh xã hội. Dân số tăng nhanh, sản lượng ngũ cốc
27 28
tăng không đáng kể, hoa quả thòt sữa không tăng. Mức sử dụng
năng lượng tăng nhanh. Bệnh xã hội, tệ nạn xã hội tăng nhiều.
Chiến tranh và xung đột quyền lực, sắc tộc, tôn giáo xẩy ra liên
miên nhiều nơi.
Để đánh giá chất lượng cuộc sống của một cộng đồng
người ta có thể dùng nhiều tiêu chí khác nhau và theo nhiều cách
thức khác nhau. Trên thế giới người ta dùng phổ biến tiêu chí
Tổng thu nhập quốc dân theo đầu người (GDP) hay Tổng sản
phẩm quốc gia theo đầu người (GNP). Đó là hai tiêu chí có tính
tổng lượng cao, phản ánh được năng lực kinh tế của nhà nước.
Tuy nhiên hai tiêu chí này chỉ mới phản ánh được về mặt kinh tế,
nói lên sự giàu nghèo của một quốc gia. Chúng không biểu thò
đầy đủ tình trạng phân phối các thành tựu giữa các thành viên
trong xã hội, không phản ánh được quá trình nâng cao về nhiều
mặt tinh thần văn hóa cũng như về mặt sức khỏe thể chất và tâm
lý. GDP không nói lên điều gì về bản chất của hoạt động sản
xuất: sản xuất lúa gạo hay sản xuất súng đạn, chi phí cho giáo
dục hay chi phí cho cảnh sát, xây dựng khu Casino hay xây dựng
bêïnh viện miễn phí cho người nghèo. Một dollar là một dollar
cho dù hiệu quả xã hội rất khác nhau, thậm chí hoạt động này có
thể gây tai hại rất nhiều cho một hoạt động khác. Tuy nhiên, cho
đến nay GDP vẫn được ưa dùng trước tiên bởi vì nó cho phép so
sánh tiềm lực sản xuất tương đối của các quốc gia khác nhau.
Để khắc phục một phần nhược điểm của GDP, nhiều nước
đã sử dụng chỉ số “Phát triển con người– HDI”, còn gọi là chỉ số
“Phát triển nhân lực”, bao gồm các tiêu chí: tuổi thọ trung bình,
trình độ dân trí và thu nhập thực tế.
Tuổi thọ con người nói lên khả năng được sống trong cuộc
sống lành mạnh, bình yên, no đủ.
Trình độ dân trí, hay trình độ giáo dục, nói lên khả năng
tiếp thu văn hóa, khoa học của người dân, thường được đo bằng
mức độ phổ cập giáo dục hay tỷ lệ số người biết chữ trong cộng
đồng.
Thu nhập thực tế của người dân nói lên khả năng được tiếp
cận các nguồn lực cần thiết để đáp ứng nhu cầu cuộc sống trước
mắt và lâu dài.
HDI là trung bình cộng của ba tiêu chí đó. Trong năm 1989
HDI của Việt Nam là 0,560 được xếp thứ 122 trên 174 nước trong
khi GDP chỉ được xếp thứ 148. HDI trung bình của thế giới là 0,772.
Canada được xếp cao nhất 0,960, trong khi GDP của họ chỉ là thứ
10.
Người ta còn dùng chỉ số “Phát triển giới– GDI” (Gender
related development index) để so sánh mức phát triển của phụ
nữ, cũng là nhằm đánh giá mức độ bình đẳng giới. Thụy Điển có
GDP xếp thứ 22, HDI cũng xếp thứ 22 nhưng GDI được xếp vào
loại nhất. GDI của Việt Nam được xếp thứ 108.
Thực ra chất lượng cuộc sống là một khái niệm rất mềm
dẻo mà khi xem xét phải lưu ý đến rất nhiều khía cạnh khác
nhau như: 1. Dân số; 2. Lao động và việc làm; 3. Nghề nghiệp; 4.
Giáo dục; 5. Điều kiện lao động; 6. Tai nạn lao động; 7.Tiện
nghi gia đình; 8. Hôn nhân gia đình; 9. Hoạt động xã hội; 10. Bảo
hiểm xã hội; 11. Sức khỏe và y tế; 12. Trật tự xã hội; 13. Tiền
lương và thu nhập; 14. Công bằng xã hội; 15. Môi trường, v.v…
29 30
Một nhà giáo dục môi trường Ấn Độ, ông R.E.Sharma,
quan niệm chất lượng cuộc sống là sự đáp ứng ngày càng tăng
tiến các nhu cầu cơ bản về lương thực, năng lượng, nhà ở, giáo
dục, y tế, an ninh xã hội. Để đánh giá chất lượng cuộc sống cần
phải xem xét mức độ bền vững, ổn đònh trong tương quan hài hòa
với tự nhiên, không làm hại tự nhiên. Sharma đưa ra mô hình
cuộc sống là một hình sao 5 cánh và mỗi đỉnh là một hình sao 5
cánh khác.
Bảng 4
Đặc trưng của hệ thống thành phần (1 – 5) Đặc trưng của hệ
thống lớn (I – V)
1 2 3 4 5
I. Các vấn đề
dân số
Quy mô Cơ cấu Phân bố Biến
đổi tự
nhiên
Biến đổi
cơ học
II. Các vấn đề
phúc lợi
GDP/ng Giáo
dục
Bảo hiểm
xã hội
Nhà
cửa
Y tế
III. Các vấn đề
tài nguyên môi
Nguồn
lao
Công Môi
trường tự
Vốn Lương
trường động nghệ nhiên thực
IV. Các vấn đề
chính trò– xã hội
Hệ
thống
xã hội
Hệ thống
chính trò
Giá trò
văn hóa
Lối
sống
Giá trò
tôn giáo
V. Các vấn đề
kinh tế
Thương
mại
Viện
trợ Đầu
tư
Cơ cấu
ngành
nghề
Cơ cấu
kinh tế
Ưu tiên
phát triển
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU
1. Nguyễn Đình Khoa, 1983, Môi trường sống và con người,
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
2. Phạm Thò Ngọc Trầm, 1987, Môi trường sinh thái– vấn đề và
giải pháp, NXB Chính trò Quốc gia.
3. Odum, 1978 (dòch), Cơ sở sinh thái học, NXB Đại học và
Trung học chuyên nghiệp.
4. Olivier, 2002 (dòch), Sinh thái học nhân văn, NXB Thế giới.
5. http// en.wikipedia – org/wiki/ecology/Human
ecology/Sociology.
6. Nguyễn Đăng Thu (Chủ biên)ï, 2004, Bệnh học nội khoa,
NXB
Y học.
- Chương 1 :
1. Hãy nêu vài đặc điểm quan trọng nhất trong dự
đóan về hình thái kinh tế hậu công nghiệp.
IV
V
I
III
54
2
3
1
II
31 32
2. Hãy cho biết có thật là chất lượng cuộc sống của
nhân dân ta đang bò suy giảm.
3. Cho biết ưu điểm và nhược điểm của một số chỉ
tiêu đánh giá chất lượng cuộc sống.
CHƯƠNG II
CON NGƯỜI BÌNH THƯỜNG
SỨC KHỎE VÀ BỆNH TẬT
Học viên cần hiểu rõ các vấn đề sau
– Thế nào là sức khỏe đích thực theo quan niệm của WHO
với mục tiêu vượt qua những thử thách của môi trường, nhằm để
lao động có hiệu quả. Con người bình thường không có bệnh tật
chưa phải là đã có sức khỏe.
– Sức khỏe là một loại tài nguyên đặc biệt, vô cùng quý
giá mà con người có quyền được có, đồng thời phải có nghóa vụ
giữ gìn, bảo vệ, khai thác hợp lý sức khỏe của mình và của cộng
đồng.
– Có nhiều loại sức khỏe, về thể chất và về tinh thần, tâm
lý.
– stress là một trong dạng biểu hiện của sức khỏe tinh
thần, đặc biệt phổ biến trong tình hình phát triển kinh tế xã hội
trên thế giới cũng như trong nước.
– Hiểu rõ ý nghóa của stress trong đời sống xã hội, trong
lao động tới để có những biện pháp ứng phó hợp lý với stress,
stress nghề nghiệp liên quan nhiều với các yếu tố lao động. Cần
nắm vững các nguyên tắc ứng phó với stress nghề nghiệp.
– Sức khỏe sinh sản là vấn đề liên quan đến vấn đề dân số
và hạnh phúc gia đình, xã hội, là nội dung cơ bản của chương
trình Hành động quốc gia vì sức khỏe cộng đồng.
33 34
2.1 Quan niệm hiện nay về sức khỏe
2.1.1 Bình thường và bệnh tật
Ở con người bao giờ cũng tồn tại hai trạng thái đối lập:
bình thường và bệnh tật. Hai trạng thái đối lập đó thường xuyên
đấu tranh với nhau. Lúc thì trạng thái này chiếm ưu thế, lúc thì
trạng thái khác.
Người bình thường là người trong thời điểm không bò mắc
một bệnh cấp tính hay mãn tính hoặc không bò thương tích hay tật
nguyền. Khi người bệnh được chữa khỏi tức là chức năng của cơ
quan bò bệnh đã được phục hồi, thì người đó trở lại bình thường.
Có thể khám lâm sàng thấy là bình thường nhưng nếu xét
nghiệm, thăm dò chức năng một vài cơ quan, có thể thấy không
bình thường. Như vậy là không phải dễ đánh giá một người có
hoàn toàn bình thường hay không. Và như vậy, bình thường cũng
chưa hẳn đã là có sức khỏe tốt và không bình thường cũng chưa
hẳn là hoàn toàn kém sức khỏe hay bệnh tật.
Ngoài khỏe mạnh hay bệnh tật về thể xác còn có thể khỏe
mạnh hay bệnh hoạn về tâm thần. Vì vậy, sức khỏe hay bệnh tật
cần được hiểu một cách toàn diện hơn. Đã có khá nhiều đònh
nghóa khác nhau về sức khỏe và bệnh tật:
May (1958) quan niệm:“ Bệnh tật là sự biến đổi của các
mô cơ thể gây nguy hại cho sự sống của chúng trong môi
trường”. Đó là quan niệm cổ điển coi bệnh tật như là một thứ rối
loạn, một sự mất cân bằng xảy ra trong cơ thể.
Dubos (1965) coi “Tình trạng sức khỏe hay bệnh tật là biểu
hiện của sự thắng lợi hay thất bại mà cơ thể trải qua trong sự cố
gắng của nó để thích ứng với thử thách của môi trường “.
Thế kỷ 19, Claude Bernard (1869), nhà sinh lý học Pháp đã
viết “Hiện tượng về sự sống được quy đònh từ hai phía: Một phía
là cơ thể, trong đó sự sống diễn ra, và phía khác là môi trường,
trong đó có thể tìm thấy những điều kiện chủ yếu cho sự xuất
hiện, diễn biến những hiện tượng của bản thân mình. Điều kiện
cần cho sự sống tìm thấy cả ở trong cơ thể và cả ở môi trường
bên ngoài”.
Môi trường bên trong cơ thể là dòch thể trung gian giữa tế
bào và các mô như máu và bạch huyết. Vì vậy cơ thể là một “vũ
trụ nhỏ” hoạt động trong một “vũ trụ lớn” là thiên nhiên xung
quanh.
Môi trường bên trong và bên ngoài đều ảnh hưởng trực tiếp
hay gián tiếp đến sức khỏe.
Với môi trường bên trong, sức khỏe chòu tác động của sự
rèn luyện và cách sống hằng ngày trong đó có tập quán vệ sinh,
thể dục, thể thao, điều độ, tiết dục, không thái quá, không bất
cập.
Môi trường bên ngoài thì đa dạng, ngoài môi trường tự
nhiên khí hậu, tài nguyên, đòa lý … thì môi trường văn hóa xã hội
rất là phong phú gồm:
– Môi trường gia đình: tiện nghi về tài chính đảm bảo cuộc
sống vật chất và tinh thần, quan hệ gia đình thân tộc, phong tục,
lễ giáo, truyền thống, học hành …
35 36
– Môi trường lao động: việc làm ổn đònh, cơ sở vật chất
thiết bò, nguyên vật liệu, an toàn và vệ sinh lao động, thu nhập,
quan hệ chủ thợ, quan hệ đồng nghiệp, phương tiện đi lại …
– Môi trường xã hội: chế độ kinh tế, chính trò, dân số, phân
bố việc làm, phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục …
– Môi trường quốc tế: hòa bình, chiến tranh, sắc tộc, ly
khai, xung đột.
Mọi điều kiện và hiện tượng đều tác động đến sức khỏe
theo những mức độ khác nhau đối với từng cá thể cũng như cộng
đồng mà mỗi cá thể là thành viên.
Như vậy khái niệm sức khỏe rõ ràng là có hàm ý về sự
thích ứng đối với môi trường hay, nói khác đi, sức khỏe là tiêu
chuẩn của sự thích ứng với môi trường và cũng là một tiêu chuẩn
cơ bản của chất lượng cuộc sống.
WHO (1975) – Tổ chức y tế thế giới – nêu đònh nghóa:
“Sức khỏe là trạng thái dễ chòu toàn diện về thể chất, tinh thần
và tâm lý xã hội nhằm để lao động có hiệu quả”. Sức khỏe là
một trong những quyền lợi cơ bản của con người. Mọi người đều
có nghóa vụ phải bảo vệ và nâng cao sức khỏe cá nhân và cộng
đồng. Sức khỏe cũng là một lọai tài nguyên cơ bản mà mọi người
cũng như cộng đồng đều có trách nhiệm bảo vệ, khai thác và sử
dụng hợp lý hơn bất cứ loại tài nguyên nào khác.
Điềâu đáng quan tâm hơn cả là việc bảo vệ sức khỏe phải
nhằm mục tiêu quan trọng nhất là lao động có hiệu quả.
Xem ra mọi đònh nghóa đều coi sức khỏe là khái niệm tổng
hợp về trạng thái cơ thể có liên quan mật thiết với môi trường.
Phẩm chất của môi trường nói cho cùng, theo nghóa rộng, toàn
diện chính là sức khỏe cộng đồng.
Y học phương đông từ lâu cũng đã nêu lý thuyết về “Thiên
– Nhân hòa hợp”, nghóa là con người luôn luôn phải hòa hợp với
thiên nhiên, với môi trường.
Cần chú ý là sự thích ứng của con người hoàn toàn khác với
sinh giới ở chỗ thích ứng bằng văn hóa quan trọng hơn về sinh
học. Tuy nhiên cũng hiển nhiên là từ văn hóa, con người đẩy
chính mình vào thảm họa môi trường ô nhiễm, cạn kiệt và suy
thoái.
2.1.2 Đònh lượng sức khỏe
Sức khỏe được xem như một tài sản, một tiềm năng được
duy trì thường xuyên và đònh lượng được bằng nhiều cách.
Sức khỏe tăng giảm liên quan đến quá trình tăng trưởng,
trưởng thành và lão hóa các cơ quan của cơ thể. Sức khỏe tăng
giảm theo tuần trăng, theo mùa, theo nhòp điệu sinh học.
Điều cần lưu ý là sau lao động nghiêm túc thì sẽ mệt mỏi
và mất nhiều hay ít năng lượng tùy theo mức độ lao động nặng
hay nhẹ. Để khắc phục mệt mỏi kéo dài thì phải bù đắp năng
lượng đã tiêu hao và nghỉ ngơi hợp lý. Trước hết là cần bù đắp
kòp thời nước và muối khoáng và có đủ thời gian để phục hồi sức
khỏe.
37 38
Sự đánh giá sức khỏe thường được chú trọng ở mức phục hồi
cơ thể sau lao động, ốm đau, tai nạn. Tốc độ hồi phục hay hoàn
thiện thường vẫn được coi là một tiêu chí đánh giá năng lực con
người.Sự hồi phục thường đi kèm với sự rèn luyện. Nhiều khi nhờ
rèn luyện mà sức khỏe không những được hồi phục mà còn tốt hơn
trước.
Sức khỏe không những được đo mà cần phải đo lường
thường xuyên. Càng nhiều sức khỏe thì càng ít cơ hội phát sinh
bệnh tật. Người ta thường lấy những giới hạn được gọi là Tiêu
chuẩn tức là các chỉ tiêu sinh học để đo lường sức khỏe như nhiệt
độ, huyết áp, nhòp tim, số lượng hồng cầu, bạch cầu, hàm lượng
đường huyết… và nhiều chỉ tiêu về các chức năng ở mức độ vó
mô hoặc vi mô về tế bào, phân tử, ion…
Đương nhiên khi người ta nói mọi chỉ tiêu sinh học đều
bình thường (hoặc đa số chỉ tiêu chủ yếu, quyết đònh là bình
thường) thì được coi là có sức khỏe.
Những giới hạn của các chỉ tiêu đó là kết quả đo đạc, tính
toán thống kê dựa trên các khảo nghiệm, thăm dò chức năng của
một số đủ lớn cá thể, đại diện cho cộng đồng, phản ánh mức phổ
biến với một xác suất tin cậy nhất đònh. Có những giới hạn rộng,
tương đương nhau giữa nhiều cộng đồng trên thế giới, cũng có
nhiều giới hạn phản ánh tốt từng đặc trưng của từng cộng đồng.
Vì thế không phải lúc nào cũng có thể sử dụng chung một barem
đánh giá cho tất cả cộng đồng mà phải xây dựng những barem
cho các cộng đồng khác nhau.
Các chỉ tiêu sinh học cũng không phải luôn luôn cố đònh
trong mọi trường hợp, mọi điều kiện môi trường. Mỗi khi môi
trường có sự biến đổi thì một số chỉ tiêu nào đó vốn là bình
thường sẽ vượt ra ngoài giới hạn phổ biến chòu đựng được cơ thể.
Tuy nhiên điều cần lưu ý là lúc đó bệnh tật có xuất hiện không?
Câu trả lời là chưa chắc chắn, nguy cơ hay khả năng thì có thể có
nhưng xuất hiện bệnh thì chưa hẳn bởi giới hạn thích nghi cũng
biến đổi theo từng con người, đặc biệt là đối với những người có
rèn luyện.
Vì vậy khái niệm sức khỏe còn được biểu hiện bằng toàn
bộ lực lượng dự trữ của các hệ thống chức năng chủ yếu của cơ
thể.Lực lượng dự trữ này được biểu hiện bằng một đại lượng gọi
là hệ số dự trữ tức là số lượng tối đa một chức năng có thể huy
động được khi cần đến so với lúc bình thường.
Ví dụ: Lúc nghỉ, ngồi bình thường, lượng máu được trái tim
đẩy vào động mạch chủ là 4 lít/phút. Lao động và rèn luyện cơ
thể đưa công suất lên 20 lít/phút. Trong khi trái tim không rèn
luyện chỉ đạt tối đa là 6 lít/phút.
Điều cần lưu ý là trong khi ứng phó với điều kiện thử
thách, con người vận dụng các chức năng một cách toàn diện đặc
biệt là các yếu tố tinh thần và tâm lý. Dựa vào các nhân tố tác
động và biểu hiện của tình trạng cơ thể, thường phân biệt 3 loại
sức khỏe
1. Sức khỏe sinh lý:phát triển theo những mô hình và tiêu
chuẩn đã biết rõ, gồm những cơ chế thể dòch, thần kinh để ứng
phó với điều kiện môi trường. Phần lớn là do yếu tố di truyền
39 40
quyết đònh nhưng sự rèn luyện có tác dụng tăng cường sức khỏe
đặc biệt là hệ số dự trữ.
2. Sức khỏe miễn dòch:Phát triển qua cuộc đọ sức với các
tác nhân gây ô nhiễm. Phản ứng đặc hiệu là cơ chế có tính di
truyền cũng như sự rèn luyện (còn phụ thuộc vào kháng nguyên
từ môi trường mang lại, vaxin chẳng hạn).
3. Sức khỏe tinh thần (sức khỏe tâm thần là một cách nói
khác) còn phân chia thành sức khỏe tâm lý và sức khỏe xã hội.
Sức khỏe tóm lại là một đại lượng tương đối vì cái khỏe
của một người trong điều kiện môi trường này chưa hẳn đã khỏe
được trong điều kiện môi trường khác.
Đối với mỗi đối tượng lao động khác nhau đòi hỏi sức khỏe
khác nhau và loại hình sức khỏe cũng khác nhau.
2.1.3. Sức khỏe cộng đồng
Sức khỏe cộng đồng hay sức khỏe xã hội là sức khỏe chung
của một hệ thống có tổ chức giữa những cá thể có quan hệ và tác
động lên nhau trong một môi trường tự nhiên (vô sinh và hữu
sinh) và môi trường xã hội (văn hóa, chính trò, kinh tế, tôn giáo…)
Sức khỏe cộng đồng phải bao gồm cả tình trạng (tỷ lệ) bệnh tật
trong cộng đồng khi xem xét trên bình diện tổng thể.
Để xác đònh sức khỏe cộng đồng thì phải xuất phát từ tổng
đònh lượng sức khỏe của thành viên mà tính ra số trung bình đại
diện (không hẳn là trung bình số học).
Có nhiều chỉ tiêu để kham thảo trong khi kết hợp nhiều
mặt như tính thích ứng, tần suất thai lưu, tử vong chu sinh, tuổi
thọ trung bình và nhiều yếu tố xã hội khác như tổng thu nhập
trên đầu người, chỉ số nghèo khổ, chỉ số phát triển văn hóa, học
vấn…
Sức khỏe cộng đồng phải được xét trên hai phương diện:
– Cộng đồng là một nhóm di truyền chòu tác động của chọn
lọc và tuyển lựa trong môi trường tự nhiên và xã hội.
– Cộng đồng là một nhóm văn hóa xã hội mà ứng xử là
biểu hiện của sức khỏe tâm thần. Không thể có một sức khỏe
cộng đồng tốt với một xã hội bế tắc cũng như một mức sống quá
nghèo khổ và sự lan tràn của tệ nạn xã hội.
2.2. Sức khỏe tinh thần (SKTT)
2.2.1 Quan niệm
Người xưa quan niệm “Người không có bệnh tâm thần là
có tinh thần khỏe”. Quan niệm này chưa chính xác. SKTT thật ra
rất đa dạng, phức tạp. Rối loạn về tinh thần có nhiều mức độ và
phạm vi khác nhau. Hiệp hội quốc gia về SKTT của Hoa Kỳ
quan niệm rằng người có SKTT tốt là người có khả năng điều
hòa các ham muốn, dục vọng, lương tâm, cảm xúc, lý tưởng phù
hợp với năng lực và yêu cầu của cuộc sống mà mình phải đối
diện.
Họ đưa ra đònh nghóa: “Tình trạng SKTT tốt là trạng thái
khỏe khoắn mà trong đó chủ thể cảm thấy dễ chòu, tự tin trong
giao tiếp cũng như trước thách thức của cuộc sống hằng ngày “
Cũng có người quan niệm ngắn gọn:SKTT tốt là “biết mình
và biết người”.
41 42
2.2.2. Các yếu tố cấu thành sức khỏe tinh thần.
+Các yếu tố sinh học – tự nhiên bao gồm:
– Di truyền: Tiềm ẩn bệnh tật từ thế hệ trước truyền lại.
– Sinh lý:Hành vi con người chính là suy nghó và tình cảm
biến thành hành động.Người có sức khỏe thể chất tốt sẽ có cơ sở
thuận lợi cho sự tự tin, yêu đời.
+Các yếu tố văn hóa – xã hội có thể kể ra:
– Gia đình là nơi bắt đầu xã hội hóa qua sự dạy dỗ giáo
dục của bố mẹ và những người thân.
– Nhà trường, bạn bè là nơi củng cố và tiêm nhiễm hành
vi liên quan đến sức khỏe cả thể chất lẫn tinh thần, là môi trường
tốt cho phát triển nhân cách.
– Cộng đồng là nơi truyền thông đại chúng tác đôïng rất
mạnh mẽ đến nhận thức hành vi, đặc biệt là lối sống.
– Lối sống: Ngày nay có 4 nguyên nhân gây tử vong hàng
đầu là bệnh tim mạch, bệnh ung thư, tai biến não, tai nạn giao
thông mà nguyên nhân có thể từ mặt sinh học–tự nhiên nhưng
những nguyên nhân từ lối sống còn quan trọng hơn nhiều..
Lối sống hiện đại bên cạnh những khía cạnh tích cực liên
quan đến quá trình phát triển kỹ thuật công nghệ thì về khía
cạnh tiêu cực cũng gây ra nhiều thách thức đặc biệt cho lớp tuổi
trẻ. Nhòp sống hối hả, đầy tính cạnh tranh, thói xấu đòi hỏi
hưởng thụ, đua đòi là những môi trường tốt cho sự lệch lạc, rối
nhiễu về tinh thần, tâm lý. Sự thiếu trách nhiệm với sức khỏe, từ
nhận thức cho đến hành vi, khoảng cách giữa hiểu biết và hành
động đều là khoảng hở cho sự xuất hiện tệ nạn xã hội, có nguy
hại cho thể chất và tinh thần.
Sự thiếu thông tin và nhiễu loạn thông tin trong kinh tế thò
trường gây sự sai lạc, nhầm lẫn về nhận thức, trách nhiệm đối
với vấn đề sức khỏe.
2.2.3. Lý thuyết về SKTT và sự phát triển nhân cách:
Để thay đổi và phát triển nhân cách trên cơ sở SKTT của
cá nhân và để đối phó với thách thức của cuộc sống hiện tại,
người ta thường khuyên rằng “Phải hiểu mình và hiểu người”.
Mỗi nhân cách dó nhiên là có cái độc đáo riêng, nhưng mọi
người phải chấp nhận những mẫu số chung – là chuẩn mực cấu
trúc về hành vi của con người. Các nhà tâm lý học đã đưa ra
nhiều kiểu giải thích một cách hệ thống về hành vi con người.
Học thuyết của Sigmund Freud được bàn cãi nhiều nhất.
Abraham Maslov đã đưa ra mô hình phát triển nhân cách theo
hình chóp 5 bậc – khi nhu cầu bậc thấp được thỏa mãn chừng
nào đó thì nẩy sinh nhu cầu bậc cao hơn. Nhu cầu được thỏa
mãn, cá nhân sẽ thấy thoải mái, khỏe khoắn, ngược lại sẽ thấy
khó chòu, bực bội, khó hòa hợp. Người ta minh họa các bước tiến
triển của nhu cầu bằng mô hình chóp như sau:
Sinh Lí
An Toàn
Yêu Thương
Tự trọng
Thành đạt
43 44
Bậc 1: Bao gồm nhu cầu sinh lý cơ bản:ăn uống, tình dục.
Bậc 2: Nhu cầu được cảm thấy an toàn nghóa là có an ninh,
trật tự, ổn đònh, đặc biệt khi phải đối diện với những nguy hiểm
tiềm ẩn xuất phát từ môi trường.
Bậc 3: Nhu cầu được thuộc về một ai đó, một tổ chức nào
đó mà ở đó con người tìm thấy sự yêu thương sự thông cảm cho
nhau.
Bậc 4: Nhu cầu tự đánh giá – có tự tin và tự trọng, đòi hỏi
sự chấp nhận, được tôn trọng.
Bậc 5: Nhu cầu thành đạt, sử dụng tiềm năng sáng tạo của
mình để hoàn thiện mình, để đạt được mục tiêu cao nhất hằng
mong muốn. Đạt được đến đây, con người thấy cuộc đời thật có ý
nghóa, đầy niềm vui và thật đáng sống.
Ngày nay trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế trên cơ sở tăng
trưởng và phát triển vũ bão của khoa học công nghệ, trong môi
trường sinh thái bò ô nhiễm và suy thoái nặng nề, con người và cả
xã hội con người đang bò lôi cuốn vào cuộc sống đầy thử thách,
cạnh tranh căng thẳng. Những biểu hiện suy giảm sức khỏe tinh
thần diễn ra khá phổ biến trong nhiều cộng đồng, trong nhiều
giới lao động và trong nhiều lớp tuổi khác nhau. Những hiện
tïng, trạng thái tâm lý như hụt hẫng, phiền nhiễu, hoang mang,
ám ảnh…thường xẩy ra sau những sự cố tự nhiên hoặc xã hội nào
đó thường được gọi chung (không thật khoa học lắm) là stress.
2.3. stress
Người ta gọi đó là một chứng có thể phát sinh nhiều bệnh.
Nó chẳng phải là bệnh nhưng tác hại chẳng kém gì bệnh. Trong
y học, stress được hiểu là thuật ngữ chỉ tác động của các biến cố
đến thể chất và tinh thần của con người.
Theo Hans Selye, stress là phản ứng không đặc hiệu của cơ
thể đối với bất cứ đòi hỏi nào đặt ra cho chính cơ thể.
Mỗi người đều phải trải qua một vài khủng hoảng và đều có
những cách đối phó khác nhau. Thường người ta cảm nhận được nó
nhưng không rõ là do cái gì và cũng không có phản ứng nhất quán
nào.
Vì vậy cũng có thể hiểu stress là phản ứng không đặc hiệu,
không rõ ràng trước những tác động cũng không rõ ràng, không đặc
hiệu.
Biết là có thể có hại nhưng cũng thật khó lảng tránh. Tuy
nhiên stress không phải lúc nào cũng có hại. Các phản ứng đa
dạng kiểu stress cũng tạo cho ta ý chí vượt khó và chính stress
làm cho cuộc sống thêm sôi động và thú vò hơn.
Ví dụ: chỉ việc cần đến trạm xe buýt cho đúng giờ, khỏi
chậm trễ, khỏi lỡ xe thì trong cơ thể con người đã xảy ra những
biến đổi sinh lý sinh hóa tạo cơ sở cho sự đáp ứng là tìm một lời
giải nào đó hoặc làm một hành động gì đó để đáp ứng đòi hỏi:
không trễ xe. Hoặc là cố gắng chạy nhanh lên cho kòp chuyến
45 46
xe, họăc là tặc lưỡi đêùn đâu thì đến, không việc gì mà vội vàng,
không chuyến này thì chuyến khác
Sự đáp ứng nhiều hay ít, biểu thò stress mạnh hay yếu còn
tuy thuộc vào việc đánh giá mức độ quan trọng của stress đối với
bản thân. stress quá mạnh, cơ thể không đáp ứng nổi sẽ trở nên
suy yếu, ngã bệnh và thậm chí có thể tử vong.
Trong cuộc sống từ lúc nhỏ tuổi cho đến lúc trưởng thành, đến
tuổi già chúng ta luôn gặp biết bao nhiêu là sự thay đổi. Mỗi một sự
thay đổi đều gây cho ta một phản ứng nào đó hay nói khác đi là gây
ra một stress. Như vậy, sự thay đổi làø một yếu tố phổ biến gây stress.
Thay đổi vì stress là một phần của cuộc sống từ nhỏ đến
lớn, dễ thấy nhất là giai đoạn dậy thì, chớm trưởng thành và giai
đoạn về già (hưu trí hoặc mãn kinh đối với phụ nữ).
2.3.1 Đáp ứng của cơ thể đối với stress
Trước khi stress xảy ra, nó phải được cảm nhận có ý thức
hoặc vô thức. Khi gặp biến cố thì biến cố đó được giải quyết về
thể chất hoặc tinh thần theo một trong 3 cách sau: Hãy lấy ví dụ
về một cuộc thi kết thúc môn học của sinh viên.
– Đáp ứng xây dựng (đáp ứng thích ứng): Với sinh viên
học tốt, chăm chỉ, nắm được bài, anh ta quan niệm cuộc thi là
một thử thách cho phép anh chứng tỏ mình, bộc lộ năng lực của
mình trước thầy giáo. Đó làmột đáp ứng xây dựng.
– Đáp ứng phá hủy (đáp ứng không thích ứng): Với một
sinh viên học hành không tốt anh ta cho rằng cuộc thi là một đe
dọa, anh ta chuẩn bò đối phó bằêng cách gian lận như chuẩn bò
phao, chuẩn bò tư thế để copy, nhưng rồi mọi chuyện vỡ lở,anh ta
đâm ra bất mãn, dẫn đến những stress mới không có lợi gì. Đó là
đáp ứng phá hủy
– Đáp ứng trung tính (không có đáp ứng): Với nhiều sinh
viên khác coi cuộc thi là chuyện tất yếu phải có. Có học thì có
thi. Qua được thì tốt. Không qua được thì học thi lại. Thi lại là
chuyện thường tình của sinh viên. Đó là đáp ứng trung tính.
Phản ứng của cơ thể lúc đang có stress gồm những biến đổi
về sinh lý, sinh hóa mà trước hết là ở hệ thần kinh, sau đó là nội
tiết rồi đến hệ cơ, tiêu hóa, tim mạch và da, thường thể hiện ra
bề ngoài như sững sờ, hốt hoảng, đỏ mặt, tái tím mặt, tim đập
nhanh, hồi hộp, lóng ngóng, tê cứng, lông tóc dựng lên, buồn
tiểu….
Có thể phân biệt 2 kiểu stress như sau:
– Kiểu thách thức nhất thời (Acute stress) có khởi sự và
kết thúc rõ ràng, gọi là stress cấp tính.
Ví dụ: Đang học, bò mất điện micro không hoạt động đïc.
Sinh viên ngồi ở cuối lớp không nghe rõ phải dồn lên các bàn trên,
gây náo lọan tý chút, nhưng rồi cũng yên. Lớp học vẫn tiếp tục
được.
– Kiểu thách thức kéo dài, liên tục gọi là stress mạn tính
(Chronic stress) hay trường diễn. Khi đó con người nhận thức
thấy những đòi hỏi lớn hơn những nguồn lực sẵn có để đối phó
với chúng. Ví dụ: Lớp học đang yên tónh bỗng ngoài hành lang
nhiều sinh viên khác chơi đùa ồn ào. Nhắc nhở một vài lần
không được. Sinh viên và thầy giáo trong lớp vẫn cố gắng chòu
47 48
đựng để tiếp bài giảng. Nhưng rồi đến lúc không thể tập trung
cao độ cho bài giảng đïc nữa. Thầy giáo đành phải kết thúc bài
giảng trong ấm ức và lầm bầm dọa sẽ báo cáo lên khoa.
Trước hai kiểu stress như vậy con người rõ ràng là có
những kiểu phản ứng khác nhau:
+ Phản ứng khẩn cấp: Walter Cannon (1920) đã mô tả cách
thức con vật và con người đáp ứng với mối nguy hiểm bên ngoài
bằng cách hoặc là chống trả hoặc là bỏ chạy (trung tâm này nằm ở
vùng dưới đồi, nó kiểm soát hệ thần kinh tự chủ và hoạt hóa tuyến
yên). Đáp ứng kép với stress này được phát động khi đối mặt với đe
dọa.
Hans Selye (1930) nghiên cứu tác động liên tục của stress
lên cơ thể. Selye quan niệm stress như một trạng thái bên trong
cơ thể và coi sự đáp ứng toàn thân với các tác nhân gây stress
không đặc hiệu như vậy là hội chứng thích ứng chung (GAS –
The general Adaptation syndrome), diễn ra theo 3 giai đoạn:
Phản ứng báo động, đề kháng và suy kiệt.
+ Phản ứng tâm lý: Các phản ứng sinh lý với stress là
những đáp ứng tự động, có thể dự đoán, tạo thành một kết cấu
mà không kiểm soát được bằng ý thức.
Khác với các phản ứng sinh lý nói trên phản ứng tâm lý là
phản ứng tập nhiễm, tùy thuộc vào nhận thức và năng lực trong
xử lý stress. Các phản ứng tâm lý với stress có thể bao gồm các
đáp ứng ứng xử, cảm xúc và nhận thức:
– Đáp ứng ứng xử: Ứng xử của một người khi đối mặt với
tác nhân gây stress tùy thuộc vào mức độ stress diễn ra. Các kiểu
phản ứng khác nhau là kết quả của mức độ stress nặng nhẹ khác
nhau:
Stress nhẹ có thể được cảm nhận như một thách thức và
làm tăng thành tích.
Stress vừa sẽ phá vỡ ứng xử và có thể dẫn đến những hành
vi dập khuôn, lặp đi lặp lại.
Stress nặng ngăn chặn những ứng xử và gây ra những phản
ứng lệch lạc.
– Đáp ứng cảm xúc. Các phản ứng cảm xúc của stress gồm
trạng thái bối rối, giận dữ, trầm nhược. Đặc biệt các phản ứng rối
nhiễu sau chấn thương là những phản ứng cảm xúc chậm, kéo
dài các hậu quả tiêu cực của stress cấp tính, cơ thể trở thành một
hội chứng mạn tính gọi là stress tàn dư.
– Đáp ứng nhận thức. Các phản ứng nhận thức với stress
bao gồm sự chú ý bò thu hẹp, tư duy máy móc. stress càng nặng
bao nhiêu thì hiệu năng nhận thức và tư duy linh hoạt càng giảm
bấy nhiêu.
2.3.2. Các yếu tố gây stress
Các biểu hiện của stress rất đa dạng. Việc tìm hiểu xác
đònh các yếu tố gây stress giúp ta tìm cách giải tỏa tốt hơn. Có
thể có 3 nhóm yếu tố như sau:
+ stress sinh thái: Phát sinh từ quan hệ nội tại và ngoại lai
với môi trường bên trong và bên ngoài. Mọi hoạt động của bản
thân con người vốn được lập trình sẵn cho các loại phản ứng. Ví dụ
stress nhiệt gây nóng thì toát mồ hôi, với stress ồn thì bòt tai lại…
49 50
Do đó các loại stress sinh thái thường ít chòu ảnh hưởng của ý thức
và do đó cũng khó kiểm soát. Người ta thường chú ý đến các loại
yếu tố như sau:
– Chu kỳ thời gian là stress sinh thái cơ bản nhất. Con
người là sinh vật duy nhất có thể bắt những chu kỳ sáng–tối,
ngày–đêm… tuân theo thời khóa biểu của mình. Hậu quả là đôi
khi thấy lạc điệu với môi trường xung quanh, rồi cảm thấy khó
chòu, cáu khỉnh thậm chí ngã bệnh.
Ví dụ: Khi đi máy bay qua nhiều múi giờ khác nhau, khi
làm ca đêm và ngủ ngày. Nhòp sinh học bò xáo trộn, phải mất
một thời gian mới quen được. Thường có 3 loại nhòp sinh học khó
kiểm soát: Nhòp ngày đêm, giờ, và các nhòpsinh học được gọi là
Biorhytme về thể lực, tâm lực, trí lực.
– Sự thiếu ngủ, thiếu ăn, chế độ lao động nặng mà dinh
dưỡng kém, không được ngủ sẽ sinh stress khá nặng, giảm sút tốc
độ phản ứng, độ nhạy cảm và khả năng phối hợp các hoạt động,
kèm theo những biến động về tâm lý như lầm lẫn, nản chí, ảo giác
hung bạo …
– Chấn thương và bệnh tật: Đó thực sự là những biến cố
gây chấn động tâm lý tình cảm dẫn đến stress. Nhưng nếu được
giải thích về các triệu chứng chấn thương, tật bệnh thì chính sự
hiểu biết sẽ giúp giảm nhẹ biểu hiện stress, ngược lại nếu chỉ
hiểu mù mờ trong khi chỉ nhấn mạnh hiệu quả xấu của các bệnh
tật thì stress sẽ tăng lên.
Các stress vật lý khác như nhiệt, bức xạ, ồn đều gây những
phản ứng khó chòu, chóng mặt, nhức đầu, say nóng, điếc tai…
Trong lao động các stress ấy được gọi là tác hại nghề nghiệp.
+ stress tâm lý–xã hội: Phát sinh khi xử lý sai các thông tin
hỗn độn, ồ ạt, rối rắm từ môi trường xã hội hoặc khi tham vọng
mà không đạt được.
Sự thiếu thích ứng dẫn tới sự thiếu cân bằng là nguyên
nhân gây stress. Các cách mà ta phản ứng không tốt với thông tin
cũng là một nguồn gốc gây stress. Xã hội luôn biến đổi, sự vật
hiện tượng liên quan đến ta không ngừng diễn biến, đổi thay, cho
dù là đổi thay có lợi cũng là nguồn gốc dẫn đến stress. Thường
những tác động này không hề đơn độc mà tương tác với nhau: Sự
thất vọng, bế tắc lối ra, sự quá tải cũng như thiếu tải thường
không tác động một cách đơn độc. Số lượng thông tin vượt quá
khả năng xử lý mà nguyên nhân phổ biến như thiếu thời gian,
không được hỗ trợ, kỳ vọng quá cao, năng lực có hạn, sự buồn tẻ,
đơn điệu, nhàm chán lập đi lập lại, quá tải và thiếu tải đều dễ
dẫn đến stress.
+ stress nhân cách xuất hiện do có cảm nhận về chính mình
và về hành vi của mình. Việc tự đánh giá mình là một yếu tố có
thể dẫn đến stress rất mạnh. Khi mục tiêu đạt được ta tự cao, khi
thất bại ta lại tự đánh giá thấp. Dù thành công hay thất bại cũng
đều có thể có stress bởi vì chúng có ít nhiều tác động đến sự tự
đánh giá của bản thân.
2.3.3 Các yếu tố điều tiết stress