1
CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU
1.1 LÝ DO NGHIÊN CỨU
Ngày nay đối với các quốc gia có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
thì vai trò của thị trường chứng khoán là vô cùng quan trọng. Thị trường chứng khoán là
kênh thu hút các nguồn vốn đầu tư nhàn rỗi trung dài hạn trong nền kinh tế, là tiền đề cho
công cuộc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta. Thị trường chứng khoán vừa
là một kênh chuyển tải vốn cho nền kinh tế, vừa như một hàn thử biểu để đo sức khỏe của
nền kinh tế.
Đã có nhiều nghiên cứu phân tích nguyên nhân tác động đến thị trường chứng
khoán trong đó có ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế, các biến động của kinh tế thế giới, thị
trường bất động sản, lãi suất và các rào cản tác động đến thị trường tài chính của Chính
phủ,… Trong đó một nguyên nhân quan trọng không thể phủ nhận là kiến thức và tâm lý
của nhà đầu tư. Khi một nhà đầu tư thiếu kiến thức về đầu tư chứng khoán, một mặt sẽ
thấy lúng túng trước những thông tin và báo cáo của các công ty công bố cũng như thông
tin về thị trường, mặt khác sẽ càng lúng túng hơn khi đọc các báo cáo, dự báo, dự đoán
của các tổ chức tài chính lớn trên thế giới nhận định về thị trường chứng khoán Việt
Nam. Có bao giờ chúng ta tự hỏi vì sao từ những công trình nghiên cứu khoa học, từ
những lý thuyết đã được công bố trên thế giới mà chúng ta không thể ứng dụng để đưa ra
những nhận định và dự báo mà chỉ dựa vào những báo cáo của các tổ chức tài chính nước
ngoài. Từ đâu mà họ có được những dự báo, dự đoán như vậy và mức độ tin cậy của các
dự báo ấy tới đâu. Trên thực tế đã có không ít nhà đầu tư phải trả giá cho sự quá tin cậy
vào các bản báo cáo này.
Trên thế giới cũng đã có những nghiên cứu về các mô hình đầu tư tài chính
như CAPM, Fama – French, Carhart trên nhiều thị trường chứng khoán, đặc biệt là các
thị trường chứng khoán mới nổi đã cho những kết quả có ý nghĩa vô cùng thiết thực. Điều
đó càng khẳng định thêm tính đúng đắn và tính thực nghiệm của các mô hình này.
2
Thế nhưng chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam. Do vậy việc
nghiên cứu về các mô hình CAPM, Fama – French, Carhart vào thị trường chứng khoán
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một việc hết sức quan trọng và cấp thiết.
1.2 XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Mô hình CAPM cho rằng sự thay đổi tỷ suất lợi nhuận cổ phiếu được xác định
duy nhất bởi beta thị trường. Tuy nhiên có một số nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng
beta thị trường trong CAPM có rất ít liên hệ với tỷ suất lợi nhuận cổ phiếu (Reinganum,
1981; Breeden và các cộng sự, 1989; Fama và French, 1992) trong khi có một số nghiên
cứu đưa ra mối liên hệ giữa tỷ suất lợi nhuận và các biến như quy mô vốn hoá thị trường,
tỷ số thư giá trên thị giá (BM) và tỷ suất lợi nhuận trong quá khứ. Ảnh hưởng của quy mô
vốn hoá thị trường lần đầu tiên được đưa ra bởi Banz (1981) và Reinganum (1981), tìm
ra phần bù lợi nhuận trên các chứng khoán penny ở Mỹ và sau đó bởi Blume và
Stambaugh (1983) dùng dữ liệu Mỹ, Brown cùng các cộng sự (1983) dùng dữ liệu Úc.
Ảnh hưởng BM được nêu ra bởi Chan cùng các cộng sự (1991) trên thị trường chứng
khoán Nhật Bản. Ảnh hưởng lợi nhuận trong quá khứ lần đầu tiên được nêu ra bởi
Jegadeesh và Titman (1993), tìm thấy chứng khoán Mỹ có lợi nhuận tốt trong quá khứ từ
3 đến 12 tháng tiếp tục có lợi nhuận tốt trên 3 đến 12 tháng kế tiếp và ngược lại. Điều này
được khẳng định ở một vài thị trường khác (Rouwenhorst, 1998, 1999; Griffin cùng các
cộng sự, 2003).
Các nghiên cứu trên thị trường mới nổi nói chung cũng khẳng định các ảnh
hưởng quy mô và BM nhưng lợi nhuận trong quá khứ nói chung ít ảnh hưởng. Fama và
French (1998) đưa ra các ảnh hưởng quy mô doanh nghiệp và BM tương ứng 11 và 12 thị
trường trên toàn bộ 16 thị trường mới nổi. Đối với ảnh hưởng lợi nhuận trong quá khứ,
Griffin cùng các cộng sự (2003) cho rằng ảnh hưởng tương đối yếu ở thị trường châu Á ở
đó lợi nhuận nói chung dương nhưng ít có ý nghĩa thống kê.
Mặc dù vậy còn nhiều tranh cãi về nguồn gốc và bản chất của quy mô vốn
hoá, BM và biến động giá. Hai trường phái chính giải thích trên cơ sở rủi ro hay hành vi.
Fama và French (1993, 1995, 1998) giải thích ảnh hưởng của quy mô vốn hoá và BM là
3
phần bù rủi ro trong việc nắm giữ cổ phiếu ít sinh lợi hơn, rủi ro hơn. Trường phái hành
vi giải thích các ảnh hưởng này theo kết quả độ lệch nhận thức của nhà đầu tư. Ảnh
hưởng BM do bởi nhà đầu tư ngoại suy hoạt động quá khứ vào tương lai dẫn đến định giá
thấp các doanh nghiệp có BM cao (cổ phiếu giá trị) và định giá cao các doanh nghiệp có
BM thấp (cổ phiếu tăng trưởng) (DeBondt và Thaler, 1987; Lakonishok cùng các cộng
sự, 1994) hay các nhà đầu tư thích đặc tính nào đó của doanh nghiệp hơn chẳng hạn như
cổ phiếu tăng trưởng và không thích cổ phiếu giá trị (Daniel và Titman, 1997).
Các mô hình hành vi cũng giải thích ảnh hưởng biến động giá là kết quả độ
lệch trong việc định hình và xem lại các kỳ vọng (Barberis cùng các cộng sự, 1998;
Daniel cùng các cộng sự, 1998; Hong và Stein, 1999) cộng với tâm lý bầy đàn
(Lakonishok cùng các cộng sự, 1992). Có chứng cứ ủng hộ giải thích theo hành vi với
Jegadeesh và Titman (1993) coi nhẹ lợi nhuận liên quan đến rủi ro hệ thống và Griffin
cùng các cộng sự (2003) cho rằng lợi nhuận ở một vài quốc gia không liên quan đến rủi
ro vĩ mô. Giải thích theo hành vi qua một số kết quả thực nghiệm trong đó lợi nhuận
không liên quan đến rủi ro chẳng hạn biến động thu nhập (Chan cùng các cộng sự, 1996),
doanh thu (Lee và Swaminathan, 2000) và tỷ lệ sở hữu của các tổ chức (Grinblatt và
Moskowitz, 2003). Tuy nhiên Avramov và Chordia (2006) chỉ ra việc loại bỏ các mô
hình dựa trên rủi ro là vội vã và đề nghị một nhân tố rủi ro kết hợp với các biến chu kỳ
kinh doanh có thể giải thích biến động giá.
Rõ ràng CAPM không còn giải thích phù hợp mối liên hệ giữa rủi ro và lợi
nhuận nhưng cho đến nay chưa có mô hình nào thay thế hoàn toàn. Mô hình phổ biến
nhất trong tài liệu tài chính hiện nay là mô hình 3 nhân tố Fama – French, khẳng định lợi
nhuận bình quân có thể được giải thích bởi 3 nhân tố :
(1) Phần bù lợi nhuận thị trường
(2) Quy mô
(3) BM
Tuy nhiên, mô hình FF được phát triển dùng dữ liệu Mỹ, vì vậy cần phải được
kiểm chứng trên các thị trường khác. Đinh Trọng Hưng (2008) kiểm định mô hình FF
4
trên thị trường Việt Nam và rút ra kết luận vai trò của 2 nhân tố quy mô và BM trong việc
giải thích tỷ suất lợi nhuận là mờ nhạt, các nhân tố này chỉ có ý nghĩa khi kết hợp với
nhân tố thị trường.
Carhart (1995, 1997) đưa ra mô hình 4 nhân tố dùng lại mô hình FF và thêm
vào nhân tố WML để chỉ xung lượng. Carhart (1997) cho rằng mô hình 4 nhân tố có thể
giải thích sự thay đổi lợi nhuận của các danh mục được sắp xếp theo lợi nhuận trong quá
khứ.
Cần phải có thêm nhiều nghiên cứu nữa để làm sáng tỏ hơn các tranh luận nêu
trên. Nghiên cứu này so sánh khả năng giải thích tỷ suất lợi nhuận giữa các mô hình
CAPM, Fama – French và Carhart.
1.3 MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
1.3.1 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
So sánh mức độ giải thích mô hình ba nhân tố Fama - French với CAPM và
mô hình ba nhân tố Fama – French và mô hình bốn nhân tố Carhart.
1.3.2 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Mức độ giải thích lợi nhuận cổ phiếu các mô hình Carhart, Fama - French và
mô hình CAPM như thế nào ?
1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Chọn các công ty niêm yết trên sàn HOSE vì các lý do sau :
Những công ty niêm yết trên HOSE đều là những công ty có quy mô vốn lớn
(vốn điều lệ tối thiểu là 80 tỷ đồng)
Tính minh bạch hóa thông tin cao
Các cổ phiếu được chọn theo các tiêu chuẩn sau :
5
Loại bỏ cổ phiếu các công ty tài chính, quỹ đầu tư (Fama - French, 1993) vì đề
tài này so sánh 3 mô hình CAPM, FF và Carhart cần dùng yếu tố thư giá trên thị giá,
không áp dụng được với các công ty tài chính, quỹ đầu tư.
Loại bỏ các công ty bị cấm niêm yết hay chuyển sàn trong khoảng thời gian
nghiên cứu chẳng hạn như Bông Bạch Tuyết (BBT) (cấm niêm yết) hay Công ty cổ phần
Viễn Liên (UNI) (chuyển từ HOSE sang HASTC) vì dữ liệu không liên tục, việc đưa vào
mô hình ảnh hưởng đến kết quả.
Cổ phiếu được chọn phải có thời gian giao dịch trong quá khứ từ 1 năm trở lên
do mô hình Carhart có tính đến biến động giá của cổ phiếu năm vừa qua.
Loại bỏ các công ty có giá trị sổ sách âm và các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài chiếm trên 50%.
Khoảng thời gian chọn thu thập dữ liệu về giá chứng khoán từ tháng Giêng
năm 2004 đến tháng 12 năm 2010 vì các lý do sau :
Trước năm 2004 số lượng công ty niêm yết rất ít, chỉ khoảng 15 công ty, mức
độ vốn hóa thị trường không cao.
Chọn năm 2010 thay vì năm 2011 để phù hợp yêu cầu của đề tài chứng minh
sau khi lập danh mục theo Carhart thì danh mục này vẫn còn giá trị sau 1 năm kể từ ngày
lập danh mục.
Khoảng thời gian thu thập dữ liệu báo cáo tài chính theo năm để sắp xếp danh
mục theo Fama – French từ 2004 đến 2009.
1.5 Ý NGHĨA VÀ ỨNG DỤNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Việc thực hiện nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học
cũng như thực tiễn.
Về mặt khoa học, đề tài góp phần củng cố lý thuyết của các mô hình định giá
trên thị trường nhỏ và mới nổi mà hiện nay có không nhiều nghiên cứu ở thị trường
chứng khoán Việt Nam.
6
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu mang lại lợi ích cho nhà quản lý, cổ
đông trong việc xác định chi phí vốn, lựa chọn danh mục, đánh giá hiệu quả danh mục
cũng như vấn đề hiệu quả của thị trường.
1.6 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT CẤU LUẬN VĂN
Nghiên cứu gồm 6 chương như sau :
Chương 1 giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu.
Chương 2 giới thiệu về thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chương 3 khảo sát các lý thuyết và nghiên cứu có liên quan.
Chương 4 thu thập và xử lý dữ liệu.
Chương 5 kết quả nghiên cứu và thảo luận.
Chương 6 rút ra kết luận và đề xuất hướng nghiên cứu kế tiếp.
7
CHƯƠNG 2 : THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Ở phần giới thiệu, đề tài đã trình bày tóm tắt nội dung luận văn, từ lý do và
xác định vấn đề nghiên cứu, đến việc đề ra câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu, thêm vào đó
cũng đề cập đến kết cấu và ý nghĩa của luận văn. Phần này đi vào diễn biến thị trường
chứng khoán trong phạm vi thời gian nghiên cứu theo từng năm và tóm tắt diễn biến qua
các năm để thấy được toàn thể diễn biến của thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai
đoạn mà đề tài nghiên cứu.
2.1 DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM NĂM 2005
Hình 2.1 : VN-Index năm 2005
Năm 2005 chứng kiến sự khởi sắc của thị trường chứng khoán Việt Nam. VN-
Index từ đầu năm chỉ 237 và đến cuối năm lên đến 307 (tăng 30%) sau giai đoạn chập
8
chững từ 2000 đến 2004. Từ tháng tám năm 2005, giao dịch bứt phá sau nhiều tháng trầm
lắng trong năm. Mức độ vốn hóa thị trường đạt 7.472 tỷ đồng, chiếm 0,89% GDP.
Quy mô thị trường được mở rộng, tăng khoảng 55% giá trị chứng khoán niêm
yết, số lượng nhà đầu tư tăng 35%. Lòng tin của nhà đầu tư đối với thị trường được nâng
lên, do tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết có sự tăng trưởng
cao cả về vốn, doanh thu, lợi nhuận, tính công khai và quản trị công ty theo điều lệ mẫu
được tăng cường.
Bên cạnh đó, năm 2005 cũng xuất hiện một số dấu hiệu tích cực trên thị
trường chứng khoán. Nhiều doanh nghiệp đã phát hành thành công ra công chúng. Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước đã cấp giấy chứng nhận phát hành thêm cho 6 công ty niêm
yết với tổng trị giá 700 tỷ đồng, cấp giấy chứng nhận phát hành lần đầu ra công chúng
cho 4 công ty với tổng trị giá 102 tỷ đồng. Ngoài ra Uỷ ban cũng cấp phép niêm yết cho 7
công ty với tổng vốn điều lệ 2.117 tỷ đồng, trong đó riêng Vinamilk có vốn điều lệ trên
1.500 tỷ đồng.
Nhà nước đã đẩy mạnh cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp lớn, tổ chức đấu giá
công khai qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán nhiều doanh nghiệp lớn của ngành điện
lực như Nhà máy Thủy điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh, Thủy điện Thác Bà, Nhiệt điện Phả
Lại, Điện lực Khánh Hòa.
Có nhiều thay đổi trong chính sách liên quan đến thị trường chứng khoán theo
hướng ngày càng hoàn thiện, nhất là đối với nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể là đã nới lỏng
tỷ lệ sở hữu từ 30% lên 49% đối với các nhà đầu tư nước ngoài, cho phép các tập đoàn
bảo hiểm như Prudential, Manulife và một số tổ chức liên doanh thành lập công ty quản
lý quỹ ở Việt Nam, cấp phép lưu ký cho Tập đoàn CitiGroup, cho phép chuyển các xí
nghiệp liên doanh thành công ty cổ phần.
2.2 DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM NĂM 2006
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột
phá”, tạo cho TTCK Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi
9
động. VN-Index từ đầu năm chỉ 305 và đến cuối năm lên đến 751 (tăng 146%). Mức độ
vốn hóa thị trường đạt 147.967 tỷ đồng, chiếm 15,19% GDP.
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 TTCK Việt Nam
trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau Zimbabwe. Và sự
bừng dậy của thị trường non trẻ này "hút hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Không thể phủ nhận năm 2006 TTCK Việt Nam non trẻ này đã có “màn trình diễn” tuyệt
vời và có thể sẽ không bao giờ có lại được với khối lượng vốn hoá tăng gấp 15 lần trong
vòng 1 năm.
Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở
nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người
mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong
bóng” là có thật.
Tính đến phiên 29/12/2006, tại HOSE đã có sự góp mặt của 106 cổ phiếu, 2
chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn
tỷ đồng.
10
Hình 2.2 : VN-Index năm 2006
2.3 DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM NĂM 2007
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị
trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính
công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
Nhìn chung diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên
giao dịch có nhiều biến động. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VN - Index đạt 927,02
điểm. Như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt được mức tăng trưởng là 23,3%. Mức
độ vốn hóa thị trường đạt 364.425 tỷ chiếm 31,88% GDP
Tính đến ngày 28/12/2007, HOSE đã thực hiện được 248 phiên giao dịch với
tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao
dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch
11
so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được chuyển
nhượng tương đương với 980 tỷ đồng.
Nhìn nhận khách quan từ góc độ thị trường, bên cạnh những thành công,
TTCK qua một năm hoạt động cũng ghi lại dấu ấn cho những giai đoạn thăng trầm nhất
định khi thị trường trải qua những biến động trồi sụt thất thường : giai đoạn thị trường
bùng nổ trong 3 tháng đầu năm, thị trường bắt đầu hạ nhiệt và điều chỉnh mạnh vào 5
tháng giữa năm, tiếp đến là một đợt phục hồi trước khi đi vào thoái trào trong 4 tháng
cuối năm.
Giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm 2007 :
Đây là giai đoạn thị trường có những đợt sóng cao, chỉ số VN - Index đã đạt
mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7 năm hoạt động. Trong giai đoạn này, giá các cổ phiếu
tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng loạt các cổ phiếu đều đạt mức tăng trưởng trên 50%
giá trị so với mức giá giao dịch đầu năm, trong đó có những cổ phiếu đạt mức tăng
trưởng trên 100% như: STB (113,57%), REE (122,66%),… Rất nhiều mã CP thiết lập
mức giá đỉnh kể từ khi lên sàn trong giai đoạn này như: SJS (728.000 đ/CP), FPT
(665.000 đ/CP), DHG (394.000đ/CP), REE (285.000đ/CP), SSI (255.000đ/CP), SAM
(250.000đ/CP), KDC (246.000đ/CP), VNM (212.000đ/CP), ACB (292.000đ/CP)…
Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng trong giai đoạn này phải
kể đến sức cầu trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch trung bình
mỗi phiên giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Tại HOSE, bình quân mỗi phiên giá trị
giao dịch đạt trên 1.000 tỷ đồng.
Giai đoạn thị trường điều chỉnh từ tháng 4/2007 đến đầu tháng 9/2007 :
Với nỗi lo sợ về một “thị trường bong bóng”, các cơ quan quản lý nhà nước
cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp kiểm soát
thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng trưởng quá nóng của
thị trường. Phản ứng trước điều này, TTCK đã có những đợt điều chỉnh rõ rệt. Một đợt
điều chỉnh giảm của thị trường đã diễn ra trong một khoảng thời gian rất dài (từ cuối
tháng 3 đến đầu tháng 9).
12
Giai đoạn điều chỉnh này ghi nhận sự trầm lắng trên sàn, tất cả các yếu tố của
thị trường đều giảm sút nghiêm trọng. VN - Index chỉ trong vòng 1 tháng giao dịch đã rơi
xuống mức 905,53 điểm (24/04/2007), giảm tới 22,6% so với mức đỉnh vào tháng 3. Thị
trường đã mất điểm quá nhanh trong 1 thời gian ngắn khiến giá giao dịch của các cổ
phiếu đã trở về gần mức giá thiết lập vào đầu năm. Trong giai đoạn này, thị trường cũng
có một đợt hồi phục vào giai đoạn cuối tháng 5/2007 khi VN - Index quay trở về mốc
1.107,52 điểm (23/05/2007). Nhưng do tác động tâm lý quá mạnh của các chính sách
kiềm chế thị trường trước đó như Chỉ thị 03, Luật thuế thu nhập cá nhân,… thị trường
nhanh chóng trở lại trạng thái mất cân bằng và liên tục sụt giảm mạnh khiến giai đoạn
đầu tháng 8, thị trường xác lập mức đáy 883,9 điểm của VN - Index (6/8/2007). Vào giai
đoạn thị trường xuống sâu nhất (khoảng đầu tháng 8), HOSE có những phiên giao dịch
chỉ có hơn 3 triệu cổ phiếu được khớp lệnh (ngày 30/07/2007 chỉ có 3.296.340CP được
giao dịch).
Giai đoạn phục hồi của thị trường vào những tháng cuối năm :
Thị trường bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ trong khoảng thời gian đầu
tháng 9 đến cuối tháng 10/2007. Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hướng phục hồi nhanh
chóng, đặc biệt là các mã cổ phiếu blue – chip đều lấy lại được những gì đã mất trong 6
tháng giữa năm, tuy nhiên sức bật của các cổ phiếu không đủ mạnh để đưa các cổ phiếu
trở về mức giá đỉnh thiết lập vào tháng 3. Trong giai đoạn này, VN - Index đã có những
phiên giao dịch vượt lên trên ngưỡng 1.100 điểm (1.106,6 điểm vào ngày 3/10/2007).
Đà tăng giá của các cổ phiếu trong giai đoạn này thể hiện rõ nét nhất ở nhóm các cổ
phiếu blue – chip như DHG, FPT, VIC… Lượng giao dịch bình quân phiên luôn ở trên
mức 10 triệu CP. Tuy nhiên, thị trường sau một đợt phục hồi đã nhanh chóng điều chỉnh
giảm vào 2 tháng cuối năm. Trong giai đoạn này, thị trường thỉnh thoảng cũng có các đợt
phục hồi giả với sự tăng lên mạnh mẽ của tất cả các yếu tố. Tuy nhiên sự phục hồi này
không duy trì được lâu, thậm chí đã có dấu hiệu suy giảm chỉ sau 1 phiên tăng điểm.
Chính điều này đã dẫn tới việc các nhà đầu tư bị đọng vốn. Trong khi nguồn cầu có xu
hướng cạn kiệt, thì nguồn cung vẫn tiếp tục gia tăng. Tương quan cung cầu mất cân bằng
khiến thị trường ngày càng tuột dốc cả về giá lẫn khối lượng giao dịch. VN - Index giảm
13
xuống dưỡi ngưỡng điểm 1.000 và chỉ xoay quanh mốc 900 điểm, với lượng chứng
khoán chuyển nhượng rất hạn chế.
Hình 2.3 : VN – Index năm 2007
2.4 DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM NĂM 2008
Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt Nam khép lại năm 2008
với sự sụt giảm mạnh. Nhìn lại thị trường sau 1 năm giao dịch, những điểm nổi bật của
thị trường : VN - Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã cổ
phiếu rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự
can thiệp của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các nhà đầu tư. Trong
năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy
mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô lớn, kinh
doanh hiệu quả và việc bán bớt cổ phần Nhà nước trong các doanh nghiệp đã cổ phần
14
hóa, chưa kể hàng loạt ngân hàng, công ty chứng khoán, doanh nghiệp, phát hành trái
phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng TTCK có nguy cơ thừa "hàng".
Tính từ đầu năm đến hết ngày 31/12/2008, TTCK Việt Nam trải qua 3 giai đoạn chính.
Giai đoạn 1: Từ tháng 1 tới tháng 6
Thị trường giảm mạnh do tác động của kinh tế vĩ mô. Khởi đầu năm tại mức
điểm 921,07, VN - Index đã mất đi gần 60% giá trị và trở thành một trong những thị
trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong nửa đầu năm 2008. Các thông tin tác
động xấu tới tâm lý nhà đầu tư trong giai đoạn này chủ yếu xuất phát từ nội tại nền kinh
tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, sự
leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư
chứng khoán. Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều
hành bắt đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ:
UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch
SCIC tham gia mua vào cổ phiếu
NHTM được vận động ngừng giải chấp
Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn
và thị trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác động tới tâm
lý các nhà đầu tư. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có tới 71 phiên VN -
Index giảm điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VN - Index giảm điểm liên tiếp từ giữa
tháng 4 đến đầu tháng 6/2008. Sau 103 phiên giao dịch, VN - Index giảm mất 550,52
điểm, tương đương 59,77%. Bình quân trong mỗi phiên, toàn thị trường có 8,02 triệu cổ
phiếu và chứng chỉ quỹ được chuyển nhượng, tương đương khoảng 482 tỷ đồng. Trong
đợt suy giảm này, nhóm cổ phiếu chịu nhiều tác động nhất là nhóm cổ phiếu tài chính
ngân hàng, công nghệ và bất động sản.
Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN phải can
thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008. Tổng cộng trong
15
năm 2008, UBCKNN đã có 4 lần thay đổi biên độ dao động giá. Nhằm hỗ trợ thêm cho
sức cầu trên thị trường, ngăn đà suy giảm mạnh của các chỉ số chứng khoán, ngày
04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra nhóm 19 giải pháp ứng cứu thị trường : cho phép SCIC
mua vào cổ phiếu trên thị trường, kêu gọi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp niêm yết
mua vào cổ phiếu quỹ Sự tăng trưởng nóng trong năm 2007, đặc biệt vào những tháng
cuối năm đã đưa đến những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô. Chỉ số tiêu dùng bắt đầu gia
tăng với mức trung bình 2,07%/tháng trong 2 tháng cuối năm 2007. Tiếp nối xu thế này,
trong quý I/2008, chỉ số CPI tiếp tục gia tăng với tốc độ bình quân 3,06%/tháng và đạt
đỉnh vào tháng 5/2008 với mức tăng 3,91%. Trong chu kỳ tăng giá nửa đầu năm 2008, tại
đa số thời điểm, lương thực được coi là yếu tố tác động chủ yếu đến chỉ số giá. Tính đến
tháng 06, giá lương thực đã tăng 57,22% so với tháng 12/2007. Chịu ảnh hưởng trực tiếp
của tỷ lệ lạm phát tăng cao trong nước và sự biến động mạnh của giá cả hàng hóa trên thế
giới, thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ Việt Nam tiếp tục có những biến động
mạnh. Trên thị trường hàng hóa, xăng dầu - loại hàng hóa cơ bản thuộc sự kiểm soát của
Chính phủ - đã được điều chỉnh mạnh. Trên thị trường tiền tệ, lãi suất từ NHNN và
NHTM liên tiếp xác định các mặt bằng mới. Chịu tác động sức ép từ lạm phát, lãi suất từ
các NHTM tăng mạnh trong cuối quý II, dao đ
ộng từ 16 - 18% đối với huy động tiền gửi
và 20 - 21% đối với các khoản vay. Đặc biệt các sản phẩm huy động vốn với kỳ hạn
ngắn, lãi suất cao là tiêu điểm của hệ thống NH trong giai đoạn này. Sự căng thẳng về
thanh khoản và sự xáo trộn về dòng chảy của tiền gửi huy động là nỗi lo của các NHTM
trong giai đoạn này. Thâm hụt thương mại cao nhất trong năm tháng đầu năm với mức
trung bình là khoảng 2,6 tỷ USD/tháng. Trước thực trạng này chính phủ đã đề ra 8 nhóm
giải pháp vào tháng 3/2008 với mục tiêu kiềm chế lạm phát và thâm hụt thương mại. Các
chính sách chủ yếu được thực hiện thông qua việc sử dụng công cụ điều hành lãi suất cơ
bản và thắt chặt đầu tư công để hạn chế nguồn cung tiền trên thị trường.
Giai đoạn 2 : từ tháng 6 tới đầu tháng 9 - phục hồi trong ngắn hạn
Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue - chip như STB, FPT, DPM…và
đặc biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác nước ngoài, VN - Index đã có được những
phiên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này. VN - Index liên tiếp vượt qua các ngưỡng cản
16
tâm lý quan trọng và thường xuyên có được những chuỗi tăng điểm kéo dài. Đây cũng là
giai đoạn thị trường hoạt động sôi động nhất. Sức cầu mạnh, kéo theo khối lượng giao
dịch và giá trị giao dịch thường xuyên ở mức cao. VN - Index tăng được 168,55 điểm,
tương đương 45,52%. Khối lượng giao dịch bình quân đạt 16,9 triệu cổ phiếu và chứng
chỉ quỹ, tương đương 599,18 tỷ đồng/phiên. Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu được ưa
thích nhất là nhóm cổ phiếu dầu khí (tăng 80,33%), nguyên vật liệu và công nghệ (tăng
89,78%). Các đại diện tiêu biểu cho nhóm cổ phiếu này bao gồm: PVS, PVD, PTC, HPG,
FPT…
Giai đoạn 3: Từ tháng 9 tới tháng 12
Thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn
cầu. Đây là thời kỳ VN - Index rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy thiết
lập được trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này, VN - Index mất
223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung bình đạt 15,82 triệu cổ
phiếu và chứng chỉ quỹ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên. Nguyên nhân tác động lớn
nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự lan tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài
chính trên toàn thế giới. Hòa cùng xu thế giảm điểm của TTCK các nước, VN – Index
liên tiếp giảm điểm. Trong 86 phiên giao dịch tại HOSE, 49 phiên VN - Index mất điểm.
Đáy mới thiết lập trong giai đoạn này là 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008. Cùng với nỗ
lực giải cứu nền kinh tế của Chính phủ và động thái từ NHNN, xen lẫn giữa những phiên
giảm điểm , TTCK Việt Nam vẫn có những phiên phục hồi mạnh. Tuy nhiên, các “con
sóng” trên thị trường thường rất ngắn và không ổn định. Kết thúc giai đoạn này, VN –
Index giảm mất 239,52 điểm, tương đương 43,15%. Tốc độ giảm mạnh nhất trong giai
đoạn này thuộc nhóm cổ phiếu các ngành nguyên vật liệu, công nghiệp, tài chính và công
nghệ. Nguyên nhân của sự suy giảm trong giai đoạn này được nhận định một phần do sự
tác động của xu thế chung thị trường, ngoài ra, cũng là hệ quả của việc tăng khá chóng
mặt của các các cổ phiếu này trong giai đoạn trước đó.
Một trong những đề tài nóng hổi và được báo giới chú ý trong những
tháng cuối năm là phong trào trả cổ tức bằng tiền mặt, với tỷ lệ khá
cao của các công ty niêm yết. Nguồn vốn FII vào Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ
17
đầu tư. Tuy nhiên, kể từ cuối tháng 08/2008 cùng với sự sụt giảm của TTCK thế giới nói
chung, TTCK Việt Nam cũng giảm mạnh. Tính đến tháng 12/2008, những dấu hiệu về
khả năng nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi thị trường chứng khoán cũng bắt đầu
xuất hiện, thể hiện qua việc bán ròng của khối ngoại trong những tháng cuối năm.Ngoài
ra, mặc dù lạm phát được kiềm chế nhưng lại có sự lo ngại về giảm phát do chỉ số CPI
tăng trưởng âm trong những tháng cuối năm. Trong quý cuối năm, CPI đã giảm 0,23%
trong tháng 10 và tăng lên thành 0,81% trong tháng 12 (so từng tháng). Tính cả năm 2008
, tỷ lệ lạm phát là 19,89% (so với tháng 12/2007) và xấp xỉ 23% (so với bình quân 2007).
Giải pháp tài chính kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 được thực hiện thông qua
việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản nhằm kích cầu sản xuất tiêu dùng, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ dàng hơn, đồng thời giảm áp lực tín dụng
cho các ngân hàng thương mại.
VN - Index từ đầu năm là 921 đến cuối năm rơi xuống 316 (giảm 66%). Mức
độ vốn hóa thị trường đạt 169.346 tỷ chiếm 11,46% GDP. VN - Index tụt dốc thảm hại
khiến nhiều nhà đầu tư rời bỏ thị trường, vì thế tỷ trọng vốn hóa thị trường so với GDP
giảm đi hơn một nửa. Đây là năm đen tối nhất đến nay của thị trường chứng khoán Việt
Nam. Tỷ trọng vốn hóa thị trường so với GDP thậm chí còn thấp hơn cả năm 2006.
18
Hình 2.4 : VN – Index năm 2008
2.5 DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM NĂM 2009
Nếu như 2008 được coi là một năm rất đáng quên khi các chỉ số liên tục sụt
giảm thì bước sang 2009, TTCK Việt Nam đã có sự phục hồi tương đối ấn tượng, không
ít thời điểm đã để lại những dấu ấn quan trọng trong lịch sử 9 năm phát triển với những
kỷ lục mới.
Những kỷ lục mới, cột mốc quan trọng đã lần lượt được thiết lập: phiên giao
dịch ngày 24/2, VN - Index đã rơi xuống mức đáy 235,5 điểm. Tuy nhiên, bước sang
tháng 3, các NĐT đã lấy lại được niềm tin khi TTCK có một tháng tăng điểm ấn tượng
nhất kể từ tháng 11/2008 : VN - Index không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao
dịch cũng tăng mạnh. Tính đến hết ngày 30/6, VN - Index đã tăng 132,67 điểm (42,03%)
so với thời điểm kết thúc năm 2008. Đây là một bước tiến dài của TTCK trong nước khi
19
VN - Index đã đạt tốc độ tăng lớn thứ 8 trong tổng số 89 chỉ số chứng khoán quan trọng
trên thế giới khi tăng được 46% so với thời điểm đầu năm 2009. Kỷ lục về khối lượng
giao dịch tại sàn HOSE được thiết lập vào ngày 10/6 với 101.774.520 cổ phiếu và chứng
chỉ quỹ được chuyển nhượng.
Từ tháng 8 đến tháng 10, TTCK lại tiếp tục đợt tăng giá thứ hai đầy mạnh mẽ
với nhiều kỷ lục về giá trị và khối lượng giao dịch kỷ lục được xác lập. Ngày 22/10,
TTCK vươn tới đỉnh điểm của đợt sóng thứ 2 là mức 624,10 điểm. Đây cũng là mức cao
nhất của thị trường sau 394 phiên giao dịch kể từ ngày 14/3/2008. Tại HOSE, phiên giao
dịch ngày 23/10 được coi là "siêu thanh khoản" khi lập kỷ lục cao nhất từ trước đến nay
cả về khối lượng và giá trị giao dịch với hơn 136 triệu đơn vị được chuyển nhượng,
tương ứng giá trị giao dịch lên đến 6.414 nghìn tỷ đồng. TTCK tăng trưởng mạnh mẽ,
nằm ngoài dự đoán của giới chuyên gia và trở thành điểm sáng ấn tượng khi có tốc độ
phục hồi nhanh nhất châu Á.
Một ấn tượng khác của TTCK là sự phát triển mạnh mẽ về quy mô. Mức độ
vốn hóa thị trường đạt 495.094 tỷ chiếm 30% GDP. Tỷ trọng vốn hóa thị trường so với
GDP đã quay lại như năm 2007. Mức vốn hóa này tăng gần gấp 3 lần so với thời điểm
cuối năm 2008. Năm 2009 cũng đánh dấu sự lên sàn của hàng loạt doanh nghiệp (DN)
lớn như Eximbank, Bảo Việt, Vietcombank và Vietinbank Sự góp mặt của các “đại gia”
này đồng nghĩa với việc nguồn cung trên thị trường ngày càng đa dạng hơn. Trong đó,
Vietcombank giao dịch 112,3 triệu cổ phiếu, là DN có vốn hóa lớn nhất thị trường, với
trên 56.000 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần "quán quân" trước đó là ACB (28.000 tỷ đồng). Trong
khi đó, Bảo Việt (BVH) niêm yết toàn bộ 573 triệu cổ phiếu và Vietinbank có 121,2 triệu
cổ phiếu. Các “đại gia” này đều chào sàn thành công, đáp ứng được mong đợi của NĐT.
Giá cổ phiếu các doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng nhờ vậy đã tăng trong một thời
gian khá dài và trở thành những cổ phiếu "nóng" trên thị trường.
Năm 2009 cũng để lại những ấn tượng mạnh mẽ về các dòng vốn vào - ra thị
trường. Các chuyên gia đều lên tiếng khẳng định : một trong những nguyên nhân khiến
thị trường "nóng" là do khối các CTCK "tung" các đòn bẩy tài chính hỗ trợ NĐT. Kể từ
20
khi chứng khoán hồi phục, nhằm gia tăng lợi nhuận, hầu hết CTCK đều phối hợp với một
hay một vài đối tác tài chính để hỗ trợ vốn cho các NĐT. Tại một số CTCK, tỷ lệ sử dụng
đòn bẩy có thể đạt 100 - 200%. Hình thức hỗ trợ rất đa dạng và thông thoáng, NĐT vốn ít
thì được cầm cố từ 40-70% giá trị tiền hay cổ phiếu trong tài khoản để mua tiếp cổ phiếu.
Hàng nghìn NĐT đã liên tiếp quay vòng đồng tiền bằng vay mượn nhằm gia tăng lợi
nhuận khiến sức cầu được khuếch đại lớn gấp nhiều lần thực lực. Nguồn lực từ các đòn
bẩy tài chính đã khiến thị trường liên tiếp thiết lập các kỷ lục về thanh khoản nhưng kèm
theo đó là những nỗi lo ngày càng lớn dần. Cuối tháng 6/2009, UBCKNN đã phải lên
tiếng yêu cầu các công ty chứng khoán thực hiện nghiêm túc các quy định, đồng thời
ngừng ký các hợp đồng repo mới. Tác động từ văn bản của UBCKNN đã giúp giảm rủi
ro trên TTCK nhờ hạn chế được những dòng tiền ngắn hạn theo kiểu T+, từ đó NĐT bớt
lo lắng với các dòng tiền nợ, làm cho tính ổn định của thị trường tăng lên.
Không ít chuyên gia đã bất ngờ trước diễn biến của TTCK trong năm 2009.
Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng trưởng, TTCK Việt Nam năm 2009 được coi là có tốc độ
tăng trưởng rất cao, tới 60 - 70%, nhưng xét một cách toàn diện lại có không ít dấu hiệu
bất ổn. Trước hết, TTCK có dấu hiệu phục hồi nhưng không bền vững : VN - Index giảm
mạnh 22% từ đỉnh 633,2 điểm ngày 23-10 xuống mốc 490,6 điểm ngày 27 - 11. Khối
lượng giao dịch từ tháng 11 đến hết năm sụt giảm mạnh so với hai tháng 9, 10. Càng về
cuối năm, thanh khoản của thị trường càng trở nên đáng lo ngại.
Chính sách tài khóa, tiền tệ nới lỏng và gói kích thích kinh tế năm 2009 của
Chính phủ là động lực chính để TTCK phục hồi. Tuy nhiên, do những căng thẳng trên thị
trường ngoại hối, nguy cơ lạm phát và nợ Chính phủ gia tăng nên trong hai tháng cuối
năm 2009, chính sách tiền tệ bắt đầu có dấu hiệu thắt chặt. Hơn nữa, từ nửa cuối tháng 10
- 2009, NHNN đã yêu cầu các ngân hàng phải chấm dứt cho vay chứng khoán. Theo ước
tính của các chuyên gia, có tới 20-50% dòng tiền trên TTCK đến từ nguồn vốn kích thích
kinh tế (đòn bẩy tài chính). Cầu trên TTCK đã chịu tác động mạnh từ những điều chỉnh
trên và dẫn tới tính thanh khoản của thị trường giảm sút. Thực tế cho thấy, những tác
động thực đến luồng tiền vào TTCK cũng như những tác động tâm lý thái quá đã khiến
các chỉ số chứng khoán rơi vào chu kỳ giảm điểm từ tháng 11 cho đến cuối năm. Tính từ
21
đỉnh cao xác lập trong năm thì VN-Index đã mất khoảng 30% về điểm số. Nhiều thời
điểm, NĐT lao vào xả hàng vì sợ "lịch sử lặp lại" - chứng khoán có thể sẽ lập đáy như
thời điểm đầu năm.
Hình 2.5 : VN – Index năm 2009
2.6 DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM NĂM 2010
TTCK trải qua một năm giao dịch biến đầy biến động và để lại nhiều cảm xúc
trái ngược cho NĐT, từ cao trào thất vọng cho đến cảm xúc thăng hoa.
Nửa đầu năm 2010, TTCK biến động trong biên độ hẹp 480 - 550 điểm với
thanh khoản ở mức trung bình. Nguyên nhân thị trường đi ngang trong suốt 6 tháng đầu
năm được nhận định là bởi tâm lý thận trọng của giới đầu tư cùng sự khan hiếm của dòng
tiền. Trong giai đoạn này, Chính phủ áp dụng những biện pháp nhằm hướng dòng vốn
vào lĩnh vực sản xuất và hạn chế cấp vốn cho các kênh như chứng khoán, bất động sản.
22
Đồng thời, lượng cổ phiếu niêm yết, cổ phiếu thưởng tăng lên nhanh chóng làm tăng
nguồn cung cổ phiếu.
Trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 8, TTCK bước vào giai đoạn lao
dốc. Trong vòng 2 tháng, Vn - Index mất hơn 16%.
Từ cuối tháng 8, những bất ổn của nền kinh tế dần bộc lộ và đỉnh điểm là đầu
tháng 11, chính sách tiền tệ đột ngột thay đổi - thể hiện rõ quyết tâm kiềm chế lạm phát,
kéo theo một cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng. Với TTCK, điểm ngạc nhiên là sau
một tuần rơi mạnh bởi biến động khó lường của tỷ giá cùng giá vàng trong và ngoài
nước, thị trường đã quay đầu hồi phục vào cuối tháng 11, đầu tháng 12. Đây có thể coi là
thành công của chứng khoán Việt Nam bởi đa phần các thị trường lớn trên thế giới đều
mất điểm trong thời gian này.
VN - Index từ đầu năm là 517 đến cuối năm giảm nhẹ còn 484 (giảm 6%).
Mức độ vốn hóa thị trường đạt 590.873 tỷ đạt xấp xỉ 30% GDP như năm 2009.
Năm 2010 được xem là năm của các “đội lái”. Nếu như trước đây, các “đội
lái” hoạt động tác chiến riêng lẻ nay nhiều “đội lái” đã phối hợp lại với nhau để cùng đẩy
giá một mã cổ phiếu. Những điển hình cho thành công của các “đội lái” trong năm 2010
vừa qua có thể kể đến như HTV, VHG… Trước đây, những mã này rất ít được nhà đầu tư
biết đến nhưng sau khi có “bàn tay” của các “đội lái” thì những mã này tăng chóng mặt
chỉ trong thời gian ngắn với thanh khoản tăng ầm ầm. Thế nhưng, sau khi bị “đội lái”
nhả, phần lớn những mã này lại quay về với những gì vốn có, thậm chí giá cổ phiếu còn
thấp hơn giai đoạn trước khi được “đội lái” tung hứng.
Hậu quả của những phi vụ tác chiến của các “đội lái” thường là những nhà đầu
tư nhỏ “đu gió”. Lợi nhuận quá lớn từ việc thao túng cổ phiều cũng khiến cho lãnh đạo
của không ít doanh nghiệp lơ là việc kinh doanh cốt lõi để trở thành “đội lái” như trường
hợp bộ sậu của DVD làm giá DHT.
Hơn 10 năm kể từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động thì
2010 là năm khối ngoại mua vào với số lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ lớn nhất. Thống
kê cho thấy, trong năm 2010, khối ngoại đã mua vào khoảng 840 triệu cổ phiếu và chứng
23
chỉ quỹ. Như vậy, tổng giá trị mua ròng trên cả hai sàn từ đầu năm đã lên đến 16.000 tỷ
đồng, gấp 5 lần so với năm 2009 và chỉ đứng sau mức kỷ lục 24.000 tỷ đồng của năm
2007. Thực tế, tổng giá trị mua vào của khối ngoại trong năm 2010 chỉ đạt 66% so với
năm 2007 nhưng khối lượng cổ phiếu mua vào đạt trên 200%. Ngoài ra, giá mua trung
bình tính theo giá cổ phiếu năm 2010 là 44.000 đồng mỗi cổ phiếu so với 48.000 đồng
năm 2009 và 140.000 đồng năm 2007. Như vậy, giá trị cổ phiếu của khối ngoại mua vào
năm 2010 thấp hơn nhiều so với những năm trước đây. Chính mức giá hấp dẫn này là
động lực giúp cho khối ngoại tăng cường mua ròng trong năm 2010.
Nếu như trước đây, cổ phiếu ngân hàng được xem là cổ phiếu vua nhờ vốn
hóa lớn và khả năng dẫn dắt thị trường. Tuy nhiên, trong cả năm, nhóm cổ phiếu này đã
không cỏn là chính mình khi liên tục mất giá, thậm chí trong những phiên tăng nóng của
thị trường thì nhóm cổ phiếu này cũng chỉ đi ngang. Nhóm cổ phiếu này chỉ có một đợt
phục hồi ngắn trong tháng cuối năm sau thông tin các ngân hàng được gia hạn thời gian
tăng vốn lên tối thiểu 3.000 tỷ đồng vào cuối năm 2011, thay vì năm 2010 như trước đây.
Nguyên nhân khiến nhóm cổ phiếu ngân hàng mất đi tính hấp dẫn, ngoài quy
định bắt buộc tăng vốn lên 3.000 tỷ đồng (đã được giải tỏa) còn bởi lý do lợi nhuận. Lợi
nhuận từ hoạt động tín dụng giảm so với cùng kỳ năm 2009 khiến cho kết quả kinh doanh
của các ngân hàng trong quý III đạt được cho là không cao (tính đến cuối quý III, tăng
trưởng tín dụng của toàn hệ thống chỉ đạt khoảng 19,5%). Đặc biệt, sau 9 tháng hoạt
động, nhiều ngân hàng mới chỉ thực hiện được hơn 2/3 chỉ tiêu lợi nhuận cả năm và
nhiều ngân hàng phải điều chỉnh chỉ tiêu lợi nhuận.
Hoạt động mua bán sáp nhập (M&A) trên thị trường chứng khoán đã nở rộ cả
về số lượng lẫn hình thức trong năm 2010. Các vụ sát nhập doanh nghiệp điển hình là
KMR với KMF, HT1 với HT2, KDC với NKD. Các vụ chào mua công khai có VHG mua
AGF, Thành Thành Công chào mua cổ phiếu NHS, Prudential chào mua chứng chỉ quỹ
PRUBF1, Thành Thành Công cùng một số công ty khác mua lại toàn bộ phần vốn của
Tập đoàn Bourbon tại SBT, Bình Thiên An cùng các bên có liên quan thâu tóm đối với
DCC
24
Hình 2.6 : VN – Index năm 2010
2.7 TÓM TẮT DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG QUA CÁC NĂM TỪ 2005 ĐẾN
2010 :
Ở phần trên ta đi vào diễn biến thị trường qua các năm với những lát cắt về
mặt thời gian, ở phần này không nêu chi tiết diễn biến cụ thể của thị trường như trên mà
nhìn dưới lăng kính thị trường tăng hay giảm nói chung ở từng giai đoạn để có cái nhìn
bao quát về thị trường trong phạm vi từ năm 2005 đến 2010
Sự phát triển của TTCK Việt Nam từ năm 2005 đến nay có thể tạm chia làm 3
giai đoạn :
25
Giai đoạn 2005 – 2007 : nhìn chung giai đoạn này thị trường tăng trưởng
mạnh sau một thời gian dài trầm lắng. Đây là giai đoạn phát triển nóng nhất của TTCK
Việt Nam đến nay để lại những dấu ấn khó quên : VN – Index đạt kỷ lục, những chuỗi
tăng giá liên tục đầy ấn tượng thu hút rất nhiều NĐT tham gia thị trường và đây là giai
đoạn mà hầu như ai tham gia cũng đều có lời.
Giai đoạn 2008 đến tháng 2 năm 2009 : đây là giai đoạn sụt giảm nghiêm
trọng của TTCK Việt Nam do ảnh hưởng xấu từ các yếu tố vĩ mô, khủng hoảng tài chính
toàn cầu. Thị trường liên tục giảm điểm, tâm lý nhà đầu tư bi quan và UBCKNN đã phải
can thiệp bằng các biện pháp hành chính vào thị trường. Đây là giai đoạn mà NĐT phần
lớn bị bốc hơn trên 70% tài sản. Các NHTM, CTCK đua nhau bán cổ phiếu mà NĐT đem
thế chấp, cầm cố và không có đảm bảo càng tạo áp lực giảm giá lên thị trường. Đây được
xem là 1 chương đen tối nhất trên TTCK Việt Nam đến nay.
Giai đoạn tháng 3 năm 2009 đến tháng 12 năm 2010 : nhìn chung giai đoạn
này TTCK bắt đầu gượng dậy sau cú sốc của giai đoạn trước. Tuy nhiên với tâm lý thận
trọng hơn của NĐT, thị trường chỉ tăng trưởng ấn tượng từ tháng 3 đến tháng 10 năm
2009, sau đó đi vào trầm lắng đến cuối năm 2010 với tâm lý thận trọng của NĐT.