Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Nuôi lợn rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.29 KB, 15 trang )

Tổng quan chăn nuôi lợn rừng ở Việt nam
Từ 2005 đến 2009
TS Võ Văn Sự
chủ nhiệm đề tài:
”Nghiên cứu kỹ thuật nhân, nuôi và phát triển một số loài động vật rừng
có giá trị kinh tế: Lợn rừng" 2007-2010
Trình bày tại "Hội thảo chăn nuôi lợn rừng Phía Bắc"
Ngày 20/11/ 2009
Tại Viện chăn nuôi
1 Lời mở đầu
Đề tài: ”Nghiên cứu kỹ thuật nhân, nuôi và phát triển một số loài động vật rừng có giá trị kinh
tế: Lợn rừng" do Bộ Nông nghiệp và PTNT giao cho Viện chăn nuôi thực hiện 2007-2010.
Đề tài có hai mục đích chính:
- Nghiên cứu khẳ năng phát triển lợn rừng tại Việt nam thành một đối tượng chăn nuôi mới
- Xây dựng quy trình kỹ thuật chăn nuôi
Đến nay đã gần được 3 năm. Đề tài đã rút ra được một số kết quả. Sau đây là tổng quan các
nội dung chính và các phát hiện của đề tài.
2 Phần1: Tổng quan về lợn rừng
Theo tài liệu trường Đại học University of Michichan Museum of Zoology (2006), Lợn rừng
có tên khoa học là Sus scrofa. Lợn rừng bắt nguồn từ Châu Âu, Châu á và Bắc Phi. Tuy
nhiên theo chân con người, nay đã có mặt nhiều nơi trên thế giói. Sống chủ yếu vùng núi, ẩm
ướt. Tại các nước châu âu có thể sống vùng tuyết lạnh. Thân được phủ bằng một lớp lông thô,
màu biến từ xám tối tới màu nâu. Đầu và thân dài từ 0,9 đến 1,8 m, nặng 50 đến 350 kg,
thậm chí đến 450 kg. Lợn cái có 6 đôi vú.
Theo nghiên cứu của Trung tâm hợp tác nghiên cứu Quốc tế phát triển Nông nghiệp (Pháp) thì
lợn rừng có tới 36 giống phân bố ở hầu khắp các lục địa trên thế giới
Lợn rừng phân bố chủ yếu trên thế giới là ở các vùng Bắc Phi; châu Âu, phía nam Nga, Trung
Quốc, vùng Trung Đông, ấn Độ, Sri Lanka, Indonesia (Sumatin, Java, Sumbawa), đảo Corse,
Sardiaigue, những vùng sâu, xa của Ai Cập và Sudan.
Tài liệu khác thì lợn rừng cũng được tìm thấy rất nhiều ở miền Tây ấn Độ, Hoa Kỳ
(California, Texas, Florida, Virginia, Hawai ) Australia, New Zealand và các đảo thuộc vùng


biển nam Thái Bình Dương ./.
Tại các nước ôn đới, lợn thường đẻ một năm một lần vào mùa xuân. Còn ở các vùng nhiệt đới,
lợn đẻ quanh năm nhưng chủ yếu vào mùa ẩm ướt. Có chu kỳ động dục là 21 ngày, động dục
trong 3 ngày liên tục, thời gian chửa là 115 ngày (100-140) ngày. Số con đẻ 1 lứa là 1 đến 12
con, trung bình là 4 đến 8 con. Tuổi thành thục sinh dục là 8-10 tháng tuổi, nhưng thường đẻ
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 1/15
lần 1 sau 18 tháng và tuổi đẻ đến 5 năm. Cho con bú đến 3-4 tháng. Có tuổi thọ đến 27 năm.
Sống thành từng đàn có khi đến 100 con và thường là 20 con. Được thuần hoá 4000 năm trước
Công nguyên. Không có nguy cơ tuyệt chủng do số lượng lớn và sinh sản nhanh / nhiều.
3 tình hình chăn nuôi lợn rừng ở Ngoài nước
3.1 ở Thái lan
Đàn lợn và kỹ thuật nuôi lợn rừng của Việt nam xuất phát từ đây.
ở Thái lan, theo KVISNA KEO SƯA UM và PHIRA KRAI XENG XRI (2005?) (Thái lan) thì
việc nuôi lợn rừng xảy ra tự phát ở Thái lan từ 10 năm trước đây và không bị cấm đóan do lợn
rừng không thuộc lọai đối tượng bị cấm. Hơn nữa việc nuôi lợn rừng làm giảm việc săn bất,
lợn rừng cũng dễ nuôi và ít bệnh. Thịt ít mỡ, thơm, Việc thuần hóa cũng bắt đầu từ những
nông dân vùng … gần biên giới Thái – Miến điện. Không có một tài liệu nào thống kê ở Thái
lan có bao nhiêu trang trại lợn rừng Một số trại nuôi lợn rừng là : Trại Bán bưng (tỉnh Sôn
Buri- vùng Đông bắc Thái lan), trại Lợn rừng “Bò thong” (huyện Bò thong) – trại lợn rừng lớn
nhất Thái lan, trại Nunthaphisan với số lượng 200 con, Trại Inter (Số 50 ấp 8 xã Văngtacu,
huyện Châu thành, tỉnh Nakhon Pa Thổm). Trại lợn rừng Lăm Diêng. Cục Kiểm lâm cũng xây
dựng trại để nhân giống cho dân.
Có hai dòng lợn: mặt dài và mặt ngắn. Lọai đầu giống lợn rừng, thân hình cao, mỏng, it thịt,
nuôi 4 năm mới đạt trọng lượng bán thịt, có nhiều hơn là lọai mặt ngắn. Còn lọai sau giống lợn
nhà. Giống mạt dài khỏe mạnh hơn. Tiêu chuẩn chọn lọc: cao, dài lưng, vai dày và rộng, mông
rộng. Một heo đực thường nuôi với 10 lợn cái, tuy nhiên cũng có nơi nuôi 1 đực với 4-7 lợn
cái.
Họ Thường lai lọai mặt ngắn và mặt dài. Con lai tạo ra đẻ 5-9 con, cá biệt có thể 12 con.
Tuy nhiên họ cũng lai với các giống khác để tạo dòng thương phẩm…
Trại Bán bưng này có diện tích 5000 m2. Lợn được nuôi dạng bán chăn thả trong vườn rộng.

Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 2/15
Trong vườn có lán, cây cối để tạo bóng mát. Tại trại Nunthaphisa với diện tích 1600 m2 - lợn
mẹ đẻ được nhốt riêng, lợn hậu bị cũng được nhốt riêng.
Thức ăn khá đa dạng, có nơi tận dụng các lọai rau củ quả (mít, chuối…), nhưng có nơi như trại
Nunthaphisa lợn nuôi bằng cám tổng hợp. Có nơi còn nấu cháo cho lợn.
Lợn đực phải 1 năm, lợn cái phải 9 tháng tuổi mới phối giống. Thời gian động dục là 3 ngày,
chu kỳ 21 ngày, mang thai 3,5 tháng. Chúng thường vơ rơm rác, đào hầm làm ổ đẻ. Con nhỏ
dễ bị con khác tấn công ăn thịt, vì thế cần phải tách lợn đẻ ra chỗ khác. Nuôi con 1 tháng có
thể tách được mẹ. Lợn mẹ sau khi tách con có thể động dục trở lại trong 7 ngày sau đó. Trong
thời gian nuôi con, lợn mẹ cũng được cho thêm thức ăn để tăng thêm sữa.
Lợn con tách mẹ nuôi như lợn nhà, có thể cho ăn thêm các lọai rau củ quả. Tại trại lợn Inter,
lợn con 1 tuần tuổi còn được tiêm bổ sung chất sắt (15 cc Fe) và bấm răng.
Sau 60 ngày tuổi lợn được cho ăn thêm các lọai thức ăn tự nhiên.
Các lọai bệnh thường gặp là: Tiêu chảy, Sốt xuất huyết, giả dại, viêm phổi, sán lá gan, hủi
Giá một lợn con khỏang 1 triệu và lợn bố – mẹ đến 12 triệu đồng. Nuôi một năm để thịt được
chi phí hết khỏang 0,7 triệu.
Những thông tin mới nhất mà chúng tôi thu lượm được qua khảo sát, là tại một số nơi tại Bắt
tam bong và Kô kông (Cămpuchia) cũng nuôi.
Theo Tổ chức Lợn Hoang của Anh (2006), tại một số trang trại nước này có nuôi lợn đực rừng
theo kiểu thả rông hoặc kiểu thâm canh (được gọi với tên là: ‘brown-dirt’ farming’)
production systems). Lợn con được cai sữa lúc 56-84 ngày. Khối lượng cơ thể giao động từ 50
– 350 kg.
4 Phần 2: Chăn nuôi lợn rừng tại Việt nam
4.1 Số lượng trang trại
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện nay (đến 30/10/2009) đã điều tra được 26 trang trại, trong
đó có 17 trang trại / hộ không nằm trong danh sách các đơn vị liên kết nghiên cứư, gồm:
Trang trại / hộ chăn Vùng Loại lợn Nằm trong mạng
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 3/15
nuôi lưới nghiên cứu của
đề tài

1. Nguyễn Phước
Hùng
Đà nẵng Lai, Thái Không
2. Trại Nhất Trung
Sơn
Đà nẵng Thái Không
3. Lê Song Bình Đồng nai Lai, Thái Không
4. Trang trại Đồng
tâm (Bảy ngữ)
Đồng nai Thái, Lai Không
5. Nhà hàng Thanh
cảnh
Bình dương Lai, Thái Không
6. CT Khánh gia Bình phước Thái Có
7. Trại Bảy dũng Bình phước Lai, Việt Có
8. Trại Xương Giang Bắc giang Thái Có
9. Trại lợn Vinashin Hải phòng Lợn Thái x Lợn ỉ Có
10. Ôn Nguyễn Gia
Tôn
Hoà bình Lai Trung quốc. Không
11. Trần Văn Bá Hoà bình Lai Thái Không
12. Trang trại ông Hoá Hoà lạc Thái Không
13. Trại ông Thông Huế Thái Không
14. Trại ông Chín định Long an Việt Có
15. Trại ông Thuận Long an Thái, Lai Không
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 4/15
16. Trại ông Tuấn Long an Thái, Lai Không
17. Lý Thanh Sắc Nghệ an Lai, Thái Không
18. CT ông Nguyên Nha trang Lai, Thái, Việt Có
19. Trại ông Hải Phú thọ Thái Không

20. Trại CT COVI Phú thọ Lợn Thái Có
21. Trang trại ông
Thân
Sơn la Thái? Không
22. CT Lạc hoà Hà nội Thái Có
23. Viện chăn nuôi Hà nội Thái, Lai, Việt Có
24. CT Mỹ Hạnh Hà nội Thái Có
25. Trại lợn Vân anh Hà nội Lợn thái và Thái lai Có
26. CT Hương tràm TP Hồ Chí Minh Thái Có
27. Nguyễn Thái bình TP Hồ Chí Minh Lai, Thái Không
28. Trại Khánh Giang Đà nẵng Thái Có
29. Trại lợn ông Chín
Định
Bình dương Thái và Lai thái
30. CT Hồng lân Xuân Mai Thái
31. CT Kiến vàng Lào cai Thái
32. Trại giống vật quý
hiếm Hoà khánh
Nha trang Thái + Lai + Việt
33. CT TNHH NNH Đắc lấc Thái
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 5/15
34. Trang trại Trần
Quốc Tuấn
Đà nẵng (130 con)
35. Trại heo rừng Phú
hữu
TP Hồ Chí Minh
So với năm 2007, số lượng tăng lên đáng kể. ở Miền bắc tăng nhanh hơn, tuy nhiên quy mô
từng đàn khá nhỏ.
Một số trang trại không hoạt động nữa như: Nhà hàng Thanh cảnh, Nguyễn Thái bình, Lê

Song Bình.
Về buôn bán chuyên nghiệp nhập thẳng từ Thái lan, có trại Hương Tràm.
4.2 Về giống
Có các loại tạm gọi là giống / dòng như sau:
Giống Lợn rừng Thái mặt dài. Trong tài liệu của Thái lan được xem là mặt dài. Loại này
tương đối giống lợn rừng Việt nam. Lợn con trước 3 tháng tuổi có sọc dưa đen – vàng trên
thân. Có 7 sọc đen và 6 sọc vàng. Sống lưng sọc đen. Lợn càng thuần sọc càng rõ, liên tục
không đứt quảng, đều. Sau 3 tháng tuổi sọc vàng biến mất, nhưng lông toàn thân cũng thay đổi
sang dạng nâu – bạc – mốc. Hai má có lông bạc. Lợn trưởng thành có lông bờm, lợn đực có
răng nanh khá phát triển. Thân hình mảnh, chân cao, phía trước cao hơn phía sau.
ảnh 1: Lợn rừng thuần Thái
lan mới sinh
ảnh 2: Lợn rừng thuần Thái lan hậu bị Đã xuất
hiện vạt lông trắng trên má)
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 6/15
ảnh 3: Lợn rừng Thái lan hậu bị (đặc điểm: lông má bạc, lông toàn thâm nâu thẩm )
ảnh 4: Lợn rừng thuần Thái lan- nái
nuôi con
ảnh 5: Lợn rừng thuần Thái lan- đực giống
Giống Lợn rừng Việt nam: Nhóm lợn này do người săn bắt, hoặc mang từ vùng cao về. Năm
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 7/15
2008, Viện chăn nuôi đã nuôi thành công lợn rừng thuần gốc Miền bắc. Một đực giống đã
tham gia phối giống, một nái đã đẻ được 3 con (chết 1). Lợn con đã được 3 tháng tuổi. Phân
biệt lợn rừng Vịêt nam và Thái: Lợn con lợn rừng Việt (gưới 3 tháng tuổi) có các sọc rõ, đậm
hơn, liền mạch hơn. Đến lúc trường thành lợn rừng Việt có thân hình mảnh mai, xù xì, cao
hơn, tuy nhiên rất khó phân bịêt với lợn rừng Thái. Điều này nói lên một điều là, để phân biệt,
cần phải theo dõi lý lịch rất chặt chẽ. Lợn rừng Việt cũng có tỉ lệ nạc cao hơn hẳn, lớp nạc
nằm ngay dưới da.
Giống lợn Lai rừng cấp tiến: tại Trại ông Bảy Dũng (Bình phước), đã có một số cá thể lai cấp
tiến với lợn rừng Việt nam. Những cá thể này cũng khá giống với lợn rừng Thái mặt dài và

Lợn rừng Việt nam.
Giống Lợn Thái mặt ngắn: Đặc điểm là to con, màu đen, thân tròn, đẻ nhiều con. Loại này
tương đối giống với con lai giữa lợn rừng Việt nam hoặc lợn rừng Thái lai với các giống lợn
đen ở vùng cao. Theo chúng tôi đó là lợn lai giữa Lợn Rừng thuần và các giống lợn địa
phương vùng núi Thái lan (tựa như các giống lợn Vân pa, lợn Mường khương Việt nam).
Các loại lợn tạp giao giữa Lợn rừng Việt nam hoặc Lợn rừng Thái lan với các loại lợn địa
phương tại Việt nam như lợn Sóc tây nguyên, Lợn Vân pa, Lợn ỉ, Lợn Móng cái Con lai
một nữa thiên về bố (lợn rừng) và nữa thiên về mẹ. Hiện nay theo các nguồn thông tin và các
cuộc khảo sát của chúng tôi, thì tại các bản làng dọc miền núi phía Bắc (Lai châu, Hà giang),
Dãy Trường sơn (Thanh hoá, Quảng trị, Quảng ngãi, Gia lai), vùng Bình phước đều có nhiều ổ
lợn lai loại này, do người dân nuôi thả lợn vào rừng và xảy ra giao phối giữa lợn rừng với lợn
nhà. Và giờ đây khi mà phong trào nuôi lợn rừng đang nổi lên, thì một số nơi thậm chí đã đưa
ra chương trình nuôi loại lợn này, như thể huyện Bá thước (Thanh hoá). Ngoại hình lợn con
thế hệ F1 thường chia làm đôi, một số giống lợn rừng, lông có sọc, nhưng không đều, ngắt
quảng, sọc đen-vàng không tương phản và một nửa thì đốc về mẹ, thậm chí có có vùng lang
trắng hồng nếu mẹ là lợn Móng cái. Tại trạng trại của ông Trương Gia Tôn còn có lợn lai lợn
rừng Trung quốc. Con lai loại này có các vết đen, trắng ở chân, thậm chí ở trên thân.
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 8/15
ảnh 6: Lợn con rừng lai giữa bố là lợn rừng và
mẹ là lơn đen vùng núi (Mường tè - điện biên)
ảnh 7: Lợn con rừng lai giữa bố là lợn rừng
và mẹ là lơn đen vùng núi phía bắc: con đẻ
ra có loại đen, có loại sọc dưa.
Do sự phân ly, con lai giữa lợn rừng và lợn đen vùng núi có một số cũng có lông sọc như thể
lợn rừng và một số lợn không có. Cho nên dễ bị nhầm lẫn. Việc theo dõi lý lịch là cần thiết,
không những để phân biệt mà còn để chọn lọc và tránh đồng huyết.
4.3 Về quy mô
Chỉ có một vài trang trại có quy mô lớn như CT Khánh gia (1000 con nái), còn đâu là nhỏ
giưới 100 con lợn thuần.
Sắp tới sẽ có hàng loạt nông dân cũng nuôi lợn rừng và quy mô sẽ 5-3 con nuôi theo kiểu ngày

xưa.
Với quy mô nhỏ, việc quản lý con giống, mẫu mã hàng hóa sẽ khó chặt chẽ, và như thế người
tiêu thụ cũng sẽ khó mua của họ với giá như mua từ các trang trại lớn, Và ngược lại họ sẽ mua
lợn thương phẩm từ các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ với giá thấp hơn.
4.4 Về hệ thống chuồng trại nuôi nhốt
Về cách thức nuôi nhốt có thể chia làm 3:
Dạng 1: chuồng đơn giản, ra vào tự do kết hợp với vườn chăn thả lớn, như thể trang trại của
CT Khánh gia, Trại Xương Giang (Bắc giang)
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 9/15
Dạng 2: Chuồng đơn giản kết hợp với sân chơi bé. Có thể thấy hệ thống này tại Trại ông Bảy
Dũng (Binhf Phước), ông Đông (Phú yên), ông Nguyên (Nha trang).
Dạng 3: Ba là dạng nuôi nhốt hoàn toàn trong chuồng xi măng như thể lợn địa phương. Có thể
thấy hệ thống này tại Trại ông Bảy Dũng (Bình Phước), ông Đông (Phú yên), ông Nguyên
(Nha trang).
4.5 Về phân nhóm nuôi nhốt
Tại các trang trại Miền bắc, theo hướng dẫn của các chúng tôi, lợn được phân thành nhóm theo
sinh lý, sinh trưởng – như thể lợn công nghiệp - để nuôi dương phù hợp. Một vài trại Miền
nam nhỏ lẽ cũng làm như thế.
Tuy nhiên tại Miền nam, nhiều trại lợn rất lớn lại nuôi theo kiểu bầy: cả bố, mẹ, con cái vào
một chỗ. Họ cho rằng, đó là “tự nhiên”. Ngoài những bất lợi thường có đối với cách nuôi nhốt
này, còn có một nhược điểm lớn, đó là lợn con sinh ra dễ bị con khác cắn chết. Nhược điểm
nữa là khó kiểm soát và khó cho ăn theo yêu cầu sinh lý, con to thường ăn hết mới đến lượt
con nhỏ và dẫn đến hiện tượng là con to béo ra – sinh sản kém và con nhỏ – không lớn được –
sinh sản chậm.
4.6 Về theo dõi năng suất, chọn lọc:
Trong 25 trang trại / chủ hộ nuôi lợn rừng, chỉ có 8 trang trại (trong đề tài này) có đeo tai, theo
dõi lý lịch. Như vậy việc phối giống tránh đồng huyết, chọn lọc nâng cao năng suất sẽ rất khó
khăn. Lợn rừng nói riêng và các giống vật nuôi bản địa Việt nam nói chung, do không được
chọn lọc nên năng suất khá giao động, như số con đẻ ra chẳng hạn, giao động từ 2 - đến 9
con.

Hiện nay các trang trại thuộc đề tài của Viện đều đánh số theo dõi. Tuy nhiên việc ứng dụng
phần mềm Vietpig mới có ở một số trang trại nằm trong đề tài: Bà vì, Xương lâm, Khánh
giang. Sắp tới sẽ triển khai ở các trang trại lớn như COVI (Phú thọ), Trại Vân anh (Sóc sơn),
Trại Hồng lân (Xuân mai), Trại Kiến vàng (Lào cai).

Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 10/15
4.7 Về thức ăn:
Khá giao động theo vùng và loại lợn.
Theo trang trại:
Nguồn thức ăn chủ yếu là thức ăn tinh: Trang trại Khánh gia (Bình phước) trong giai đoạn ban
đầu (trước 2007) cũng chỉ dùng đến thức ăn thô (sắn, cỏ), nhưng sau đó nhận thấy không đảm
bảo sức khoẻ cho lợn và việc cung ứng một khoản thức ăn thô là khó, nên đã dùng thức ăn tinh
kết hợp với thức ăn thô theo mùa vụ để thay thế. Đứng về hàm lượng dinh dưỡng mà nói, thức
ăn tinh chiếm đến 70-80%.
Các trang trại khác sử dụng thức ăn thô cho loại lợn lớn và thức ăn tinh bổ sung cho các loại
lợn sinh đẻ và con nhỏ.
Sử dụng nhiều thức ăn thô nhiều như Trang trại Mỹ hạnh (Ba vì), trại Vân anh (Sóc sơn)
Đại đa số thức ăn thô được thu gom từ dân mà không được trồng tại cơ sở.
Lợn rừng được xem là một loại lợn "ăn cỏ" và chính điều này là lợi thế của việc chăn nuôi lợn
rừng, vì sẽ giảm chi phí thức ăn và hướng tới kiểu chăn nuôi hữu cơ (organic farming) – là
thức ăn gồm các loại thức ăn nguyên thủy, không chế biến, pha chế. Thế giới đang hướng tới
kiểu chăn nuôi này. Và thực khách Việt nam cũng rất hâm mộ các loại thịt có từ vật nuôi được
nuôi bằng các thứ cỏ lá – củ quả.
Miền núi và vùng trung du có lợi thế về nguồn thức ăn cây – củ – quả.
4.8 Về sinh sản / sinh trưởng / bệnh tật :
Kết quả theo dõi trên đàn lợn Rừng Thái được nhập từ Bình phước nuôi tại Miền bắc cho thấy:
Tuổi phối lần đầu là 6,29 tháng. Tỉ lệ phối chửa: 79,18%, Khoảng cách hai lứa đẻ là: 197,5, Số
con sơ sinh: giao động từ 2 đến 11, trung bình cho lứa 1: 5,17 và lứa 2 là: 6,67, Khối lượng sơ
sinh trung bình 0,50 kg. Số ngày cai sữa 70 ngày. Khôí lượng cai sữa: 7,2 kg. Số lượng bệnh:
253 ca cho 43224 ngày_con.

4.9 Về bảo vệ sức khỏe
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 11/15
Tỉ lệ chết sơ sinh: 5,59 % và sau khi sinh là 5,28% (chủ yếu là do bệnh đường ruột và hô hấp).
(tại trang trại Xương lâm)
Các bệnh được tiêm phòng: lở mồm long móng, tai xanh, tụ huyết trùng, phó thương hàn.
Một số bệnh nổi lên như sau ở đàn lợn lớn:
giun sán 20
ký sinh trùng
máu 1
rối loạn HH và
SS 12
tiêu chảy 72
viêm phổi 65
Tổng 174
Từ 1/7/2007 đến 30/9/2009 đàn giống này có 377 lượt con với tổng số ngày nuôi là 88 643
ngày. Giả sử một lần ốm kéo dài 5 ngày, thì đàn lợn đã mắc 174 * 5 = 870 ngày ốm. Như thế tỉ
lệ số ngày ốm trên số ngày nuôi là: 0,98 %. Hay nói cách khác 365 ngày sẽ có 3-4 ngày ốm.
Tỉ lệ này coi như rất thấp.
Bảng sau cho thấy các loại thuốc được dùng để điều trị
Bỏ ăn
bồi dơng
Giun sán
Ký sinh trùng đờng máu
Rối loạn hô hăp và sinh sản
Tiê chảy
Viêm phổi
Tông
Đường gluco 1 1
Ampicoli fort 7 7
B1 + Cafein 4 3 8 15

B1+C+Ana+Cafein 1
Becberin 1 1
Berenin 1 1
BiO-DOC 21 21
Cephracine 3 2 5
Dexamethasone 7 7
dextran Fe 83 83
Diclofenax 1 1
Fiafinax 7 7
Levamisol 20 20
pavua suyễn 12 12
Phneumotic 23 23
Phudoxin 5 5
Phugenta 4 26 30
phuxin1 23 23
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 12/15
Bỏ ăn
bồi dơng
Giun sán
Ký sinh trùng đờng máu
Rối loạn hô hăp và sinh sản
Tiê chảy
Viêm phổi
Tông
Tylosin 2 2
vitamin B12 4 3 6 13
vitamin C 1 1
Tỉ lệ chết lợn con từ khi đẻ ra đến lúc khoảng 70 ngày chiếm 15%. Có những trương hợp cáo
hơn. Loại bệnh mà "hủy diệt" nhiều nhất đối với lợn con là bệnh bệnh phân trắng, viêm phổi
và còi.

Những nguyên nhân xẩy khiến tỉ lệ chết cao như vây, là do môi trường chuồng trại bị ô
nhiễm. Phân không được dọn đi ngay, con này ỉa ra con khác lại liếm lại. Giải pháp cho vấn đề
này là tách ly ngay con bị ốm, chuyển sang ô khác và tiệt trùng ngay ô cũ, để 5-7 ngày. Giải
pháp xa phòng trừ bệnh này, là trong 10 ô hãy để 1-2 ô trống, phòng hờ để nuôi lợn ốm.
Đương nhiên cần lưu ý các biện pháp khác (được trình bày trong các chuyên đề).
Một điều lưu ý là lợn rừng thường ít sữa, lúc nuôi con cần phải cho lợn mẹ ăn thêm cám tốt.
Và tất nhiên phải tiến hành chọn lọc những đực tốt / cái tốt.

4.10 Về kết quả kinh doanh:
Giá cả các loại lợn như sau:
o
Lợn rừng thuần Thái lan / Việt nam dao động từ 200 000 – 400 000 đồng / kg với loại lợn
bé hơn 20 kg. Loại lợn 30-40 kg nhập từ thẳng từ Thái lan khoảng rẻ hơn 50 000 đồng /
kg. Cá biệt có những lợn đực giống 20 – 40 triệu đồng.
o
Lợn rừng lai với các giống lợn đen vùng cao từ 120 -180 000 đồng / kg.
o
Lợn rừng đen vùng cao từ 80-120 000 đồng / kg.
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 13/15
o
Lợn công nghiệp khoảng 30-40 000 đồng / kg.
o
Tại Miền bắc: Năm 2007-2008 Lãi suất khá cao, một con giống được 688 đến 973 000
đồng sau 1 tháng nuôi. Năm 2009 giá giống xuống khoảng 300 000 – 350 000 đồng.
Một số trại có công bố hẳn hoi trên các “tờ rơi” của họ như Trang trại Chín Định (Bình
dương). Tờ giá cả thị trường tại TP Hồ Chí Minh cũng đăng tải giá cả các loại lợn trên – và
mức giá tương tự như đã nêu.
Sắp tới theo dự đoán của chúng tôi, phong trào chăn nuôi lợn rừng sẽ lan rộng ở miền bắc và
đặc biệt trong mấy tháng tới khi mà tết âm lịch đến gần. Giá sẽ giao động từ 300 000 – 350
000 đồng / kg cho con giống và giá thương phẩm từ 150 000 đồng – 200 000 đồng.


4.11 Về bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm
Trong các con lai giữa lợn rừng thuần với các giống lợn đen miền núi có 1 tỉ lệ giống lợn rừng
thuần về ngoại hình, đặc biệt là màu sắc lông: lúc nhỏ cũng có các sọc lông loang vàng - đen,
hoặc lớn lên cũng có bạc má tất nhiên nhìn kỹ thì khác nhiều. Những người không am hiểu
có thể bị nhầm lẫn.
Đối với nước ngoài việc bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm là một trong những công cụ để bảo vệ nền
sản xuất. Tuy nhiên ở nước ta vào giai đoạn hiện nay,thì công tác này gặp khó khăn nhiều, nên
hàng nhái chưa thể nào chấm dứt. Các trang trại / nông hộ cần phải tham gia các tổ chức khoa
học, các "đại gia" để được bảo đảm nhãn hiệu.
4.12 Về quản lý của nhà nước:
Tại Bình dương, Bình phước lợn rừng được đăng ký và khi xuất bán đều có sự kiểm duyệt của
Chi cục kiểm lâm, người bán phải chứng minh được lợn rừng xuất bán là do tự sinh sản mà có,
theo đó họ phải kê khai lý lịch đàn heo của họ. Một chủ trại phàn nàn rằng, có khi chỉ xuất 5-
7con cũng phải đi trình báo.
Tại các tỉnh phía Bắc, kiểm lâm đã tiến hành đăng ký cho các trang trại. Nhìn chung không có
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 14/15
vấn đề gì. Tuy nhiên tại Lào cai, kiểm lâm đòi phải có giấy cấp phép của CITES mặc dù lợn là
thế hệ từ các đàn lợn Miền nam được nhập về năm 2005.
Kiến nghị nhà nước nên bỏ kiểm soát lợn rừng hoặc ra những cơ chế dễ dàng cho việc buôn
bán, đặc biệt khi mà người nông dân cũng nuôi và "đàn" chỉ 5-7 con. Cũng không đòi hỏi giấy
tờ của CITES.
Lâu dài kiến nghị với Bộ Nông nghiệp đưa thành vật nuôi bình thường.
Nhà nước khuyến khích người dân nuôi lợn rừng,bởi các lý do:
- Tìm công ăn việc làm cho dân trong áp lực của nguồn thịt ngoại
- Khai thác tiềm năng các giống bản địa / rừng của Việt nam
- Bảo vệ thiên nhiên.
5 Mấy lời kết và khuyến cáo
Nghề chăn nuôi lợn rừng mới xuất hiện 10 năm tại Thái lan, 3 năm tại Việt nam. Tại Thái lan
– nơi mà người Việt nam mua con giống và học tập tại đó – nông dân quan tâm vì mang lại

sản phẩm cho xã hội, giảm bớt nguy cơ khai thác rừng. Các cơ quan khuyến nông Thái lan
cũng đã biên soạn ra một số tài liệu hướng dẫn (Tiếng Thái – chúng tôi đang cho dịch).
Hiện nay, tại Việt nam mới đang tiếp cận với đối tượng mới này nên kỹ thuật chăn nuôi, định
hướng chỉ mới trạng thái ban đầu, đang được “mày mò”.
Sau 3 năm nghiên cứu, chúng tôi có mấy khuyến cáo với doanh nghiệp và nông dân chăn nuôi
nhỏ lẽ như sau:
- Tận dụng lợi thế khả năng sử dụng thức ăn thô: cây xanh, cỏ, củ quả để giảm giá thành sản
phẩm. Không lợi dụng thức ăn tinh / cám.
- Quản lý đàn lợn theo phương pháp hiện đại: nuôi tách riêng các loại lợn cho phù hợp với
sinh lý, nhu cầu dinh dưỡng. Quản lý con giống như lợn công nghiệp: đánh số tai, ghi chép lý
lịch để từ đấy có thể chọn lọc. Nếu lớn, có thể dùng phần mềm Vietpig để kiểm soát.
- Vệ sinh thật tốt khu chuồng trại. Nên chừa ra một số ô trống nhất định để đưa những ổ / đàn
bị bệnh sang và tẩy uế - đẻ trống ô bị nhiễm – lưu ý tới ỉa phân trắng.
- Với các doanh nghiệp lớn: cần phải có chương trinh nhân giống và kiên nhẫn với định hướng
của mình.
Tổng quan chăn nuôi lợn rừng -Hội thảo năm 2009 - 15/15

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×