1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực (NNL) là tổng hợp các yếu tố về thể chất và tinh thần
của con người được huy động vào quá trình lao động và là một yếu tố đầu vào
không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của một doanh
nghiệp cũng như của một nền kinh tế. Trong những năm gần đây, dưới tác
động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ (KH & CN) và xu
hướng toàn cầu hoá, mức độ cạnh tranh trong nước và trên trường quốc tế
theo đó cũng diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt hơn. Để tồn tại và phát
triển, các chủ thể kinh tế dù là chủ doanh nghiệp hay chính phủ, cũng đều
phải cố gắng tìm ra lợi thế cạnh tranh cho mình. Quyết định lợi thế cạnh tranh
không còn là các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên như trước kia, mà đã được
dịch chuyển sang KH & CN mà trụ cột là nhân tố con người. Nó được thể
hiện trong hàm lượng chất xám kết tinh trong sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của
một doanh nghiệp và một quốc gia. Cạnh tranh trong việc thu hút, sử dụng
nhân lực (NL) có chuyên môn kỹ thuật (CMKT) đã trở thành vấn đề “sống
còn” đối với sự phát triển trong một thế giới năng động hiện nay.
Ở Việt Nam, kể từ khi Đổi mới (năm 1986), Đảng và Nhà nước đã
nhận thức ngày càng rõ hơn tầm quan trọng của NL có CMKT không chỉ đối
với nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế
mà còn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất
nước để có định hướng và giải pháp phát triển, với mục tiêu phấn đấu đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và
đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng XHCN” [28, tr.70, 106], Đại hội đại biểu toàn toàn quốc lần thứ XI
của Đảng khẳng định: “Phát triển và nâng cao chất lượng NNL, nhất là NL
chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát
2
triển và ứng dụng KH, CN, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững” [28, tr.130].
Hoà Bình là tỉnh miền núi phía Tây Bắc của Việt Nam, có 30 dân tộc
anh em cùng sinh sống trong đó có 6 dân tộc chủ yếu gồm Kinh, Mường,
Dao, Thái, Tày, Mông. Trong những năm qua, cùng với cả nước, đảng bộ và
chính quyền các cấp của tỉnh đã có nhiều cố gắng trong thu hút và phát triển
NL có CMKT phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn. Quy mô, trình
độ và cơ cấu NNL này đã có những tăng trưởng và cải thiện đáng kể. Nếu
năm 1994 là năm đầu tiên tiến hành CNH, HĐH, toàn tỉnh có tới 91% lực
lượng lao động giản đơn, không có CMKT, hay chỉ có 9,0% lao động có
CMKT, thì năm 2013 tỷ lệ lao động có CMKT đã đạt 39,8%. Cơ cấu NL có
CMKT theo ngành, lĩnh vực kinh tế có sự chuyển dịch bước đầu đáp ứng nhu
cầu mục tiêu CNH, HĐH. Chẳng hạn, để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn là “nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện nay”, tỉnh Hoà Bình
đã chú trọng phát triển NL có CMKT cho khu vực này, năm 2010 số lao động
có CMKT trên địa bàn là 107.865 người tăng hơn 2,3 lần so với 10 năm
trước, chiếm gần 33% lực lượng lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp của
tỉnh [108, tr.55]. Nhờ phát triển NL có CMKT mà tiến trình CNH, HĐH, quy
mô việc làm, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm của các doanh
nghiệp được tăng lên hơn so với thời kỳ CNH trước đây. Tăng trưởng kinh tế
của tỉnh đạt mức khá cao, bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 12%/năm [104,
tr.130], giai đoạn 2011-2013 đạt 10,28%/năm [123]. Mức sống của người dân,
đời sống xã hội và chương trình xây dựng nông thôn mới bước đầu được cải
thiện. Thu nhập bình quân đầu người năm 2012 là 17 triệu đồng và năm 2013
tăng lên 25,7 triệu đồng [124]. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm bình quân
4,38%/năm trong giai đoạn 2010-2013, đến năm 2013 giảm còn 18,35% [123].
3
Tuy nhiên, trình độ NL của tỉnh Hoà Bình hiện nay vẫn chưa ra khỏi tình
trạng kém phát triển. NL không có CMKT vẫn là số đông. Nếu tính tỷ lệ lao
động không có CMKT thì năm 2013 toàn tỉnh vẫn còn 60,2%, cao hơn so với
tỷ lệ chung của cả nước trong cùng thời kỳ (55%) [126], tuy không thấp hơn
quá nhiều, nhưng trình độ học vấn chung lại rất kém với con số 12,2% lực
lượng lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học. Lao động có trình độ
sơ cấp nghề, trung cấp nghề và trung cấp chuyên nghiệp còn chiếm một lượng
khá thấp với tỷ lệ tương ứng là 5,2%/5,3%/5,1%. Tỷ lệ này cho thấy NL có
CMKT chưa đáp ứng được nhu cầu CNH, HĐH của tỉnh. Tình trạng vừa thừa,
vừa thiếu lao động đang cùng tồn tại trên địa bàn. Dù nhà nước và chính quyền
cấp tỉnh đã có nhiều chính sách hỗ trợ và thúc đẩy công tác giáo dục và đào tạo
nghề trong thời gian qua, nhưng chất lượng lực lượng lao động trong tỉnh vẫn
chậm cải thiện. Năm 2010, trong tổng số lao động của toàn tỉnh, tỷ lệ tốt
nghiệp tiểu học trở xuống chiếm đến 44,8% (cả nước 39,4%), tỷ lệ tốt nghiệp
phổ thông trung học chỉ chiếm 26,8% [108, tr 56]. Thực tế, nhiều người lao
động tỉnh Hoà Bình đã bỏ qua cơ hội làm việc vì chưa tốt nghiệp phổ thông
trung học và cũng không đủ điều kiện để được đi xuất khẩu lao động.
Thực tế ở tỉnh Hoà Bình cho thấy, quy mô, chất lượng NL có CMKT
hiện nay thấp và cơ cấu bất hợp lý chính là một trong những nhân tố chủ yếu
cản chở tốc độ và chất lượng hoạt động kinh tế, xã hội, làm cho CNH, HĐH
của tỉnh vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Đời sống của người dân, nhất
là ở các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, đặc biệt khó khăn, chênh lệch thu nhập giữa
các tầng lớp dân cư khu vực thành thị gấp 6 lần so với khu vực nông thôn…
Đây là một vấn đề bức thiết, cần có sự phân tích sâu sắc lý luận, thực tiễn để
tìm lời giải cho sự phát triển.
Để góp phần vào lời giải cho vấn đề này, để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn
với phát triển kinh tế tri thức, phấn đấu đưa tỉnh Hoà Bình cơ bản thoát khỏi
4
tỉnh nghèo và trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020, tôi lựa chọn đề tài:
“Nhân lự c có chuyên môn kỹ thuậ t cho công nghiệ p hóa, hiệ n đạ i hóa ở
tỉ nh Hoà Bình” để nghiên cứu làm luận án tiến sĩ Kinh tế chính trị tại Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mụ c đích nghiên cứ u
Phân tích, đánh giá thực trạng NL có CMKT trên các mặt số lượng,
chất lượng và cơ cấu đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hoà Bình
để đề xuất phương hướng và lựa chọn giải pháp phát triển nhằm bảo đảm thực
hiện thành công CNH, HĐH của tỉnh thời gian tới dưới góc độ kinh tế chính
trị. Luận án xem NL có CMKT là yếu tố của quá trình sản xuất và tái sản
xuất, một bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất của xã hội trong giai đoạn đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
2.2. Nhiệ m vụ nghiên cứ u
- Xây dựng cơ sở lý luận về NL có CMKT cho CNH, HĐH ở một
tỉnh miền núi, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài và tỉnh
miền núi Sơn La về phát triển NL có CMKT cho đẩy mạnh CNH, HĐH để rút
ra bài học cho tỉnh Hòa Bình.
- Phân tích, đánh giá thực trạng NL có CMKT cho CNH, HĐH ở
tỉnh Hoà Bình giai đoạn 2006 - 2013.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển NL có CMKT đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hoà Bình đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đố i tư ợ ng nghiên cứ u
Đối tượng nghiên cứu của luận án là NL có CMKT trên các mặt số lượng,
chất lượng và cơ cấu đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hoà Bình
bao gồm toàn bộ NL thuộc quản lý của tỉnh.
5
Do quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh Hòa Bình nằm trong
nhiệm vụ chung của cả nước và có liên quan đến các tỉnh khác, nên trong một
số nội dung của đề tài luận án, nghiên cứu sinh có mở rộng đối tượng nghiên
cứu ra một số tỉnh khác trong nước và một số nước khác ở mức cần thiết để
phục vụ cho việc nghiên cứu.
3.2. Phạ m vi nghiên cứ u
- Phạm vi về đối tượng: Đề tài nghiên cứu NL có CMKT bao gồm
những người đã được đào tạo nghề (được cấp chứng chỉ nghề, bằng nghề) đến
trình độ đại học và trên đại học về các mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu đáp
ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH dưới góc độ kinh tế chính trị học.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hòa Bình còn có những người được kèm
nghề, truyền nghề theo lối cổ xưa, những người được đào tạo thường xuyên
thông qua các doanh nghiệp, hộ sản xuất cá thể, làng nghề nhưng không có
chứng chỉ. Việc khảo sát thống kê về trình độ CMKT của đối tượng này là
phức tạp, cần rất nhiều thời gian. Nghiên cứu sinh chưa thể đưa vào nghiên
cứu đối tượng này trong phạm vi đề tài luận án.
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu thực tế, phân tích, đánh giá thực
trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển NL có CMKT bảo đảm
cho CNH, HĐH ở tỉnh Hòa Bình.
- Phạm vi về thời gian: Từ khi thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức (năm 2006) đến hết năm 2013.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
- Cơ sở lý luận: Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trên quan điểm tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh
và đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà Nước ta về phát triển NL
trong sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
6
- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, nghiên
cứu sinh sử dụng các phương pháp sau: trừu tượng hóa KH; thống kê, phân
tích, tổng hợp; phương pháp so sánh để làm rõ hơn thực trạng NL có CMKT ở
tỉnh Hòa Bình.
Ngoài các phương pháp trên, nghiên cứu sinh tiến hành thu thập tài liệu
bao gồm các văn bản pháp luật, các số liệu trong niên giám thống kê của
trung ương và địa phương tỉnh Hòa Bình có liên quan đến đối tượng nghiên
cứu của đề tài; thu thập nguồn thông tin từ các đề án, báo cáo, bài viết trên
các phương tiện thông tin chính thức. Đây là nguồn dữ liệu thứ cấp rất cần
thiết trong quá trình nghiên cứu.
Để có thêm thông tin cho việc thực hiện nhiệm vụ của đề tài, nghiên cứu
sinh tiến hành điều tra khảo sát thực tiễn bằng hai mẫu phiếu điều tra xã hội học:
Mẫu 1: Điều tra đời sống và việc làm của 320 NL có CMKT ở tỉnh Hòa
Bình với 32 câu hỏi, từ làm nghề gì, học ở trường chuyên nghiệp nào, mức độ
phù hợp của nghề được đào tạo với công việc đảm nhiệm, đến các điều kiện
làm việc tại tổ chức sử dụng lao động, trở ngại khi làm việc, mức thu nhập,
mức sống hiện tại v.v
Mẫu 2: Điều tra về chất lượng NL có CMKT tại các co sở sản xuất kinh
doanh ở tỉnh Hòa Bình (dành cho 138 chủ cơ sở sản xuất kinh doanh) với 3
phần: (1) Tìm hiểu thông tin chung về doanh nghiệp của người được khảo sát
với 4 câu hỏi; (2) Mức độ hài lòng về đội ngũ lao động trong doanh nghiệp
với 28 câu hỏi; (3) Thông tin về công tác tuyển dụng, đào tạo và điều kiện
làm việc của người lao động trong doanh nghiệp với 6 cụm câu hỏi tình
huống (Phụ lục 1 và 2).
Ngoài ra, tác giả luận án còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
kinh tế học như phương pháp mô hình, đồ thị và có kế thừa kết quả nghiên
cứu của một số công trình KH có liên quan đã công bố.
7
5. Những đóng góp mới của luận án
- Xác định khung lý thuyết cho nghiên cứu NL có CMKT cho CNH,
HĐH ở một tỉnh miền núi của Việt Nam dưới góc độ Kinh tế chính trị học.
- Đánh giá đúng thực trạng NL có CMKT cho CNH, HĐH ở tỉnh Hoà
Bình giai đoạn 2006 – 2013, chỉ ra thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của
hạn chế.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NL có
CMKT đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hoà Bình đến năm 2020.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận án được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Cơ sở lý luận và bài học kinh nghiệm về NL có CMKT cho
CNH, HĐH ở tỉnh miền núi Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng NL có CMKT cho CNH, HĐH ở tỉnh Hoà Bình.
Chương 4: Phương hướng và giải pháp phát triển NL có CMKT bảo
đảm cho CNH, HĐH ở tỉnh Hòa Bình đến năm 2020.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CU NC NGOÀI V NHÂN LC
CÓ CHUYÊN MÔN K THUT CHO CÔNG NGHIP HÓA, HIN I HÓA
Có nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài bàn về chủ đề NL có
CMKT cho CNH, HĐH. Tiếp cận từ nội dung nghiên cứu của các công trình
này, có thể phân chia chúng thành các hướng nghiên cứu sau:
1.1.1. Hướng nghiên cứu về khái niệm, vai trò và yêu cầu phát triển
nhân lực có chuyên môn kỹ thuật cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Hướng nghiên cứu về quan niệm NL có CMKT
Khái niệm NL có CMKT đã được nhận thức từ rất sớm trong kho tàng
tri thức của nhân loại. Nó được khởi phát từ các nhà kinh tế chính trị học cổ
điển Anh thế kỷ XVII-XIX. A. Smith trong cuốn: “The Wealth of Nations”
(Của cải của các dân tộc) viết năm 1776. Khi bàn về các nhân tố ảnh hưởng
đến số lượng giá trị hàng hóa, ông đã phân biệt lao động có CMKT với lao
động giản đơn. Ông gọi lao động có CMKT là lao động phức tạp. Tuy không
nêu định nghĩa lao động có CMKT là gì, nhưng Smith cho rằng lao động có
CMKT có năng suất và hiệu quả cao hơn so với lao động giản đơn. Ví dụ, ông
viết: “Sức lao động bỏ ra trong một giờ lao động khó nhọc, có thể nhiều hơn
sức lao động trong hai giờ làm việc nhẹ nhàng, hoặc làm một giờ trong một
nghề mà phải mất mười năm học tập thì phải tốn sức hơn làm một tháng trong
một nghề bình thường” [78, tr.85, 87, 94].
Trong C.Mác và Ph.Ăngghen, tập 23, tác giả đã phân biệt lao động giản
đơn với lao động phức tạp, chỉ ra lao động phức tạp có năng suất cao hơn, là
“bội số” của lao động giản đơn. Để có năng suất cao hơn, người lao động phải
qua huấn luyện, đào tạo để có một nghề chuyên môn, một sự thành thạo nhất
9
định. Từ xác định tính hơn hẳn của lao động có CMKT trong việc tăng năng
suất tạo ra của cải, các ông đã nêu tư tưởng về NL có CMKT [62, tr.69, 75].
Bahrman, Jere R., and Paul J. Taubman (1982), giải thích thuật ngữ
“Human Capital” (Vốn con người), In Encyclopedia of economics (trong
Bách khoa toàn thư của Kinh tế học) Ed. Douglas Greenwald, tr.474-476.
New York: Mc Graw-Hill Book Company, viết vốn bản con người là “tập
hợp năng lực sản xuất kinh tế của con người” [129, tr.474-476].
Các tác giả Mc. Connell, Brue, Macpherson, trong cuốn Comtenporary
Labor Economics (Sixth edition), Mc. Graw-Hill 2003, giải thích thuật ngữ
vốn NL, coi đó là những kiến thức, kỹ năng, sức sáng tạo, kinh nghiệm từ
thực tế mà con người tích lũy được thông qua quá trình đầu tư nhằm nâng cao
khả năng hoạt động kinh tế của con người. Vốn con người tức là những đầu tư
của con người vào giáo dục, đào tạo, sức khỏe và phát triển những phẩm chất
khác như kỹ năng, sức sáng tạo, kinh nghiệm thực tế để biết làm một công
việc nhất định và lao động có năng suất lao động cao [132, tr.603].
- Hướng nghiên cứu về vai trò của NL có CMKT trong phát triển kinh
tế xã hội.
Đã có những công bố ở nước ngoài về vai trò của NL có CMKT đối với
sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Cuốn: “The Wealth of Nations” (Của cải của
các dân tộc) của Adam Smith (1776), khi nghiên cứu về nguồn gốc về sự giàu
có của các dân tộc, đã phát hiện ra giá trị lao động, coi người lao động là yếu
tố quyết định việc sản xuất gía trị và của cải. Ông viết: “Lao động là thước đo
thực tế đối với giá trị trao đổi của mọi thứ hàng hóa”. Và “Lao động là
phương pháp vạn năng duy nhất và chính xác duy nhất để đo lường giá trị,
hay là tiêu chuẩn duy nhất qua đó chúng ta có thể so sánh giá trị của các hàng
hóa khác nhau ở bất kỳ thời gian nào và ở bất kỳ nơi nào” [78, tr.85, 87, 94].
Cuốn “The principles of political economy and taxation” (Về các
nguyên tắc của kinh tế chính trị và thuế) của David Ricardo (1817) khi nghiên
10
cứu những vấn đề của kinh tế chính trị, xác định có bốn yếu tố căn bản quyết
định việc sản xuất, quyết định mức tăng trưởng kinh tế của một quốc gia là
đất đai (tài nguyên), lao động, tư bản và máy móc (CN). Đất đai là cố định vì
đã được khai thác hết, còn trình độ phát triển của CN được giả định là không
thay đổi hoặc nếu có thay đổi thì cũng rất chậm chạp. Chỉ có hai yếu tố còn
lại, tư bản và lao động là biến động, vì thế chúng là nhân tố chủ chốt quyết
định khả năng tạo ra của cải của một quốc gia [77, tr.43]. Ông còn cho rằng,
trong một phân xưởng, khi năng suất lao động tăng lên thì khối lượng sản
phẩm sản xuất ra tăng lên, nghĩa là lao động càng thành thạo, thì năng suất
của anh ta càng cao hơn.
Stokey, Nancy; Robert Lucas and Edward Prescott (1989), Recursive
Methods in Economic Dynamics [141]. Cuốn sách bàn về những phương pháp
tạo động lực của kinh tế. Các tác giả của cuốn sách phân chia vốn làm hai loại
gồm: (i) vốn hữu hình, đó là vốn sản xuất (K) như máy móc thiết bị, nhà
xưởng, đường sá, cầu cống và lao động (L) nằm trong phạm vi vốn vật chất
bao gồm số lượng, cơ cấu lực lượng lao động; (ii) vốn NL, chỉ khả năng, kỹ
năng, kiến thức của người lao động được tích lũy thông qua quá trình giáo
dục, đào tạo và lao động sản xuất. Vốn NL được hiểu là NL có kỹ năng, có
CMKT. Vốn NL có vai trò đặc biệt quan trọng trong hàm sản xuất. Từ đó giải
thích, quá trình tích lũy kiến thức, tiến bộ CN trực tiếp thông qua tích lũy
nguồn vốn NL và gián tiếp thông qua nghiên cứu, triển khai và vai trò của
chính phủ trong phát triển vốn NL. Các tác giả của cuốn sách cho rằng, trong
thời đại hiện nay để tăng trưởng kinh tế phải dựa trên ý tưởng và tính sáng
tạo, thay cho tăng trưởng dựa chủ yếu vào thâm dụng vốn, lao động giản đơn
và tài nguyên, bởi trong thế giới hiện đại, ý tưởng và sáng tạo trở thành
nguồn lực vô tận, trong khi tài nguyên, đất đai, vốn đầu tư có giới hạn.
Mario Baldassarri, Luigi Paganeto và Edmun S. Phelps đồng tác giả
cuốn “International Differences in Growth Rates” (1994), phân tích vai trò
11
của vốn NL đối với tăng trưởng của các quốc gia trong những năm gần đây
dưới góc độ kinh tế lượng. Bằng khảo sát thực nghiệm, các tác giả đã rút ra
kết luận vai trò ngày càng tăng lên của vốn NL, đặc biệt là của NL trình độ
cao. Nó có khả năng tiếp thu tri thức KH&CN hiện đại, đưa vào sản xuất đẩy
nhanh mức tăng trưởng của nền kinh tế [134, tr.78-79].
OECD (2001), The Well-being of nations: The Role of Human and
Social Capital [135], đã chỉ ra mặc dù vai trò của vốn NL trong sự phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia được thừa nhận rộng rãi, nhưng hiệu ứng cụ
thể của nó như thế nào vẫn là chủ đề gây nhiều tranh cãi. Gần đây, có một
mối quan tâm ngày càng tăng tập trung vào vai trò của vốn xã hội hay vai trò
của các mối quan hệ xã hội và năng lực cán cân trong các hoạt động kinh tế
và phúc lợi xã hội. Bài viết hướng vào: (i) đưa ra những chứng cứ cho việc
đầu tư vào vốn con người và vai trò của nó đối với tăng trưởng kinh tế và
phúc lợi xã hội, (ii) mô tả và làm rõ khái niệm vốn xã hội, (iii) nhận dạng vai
trò của vốn NL và vốn xã hội trong việc đạt được một cách bền vững tăng
tưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
William Easterly trong cuốn “Truy tìm căn nguyên tăng trưởng”
(Growth causation quest), sách dịch của Nxb Lao động - Xã hội [133, tr.333],
phân tích căn nguyên tạo nên mức tăng trưởng khác nhau giữa các quốc gia.
Không có một công thức thần kỳ nào có thể biến một người nghèo trở nên
giàu có. Viện trợ, đầu tư, giáo dục, kiểm soát dân số, điều chỉnh chính sách
cho vay hay xóa nợ đều không phải là “liều thuốc thần tiên” cho sự tăng
trưởng. “Nguyên nhân là do các công thức nêu trên đã không dựa trên nguyên
tắc cơ bản của kinh tế học: đó là con người hành động vì động cơ”. NL là
nguồn lực quan trọng nhất của quốc gia, cần đặc biệt đề cao vai trò của quan
chức cao cấp của nhà nước. Nếu động cơ của đội ngũ này không trong sáng
thì các Chính phủ cũng có thể “bóp chết” tăng trưởng kinh tế.
12
- Nghiên cứu về yêu cầu NL có CMKT
+ Rowan Gibson biên tập cuốn “Tư duy lại tương lai” (Thought go
back to Future) (2006), đã đặt yêu cầu cần chuyển từ nhận thức con người có
thể kiểm soát, sắp xếp và dự đoán tương lai sang nhận thức mới dựa trên sự
thay đổi mang tính đứt đoạn. Nếu không thực hiện được yêu cầu đó, thì mỗi
cá nhân, mỗi tổ chức và mỗi quốc gia sẽ thất bại trong hành trình đi tới tương
lai [38, tr.10, 11, 39]
+ Cuốn “Lối tư duy của tương lai” (Future's thought Way) của John
Naisbitt [67] cho rằng thay đổi là trạng thái là phương thức tồn tại. Từ đó giới
thiệu 11 lối tư duy cần hướng tới nhằm điều chỉnh cách nghĩ, dỡ bỏ những
hạn chế mà mỗi người từng có để thích nghi với xã hội tương lai và giúp họ
nhận được nhiều nhất từ thu thập, xử lý thông tin và kinh nghiệm, sáng tạo ra
thế giới tương lai. Naisbitt viết: “Hiểu được sức mạnh của việc việc tạo ra lối
đi riêng” là một sự giải thoát lớn và không thể thiếu trong bất kỳ lĩnh vực nào,
dù là xã hội, công việc hay cuộc sống cá nhân. Đó là lối tư duy giải phóng, lối
tư duy hỗ trợ trí tưởng tượng sáng tạo. Trong mọi lĩnh vực của đời sống, kinh
doanh, lãnh đạo, hoặc chính trị, đó chính là lối tư duy giúp bạn không đi trước
quá xa đến nỗi người khác không liên hệ được với những gì bạn làm hoặc nói.
Để có được lối tư duy như vậy, phải đổi mới giáo dục và đào tạo [65].
- Nghiên cứu về phát triển NL có CMKT
+ Becker (1964) trong một nghiên cứu mang tính chất cổ điển: Human
capital: an Theoretical and empirical analysis, with special reference to
education [130] cho rằng, đầu tư cho giáo dục và đào tạo cho con người là có
ý nghĩa to lớn tương tự đầu tư cho máy móc thiết bị cơ sở hạ tầng. Ông là
người tiên phong trong việc phân tích kinh tế giới thiệu những ý tưởng mới về
vốn NL, bao gồm khả năng sinh nở và tăng trưởng kinh tế, phân công lao
động, bất bình đẳng thu nhập…
13
+ Cuốn: “Education and Development: Measuring the Social Benefits”
(Giáo dục và phát triển: Đo lường các lợi ích xã hội), của Walter W.
McMahon [143] đưa ra một cách tiếp cận mới để đo lường tổng lợi nhuận từ
việc phát triển NNL thông qua đầu tư vào giáo dục và đào tạo. Dựa trên cơ sở
phân tích vi mô, McMahon sử dụng dữ liệu trong khu vực và trên toàn thế giới
để ước tính đóng góp cận biên ròng của giáo dục và kiến thức mới đối với tăng
trưởng kinh tế và ảnh hưởng rộng lớn hơn về dân chủ, nhân quyền, ổn định
chính trị, y tế, tỷ lệ gia tăng dân số, giảm nghèo, bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập, tội phạm, sử dụng ma túy, và môi trường. Tổng tác động của thay đổi
chính sách giáo dục về phát triển nội sinh được ước tính bằng cách sử dụng
một mô hình tương tác. Tư duy mới này có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp
cận NL có CMKT cho CNH, HĐH của một nước hay một tỉnh.
+ Agarwala, T., 2003: Innovative human resource practices and
organisational commitment: An empirical investigation [128, tr 175-179] xác
định trong môi trường hoạt động hiện nay, NNL là một đầu vào không thể bỏ
qua đối với hiệu quả hoạt động của tổ chức. Quản trị hữu hiệu NNL đóng một
vai trò quan trọng. Áp lực cạnh tranh buộc tổ chức phải năng động trong việc
chẩn đoán và áp dụng kịp thời những chính sách NL mang tính đổi mới hơn,
bởi vì NL không chỉ còn là chủ đề có tính chất trào lưu, mà là sống còn đối
với mọi tổ chức. Bài phân tích cũng đã cố gắng khám phá mối quan hệ tương
tác ba chiều của chính sách đổi mới với NNL (Innovative Human Resource
Practices IHRP), bao gồm: phạm vi sử dụng IHRP, tầm quan trọng cho việc
hoàn thành mục tiêu tổ chức với việc ứng dụng chính sách này, và sự gắn bó
của nhân viên. Phân tích hồi quy (định lượng) cho thấy phạm vi sử dụng
IHRP là yếu tố quyết định đến sự gắn bó và nhiệt tình của nhân viên.
+ Cuốn “Bản đồ tư duy trong công việc” (Mind Maps at work) của Tony
Buzan [12], tìm ra quy luật hoạt động của bộ não và làm việc theo quy luật đó
để đạt được sự thành công. Theo Buzan, bản đố tư duy là công cụ giúp cá nhân
14
làm chủ với cuộc sống: ghi nhớ, quản lý, sáng tạo, lập kế hoạch… và thành
công. Buzan tin rằng chúng ta đang sống trong một vũ trụ bao la rộng lớn,
nhưng có một vũ trụ khác chưa được khai phá, đó là bộ não. Đi sâu khám phá
“tiểu vũ trụ” này sẽ thu được những điều kỳ diệu về tiềm năng không giới hạn
của con người. Cuốn sách đưa đến một cái nhìn mới mẻ, một CN học tập phát
triển và sử dụng NL trong thời đại cách mạng KH&CN.
Ngoài ra, những năm gần đây trên diễn đàn của các nước trong khu vực
còn xuất bản các cuốn sách bàn về giáo dục và đào tạo nhằm phát triển NL có
CMKT cho nền kinh tế trong giai đoạn CNH, HĐH, đáng chú ý là các cuốn:
“Nhà nước và đổi mới giáo dục ở Singapore: hướng tới sự sáng tạo và đổi
mới” của GS. Gopinathan, Viện Giáo dục Quốc gia Đại học Bách khoa
Nanyang, Nxb Giáo dục (2005); “Giáo dục đại học ở Thái Lan và lộ trình cải
cách quốc gia” của GS. Krissanapong Kirtikara, Trường Đại học CN
Thonburi của Nhà Vua Mongkut Bangkok, Thái Lan, Nxb Giáo dục (2005);
“Thách thức của xã hội tri thức và đổi mới giáo dục đại học Trung Quốc” của
Xie Weihe, Viện Giáo dục Đại học Thanh Hoa, Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa, Nxb Giáo dục (2005)
Những công trình trên đã cho thấy NL có CMKT không chỉ thể hiện ở
trình độ chuyên môn, kỹ năng, tay nghề, mà còn ở cả ở trình độ văn hóa, đạo
đức và truyền thống của các gia đình. Nó không chỉ vai trò đối với tăng
trưởng kinh tế theo chiều rộng, mà còn đặc biệt quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế theo chiều sâu. Phát triển NL có CMKT là cần thiết để công
nghiệp hóa hiện đại hóa trở thành hiện thực.
1.1.2 Hướng nghiên cứu về phân bổ nhân lực có chuyên môn kỹ
thuật cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Số lượng và chất lượng NL không phải là nguồn gốc duy nhất của tăng
trưởng kinh tế và CNH. Một số công trình nghiên cứu còn cho thấy tầm quan
trọng của việc phân bổ NL cho sản xuất của các ngành, lĩnh vực trong nền
kinh tế và trong quan hệ kinh tế với nước ngoài.
15
A. Smith trong cuốn “The Wealth of Nations” (1776), trong Chương 1
có tên đề “Phân công lao động” nêu nhận xét: “Sự cải tiến lớn nhất về mặt
năng suất lao động và phần lớn kỹ năng, sự khéo léo và óc phán đoán đúng có
được hình như là nhờ sự phân công lao động”. Phân công lao động mang lại
lợi ích là làm tăng năng suất lao động và tạo ra lợi thế cao hơn so với không
có sự phân công. Smith lấy một ví dụ cụ thể về sản xuất đinh ghim để chứng
minh nhận định trên của mình. Theo ông, công việc của một người ở nước
yếu kém là công việc của nhiều người tại một nước tiên tiến. Ở một nước tiên
tiến, người nông dân chỉ là người nông dân, không làm gì hơn và nhà chế tạo
chỉ là nhà chế tạo mà thôi [78, tr.52-62].
D. Ricacdo, trong cuốn “The principles of political economy and taxation”
[77], còn phát hiện ra vai trò của việc phân công lao động trên phạm vi quốc
tế. Ông cho rằng, nền tảng của phân công lao động quốc tế là nguyên tắc lợi
thế so sánh tương đối. Trong đó, mỗi quốc gia sẽ được lợi khi thực hiện
chuyên môn hóa sản xuất vào một ngành, một lĩnh vực kinh tế mà mình có
thể sản xuất với chi phí tương đối thấp hay chi phí ít bất lợi hơn so với nước
khác để xuất khẩu sản phẩm. Ông ví dụ: Có hai người có thể cùng biết cách
đóng giày và đan mũ, trong đó có một người có ưu thế trội hơn đối thủ 1/5
lần, tức là 20%, còn trong lĩnh vực đóng giày anh ta có thể vượt đối thủ 1/3
lần, tức là 33,3%. Liệu có phải sẽ lợi hơn cho cả hai không nếu người có ưu
thế hơn chuyên tâm vào đóng giày còn người kém ưu thế hơn chuyên môn
vào đan mũ? [77, tr.186].
Tác giả Bontis, N&Fitzenz, J., trong bài: Intellectual capital ROI: Acausal
map to human capital antecedents and consequences (Vốn nhân lực: Bản đồ
Acausal tới những tiền đề vốn con người và những hệ quả) [131, tr.233-247], đã
mô tả kết quả của một nghiên cứu đo lường những tiền đề và hệ quả của một
chương trình quản trị vốn NL hiệu quả. Mẫu nghiên cứu được lấy từ 75 nhân
viên cấp cao ở 25 công ty hàng đầu trong lĩnh vực tài chính. Bằng phương pháp
16
định lượng và định tính, tác giả đã cho biết một sơ đồ nhân quả tổng thể tích
hợp nhiều yếu tố, bao gồm vốn tri thức, quản trị tri thức, nhân sự, hành vi tổ
chức, CN tin học và kế toán cho phép đánh giá hiệu quả năng lực vốn NL của
một tổ chức. Sơ đồ này cho phép ban quản trị có thể phân phối tài nguyên
hiệu quả hơn trong vấn đề vốn NL để đạt được mục tiêu của tổ chức.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VỀ NHÂN LỰC
CÓ CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT CHO CỒNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Bên cạnh những sách và công trình KH nước ngoài nêu trên, trong
những năm gần đây, ở nước ta cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu liên
quan đến vấn đề NL có CMKT cho CNH, HĐH. Có thể chia các công trình đó
thành các nhóm sau:
1.2.1. Hướng nghiên cứu về quan niệm, vai trò và phát triển
nhân lực có chuyên môn kỹ thuật cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Cuốn “Lao động, việc làm và NNL ở Việt Nam 15 năm đổi mới” do
Nolwen Henaff, Jean-Yves Martin biên tập [69], trong đó biên tập các bài viết
trong Hội thảo điểm lại 15 năm thực hiện đường lối Đổi mới ở Việt Nam
được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 18 đến ngày 20/7 năm 2000 do Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội kết hợp với Viện nghiên cứu vì sự phát triển (Cộng
hòa Pháp), Viện đại học nghiên cứu phát triển (Thụy Sĩ) và Ngân hàng Thế giới
tổ chức. Các tác giả đã phân tích thực tế công cuộc đổi mới của Việt Nam trên
các khía cạnh chính sách giáo dục - đào tạo và chính sách việc làm, tổ chức lại
nền kinh tế và cơ cấu lại xã hội, phát triển kinh tế và đổi mới doanh nghiệp với
giải quyết lao động, việc làm và phát triển Trong đó, bàn về giáo dục đại học
và nghề nghiệp với thị trường lao động, phát triển NNL đáp ứng với những thách
thức của toàn cầu hóa mạnh mẽ và một nền kinh tế dựa trên những hiểu biết mới.
- Cuốn “Khai thác và phát triển tài nguyên NL Việt Nam” do PGS, TS
Nguyễn Văn Phúc và Th.S Mai Thị Thu chủ biên [74], bàn về cấu trúc tài
nguyên NL, nêu và phân tích thực trạng và sự phát triển tài nguyên NL nói
17
chung, NL có CNKT nói riêng ở Việt Nam thời kỳ 1975 - 2010. Những nhân
tố tác động tới sự phát triển của tài nguyên này thời gian qua. Thực trạng khai
thác và phát triển tài nguyên này, chỉ ra những bất cập trong khi thác và sử
dụng và đề xuất định hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác,
phát triển tài nguyên NL Việt Nam giai đoạn 2012 - 2020.
- Cuốn “NL chất lượng cao của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế”
của Nguyễn Ngọc Tú [101], đã hệ thống hóa lý luận cơ bản về NL chất lượng
cao trong hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển của cách mạng KH & CN
hiện đại trên các nội dung cơ cấu, vai trò của NL chất lượng cao trong phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế; sự cần thiết phải phát triển
nguồn lực này, những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển NL
chất lượng cao trong hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh nghiệm của một số nước
Châu Á (Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore) về xây dựng và phát triển NL
chất lượng cao. Đánh giá thực trạng NL chất lượng cao của Việt Nam giai
đoạn 2000 - 2011 và đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát triển nguồn
lực này đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
- Cuốn “Chất lượng nhân lực trong các khu công nghiệp ở thành phố
Đà Nẵng” của Nguyễn Bình Đức [33], nghiên cứu chất lượng NL tại các DN
trong các khu công nghiệp ở thành phố Đà Nẵng. Xác định cơ sở lý thuyết
cho việc đánh giá chất lượng NL trong các khu công nghiệp trên các khía
cạnh bản chất và cấu trúc của chất lượng NL, hệ thống hóa các chỉ tiêu đánh
giá, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng NL trong các khu công
nghiệp dựa trên một số mô hình định lượng. Nghiên cứu bài học kinh nghiệm
của Nhật Bản, Đức, Pháp, Indonêxia, Hàn Quốc, Singapore. Phân tích thực
trạng chất lượng NL trong các khu công nghiệp ở thành phố Đà Nẵng và
nguyên nhân của thực trạng đó, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
NL trong các khu công nghiệp của thành phố trong thời gian tới.
- Cuốn “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và
hội nhập quốc tế ”, do PGS, TS Vũ Văn Phúc và TS. Nguyễn Duy Hùng chủ
18
biên [75], nêu tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về
phát triển NNL, những lý luận chung, giới thiệu kinh nghiệm phát triển NL
của một số ngành trong nước, phân tích thực trạng đề xuất giải pháp của phát
triển NL của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay, đề xuất giải pháp
phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu HĐH quan hệ lao động.
- Cuốn "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", do PGS, TS. Mai Quốc Chánh chủ biên
[14] phân tích vai trò của NNL và việc nâng cao chất lượng NNL, đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng NNL nước ta đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH đất nước.
- Cuốn "Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam" do
PGS, TS Đỗ Minh Cương và PGS, TS Nguyễn Thị Loan chủ biên, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Cuốn sách làm rõ quan điểm, định hướng
chiến lược và giải pháp chủ yếu cho việc phát triển năng lực giáo dục bậc
cao ở nước ta trong thời kỳ mới.
- Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn do PGS,
TS Đỗ Minh Cương - TS. Mạc Văn Tiến đồng chủ biên (2004). Bên cạnh việc
đi sâu nghiên cứu tìm ra các giải pháp phát triển lao động kỹ thuật ở Việt
Nam, tác giả đã đưa ra các khái niệm NNL ở phạm vi vĩ mô và vi mô, kinh
nghiệm đào tạo và phát triển lao động kỹ thuật ở một số nước như Đông Nam
Á, Trung Quốc, Nhật, Mỹ.
- Doanh nghiệp Việt Nam 2007, Lao động và phát triển nguồn nhân lực
(2008): Đây là báo cáo thường niên về Doanh nghiệp Việt Nam của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) do TS. Phạm Thị Thu Hằng
làm chủ biên. Các tác giả đã đánh giá tổng quan về môi trường kinh doanh
của Việt Nam 2007, phân tích các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trên 4 khía cạnh: lao động, tài chính, CN và tiếp cận thị trường trong 6
ngành (dệt may, xây dựng, du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, sản xuất chế biến
19
thực phẩm) bị ảnh hưởng nhiều nhất của việc Việt Nam gia nhập WTO từ các
vấn đề lao động và phát triển NNL. Phân tích về thực trạng lao động và phát
triển NNL trên cơ sở xem xét, so sánh tác động của yếu tố lao động đối với
các ngành đã nêu, đưa ra giải pháp chiến lược phát triển NNL của các ngành.
Đây là những đóng góp có giá trị không chỉ cho DN mà cho cả các nhà hoạch
định chính sách của Việt Nam.
- Cuốn “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của các trường đại học
khối Kinh tế Việt Nam thông qua các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế”
luận án tiến sĩ của Phan Thủy Chi [13] nghiên cứu lý luận về đào tạo và phát
triển NNL.
- Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2008-2009: “Luận cứ KH xây dựng chiến
lược phát triển dạy nghề và quy hoạch hệ thống mạng lưới trường nghề”, mã số
CT 2008-01-02 do TS. Nguyễn Tiến Dũng chủ nhiệm, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội quản lý. Trong đó, các tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận, thực
tiễn về xây dựng chiến lược và quy hoạch mạng lưới dạy nghề, phân tích thực
trạng mạng lưới này giai đoạn 2001 - 2010, đề xuất nội dung, định hướng phát
triển mạng lưới đến năm 2020. Trong đó có nhiều ý tưởng về con đường phát
triển NL có CMKT cho CNH, HĐH đất nước nói chung, các tỉnh nói riêng.
1.2.2. Hướng nghiên cứu về kinh nghiệm thế giới trong đào tạo
nhân lực có chuyên môn kỹ thuật cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Cuốn“Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo -
Kinh nghiệm Đông Á” của Viện Kinh tế Thế giới (2003) giới thiệu các thành
tựu đạt được của nhóm nước trong khu vực Đông Á về phát triển NNL. Các
chính sách thành công về giáo dục và đào tạo của các nước này là giải pháp
quan trọng trong cung cấp NNL đáp ứng yêu cầu của CNH. Đó cũng là bài
học cho Việt Nam trong phát triển NNL [118].
- Cuốn“Phát triển nguồn nhân lực trong các công ty Nhật Bản hiện
nay” do TS. Trần Thị Nhung và PGS, TS. Nguyễn Duy Dũng đồng chủ biên
20
[71], phân tích hiện trạng phát triển NNL, các phương thức đào tạo lao động
chủ yếu trong các công ty Nhật Bản từ những năm 1990 đến nay. Từ đó đưa ra
một số gợi ý và kiến nghị về phát triển NNL ở Việt Nam nói chung và trong
các công ty nói riêng trong thời gian tới.
- Bài “Phát triển nhân lực, nhân tài - lựa chọn của Trung Quốc trong
chiến lược phát triển bền vững” của Nguyễn Thị Thu Phương đăng trên Tạp
chí nghiên cứu Đông Bắc Á, số 3 (97) 3-2009. Tác giả bàn về một số chính
sách phát triển NL, nhân tài của Trung Quốc hiện nay: (i) Đào tạo thông qua
giáo dục - điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững nguồn lực con người;
(ii) Thiết lập hệ thống sử dụng NL, nhân tài hiệu quả, hợp lý. Ngoài ra, bài
viết con đưa ra một số đánh giá về thành công và hạn chế trong việc phát triển
NL, nhân tài của Trung Quốc.
- Bài “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở những quốc gia và
vùng lãnh thổ Đông Á” của Phạm Thành Nghị [72] chỉ ra 5 kinh nghiệm quan
trọng trong phát triển NNL có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển vượt bậc
của các quốc gia và vùng lãnh thổ: (i) coi con người, NL có CMKT là yếu tố
quyết định, (ii) Phát triển NNL có CMKT theo nhu cầu quá trình phát triển
kinh tế-xã hội và chiến lược phát triển đón đầu, (iii) Kết hợp chương trình đào
tạo nghề đại cương và đào tạo nghề chuyên sâu, (iv) Phối hợp vai trò Nhà
nước, doanh nghiệp và khu vực tư nhân, (v) Thu hút và trọng dụng nhân tài.
Ngoài ra, còn có các cuốn sách đã xuất bản và bài viết trên Tạp chí,
diễn đàn KH về kinh nghiệm phát triển NL có CMKT cho CNH, HĐH, trong
đó đáng chú ý là: “Phát triển NNL thông qua giáo dục đào tạo, kinh nghiệm
Đông Á”, của Lê Ái Lâm, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 2003; “Phát triển
NNL: kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới”, bài viết của Nguyễn Thị
Minh Phước đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 16/9/2011, Đề tài
thuộc Chương trình trọng điểm cấp Nhà nước KX.01/11-15: “Các giải pháp
nâng cao chất lượng lao động CMKT trình độ cao nhằm đáp ứng yêu cầu của
21
nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH”, do PGS, TS Nguyễn Bá Ngọc, Viện
Khoa học Lao động và Xã hội chủ nhiệm, trong đó bàn về cơ sở khoa học và
thực tiễn về nâng cao chất lượng loại lao động này, thực trạng ở nước ta hiện
nay và giải pháp phát triển trong thời gian tới. Các tác giả đã quan tâm nghiên
cứu vai trò của giáo dục, đào tạo và chính sách của nhà nước để phát triển lao
động CMKT trình độ cao.
Bên cạnh các sách, công trình KH và luận án tiến sĩ nghiên cứu về kinh
nghiệm phát triển NL có CMKT cho CNH, HĐH như đã nêu trên, còn có khá
nhiều chủ đề bàn luận về giải pháp phát triển nguồn lực này. Tiêu biểu là:
“Phát triển NNL gắn với việc làm và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” của Nguyễn Hữu Dũng, đăng trên Tạp chí Thông tin lý
luận, Hà Nội, 1995, số 12, tr.52 - 57; cuốn “Việt Nam học - Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế lần thứ II Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập, truyền
thống và hiện đại”, tập III, Nxb Thế giới, năm 2007 [119], trong đó có bài:
“Vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI” của GS.TS
Phạm Minh Hạc, tr.525 - 546. Trong đó, tác giả đã khái quát vấn đề phát triển con
người và NNL của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước qua các giai đoạn 1991-1995, 1996-2000, 2001-2005 và một số chương trình
nghiên cứu cấp Nhà nước về phát triển con người và NNL; vấn đề phát triển NNL
trong các kỳ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam từ các khóa VI, VII,VIII và khóa
IX. Trong cuốn Kỷ yếu trên còn có bài: “Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam,
đào tạo phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường” của Trần Hùng Phi nhằm khái
quát vấn đề phát triển NNL ở Việt Nam giai đoạn từ 2001-2005. Bài “Phương
hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn” của Trần Quang Vinh đăng trên Tạp chí Quản lý
kinh tế, số 4/2005 [114]. Bài “Giáo dục, đào tạo với phát triển nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của PGS, TS Đường Vinh
Sường [80]. Bài “Đào tạo nhân lực để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện
22
đại hóa đất nước trong bối cảnh mới” của GS, TSKH Nguyễn Minh Đường trình
bày tại Hội thảo KH “Đào tạo nhân lực trong giai đoạn hội nhập và phát triển kinh
tế" tổ chức tại Hà Nội ngày 22/10/2013 [32] v.v
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu về NL có CMKT ở tỉnh
miền núi, như: cuốn “Một số vấn đề về phát triển NNL dân tộc thiểu số cho sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam”, do PGS,TS Nguyễn Đăng Thành
chủ biên, bao gồm các công trình nghiên cứu được tuyển chọn của Đề án:
“Luận cứ và giải pháp phát triển NNL thiểu số nước ta đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh CNH, HĐH” do Viện Xã hội học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh chủ trì. Bàn về đặc điểm NNL dân tộc thiểu số Việt Nam, tác
động của vấn đề dân số tộc người đối với sự phát triển NNL dân tộc thiểu số
Việt Nam nói chung, vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên
nói riêng. Phân tích, đánh giá chính sách của Đảng và Nhà nước cho phát triển
NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước [81]. Bài: “Giải pháp phát triển
nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc” của TS.
Lô Quốc Toản [92], đề xuất các giải pháp phát triển NL phục vụ cho CNH,
HĐH và phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc: củng cố và
hoàn thiện hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo phổ thông, chất lượng tuyển sinh, chất lượng đào tạo dự bị
đại học, hệ cử tuyển của các trường đại học, cao đẳng ở các tỉnh miền núi phía
Bắc. Bài: “Quy hoạch nhân lực các tỉnh miền núi phía Bắc” của Từ Lương
đăng trên Website Chính phủ ngày 07/12/2010, cho biết trình độ của người lao
động toàn vùng được đánh giá là thấp so với mức trung bình toàn quốc, với tỷ
lệ người tham gia lao động chưa từng đi học là 11,3%. Do vậy, thời gian tới,
phấn đấu mỗi tỉnh có ít nhất 1 trường dạy nghề, mỗi huyện có 1 trung tâm dạy
nghề; bảo đảm quy mô đào tạo tăng 25%/năm.
Quan tâm về phát triển NL có CMKT ở tỉnh miền núi trong thời gian gần
đây còn có Hội thảo KH quốc gia tổ chức ngày 01/10/2012 với chủ đề: “Đào
tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La và vùng Tây Bắc
23
trong tiến trình hội nhập”. Hội thảo đã nhận được hơn trên 150 bài viết của các
nhà KH, các chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực đào tạo NL của các trường đại
học, cao đẳng khu vực phía Bắc. Trong đó, có những nghiên cứu, phân tích,
nhận dạng cơ hội và thách thức từ quá trình hội nhập quốc tế và từ xu hướng tri
thức hóa các hoạt động và quyết sách kinh tế đối với phát triển NL cho tỉnh
miền núi Sơn La và vùng Tây Bắc hiện nay. Có bài viết quan tâm đến nguồn
lực cho giáo dục và đào tạo NL có CMKT cho CNH, HĐH, tiêu thức kiểm
định chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn lực này, những chia sẻ của các DN,
cơ sở sử dụng NL trên địa bàn. Đây là nguồn tài liệu bổ ích cho việc nghiên
cứu đề tài luận án của nghiên cứu sinh.
Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình cũng có một số nghiên cứu về NL cho phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hòa Bình, tiêu biểu là: “Báo cáo tổng kết 5 năm
thực hiện Chương trình hành động số 160/CTr - TU của Tỉnh uỷ (khoá XIII)
về thực hiện kết luận Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khoá
IX) về phát triển Giáo dục - Đào tạo”; “Quy hoạch phát triển NL 2011- 2020”
của UBND tỉnh Hòa Bình (2012), “Định hướng phát triển” (đăng trên trang website
của Sở Tư pháp tỉnh Hòa Bình) nêu các giải pháp định hướng về phát triển NL
tỉnh Hòa Bình trong qui hoạch tổng thể kinh tế - xã hội đến năm 2010. Bài
“Huyện Tân Lạc - Hòa Bình: Coi trọng công tác đào tạo nghề cho lao động
nông thôn” trên trang web của Bộ Thông tin và Truyền thông [49]; bài “Dạy
nghề cho lao động nông thôn ở Hòa Bình” của Hoàng Hùng đăng trên Nhân
dân điện tử ngày 23/8/2013; “Đào tạo dạy nghề cho lao động nông thôn tỉnh
Hòa Bình” của Nguyễn Thanh Thủy đăng trên website của Hội nông dân tỉnh
Hòa Bình ngày 14/1/2014; “Xây dựng xã hội học tập ở Hòa Bình” của Xuân
Kỳ, trên Báo mới.com ngày 9/01/2014 v.v
Các công trình KH đã công bố đã đề cập và làm rõ được những vấn đề
lý luận chủ yếu về NNL, một số tác giả bàn đến hiệu quả sử dụng NL trong
một số ngành, địa phương cụ thể. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tính đặc thù của
24
NL cho CNH, HĐH ở các tỉnh miền núi mới chỉ được đề cập từ góc độ vấn đề
có liên quan. Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống về NL có
CMKT cho CNH, HĐH ở tỉnh Hòa Bình trên giác độ kinh tế chính trị.
1.3. KẾT LUẬN RÚT RA TỪ NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
1.3.1. Những kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Các công trình và bài viết công bố ở trong và ngoài nước nêu trên đã
hướng vào nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của vấn đề NL có CMKT
cho CNH, HĐH, cụ thể là:
- Nêu và phân tích những thuộc tính cơ bản về khái niệm NL có CMKT
và vai trò của nó đối với năng suất lao động, giá trị sản phẩm và sự phát triển
kinh tế - xã hội, trong đó có quan tâm đến khía cạnh vai trò của loại NL này
đối với CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân. Xác định vai trò đó ngày càng tăng
lên nhanh hơn so với lao động không có CMKT và so với các nguồn lực sản
xuất khác cùng với quá trình chuyển nền sản xuất từ phát triển theo chiều
rộng sang phát triển theo chiều sâu, quá trình phát triển của cách mạng
KH&CN. Vai trò của NL có CMKT còn được thể hiện trong sức cạnh tranh
của sản phẩm, của doanh nghiệp và của nền kinh tế.
- Nghiên cứu việc phân bổ NNL cho sản xuất của các ngành, lĩnh vực
trong nội bộ nền kinh tế và trong quan hệ kinh tế với nước ngoài. Trong đó
chú trọng phân công lao động xã hội và mở rộng phân công lao động quốc tế
dựa trên lợi thế so sánh nhằm sử dụng và phát huy có hiệu quả NNL nói
chung trong đó có NL có CMKT của một quốc gia. Việc phân bổ này được
thực hiện trong một cơ chế kết hợp vai trò của thị trường với tính năng động
của chủ doanh nghiệp và vai trò kinh tế của nhà nước.
- Một số công trình, bài viết còn quan tâm đến yêu cầu về NL có
CMKT đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đó một số tác giả đã quan
tâm đến yêu cầu loại NL này đối với CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân và một
25
số tỉnh, thành phố ở nước ta. Con đường phát triển loại NL này trên thế giới
và ở Việt Nam.
- Nghiên cứu đã bàn về phương pháp giáo dục – đào tạo hiện đại trong
thời đại chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức với sự bùng
nổ CN thông tin, phát triển mạng internet toàn cầu, đến những CN giáo dục
mới chuyển từ phát huy tính tích cực sang phát huy năng lực sáng tạo của
người học, những đổi mới trong giáo dục – đạo tạo loại NL này ở trong và
ngoài nước. Trong đó, một số tác giả có nghiên cứu về nâng cao chất lượng
NL, phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, giáo dục đại học, chiến lược
phát triển dạy nghề và quy hoạch hệ thống mạng lưới trường nghề, đào tạo
nghề ở nông thôn… đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Bàn về yêu cầu
đạo tạo NL với sử dụng và gắn đào tạo NL với thị trường để phát triển NL
có CMKT theo hướng hiệu quả, thiết thực.
- Một số công trình và bài viết trong nước đã quan tâm nghiên cứu
đánh giá vai trò của NL có CMKT đối với CNH, HĐH ở Việt Nam, vấn đề
khai thác và phát triển NL có CMKT ở Việt Nam nhắm phục vụ CNH,
HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Có nghiên cứu về NL chất lượng cao
trong phát triển kinh tế xã hội, trong các khu công nghiệp.
- Những nghiên cứu về kinh nghiệm của một số nước, nhất là của các
nước trong cùng khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và các
nước Đông Á trong phát triển NL có CMKT phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội và CNH, HĐH mà nước ta có thể tham khảo.
- Đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về phát triển NL có
CMKT đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở các tỉnh miền núi Việt Nam, trong đó
đã có những quan tâm đến nâng cao chất lượng NL là đồng bào dân tộc thiểu
số, đào tạo NL phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La và vùng Tây
Bắc trong tiến trình hội nhập và một số bài viết về giải pháp đào tạo NL cho
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hòa Bình.