Mục lục:
1.NGOẠI CẢM KỲ DIỆU - NHỮNG KHẢ NĂNG BÍ ẨN CỦA CON NGƯỜI
PHẦN I: KHÍ CÔNG
PHẦN II: CÁC HIỆN TƯỢNG TRƯỜNG SINH HỌC
PHẦN III: TRƯỜNG SINH HỌC
2.NHỮNG NGƯỜI CÓ NĂNG LỰC SIÊU PHÀM
1.NGOẠI CẢM KỲ DIỆU - NHỮNG KHẢ NĂNG BÍ ẨN CỦA CON NGƯỜI
Từ lâu khoa học đã biết được rằng: cơ thể con người tự nó sinh ra các điện từ trường
vật lý gọi là trường sinh học. Ðó là năng lượng điện từ bao quanh cơ thể con người. Sự
tồn tại và bức xa năng lượng trường sinh học gắn liền với hiện tượng ngoại cảm.
Hiện tượng ngọai cảm bao gồm các dạng cảm giác (nhận thức) không nhờ giác quan
và các dạng tác động của con người tới sự vật ngoài cơ thể không nhờ tới sức cơ mà nhờ ý
chí tư duy. Biểu hiện về ngoại cảm rất đa dạng và phong phú. Ngoại cảm kỳ diệu chỉ muốn
giới thiệu với bạn đọc một số hiện tượng rất bí ẩn mà nhiều sách báo cho đó là những hiện
tượng rất bí ẩn và kỳ diệu. Ngoại cảm kỳ diệu không nhằm chứng minh với bạn đọc một
"hiện tượng siêu tự nhiên" nào, mà chỉ nhằm hướng bạn đọc tới những vấn đề mà con người
cần tìm hiểu, chứng minh trong tương lai về khả năng kỳ diệu và bí ẩn của chính mình.
Ngoại cảm kỳ diệu được tuyển dịch, sưu tầm, tập hợp từ nhiều nguồn sách, báo, tạp
chí Về một vấn đề mà khoa học còn đang trong giai đoạn nghiên cứu tìm hiểu, tranh cãi
nên các thuật ngữ ở đây sẽ có những điểm không thống nhất, rất mong được bạn đọc thông
cảm lượng thứ.
Hằng Nga
(Tập hợp, tuyển dịch, biên soạn)
PHẦN I: KHÍ CÔNG
Khí công huyền diệu
Xua tan mây mù, diệt trừ vi khuẩn
Huyền thoại Nghiêm Tân - Khí công hay trường sinh học
Nhà khí công và võ sĩ quyền anh
Thò tay vào vạc dầu sôi
Khí công là một thuật dưỡng sinh, một dạng tu dưỡng tinh thần và luyện tập thể dục
đặc biệt, đã có khoảng 2000 năm ở Trung Quốc. Những người luyện tập khí công thành đạt
trở thành những người có khả năng siêu phàm. Họ có thể phi thân, nhìn xuyên suốt cơ thể
con người, "phát công" làm di chuyển đồ vật, thay đổi thành phần hoá học của vật chất và
chữa bệnh không cần thuốc mang đầy tính huyền thoại, nhưng lại là một thực tế.
Khí Công Huyền Diệu
Nhiều cơ sở y tế ở Trung Quốc có khoa dùng khí công để chữa bệnh, để gây tê khi
mổ; nhiều đơn vị an ninh dùng người có năng lực ngoại cảm đặc biệt để khám phá ra nhiều
vụ án quan trọng nhiều cơ sở nghiên cứu khoa học, hội nghiên cứu khí công học ở trung
ương và nhiều thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Trùng Khánh, Quảng Châu được
thành lập.
Hàng loạt "siêu nhân" nam, nữ về khí công có dịp biểu diễn công khai ở nhiều nơi,
nhiều lần, trước đông đảo người xem trong nước và nước ngoài.
Trương Bảo Thắng là người thành phố Bản Khê, tỉnh Liêu Ninh, là một trong các
"siêu nhân" đó.
Thuở nhỏ Trương Bảo Thắng đã có khả năng đặc biệt. Trong lớp học, ai mất gì, như
bút chì, bút máy, khăn tay cứ tả đặc điểm, màu sắc cho anh ta biết là anh có thể nói ra vật
ấy đang ở đâu hoặc do ai lấy một cách tuyệt đối đúng. Bạn học gọi đùa anh là "thần trinh
sát nhỏ tuổi." Nhưng thầy giáo thì nghi ngờ: Anh ta không ăn cắp thì làm sao biết rõ ràng
như thế? Anh chỉ được được học tới hết bậc tiểu học thì phải thôi. Lớn lên anh làm giao
thông - liên lạc tại một mỏ ở Bản Khê. Một hôm phát thư cho một chàng trai, Bảo Thắng
nói: "Người yêu của anh mời đi xem chiếu bóng đây này!" Tưởng Bảo Thắng nói đùa,
chàng trai bóc thư ra xem thì đúng là như thế. Nghĩ rằng Bảo Thắng đã bóc trộm thư của
mình ra xem, chàng trai liền báo với trưởng ban bảo vệ và tố cáo rằng Trương Bảo Thắng
đã vi phạm hiến pháp, xâm phạm thư tín của công dân. Trương Bảo Thắng được mời đến.
Anh phân trần rằng không bóc trộm thư mà chỉ vô tình nhìn thấy khi cầm đến thư, và mau
mồm mau miệng nói với chàng trai kia biết. Không tin lời anh, trưởng ban bảo vệ kiểm tra
ngày khả năng đọc thư qua phong bì của anh bằng cách lấy ngay một công văng còn niêm
phong kỹ, giao cho anh, bảo anh đọc. Anh nhìn qua một lát anh cho biết công văn nói về
chủ trương sinh đẻ có kế hoạch, mỗi gia đình chỉ nên có một con. Công văn được bóc ra:
nội dung đúng như Trương Bảo Thắng vừa nói. Thế là từ "phạm nhân", trở thành "kỳ nhân"
của mỏ, của cả vùng, rồi của cả nước.
Viện y học Trung Quốc tỉnh Liêu Ninh mời anh đến làm thực nghiệm khoa học. Chỉ
học đến tiểu học, vả lại không biết gì về y lý Trung Quốc, nhưng tại đây anh có thể nhìn thấy
rõ hướng vận động của mạch ẩn sâu trong cơ thể người mà y học Trung Quốc gọi là các
kinh và lạc. Các chuyên gia của Viện ghi chép lại, rồi so sánh với những điều miêu tả trong
các sách kinh điển thì thấy hoàn toàn giống như vậy, không những thấy kỳ tài của người xưa
mà còn thấy cả khả năng kỳ lạ của Bảo Thắng. Trương Bảo Thắng còn có thể thấy màu sắc
của kinh và lạc, thậm chí màu sắc kinh lạc, ở từng người: xanh, vàng, hồng. Trước đây, có
giáo sư đã dùng phương pháp truyền âm để nghiên cứu sự lan truyền của tính hiệu âm thành
qua kinh lạc nhưng mới chỉ quan sát thấy được một đoạn thuộc tứ chi người thường. Tham
gia quan sát, anh đã nhìn thấy sự lan truyền ấy, cùng phương hướng của nó ở các bộ phận
khác, theo kinh lạc, nhìn thấy rõ ràng lục phủ, ngũ tạng.
Một lần đến công viên Bắc Lăng ở thành phố Thẩm Dương, bước tới gần tấm bia "hạ
mã" cũ còn lại, anh nhìn tấm bia một lát rồi nói với một giáo sư đi cùng: "Dưới bia, có tiền
đồng!" Nghe thấy thế, vị giáo sư kia tỏ vẻ không tin và nói: "Tôi chỉ tin khi ông có cách gì
lấy được tiền đồng lên đây." Bảo Thắng lẳng lặng "phát công" (sử dụng năng lượng ngoại
cảm của mình), đưa tay ra trước mặt, một lát sau: hai đồng tiền cổ, xanh gỉ có vết đất, nằm
trong tay!
Việc chỉ dùng ý chí mà thu được những vật thật đã xảy ra ở Trương Bảo Thắng từ khi
còn nhỏ tuổi. Hồi ấy, một lần theo cha đi chợ huyện, anh thấy người cha nhìn hàng thịt rất
lâu, rồi thở dài, kéo con đi. Chắc chắn là không đủ tiền mua, hai cha con trở về, tay không.
Ngờ đâu, đến giữa đường về, người cha thấy tay Trương Bảo Thắng cầm một miếng thịt,
nặng đến 5 cân (bằng 2,5 kg). Nổi giận, ông tát cho con một cái nên thân và mắng:
- Ðồ súc sinh, mày ăn cắp của người ta à?
Trương Bảo Thắng oà lên khóc, kêu oan, kể rằng: Biết cha muốn mua thịt nhưng
không đủ tiền nên anh đã nảy ra ý muốn có một miếng thịt, và thế là nó đã đến tay anh, chứ
anh hoàn toàn không ăn cắp.
Còn ngày nay thì Trương Bảo Thắng có thể ra lệnh cho mọi vật xuyên qua giấy, vải,
thủy tinh, ván gỗ, thậm chí cả tường bê tông mà không gây ra vết tích để đến tay anh, trước
mặt mọi người.
Trong nhiều lần vui đùa, anh đã cho bạn bè thấy: anh có thể ngồi trong nhà mà làm
cho một loạt giày dép để ở cửa "bay" ra bãi cỏ ngoài cổng, làm cho chùm chìa khoá trong
túi một bạn "vọt" ra ngoài, đến tay anh; mượn của phòng bên một cái phích mà không cần
mở cửa vào, rồi vẫn ngồi nguyên tại chỗ trả lại cái phích vào chỗ cũ. Bạn bè làm một thí
nghiệm: Buộc một chiếc chìa khoá vào một cái chuông con và yêu cầu anh di chuyển nó
đến một nơi tuỳ ý (làm như thế để dễ phát hiện). Trương Bảo Thắng nhận thí nghiệm, cầm
chìa khoá và chuông trong tay, chẳng nói chẳng rằng. Ngồi nói chuyện một lát sau, anh mở
tay ra cho mọi người xem: chìa khoá và chuông đã biến mất. Hỏi nó đang ở đâu, anh bảo:
ở trong một cái ngăn kéo gần đây. Mọi người kinh ngạc mở ngăn kéo: quả nhiên có chiếc
chìa khoá buộc cùng chiếc chuông và càng kinh ngạc hơn khi thấy có thể dùng ý chí điều
khiển vật thể xuyên qua gỗ chắc, không có tiếng động, không gây tổn hại, trước sự chứng
kiến của nhiều người.
Trong điều kiện giám sát chặt chẽ của nhiều người, Trương Bảo Thắng có lần ngồi tại
chỗ mà đưa một bao gạo nặng khoảng 50 kg từ nhà bên sang phòng đang ngồi mà không hề
mở cửa, đục tường
Giải thích các hiện tượng như trên, người ta cho rằng đó là do anh đã "phát công" để
điều khiển sự vật. Cũng bằng cách "phát công" như thế, Trương Bảo Thắng có thể đang
ngồi xem chiếu bóng, biến phim màu thành phim đen trắng, hoặc phim đen trắng thành phim
trắng toát.
Một lần, công diễn ở Quảng Châu, Trương Bảo Thắng đã chứng minh khả năng kỳ
diệu của mình qua những việc như:
- Có thể lấy một tấm giấy bạc (trong thí nghiệm là tiền giấy Áo Môn, tức Ma Cao) đã
đặt trong một phong bì niêm phong kỹ, do một khán giả bất kỳ giữ, tấm giấy bạc ấy đúng về
cả những chữ số đã in trên đó, lẫn chữ ký, dấu hiệu của người có tiền, và trao lại cho chủ
của nó; cho một chút đường vào phong bì đựng tiền nói trên mà không ái biết; đọc được chữ
viết trên mẫu giấy người ta đặt trong phong bì đó (những chữ ấy là: Hoan nghênh Trương
Bảo Thắng).
- Có thể lấy được những viên thuốc trong một cái lọ gắn xi, ở trong tay một người
được ban tổ chức mời, mà lọ và niêm phong còn nguyên vẹn sau đó lại trả lại vào lọ những
viên thuốc đã lấy ra; hoặc lấy ra rồi cho vào lọ đã gắn xin một cánh hoa, một mảnh giấy,
một cái kẹo
- Làm nguyên vẹn lại một tấm danh thiếp, có mang chữ ký của người có tên trên bưu
thiếp sau khi đã nhờ một người tình nguyện nhai nát tấm danh thiếp đó. Khi nhận phần bột
nhão đã nhai từ tấm danh thiếp, Bảo Thắng hai lần cho biết còn thiếu, người tình nguyện đã
tìm thấy một mẫu vụn đánh rơi, và lần sau một chút còn dính ở răng!
Xưa nay, người ta vẫn coi đây là chuyện thần thoại. Nhưng bấy giờ, ở Trung Quốc,
người ta lại đang chú ý nghiên cứu hiện tượng lạ này ở Bảo Thắng. Hồi nhỏ, gia đình túng
bấn có lần không có tiền lấy vé, Trương Bảo Thắng nảy ra ý muốn cùng các bạn vào rạp
chiếu bóng xem sao. Bảo Thắng làm cho người soát vé lú lẫn đi bằng ý chí của mình rồi
đàng hoàng bước vào rạp chiếu bóng. Có điều anh ta không bao giờ dùng năng lực này
cũng như khả năng thu được vật do ý chí, để làm việc xằng bậy. Từ khi nổi tiếng, anh ra
sức luyện tập phương pháp này.
Một lần, một trường đại học ở Ðông Bắc làm thí nghiệm về khả năng này của anh. 40
sinh viên lanh lợi được giao nhiệm vụ canh gác tất cả các cửa ra vào và cửa sổ của hội
trường thí nghiệm (có mời nhiều người đến dự để chứng kiến). Hết sức canh giác, các sinh
viên này quyết "không để một lỗ nhỏ sơ hở". Có ngờ đâu, anh đã vào hội trường, lúc nào
mà họ không hề biết.
40 sinh viên này chưa chịu, cho rằng Trương Bảo Thắng "có lẽ" lọt qua cửa thông gió
ở nhà xí. Và thế là họ xin thử lại; lần này, họ tăng thêm người, cử người gác cả nhà xí, bên
nam cũng như bên nữ. Sau khi có hiệu lệnh "Bắt đầu", Trương Bảo Thắng vẫn đứng nói
chuyện bình thường với một số người ở cửa ra vào. Nhưng rồi người ta không thấy anh đâu
nữa. Thì ra, anh đã lọt qua "bức tường người" bằng phép tàng hình ("phép che mắt") của
anh và vào hội trường.
Xua Tan Mây Mù, Diệt Trừ Vi Khuẩn
Các nhà khí công có thể phát "ngoại khí" tác động tới khí hậu, điều tiết mưa gió.
Những đêm nhiều mây, có người phát công lên trời, có thể làm mây tản ra, ánh trăng bừng
sáng. 21 giờ ngày 14-9-1986, khi lớp khí công ở Trường tiểu học số 1 Bắc Kinh do thầy
giáo Vương Lực thuộc phái "Ðạo gia long môn" phụ trách vừa kết thúc buổi học, học viên
chuẩn bị rời trường, thì trời bỗng nổi sấm chớp, những hạt mưa to rơi lộp bộp, một trận
mưa lớn sắp bắt đầu. Vương Lực liền đứng giữa sân trường phát công lên trời, một lát mưa
ngừng rơi, sấm chớp không còn nữa. Một giờ sau Vương Lực đoán học viên đã về nhà, liền
"thu công". Bầu trời lại nổi sấm chớp, mưa mỗi lúc một to.
Trong các tối 29-11-1982, 9-9-1984, 10-2-1985, 15-9-1986, tại 4 địa điểm khác
nhau ở Thượng Hải và trước sự chứng kiến của các nhóm người khác nhau, Toàn Quan
Lương đã nhiều lần phát công lên bầu trời đầy mây, đều có thể làm mây tản ra, mặt trăng toả
sáng.
Nghiên cứu khí công ở Trung Quốc hiện nay đã lan sang ngành trồng trọt. Viện
trưởng "Viện khoa học nhân thể" tỉnh Vân Nam là Vương Gia Lâm năm 1982 đã dùng khí
công xử lý giống nấm Nhật Bản. Nhóm nấm đối chiếu chiếc lớn nhất nặng 1kg, bình thường
0,5 - 0,8 kg. Nhóm nấm xử lý khí công chiếc lớn nhất nặng 2,52 kg, bình thường 2 kg.
Theo tự liệu Nhật Bản, giống này qua xử lý tia laser chiếc lớn nhất chỉ có 1,6 kg. Nấm
hương và mộc nhĩ là hai loại thực vật mà khả năng kháng khuẩn mốc xanh tương đối kém.
Trong điều kiệm bình thường, chỉ trong 24 giờ đã nhiễm khuẩn. Nhưng mộc nhĩ và nấm
hương qua xử lý "ngoại khí", sinh trưởng hơn 60 ngày vẫn chưa nhiễm khuẩn.
Từ hàng ngàn năm trước đây, người ta đã biết sử dụng "khí" - khái niệm gắn liền với
võ thuật - như một phương tiện kỳ diệu nhằm tăng cường, rèn luyện sức khoẻ và chữa bệnh
dưới tên gọi quen thuộc: liệu pháp khí công. Những thành công rực rỡ của các nhà khí công
nổi tiếng đương đại như Nghiêm Tân, Vương Lực Bình là những bằng chứng hiển nhiên về
sự tồn tại của "khí". Ít "khí" chẳng những không thể nhìn thấy bằng mắt thường mà ngay cả
với các dụng cụ vật lý tinh xảo cũng chưa xác định được rõ ràng. Ðến nay, đã và vẫn đang
có rất nhiều cuộc tìm kiếm, tranh cãi với mong muốn phát hiện sự thật về "khí".
Ðối với các nhà ngoại cảm thì "khí" không phải là cái gì đó siêu hình, thần bí, ngược
lại, hoàn toàn có thể nhìn thấy rõ ràng, có thể nắm bắt, điều khiển được. Nhờ sự giúp đỡ
của họ, các nhà khoa học Trung Quốc đã tiến hành nhiều thí nghiệm nhằm xác định bản thể
vật lý của "khí". Theo các nhà ngoại cảm, "khí" không những chỉ tồn tại trong con người mà
có mặt ở khắp nơi, cả trong đất, trong các sinh vật cỏ cây với muôn hình muôn vẻ khác
nhau. Khi theo dõi một võ sư phát công, họ thấy những dòng khí mảnh phát ra với màu sắc
rực rỡ, chúng có khả năng xuyên qua cả những vật chắn dầy. Ở những người luyện tập khí
công lâu năm, ngay cả trong trạng thái bình thường, "khí" cũng toả ra tự nhiên trên đầu như
những vầng hào quang mang sắc màu cầu vồng. Ðộ sáng và chiều cao của các vầng hào
quang tỉ lệ thuận với tài năng và thời gian, công phu luyện tập của các võ sư. Ðối với
những người mới tập đôi khi cũng có vầng hào quang tương tự song màu sắc rất mờ nhạt,
hình dạng khó nhận thấy. Những nhà nghiên cứu còn nhận ra giữa màu sắc các quầng sáng
và trạng thái tâm lý tình cảm của người đó có một mối liên hệ rõ rệt. Ðất và các loại hoa
cỏ cũng chứa trong nó vô số các loại "khí" có màu trắng hoặc tươi snng, đều là "thanh khí",
có tác dụng tốt đối với cơ thể con người, còn các loại khí màu sẫm, hay đen (hắc khí) có tác
dụng ngược lại. Trao đổi "thanh khí" với môi trường bên ngoài là biện pháp tốt để tăng
cường sức khoẻ.
Khí phân bố trong khắp cơ thể con người theo các đường dây gọi là những mạch kinh
lạc mà nơi tiếp nối với bên ngoài là các huyệt. Đó là một bức tranh minh hoạ cho thể trạng
sức khoẻ của mỗi người. Màu trắng nhạt của các đường kênh này chứng tỏ sự khoẻ mạnh
của cơ thể. Còn nếu một bộ phận nào đó đường kinh lạc đổi màu (chuyển thành màu sẫm
hoặc xỉn đen) thì biểu hiện sự trục trặc về bệnh lý tại nơi đó hoặc trạng thái tâm thần "có
vấn đề". Bệnh càng nặng thì màu sắc "khí" càng thẫm. Khi ấy, biện pháp chữa trị hữu hiệu
nhất là thay thế phần "hắc khí" bằng phần "thanh khí" mới nhờ trao đổi với môi trường bên
ngoài thông qua sự giúp đỡ của các nhà khí công, ngoại cảm.
Vậy thực chất "khí" là gì? Theo các nhà khoa học, đó là một dáng vật chất đặc biệt,
mang đầy đủa các đặc tính của vật chất thông thường. Chúng tuân theo nguyên lý "bảo
toàn" không tự nhiên sinh ra mà cũng không tự nhiên mất đi, chỉ chuyển tự dạng này sang
dạng khác hoặc truyền tự vật này qua vật khác Có thể hình dung chúng một cách gần gũi
với các vật chất dạng "trường". Các nhà khí công, bằng biện pháp phát công theo nguyên tắc
"ý khiển khí" đuổi "hắc khí" ra khỏi cơ thể người bệnh và thế chỗ bằng "thanh khí" của mình
(dùng ngoại khí). Cũng có thể thực hiện điều này bằng cách trao đổi khí với các cây cỏ
mang khí lành bên ngoài có khả năng dễ cho (nhận) khí. Tập khí công bền bỉ, làm cho khí
được lưu thông thường xuyên, kích thước các mạch kinh lạc tăng thêm, sức khoẻ con người
sẽ được tăng cường một cách đáng kể và đôi khi cả trạng thái tâm tính bẩm sinh cũng sẽ đổi
thay.
Lý thuyết mà các nhà khoa học đưa ra trên đây đã được minh chứng rất cụ thể qua
nhiều ca điều trị bệnh lý đạt kết quả tốt bằng liệu pháp khí công. Song công việc chưa phải
là kết thúc mà còn đòi hỏi sự tiếp cận theo hướng có chiều sâu hơn, tương ứng với các cội
rễ của khoa học và triết học phương Đông cùng với bao nhiêu hiện tượng kỳ bí khác còn
chưa được giải thích.
Ngày 22-12-1986, tuyết rơi đầy trời Bắc Kinh, rét 5 độ âm. Danh Sinh mặc phong
phanh, đi bộ đến trường đại học Thanh Hoa. Anh được mời đến với danh nghĩa cố vấn thứ
nhất Hội "khí công". Và tại đây, các nhà bác học của trường đã mời anh tham gia vào một
cuộc thử nghiệm kỳ lạ
Người ta trao cho Danh Sinh hai bình thí nghiệm trong đó đựng một hỗn hợp khí
hyđrô và ôxít cácbon. Theo nguyên tắc, phản ứng hoá học của hỗn hợp chỉ bắt đầu xảy ra
dưới áp lực 30 át-mốt-phe và ở nhiệt độ trên 280 độ C hoặc dưới tác động cúa chất xúc
tác. Lúc này, áp lực trong bình là 1 át-mốt-phe, còn nhiệt độ trong phòng là 13 độ C. Danh
Sinh nhìn vào bình thí nghiệm một lát và nói:
- Tôi đã tác động xong. Có thể bắt đầu thử nghiệm.
- Có thật không? Bởi vì tất cả diễn ra trong chưa đầy một phút - Các giáo sư tỏ ra
nghi ngờ.
Danh Sinh cười nhắc lại:
- Đã xong rồi
Lúc này các giáo sư mới đi vào phòng thí nghiệm của khoa hoá.
Năm phút trôi qua. Trên màn display xuất hiện một biểu đồ đo máy tính điện tử ghi
lại xác định phản ứng hoá học đã xảy ra. Thật kỳ lạ: trong điều kiện bình thường dưới tác
dụng của ngoại khí, phản ứng hoá học đã xảy ra. Tiếp đó các cán bộ phòng thí nghiệm đã đề
nghị Danh Sinh tiến hành tác động ngoại khí vào các vật chất như dung dịch sinh lý học,
dung dịch glu-cô, kháng sinh, nhưng ở khoảng cách tăng dần từ một vài mét đến hai nghìn
ki-lô-mét. Các thí nghiệm diễn đi diễn lại đến 10 lần trong một tháng, và việc tác động
được tiến hành trên 7-8 chế phẩm mà thành phần hoá học của nó dưới tác động của ngoại
lực "khí" đã thay đổi rất rõ rệt.
Ngoại lực "khí" có khả năng làm xảy ra các phản ứng hoá học.
Trong cơ thể con người, nước chứa tới hơn 65%. Các nghiên cứu khẳng định rằng,
ngoại "khí" cũng tác động được vào lượng nước đó trong con người. Nó có thể điều chỉnh
và làm thay đổi quá trình sinh hoá trong cơ thể người bệnh, đó cũng chính là nguyên tắc
chữa bệnh bằng khí công của Danh Sinh. Mời các bạn hãy chứng kiến một buổi chữa bệnh
của Danh Sinh.
Vào một ngày tháng 6, sân vận động "Sao-đu" ở Bắc Kinh chật ních người xem. Lúc
này, một thanh niên gầy gò, vẻ mặt nghiêm nghị bước ra. Anh chỉ nói mấy lời ngắn gọn, lập
tức sân vận động im phăng phắc.
Nhiều người vô cùng ngạc nhiên. Sức mạnh nào trong những lời nói đó bắt hàng vạn
con người phải im bặt? Đó chính là nguồn năng lượng mà nhà khí công nổi tiếng Danh Sinh
đã phát ra.
Sau đó, khi anh bắt đầu tiếp tục nói, trong khán giả có người bỗng nhiên cất tiếng hát,
những người khác thì nhảy múa, ai đó nữa thì nức nở khóc hoặc cười hô hố, nghiên bên này,
đảo bên kia - nghĩa là tất cả đều biểu hiện một hành động gì rất kỳ lạ.
Danh Sinh đã nói chuyện liền 5 giờ đồng hồ. Trong thời gian đó, khán giả không một
người nào đứng dậy đi tiểu tiện, không ai bỏ ra ngoài, không ai muốn ăn, uống gì cả Về
sau, người ta biết rằng, tất cả những điều đó là do tác động năng lượng tâm lý của nhà khí
công Danh Sinh.
Danh Sinh bắt đầu tập khí công từ lúc còn nhỏ. Sau khi tốt nghiệp Viện Y học Trung
Quốc ở thành phố Tren-du, Danh Sinh đã kết hợp thành co6ng y học Trung Quốc, khí công
và khả năng năng lượng sinh học của mình, chữa được nhiều bệnh nặng và nan y. Hàng
nghìn người bệnh từ trong nước và nước ngoài đã tìm đến Danh Sinh. Danh Sinh đã biểu
diễn trước hàng nghìn khán giả phương pháp chữa bệnh nguyên thủy do anh áp dụng, đó là
phương pháp chữa bệnh từ xa mà ta còn gọi là thần giao cách cảm.
Huyền Thoại Nghiêm Tân - Khí Công Hay Trường Sinh Học
Ở Trung Quốc những năm gần đây, phong trào tập khí công phát triển rất nhanh, đồng
thời cũng lưu truyền nhiều chuyện kỳ lạ về việc các nhà khí công phát "ngoại khí" chữa
bệnh. Trong đó nổi bật là huyền thoại về phương pháp dùng "ngoại khí" chữa bệnh của nhà
khí công bác sĩ Nghiêm Tân, 39 tuổi (1989).
Nghiêm Tân sinh trưởng ở một làng nhỏ miền núi, cây xanh, nước trong, thuộc huyện
Giang Dân, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Nghiêm Tân có vóc người nhỏ nhắn, dung mạo
bình thường, là con thứ của một gia đình có truyền thống thượng võ. Từ nhỏ Nghiêm Tân đã
yêu thích quyền cước.
Một chuyện kỳ lạ đã đưa Nghiêm Tân đến với khí công. Vào năm bốn tuổi, một hôm
bé Nghiêm Tân đang nô đùa với bọn trẻ trong rừng, bất ngờ gặp một người đàn ông trung
niên. Với một thứ khinh công tột đỉnh, chỉ trong nháy mắt, ông đã biến mất, nhìn khắp bốn bề
đều không thấy bóng hình, như đã bay lên trời cao hay biến vào lòng đất vậy. Thế rồi, chỉ
trong thoáng chốc ông lại đột ngột biến ra, đứng trước bọn trẻ đang ngơ ngác. Bé Nghiêm
Tân nhìn đến ngây người và cứ níu lấy ông đòi học võ. Cuối cùng vị cao thủ võ lâm, ẩn cư
tu thân luyện công nơi núi rừng sâu ấy đã nhận cậu bé bốn tuổi này làm đệ tử. Ông đã cấm
Nghiêm Tân tiết lộ thân thế bí ẩn của mình.
Dưới sự chỉ dẫn của sư phụ, Nghiêm Tân tĩnh tâm học khí công. Ba, bốn năm trôi qua
dần dần cậu bé cảm thấy xương cốt thần kinh và máu thịt trong người như thay đổi hẳn.
Dòng máu trong thân thể Nghiêm Tân như sôi bỏng, hai bàn tay nóng ran rát. Ngày thường
luyện công trong phòng, mắt không chút nhìn xiên, nhưng toàn thân Nghiêm Tân như đã bay
ra khỏi, ra tới cánh đồng quang đãng. Khi nhắm mắt ngưng thần, trước mắt thấy nổi lên lớp
lớp ánh sáng trắng loang loáng. Ánh sáng qua đi, trong đầu hiện ra hình dáng những đồ đạc
bày trong phòng như bàn, ghế, giường tủ v.v không bao lâu lại sinh ra những dải sóng óng
ánh các màu. Sư phụ bảo đó là kết quả do chuyên tâm chú thần công lực đã thăng hoa mà
đạt được.
Năm tám tuổi, nhờ cha thân chinh đến cầu xin, Nghiêm Tân lại được một nhà khí công
lừng danh là Hải Đăng pháp sư, vui lòng truyền dạy bí pháp.
Hải Đăng pháp sư là bậc võ lâm lão tiền bối, võ nghệ tinh sâu, công lực phi phàm và
cực kỳ nghiêm khắc đối với các đệ tử của mình. Theo tông phái của Hải Đăng pháp sư,
Nghiêm Tân nhập môn, nhập đạo, được học tập một cách hoàn chỉnh các môn. Vân thông
khí công, Đạt ma khí công, Thiếu lâm khí công, Thiếu niên tinh quyền, Tỉnh lã là quyền (bao
gồm đường quyền từ thứ năm đến thứ chín của phái Thiếu Lâm). Hình ý quyền, La Hán
quyền, rồi đao thương, kiếm, côn, kích, roi v.v đa ban võ nghệ. Tiếp sau đó, Nghiêm Tân
lần lượt luyện công học nghệ với hơn hai mươi vị sư phụ, họ hoặc là võ lâm đại sư, hoặc là
khí công đằng gia, hoặc là những cao thủ trong người nắm những tuyệt chiêu thần kỳ của chư
gia môn phái. Nghiêm Tân nghiền ngẫm, trau dồi những sở trường, thế mạnh của từng môn
phái và dần dần hình thành công phu đặc sắc độc đáo của bản thân.
Khi luyện công, Nghiêm Tân chọn giờ Tý và giờ Dần theo học thuyết "tý ngọ lưu
chú" trong y học cổ truyền Trung Quốc, vào giờ Tý và giờ Dần, khí huyết trong cơ thể con
người đặc biết thịnh vượng, luyện công vào giờ khắc đó sẽ có thêm tác dụng đòn bẩy.
Nghiêm Tân thường luyện công trong rừng, trên núi, ở những vùng gần mạch nước là những
nơi có địa từ mạnh, mượn ngoại lực của địa từ trường trợ lực, có thể thúc đẩy nội khí tăng
trưởng.
Để đạt tới đỉnh cao trong võ công, Nghiêm Tân ghi lòng tạc dạ giáo huấn của sư phụ,
giữ nghiêm "Thất giới" (tức là bảy điều kiêng kị). Ngoài kiêng rượu, sắc, tài, khí còn kỵ
ngôn (không xuất ngôn hại người), kỵ ngủ (đêm luyện công vào giờ Tý, buổi sáng lại phải
dậy sớm vào giờ Dần để luyện công, rất ít ngủ). Đồng thời Nghiêm Tân quanh năm ăn chay,
kiêng mỡ, lỵ tanh. Năm mười một tuổi, khi nhắm mắt phát công, những vật thể trước mắt nổi
rõ trong đầu với hình khối và màu sắc hoàn toàn giống và rõ như đang mở mắt nhìn. Khi
công phu đã thâm hậu, nhắm mắt phát động, Nghiêm Tân đã có thể thấu thị xuyên suốt cơ thể
con người, không chỉ "thấy được" hình dáng bên ngoài, mà còn "thấy được" cả xương cốt
máu xám, dây thần kinh phát sáng và dòng máu mầu sẫm đang tuần hoàn trong huyết quản.
Năm mười ba tuổi, Nghiêm Tân đã có khả năng phát ra ngoại lực để chữa bệnh cho
con người. Năm đó Nghiêm Tân trở thành học trò của lão y sư Trịnh Bá Chương, một thầy
thuốc có tiếng tăm trong giới đông y Trung Quốc. Năm 1974, Nghiêm Tân thi vào Học viện
y khoa Thành Đô, đi sâu học tập một cách hệ thống kiến thức lý thuyết và thực hành của
Đông y và Tây y. Năm tháng trôi qua, Nghiêm Tân đã tập hợp được trong mình những hiểu
biết y học, võ thuật, khí công và nhiều công năng đặc dị khác, rèn luyện đạt tới một bản lĩnh
kỳ diệu, một tài năng chữa bệnh thần kỳ. Trở thành một thầy thuốc hành nghề giữa dân gian,
ông làm được những kỳ tích con người khó tưởng tượng nổi, được thiên hạ to6ng xưng là
"Thiên phủ thần y, Hoa Đà tái thế".
Khí công chữa bệnh mang đầy sắc thái truyền kỳ, nhưng lại là một sự việc có thật
trong cuộc sống hiện nay ở Trung Quốc, mà Nghiêm Tân là một sự thật sinh động. "Huyền
thoại" về Nghiêm Tân có rất nhiều, chúng tôi xin nêu ở đây một vài câu chuyện "người thật
việc thật".
1. Chữa đau bụng và giải độc
Năm 1978, tại công trường mở rộng nhà ga xe lửa Thành Ðô, một người thợ trẻ đột
ngột bị đau bụng dữ dội, cơn đau dồn dập làm anh ta lăn lộn giãy giụa dưới bùn đất, mồ hôi
lạnh vã ra nhễ nhại. Vừa lúc ấy Nghiêm Tân đi qua, tình cờ nhìn thấy liền bảo học trò là
Trần Bang Vinh lấy một cốc nước, tự tay Nghiêm Tân đưa cho người thợ trẻ, như một
chuyện thần kỳ, sau khi uống hết cốc nước, anh dứt hẳn cơn đau và đứng ngay dậy xúc động
lẩm bẩm: "Hôm nay gặp được Tiên Phật rồi". Thật ra đối với Nghiêm Tân đó là chuyện
bình thường, nước thường hoặc rượu bia, Nghiêm Tân đều có thể dùng để chữa bệnh; thậm
chí chỉ với một nhánh cỏ xanh ven đường, cũng cứu nổi mạng sống con người.
Một ngày năm 1983, có một phụ nữ ở Cẩm Dương, gặp bê bối trong việc gia đình,
nghĩ bế tắc, uống thuốc trừ sâu tự tử, lúc được phát hiện thì đã ở trong tình huống nguy
kịch. Người nhà cuống quít vội đưa chị đi bệnh viện, trên đường thật may vừa đúng gặp
Nghiêm Tân ông liền điểm huyệt và vận khí phát công cấp cứu, chỉ trong phút chốc người
đàn bà ấy nôn thốc nôn tháo, rồi hồi tỉnh dần. Nghiêm Tân nhổ mấy nhánh cỏ xanh ven
đường, dùng tay vò qua rồi bảo người phụ nữ nhai nuốt, chỉ với chừng ấy thôi, đã cứu sống
một mạng người.
2. Chữa gãy xương
Công lực của Nghiêm Tân có thể làm cho xương cốt bị gẫy vụn rồi trở thành lành lặn
như nguyên. Vào khoảng mười giờ sáng ngày 27-4-1984, một công nhân trẻ của nhà máy
thép Trùng Khánh tên là Túc Bình, bị tai nạn giao thông. Chiếu X quang ở bệnh viện cho
biết: Hai xương bả vai bị gãy rời, vỡ vụng, khớp vai phải thoát vị. Một tháng trôi qua, vai
anh ta vẫn không động đậy được, qua kiểm tra, bệnh viện ấy chịu bó tay. Túc Bình được
chuyển tới Viện Nghiên cứu Ðông y Trùng Khánh, xin Nghiêm Tân chữa trị. Nghiêm Tân
lặng lẽ ngồi trước nạn nhân. Hai tay duỗi ngửa từ từ nhập tịnh. Sau mấy nhịp thở sâu, ông
mở miệng: "Hai xương bả vai gãy rời vụn. Chỗ ghép nối ở điểm bên phải xương bả vai
khoảng chừng ba phân bị trệch". Những điều chẩn đoán bằng phát công thấu thị của Nghiêm
Tân hoàn toàn khớp với kết quả chiếu điện quan sau đó. Tiếp đó, những dây băng chằng
chịt quấn chặt lấy thân thể Túc Bình được cởi bỏ hết. Nạn nhân được dìu nằm sấp trên
giường. Nghiêm Tân huy động cả hai tay băm đấm, xoa, bóp mạnh mẽ trên lưng Túc Bình,
làm anh ta có cảm giác buồn buồn, tên tê. Cả một vùng sau lưng mát lạnh. Hai mươi phút
sau, Nghiêm Tân thu hồi công lực, đi thăm bệnh ở các phòng khác. Khoảng nửa giờ sau,
ông quay lại nói với Túc Bình vẫn ngoan ngoãn nằm im trên giường. "Xoay ngửa người
lại". Anh ta sửng sốt nhìn Nghiêm Tân, nghĩ tai mình nghe nhầm, Nghiêm Tân hiểu ý nói
thêm: "Ðừng sợ, cứ làm như là chưa từng bị làm sao ấy". Nghe vậy, Túc Bình lấy sức xoay
mình và nằm ngửa ra một cách dễ dàng. "Bây giờ anh hãy làm mấy động tác giã giò co tay
trên giường!". Như huấn luyện viên đang ra lệnh cho vận động viên của mình. Nghiêm Tân
nói: "Sợ gì nào, anh khỏi hẳn rồi mà!". Túc Bình xúc động quay sấp mình, làm liên năm lần
động tác co tay giã giò. Sau đó, theo lệnh của Nghiêm Tân, anh ta xuống giường, bước ra
cửa, nắm lấy khung cửa làm một mạch ba mươi lần động tác co tay trên xà, còn dùng một
tay nhấc lên vật nặng trên hai mươi cân.
Ngày 10-2-1985, hai bác sĩ Lý Du và Từ Mãn ở quân y viện Tây Nam đã khám lại
cho Túc Bình. Qua kiểm tra X quang và chụp phim, chứng thực vết thương đã lành hẳn,
ngay những chỗ xương bị gãy vụn trước kia cũng không còn để lại dấu vết gì.
Từ đó trở đi, công năng hai vai của Túc Bình đã hồi phục hoàn toàn. Trở lại nhà máy,
những phối kiện thép nặng hàng tạ anh ta lại có thể bấy dịch dễ dàng. Anh có thể dùng sức
vai để nâng vài tạ mà vẫn bình thường.
Gặp những ca gãy xương, Nghiêm Tân chủ yếu dựa vào phát ra ngoại khí để trị liệu.
Hình thức phát công này rất đa dạng. Có lúc phát công ở sát và gần cũng có khi phải phát
công ở cự ly xa, hoặc cách vật cản như bức tường, cây cối cũng có khi lại trực tiếp tiếp
xúc với một bộ phận bị thương tổn của bệnh nhân để phát công.
Cháu Dư Lập Ðộ chín tuổi, là con ông Trần Xương Cung ở nhà máy hoá chất Tứ
Xuyên bị gãy dập ngón tay cái hồi tháng 4-1984. Nghiêm Tân dùng hai bàn tay mình kẹp
chặt lấy ngón tay gãy của cháu rồi phát khí, cháu nói là cảm thấy nóng bỏng từng đợt ở ngón
tay đó, nửa giờ sau, ngón tay cháu khỏi hẳn. Xương ngón tay trở lại lành lặn như nguyên.
Ngày 6-7-1985 anh Dương Diệu Tổ ở Liên hiệp công đoàn thành phố Trùng Khánh bị
gẫy xương bàn tay phải, mu bàn tay sưng to như một chiếc bánh bao, năm ngón tay cứng đờ.
Nghiêm Tân được mời đến. Trước tiên, ông điểm mấy huyệt vì trên người Dương Diệu Tổ.
Diệu Tổ cảm thấy như có dòng điện chạy qua khắp người mình. Sau đó Nghiêm Tân bước
ra phòng ngoài, cách bức tường để phát công vào bệnh nhân, bệnh nhân cảm thấy toàn thân
mình như trôi nổi lên, chỗ bị thương thấy giật giật lên một lúc, rồi không còn thấy đau đớn
nữa. Hai giờ sau vết thương khỏi hẳn. Tay hết sưng và công năng đã hồi phục.
4. Chữa teo cơ
Năm 1984, chị Chu Quế Trân, giáo viên trường tiểu học số hai huyện Mật Vân, ngoại
thành Bắc Kinh bị phong thấp, dẫn đến đau thắt lưng và nhức đầu. Ðùi trái bị teo cơ, hai
chân dưới gần như liệt. Nhiều thầy thuốc Ðông, Tây y nổi tiếng điều trị vẫn không khỏi.
Trong cơn tuyệt vọng, chị viết thư cầu cứu bác sĩ Nghiêm Tân. Sáng 24-5-1986, bác sĩ Tân
đến nhà, vừa hỏi chuyện Quế Trân, vừa ngầm vận khí công chữa bệnh cho chị. Chu Quế
Trân kể lại: "Ðang ngồi nói chuyện, tôi cảm thấy hai vai như có luồng gió thổi qua, rất
lạnh. Tôi gọi người nhà lấy thêm áo mặc. Song bác sĩ Tân bảo: "Ðừng sợ, tôi đang dùng
khí công loại bỏ khí thấp trên người chị". Một lúc sau, nhà tôi thấy cánh tay trái bác sĩ ướt
đầm đìa, còn cánh tay phải hoàn toàn khô ráo, đó là phép "dẫn đạo khí công". Sau đó bác
sĩ Tân bảo tôi vào nằm nghỉ trong gian phòng nhỏ. Mấy phút qua đi, tôi thấy một cảm giác
kỳ lạ, như có luồng điện chạy qua toàn thân, các đốt sống cũng động đậy. Cảm giác đau
lưng mất dần. Tôi ngủ thiếp đi, lúc mở mắt, nhỏm dậy lưng không đau. Xuống khỏi giường
tôi thử vặn người, đá chân, hoạt động thoải mái. Bác sĩ Tân đã phát công chữa bệnh cho tôi
qua bức tường suốt năm giờ liền, từ một đến sáu giờ chiều. Bệnh của tôi đã khỏi hẳn".
5. Chữa hoại tử
Một cán bộ xưởng máy kéo Bắc Ninh bị loại tử xương mắt cá chân, nhiều năm không
đứng, không ngồi được, bệnh viện nói phải tháo khớp. Anh tìm đến Nghiêm Tân. Bác sĩ Tân
bảo bệnh nhân ngâm chân vào một chậu nước, rồi bác sĩ ra chỗ vắng người vận khí công
điều trị. Người bệnh ngồi im lìm như đang ngủ, gần ba giờ sau, Nghiêm Tân quay lại gọi
dậy. Người bệnh trước đây không ngồi nổi mười phút, nay đã ngồi gần ba giờ, sau đó lại đi
ra phố chơi một giờ liền. Bệnh nhân khỏi hẳn như là có phép lạ vậy.
6. Rắn như thép
Cuối năm 1986, Nghiêm Tân sang thăm Nhật Bản, cùng với đoàn đại biểu Hội nghiên
cứu khoa học khí công Trung Quốc, vô tình ông đã tiếp một cuộc khiêu chiến của đồng
nghiệp Nhật Bản, phải đọ khí hết phép và giành thắng lợi, làm thành một giai thoại thời sự.
Hôm đó vào buổi tối ngày 17-11-1986, tại khách sạn Ðại Tân Cốc Tokyo, giới đồng
nghiệp Nhật mở tiệc chiêu đãi các bạn Trung Quốc. Giữa tiệc, ông Kusudu, Chủ tịch Hội
nghiên cứu khoa học khí công của Nhật Bản phàn nàn với trưởng đoàn Trung Quốc Trương
Chấn Hoàn, nỗi khổ do bệnh đau khớp khuỷu tay đã nhiều năm chữa trị nhưng vô hiệu của
mình; ông muốn nhờ một nhà khí công nào trong đoàn Trung Quốc chữa trị giúp. Trương
Chấn Hoàn đã giao nhiệm vụ này cho Nghiêm Tân và đề nghị Nghiêm Tân sẽ nâng năm ly
rượu lên Kusudu. Khi dâng rượu sẽ phát công chữa bệnh. Phương án trị liệu giàu kịch tính
này làm người bạn Nhật Bản rất khoái. Kusudu vốn là bậc lão thành trong giới khí công
Nhật, công lực không phải loại thường. Hơn nữa ông ta tửu lượng hơn người, từng có kỷ
lục tối cao: uống liền mười tám chai rượu mạnh mà không say, có biệt hiệu "Hũ rượu đại".
Khi nhận nhiệm vụ, Nghiêm Tân ngầm phát công lực thăm dò biết rằng, dây chằng khớp của
Kusudu bị tổn thương ở dạng mãn tính (trần cựu), ông rót một ly rượu nhỏ Mao Ðài, dùng
hai tay nângcho Kusudu, Kusudu đứng lên nhậnh lấy, rồi uống một hơi cạn. Lúc Nghiêm
Tân định nâng tiếp ly th hai thì đâu ngờ vị "Hũ rượu đại" này có vẻ chuếch choáng nói:
"Thôi, đổi uống bia", rồi lại đòi chia cốc bia ít nồng độ này thành 4 lần uống, gọi là cho đủ
năm ly. Sau khi Kusudu nhăn nhó uống hết chỗ bia cuối cùng thì kỳ tích lập tức xuất hiện:
với một bộ mặt đỏ gay, Kusudu giơ cao cánh tay đau của mình, co duỗi một lúc rồi vui
sướng nói: "Hết đau rồi, không còn chút đau nào nữa! Công phu của Nghiêm tiên sinh quả
thật cao siêu!". Ông ta là người trong nghề, ông hiểu rằng chỗ rượu ấy đã được Nghiêm Tân
xử lý bằng công lực, chỗ đau nơi khuỷu tay mình cũng đã được Nghiêm Tân phát khí chữa
trị.
Trong giới khí công của Nhật Bản cũng không thiếu những người không tin phục. Một
hôm các đồng nghiệp hai nước Trung - Nhật đang vui vẻ toạ đàm, thì một nhà khí công Nhật
Bản tên là Sukitari, tho6ng qua phiên dịch đề nghị được đấu "khí lực" để phân thắng bại với
Nghiêm Tân. Không hiểu là do không nghe thủng ý của Sukitari hay do không hiểu sâu tính
cách võ sĩ đạo của một số cao thủ trong giới khí công Nhật Bản, mà người phiên dịch sợ khi
chuyển ngữ quá thẳng, làm tổn thương đến tình hữu hảo giữa đôi bên, nên ông đã dịch cho
Nghiêm Tân là để "học hỏi lẫn nhau".
Nghiêm Tân vui vẻ nhận lời, nhưng khi nhìn sang đối phương Nghiên Tân cảm thấy
sững sờ là một người đã luyện công, tập võ hơn ba mươi năm, hơn nữa lại có trong người
những công n ăng đặc dị thần kỳ. Nghiêm TÂn nhận ra ngay "học hỏi lẫn nhau" ở đây bao
hàm ý nghĩa gì. Sang Nhật lần này là một cuộc viếng thăm hữu nghị, Nghiêm Tân không hề
chuẩn bị thi thố, đọ sức với bạn, nay họ đã chiếu thư, mà xem ra không phải là do ngẫu hứng
nhất thời. Vừa rồi mình đã nhận lời, nếu làm thật, Nghiêm Tân tự hiểu công lực của mình có
thể làm tổn thương đến đối phương, thậm chí có thể hủy các lục phủ ngũ tạng, như vậy không
phù hợp với đạo đức trong võ lâm, không lợi cho tình hữu nghị giữa hai nước. Nhìn lại đối
phương, rõ ràng không phải cỡ tầm thường, nếu có sơ suất, hậu quả khôn lường. Ngồi ở chỗ
mình nhìn bên ngoài Nghiêm Tân có vẻ trấn tĩnh khác thường, nhưng trong đầu đã suy tính
cân nhắc nhanh chóng. Sukitari không chút nể nang, lấy thế, vận khí, phát công lực mạnh
nhằm thẳng vào mặt Nghiêm Tân. Mọi người nên hiểu đó là một nhà khí công có hạng của
nước Nhật, châm cứu, điểm huyệt đều vào loại thượng thặng. Khi Sukitari vận đủ đan điền
chi khí phát mạnh công vào Nghiêm Tân, thần lực đó hết sức lợi hại, nhưng Nghiêm Tân
không hề cảm nhận chút nào, vẫn nói cười bình thường với mọi người, thản nhiên như
không.
Thấy luồng khí phủ đầu phát ra không có tác dụng gì, Sukitari liên tục tăng lực phát
công, mồ hồi trên trán vã ra nhưng Nghiêm Tân vẫn ngồi ngay ngắn vững chãi. Thấy không
ổn, Sukitari dùng khí thu công, đề nghị được thay đổi phương hướng phát khí từ sau lưng
Nghiêm Tân, Nghiêm Tân ưng thuận thoải mái. Sukitari lại lấy thế, liên hồi vận khí, nhằm
đúng lưng Nghiêm Tân phát công ác liệt, nhưng vẫn vô hiệu, anh ta ướt đẫm mồ hôi, trong
lòng cảm thấy lạ lắm. Chính diện tấn công không thấy nhúc nhích, phát công từ sau lưng
cũng không thấy nhúc nhích, phát công từ sau lưng cũng không thấy suy chuyển, hay là do cự
ly quá xa? Sukitari liền đến sát bên Nghiêm Tân, áp bàn tay vào lưng ông, vận toàn lực phát
khí, dùng cả cơ cánh tay đẩy mạnh vào lưng Nghiêm Tân. Không ngờ cứ như bị va phải một
hòn đó to, anh ta mệt mỏi thở gấp, mồ hôi vã ra như tắm, mặt đỏ gay. Nghiêm Tân vẫn ngồi
như không có việc gì xảy ra. Sukitari hiểu rằng hôm nay đã gặp phải cao thủ. Nếu như chỉ
dựa vào phát lực khí công và cậy sức húc bừa bãi thì chỉ có thất bại thảm bại. Anh ta đưa
hai tay điểm luôn xuống huyệt Bách hội trên đỉnh đầu Nghiêm Tân. Ðây không phải là trò
đùa, nếu huyệt này bị cao thủ điểm trúng thì chí ít cũng bị ngây ra như gỗ. Nhưng Nghiêm
Tân vẫn vững như Thái Sơn, an toạ bật động, không hề cảm thấy gì khác thường. Lúc này
nhìn bại cục đã định, Sukitari mồ hôi đầm đìa, thở hổn hển, trợn tròn hai mắt, bất ngờ vung
ra đòn hiểm độc cuối cùng, giơ ngón tay bắt mạnh vào động mạch họng của Nghiêm Tân.
Tóm bắt mạch vào động mạch họng là ngón đòn hiểm độc nhất. Người bị bắt trúng nếu
không chết ngay thì sẽ bị tổn thương. Tuy vẫn ngồi yên thản nhiên, nhưng Nghiêm Tân hiểu
rõ tính chất leo thang nâng cấp trong các động tác mà đối phương tung ra. Nhanh như cắt,
khi tay đối phương vung tới, Nghiêm Tân không né tránh, cũng không trả đòn mà ông quay
hẳn đầu lại để cho Sukitari tóm bắt "ngon lành". Kết quả là Nghiêm Tân vẫn bình an. Ðến
nước này, nguyên khí trong người Sukitari mất sạch, chân tay bủn rủn, toàn thân rã rời, mới
biết vị khí công danh sư trước mặt mình này quả là "danh bất hư truyền." Ông ta cúi mình
nhận thua tại chỗ và nói thành khẩn: "Công phu của ngài quả là lợi hại, cao siêu! Xin bái
phục." Rồi gọi người con trai đến, hai cha con cùng khẩn cầu bái Nghiêm Tân là sư phụ.
Cuộc đọ võ hấp dẫn này làm cho người Nhật Bản vô cùng thán phục tài nghệ của Nghiêm
Tân. Kế hoạch dự định sẽ có một cuộc đọ quyền giữa một quyền sư Nhật Bản với Nghiêm
Tân, và một nhà kiếm thuật đọ kiếm với Nghiêm Tân được đối phương chủ động xin rút bỏ.
7. "Tác dụng xúc tác" của ngoại khí đối với các phản ứng hoá học
Ngày 22-12-1986, tổ chức nghiên cứu khoa học khí công Trường Ðại học Thanh Hoa
hợp tác với bác sĩ Nghiêm Tân tiến hành thí nghiệm một tác động của khí công đối với các
phản ứng hoá học. Trên bàn thực nghiệm bằng đá đặt một bình thủy tinh thạch anh, trong
chứa đầy hỗn hợp gồm khí Kyđrô và ôxitcacbon (CO). Trong công nghiệp muốn giữa hỗn
hợp này có phản ứng với nhau, cần có áp suất vài chục át-mốt-phe, độ nóng 300 độ C và
chất xúc tác. Nhưng lúc này trong bình chỉ có áp suất mo6.t át-mốt-phe, cũng không có chất
xúc tác, nhiệt đo6. trong phòng là 13 độ C. Sau khi Nghiêm Tân phát cường công, một vị
giáo sư đem bình đến đo ở máy quang phổ hồng ngoại. Qua máy tính xử lý, phổ đồ hiện trên
màn hình huỳnh quang ti-vi màu, cho thấy trong bình đã xuất hiện hoá chất mới, phản ứng
hoá học đã xảy ra dưới tác dụng của khí công. Mấy vị giáo sư, chuyên gia có mặt trong
phòng đều công nhận thí nghiệm thành công, không phải tà thuật, phương pháp thí nghiệm
chặt chẽ: người chỉ huy và người phát khí công đều không trực tiếp tham gia chuẩn bị vật
thử và đo đạc.
Ngày 27-12-1986, thí nghiệm trên được lập lại, chỉ khác là Nghiêm Tân phát công từ
một nơi cách phòng thí nghiệm bảy ki lô mét. Ðịa điểm thí nghiệm cũng khác nhau. Một máy
lade trong phòng thí nghiệm lade, một nước và khí hỗn hợp trong một buồng tối. Kết quả
chứng tỏ phát công điều khiển từ xa, không những có thể lặp lại kết quả thí nghiệm lần đầu,
mà hiệu quả còn tốt hơn.
8. Làm thay đổi cấu tạo phân tử, tế bào
Ngoài ra, Nghiêm Tân còn phát công ở những khoảng cách khác nhau, vào một loại
vật chất có khoảng cách khác nhau, vào một loại vật chất có hiệu ứng sinh lý như nước muối
sinh lý (physiological saline, normal saline) dung dịch gluco. Khoảng cách thực nghiệm từ
vài mét tới vài chục mét, từ vài ki lô mét tới hai trăm ki lô mét. Trong không đầy một tháng
đã tiến hành 10 cuộc thí nghiệm vào bảy, tám loại vật chất khác nhau. Lần thí nghiệm lớn
nhất có gần hai mươi vị giáo sư, giảng sư, nghiên cứu sinh tham gia, huy động bảy máy phân
tích cỡ lớn. Một loạt thí nghiệm đó chứng tỏ "ngoại khí" do nhà khí công phát ra để làm
thay đổi rõ rệt kết cấu phân tử của axit nucleic tế bào, có thể tác động tới nhiều loại phân tử
vật chất tạo nên tế bào. Đó là một trong những nguyên nhân khiến khí công chữa khỏi bệnh.
Hơn ba mươi năm tu thân luyện công, hơn ba mươi năm hành y chữa bệnh, với y thuật
thần kỳ và y hiệu như thần thoại của mình. Nghiêm Tân đã để lại nhiều "câu đố" không thể
giải thích nổi.
Tuy có công lực thâm hậu, thần diệu nhưng Nghiêm Tân không phải là thần tiên,
không thể chữa trị được bách bệnh. Ông đã nhiều lần nói, những cao thủ có bản lĩnh tuyệt
đỉnh không thiếu gì trong dân gian. Ông vẫn phải tiếp tục tầm sư học đạo, tinh luyện công
lực. Đồng thời Nghiêm Tân cho rằng khí công cao cấp và những công năng đặc dị không
phải là thứ gì thần bí siêu hình. Con người có chừng mười bốn tỷ tế bào đại não, thông
thường mới chỉ sử dụng độ hơn một triệu tế bào, còn tuyệt đại đa số các tế bào não được
tồn chứa một cách lặng lẽ, vô dụng. Ông mới luyện công được mấy chục năm, cùng lắm
cũng chỉ mới khai thác thêm được một phần rất nhỏ nữa trong sự tàng trữ khổng lồ ấỵ Luyện
công lực như vậy còn rất xa mới tới được đá sâu của công phu, có luyệt suốt đời cũng
không tới nổi sự tận cùng của tiềm năng con người.
Các dạng năng lượng đặc biệt khác thường (hay còn gọi là công năng đặc biệt khác
thường) mà Nghiêm Tân có thể bức xạ mỗi khi "phát công" còn là một thế giới đầy bí ẩn đối
với mỗi chúng ta. Ở đầy các dạng bức xạ năng lượng của khí công và trường sinh học (hào
quang sinh học, chất plasma học) có mối liên quan nào chăng? Phải chăng tập khí công có
thể khai thát được những năng lượng sinh học tiềm ẩn trong mỗi con người - Năng lượng
trường sinh học?
Giải đáp được vấn đề này thật không dễ dàng, chúng ta tin rằng, rồi đây một ngành
khoa học mới sẽ ra đời nghành khoa học của thế kỷ 21 sẽ giúp ta hiểu sâu về những khả
năng của chính bản thân mình.
Nhà khí công và võ sĩ quyền anh
Cuối năm 1985, công chúng yêu võ thuật của thành phố New York (Mỹ) đã chứng
kiến một cảnh tượng kỳ lạ: võ sĩ quyền anh "tầm cỡ" Mỹ đã xin "chào thua" nhà khí công
nhỏ bé Trung Quốc, khi trận đấu võ chưa bắt đầu. Một ngày giá lạnh sau lễ Nô-en, thầy trò
Hải Đăng và Phạm Ứng Liên (trong đòan đại biểu điện ảnh Trung Quốc đang thăm ở Mỹ)
đã biểu diễn những đường võ kỳ tài, trước ống kính các máy quay, máy ghi và khán giả đặc
kín nhà hát New York. Khán giả yêu võ thuật vô cùng kinh ngạc và thán phục hai bậc võ sư
Châu Á nhỏ bé nhưng đầy tài năng này. Sau nhiều lần cúi đầu đáp lễ giữa tiếng vỗ tay
không dứt của khán giả, Phạm Ứng Liên đang chuẩn bị bước xuống, thì một thanh niên da
trắng lực lưỡng, cao hơn Liên hẳn một cái đầu, bước lên sân khấu đầy tự tin, yêu cầu được
đấu võ tại trận với anh.
Đây là một quyền sư dạy võ, ở một lò võ lớn bản xứ, tên anh ta là Mai-cơn, không
chỉ là một võ sĩ quyền anh tầm cỡ, từng có kỷ lục hạ đo ván đối thủ ngay đòn đầu tiên, anh
còn lắm được nhiều môn võ công nước ngoài như: nhu đạo, không thủ đạo, Karate ngoài
ra anh đã từng bỏ ra hai năm để nghiên cứu môn phái "Vịnh xuân quyền" của Trung Quốc.
Qua phiên dịch, Phạm Ứng Liên n'i với Mai-cơn "Anh có thể dùng quyền cước hay
gậy gộc công kích vào bất kỳ vào bộ phận nào trên thân thể tôi, trừ bộ hạ và phần đầu. Tôi
sẽ không tránh né cũng không phản kích. Nếu anh có thể đánh đổ được tôi, chúng ta sẽ đấu
võ với nhau. Nếu không tôi xin được đáp lễ anh một quyền. Tất nhiên như "ngài" muốn, thì
tôi cũng sẽ vui lòng miễn bỏ quyền ấy."
"Ồ" Mai-cơn cười nhạt. Sau một phút ngưng thần, anh ta vận đủ khí lực và nhằm
đúng vào vùng tim Phạm Ứng Liên ra luôn một đòn "Hắc hổ moi tim". "Đùng", tiếng chạm
đòn vang như trống dậy. Trong tiếng ồn kinh hãi của khán giả, Phạm Ứng Liên vẫn vững
chãi đứng đó, vẻ mặt không chút thay đổi. Mai-cơn quay lại nháy mắt với khán giả, giơ quả
đấm lên nhìn một cách hài hước. Tiếp đó anh ta vung quyền cực mạnh đấm tới tấp vào
ngực, bụng, lưng, và phần sườn Phạm Ứng Liên. Nghe tiếng đòn "đùng đùng" ghê rợn đó,
những khán giả nhát gan, phải nhắm mắt quay đi. Thấy Phạm Ứng Liên vẫn thản nhiên mỉm
cười tươi tắn, Mai-cơn liền sử dụng cước pháp Karate, liên tiếp phóng ra những cú đá dữ
dằn vào vùng lá lách anh.
Cả một trận quyền cước hùng hổ ấy làm anh chàng Mai-cơn vạm vỡ mệt lử, thở dồn
dập. Song, bên bị đòn thì vẫn mỉm cười, bình an như không có việc gì xảy ra cả.
Thấy Mai-cơn không muốn tấn công tiếp, người phiên dịch nhắc nhở: "Hình như bây
giờ đến lượt ngài Phạm Ứng Liên xuất chưởng?" Mai-cơn thót mình, lắc đầu lia lịa:
"Không, không ", rồi bắt chước thói quen của các võ sư phương Đông, anh ta khoanh tay
cúi chào và nói giọng kính phục: "Võ nghệ của ngài thật là lợi hại, thật là cao siêu". Anh ta
còn để lại danh thiếp cho Phạm Ứng Liên, rồi mới bước xuống sân khấu.
Đây là một thực tế khách quan, chúng ta thừa nhận mà chưa hề giải thích được cơ chế
của hiện tượng này.
Thò tay vào vạc dầu sôi
Vào tháng tư năm 1987, có một buổi biểu diễn ca múa nhạc tại phòng ca múa "Quý
Tân" của một khách sạn ở thành phố Ngũ Dương (Quảng Châu, Trung Quốc); đang lúc sôi
nổi thì người phụ nữ chủ trì buổi diễn bước ra tuyên bố: " Sau đây là một tiết mục độc
đáo: tiên sinh Lương Chính Long từ Hồng Kông tới, sẽ biểu diễn "Nhiệt ứng công"."
Người ta khiêng ra một chiếc vạc lớn, đường kính tới hơn một mét. Vạc được đặt
trên một lò lửa đang cháy rừng rực. Trong vạc, dầu đang sôi, một người vứt vào trong vạc
dầu hai, ba mảnh tôn, lập tức những mảnh tôn theo dầu sôi sùng sục, nổi chìm lên xuống.
Có thể thấy rõ là nhiệt độ dầu đang rất cao.
Lương Chính Long bước ra, râu dài, tóc dài, vai khoác một chiếc áo choàng mầu
vàng, chân đi giầy vải đen - trang phục của võ phái; ông đứng trước vạt dầu, tĩnh tâm, tĩnh
khí, ngưng thân một lát, vận công phát lực, khí theo ý chuyển, hai tay phát động vài chiêu
thức như chim ưng vồ mồi, rồi hét lên một tiếng "hây", tay phải thọc thẳng vào vạc dầu sôi,
trong khoảnh khắc vớt ra một thanh dùi sắt dài chừng một mét, vứt trên mặt đất. Mọi người
vừa thán phục vừa kinh ngạc. Sau đó, mọi người đứng vây quanh Lương Chính Long để
quan sát chuyện trò với ông. Người ta chỉ thấy bàn tay phải của ông hơi to hơn bàn tay trái,
sau khi vớt vật từ tron dầu sôi ra, da tay phải hơi hồng lên một chút. Ngoài ra không có gì
khác cả.
Lương Chính Long chỉ vào cái đai thắt chặt trên cổ tay và nói: "Thường chỉ sau khi
biểu diễn xong, tôi phải toạ công ngay để phát tán hết nhiệt độc. Nhưng lần này, vì không
toạ công ngay được, nên tôi phải thắt cái đai này phòng nhiệt độc vào tim."
Người thường bị bỏng thì da phồng rộp lên và mọng nước, nhưng Lương Chính Long
sau bảy ngày chỉ bong đi một lớp da mỏng. Sau mười lăm ngày, lại tiến hành biểu diễn
được.
Khỉ hỏi ông về biệt tài này, Lương tiên sinh kể: "Công phu này gọi là Nhiệt ứng
công, thuộc vê nội ngạnh công của Thiếu lâm bắc phái. Trong Thiếu lâm Đạt ma quyền có
hai môn "Ứng trảo công" là Nhiệt công và Lãnh ưng".
Luyện "Nhiệt ứng công" thì tay phải tẩm luyện trong cát nóng, nước nóng. Khi vận
động, kinh lực tập trung vào một tay, nhiệt phát tán từ tay có thể nâng cao nhiệt độ của một
gầu nước lạnh.
Luyện "Lãnh ưng công" thì tay phải tẩm luyện trong một khối băng, nếu công phu
thành công thì có th ể làm cho nhiệt độ bồn nước hạ thấp xuống.
Thuở đó, Lương Chính Long sống ở Quảng Châu, ngày ngày đi học phải đi qua một
ngõ nhỏ. Lương phát hiện ra một ông già ngày ngày luyện công không hề ngưng nghỉ. Thấy
thích thú, Lương ngày nào cũng tới xem ông tập, thế là hai người trở thành sư phụ và đệ tử.
Lương Chính Long bắt đầu luyện công từ ngày đó, tới nay đã hơn hai mươi ba năm.
Năm năm đầu tập luyện công phu cơ bản, sau đó luyện "tháp sa" (cắm tay trong cát
được hung nóng). Hai năm sau, luyện tập lấy vật từ nước sôi, sau đó lấy vật từ trong dầu
sôi. Hơn hai mươi năm đã tro6i qua, sư phụ họ Đàm đã tạ thế, nhưng Lương Chính Long
vẫn ngày ngày luyện tập công phu không hề ngưng nghỉ.
Lương Chính Long còn biểu diễn, lấy dùi nung đỏ từ trong lò than đá của xưởng luyện
gang thép. Đạo diễn vô tuyến truyền hình hôm ấy lấy ngay nhiệt kế giới hạn 400 độ C đo
nhiệt nhiệt độ lò than, nhưng nhiệt kế nổ ngay. Ngoài ra, thỉnh thoảng Lương Chính Long
còn biểu diễn công phu tay không bóp vụn hai mươi bốn chiếc thìa.
Thời gian gần đây, ngoài những yêu cầu biểu diễn hoặc đóng phim ở trong nước,
Lương Chính Long cũng đã được mời đi biểu diễn công phu ở nhiều nước trên thế giới.
Một cuốn sách xuất bản cuối năm 1984 ở Mỹ với tựa đề "Thế giới kiện học sĩ đại
toàn", ghi chép các kỷ lục công phu của các kỳ nhân, cũng ghi nhận công phu "Nhiệt ứng
công" của Lương Chính Long. Sách ghi nhận "Công phu này có thể đương đầu với nhiệt độ
1300 độ C".
PHẦN II: CÁC HIỆN TƯỢNG TRƯỜNG SINH HỌC
Các hiện tượng mang tính thông tin
Cô bé có khả năng tiếp xúc với sinh vật ngoài trái đất
Người phụ nữ có khả năng nhìn xuyên suốt cơ thể người khác
Nhà tiên tri huyền bí
Vanga - Nhà tiên tri tài ba
Những người có thể thấy được tương lai
Nhìn bằng tai
Xem bói bằng gương
Người có đôi tay thần
Kính hiển vi sống
Người có cặp mắt thần
Nhìn bằng da
Các hiện tượng mang tính năng lượng
Người nam châm
Thỏi nam châm sống
Cô bé từ trường
Người phát điện
Tia chớp trong phòng
Người tàng hình
Cô bé phóng lửa
Cậu bé bốc cháy
Phương pháp chữa bệnh kỳ lạ của bác sĩ A-na-tô-li Ca-spi-rốp-ki
Các hiện tượng mang tính thông tin năng lượng trường sinh học
Bàn tay có khả năng kỳ diệu
Cô phù thủy mắt xanh
Ðôi bàn tay của thiên thần
Khả năng kỳ lạ của đôi bàn tay
Ðôi tay có phép màu
Chữa bệnh qua điện thoại
Con người với khả năng kỳ lạ
Bàn tay kỳ diệu của Nina Kirianôva
Trí nhớ kỳ diệu
Cô bé có khả năng tiếp xúc với sinh vật ngoài trái đất
Bé gái Theodora, mười ba tuổi đang sống êm đềm với gia đình, ở một làng nhỏ gần
thành phố Shoumen (Bungari), thì bỗng một hiện tượng lạ lùng xảy ra làm đảo lộn tất cả.
Lần thứ nhất vào một ngày tháng 2-1988, vườn cây cùng ngôi nhà của bé ở đều rung
chuyển. Lần thứ hai xảy ra vào một năm sau, lần này rung động mạnh hơn và đồ đạc trong
nhà tự dưng di chuyển một cách đáng kinh ngạc. Hiện tượng rung động xảy ra, làm mọi
người trong gia đình Theodora đều vô cùng sợ hãi, riêng Theodora thì gần như khiếp đảm
và từ đó cô thường bị khủng hoảng thần kinh. Khi cơn khủng hoảng qua đi, cô bé thường kể
về những hiện tượng kỳ lạ.
Bé Theodora kể rằng: cô đã nhìn thấy nhiều sinh vật lạ lùng từ một hành tinh xa xăm
trong vũ trụ đến viếng thăm trái đất và đã đột ngột đi vào nhà bé. Chính Theodora đã nhìn
thấy họ thật rõ ràng. Đó là những sinh vật nom thật kỳ dị, họ là những cư dân ngoài trái đất,
có đời sống cao và có nền văn minh hơn hẳn con người trên trái đất. Họ có khả năng di
chuyển rất nhanh và rất xa bằng tốc độ ánh sáng. Đặc biệt chỉ có Theodora là có thể tiếp
xúc và nhìn thấy những sinh vật này. Bé cho biết: họ có nhiều thể dạng, có sinh vật giống
người, tuy nhiên người đẹp thì thật đẹp, như thiên thần trong các huyền thoại. Có người thật
xấu, có những sinh vật trông thật dữ tợn, như ác quỷ hiện hình.
Hiện tượng kỳ lạ về bé Theodora đã lan truyền khắp nước Bungari, gần như tất cả
mọi người, nhất là giới y học rất quan tâm. Riêng cô bé Theodora, thì sau mỗi lần tiếp xúc
với các sinh vật ngoài trái đất, càng có nhiều cử chỉ khác lạ, có lúc cô bé lo lắng sợ sệt, có
lúc bé lại rất sáng suốt, bình tĩnh, diễn đạt các vấn đề rất trôi chảy, mạch lạc. Sự hiểu biết
của cô bé hình như ngày càng phát triển tốt hơn. Các bác sĩ thần kinh và các nhà tâm lý học
Bungari đã tiến hành nhiều cuộc tiếp xúc khám bệnh cho Theodora, đều khẳng định: cô bé
không bị bệnh tật hoặc một bệnh tâm thần nào cả.
Nhà nghiên cứu các hiện tượng vũ trụ Valentin Phomenko (Liên Xô) đã được các nhà
bác học Bungari mời sang đê/ tìm hiểu hiện tượng bé Theodora. Sau khi tiếp xúc với cô
bé, nhà nghiên cứu hiện tượng vũ trụ Liên Xô đã cho báo chí biết rằng: "Quả thật, đây là
người có khả năng tiếp xúc và nhìn thấy các hiện tượng, các sinh vật lạ của vũ trụ mà những
người khác trên quả đất không có được". Theo Valentin thì cô bé Theodora có khả năng
lớn lao về thần giao cách cảm, nên cô bé có thể đi vào trong một thế giới không phải ba
chiều như của loài người trên trái đất, mà là bốn chiều.
Thần giao cách cảm là sự giác cảm về mặt tâm lý hay còn goại là Telepathy hoặc
Télépathie. Đó là khả năng mà con người có thể thu nhận được các thông tin ở rất xa, bằng
một giác quan nào đó.
Hiện này, phần lớn các nhà khoa học đã công nhận thần giao cách cảm là một hiện
tượng thật, do một giác quan có thể gọi là giác quan thứ sáu cảm nhận.
Theo các nhà nghiên cứu về thần giao cách cảm thì chính cô bé Theodora có giác
quan "thứ sáu" ấy. Cơ thể cô bé có được một trường sinh học đặc biệt, nên cô có khả năng
thu nhận thông tin tư duy từ xa, giống như một máy thu vô tuyến điện vô cùng nhạy. Theo
B.B. Kadinski thì sóng điện từ, có kèm theo các hình ảnh của tư duy từ não người phát ra,
để đi đến tế bào vỏ não của người nhận, có khả năng xuyên qua các trở ngại: không khí, gỗ,
nước, kim loại và đi được khoảng cách rất xa.
Nhờ thần giao cách cảm mà Theodora có thể xuất hiện được trong không gian bốn
chiều và nhìn thấy, tiếp xúc được với các sinh vật ngoài trái đất như cô bé mô tả.
Như trên đã nói, nhà nghiên cứu những kỳ bí của vũ trụ Valentin Phomenko đã cho
rằng: Cô bé Theodora có khả năng lớn lao về thần giao cách cảm, nên có thể đi vào trong
thế giới không gian bốn chiều, trong khi loài người hiện đang sống trong một thế giới không
gian ba chiều (chiều dài, chiều rộng và chiều cao). Chính nhờ cái chiều thứ tư, mà cô bé
được những diễn biến khác thường của những quá trình vật lý mới, mà con người trên trái
đất chúng ta không có được.
Chúng ta biết rằng, thế giới ba chiều của chúng ta gồm ba chiều cơ bản: chiều dài,
chiều rộng, và chiều cao vuông góc với nhau. Còn không gian bốn chiều thì ngoài ba chiều
cơ bản trên, còn có chiều nữa, chiều này vuông góc với cả ba chiều trên sẽ tạo ra một không
gian bốn chiều. Chiều vuông góc với cả ba chiều trên được gọi là chiều thứ tư.
Trong các chuyện khoa học viễn tưởng, đã viết rất nhiều câu chuyện liên quan đến
chiều thứ tư. Đó là những hiện tượng kỳ diệu, về những khả năng di chuyển trong không
gian theo kiểu "cân đẩu vân", như trong chuyện Tề Thên đại thánh có thể vượt hàng vạn
dặm, hoặc xa hơn nữa, có thể vượt luôn cả hàng trăm triệu năm ánh sáng. Theo tưởng tượng
của các nhà văn viễn tưởng, thì điều này có thể được thực hiện chỉ trong thế giới không gian
bốn chiều.
Giả sử rằng, nếu có một không gian bốn chiều bao lấy không gian ba chiều của chúng
ta, thì muốn vượt qua một khoảng cách xa xăm vô cùng tận, con người không cần phải đo
vòng vo, mà có thể đạt tới đích thật mau, bằng cách tiến vào "cái khe hở" của chiều thứ tư.
Khe hở này chính là biên giới ngăn cách hai thế giới (không gian ba chiều và không gian
bốn chiều). Để dễ hiểu hơn, chúng ta hãy tưởng tượng rằng, có các sinh vật sống ở thế giới
hai chiều.
Thế giới của chúng chỉ có chiều dài và chiều rộng. Như thế, chúng chỉ có thể di
chuyển, hoạt động trong một mặt phẳng. Chúnc không thể bước ra ngoài mặt phẳng và tiến
vào chiều thứ ba như chúng ta được. Do đó, những sinh vật hai chiều không biết gì về sinh
vật ba chiều, một thế giới khác với thế giới hai chiều của chúng. Có thể một lý do nào đó,
đôi khi sinh vật hai chiều "có thể đạt được những điều kỳ bí" như khi chúng muốn di chuyển
từ M đến N, qua một khoảng vô cùng xa và đạt tới đích thì phải trải qua hàng chục năm
chẳng hạn. Nhưng vì một lý do nào đó, mặt phẳng (không gian hai chiều) bị cong lại trong
không gian ba chiều, nên điểm M bây giờ gần điểm N, hoặc trùng với N. Lúc đó, sinh vật
hai chiều sẽ đạt tới đích trong nháy mắt.
Từ lý luận và tưởng tượng trên, chúng ta hãy nghĩ đến không gian bốn chiều. Nếu thế
giới ba chiều vì một lý do nào đó có sự cong đi (thuyết tương đối tổng quát cho biết là thế
giới của chúng ta thực sự bị cong) thì tình trạng tưởng tượng như đã thấy khi mặt phẳng
(không gian hai chiều) bị cong, khi đó từ không gian ba chiều, có thể có những sinh vật có
khả năng đi vào chiều thứ tư và cô bé Theodora là một thí dụ điển hình. Theo Cô-ma-côp
thì chỉ có vật lý tương lai tổng quá, mới có khả năng giải thích được hiện tượng kỳ lạ và bí
ẩn và trường hợp cô bé Theodora.
Khoa học ngày này mới chỉ ở bước nghiên cứu. Chúng ta tin rằng trong một tương lai
không xa, với sự tiến bộ của nhiều ngành khoa học đặc biệt là ngành vật lý điện tử, tin học,
vũ trụ, sinh học con người sẽ hiểu rõ được hiện tượng kỳ lạ của Theodora.
Người phụ nữ có khả năng nhìn xuyên suốt cơ thể người khác
Năm 1978, ở thành phố Donetsk thuộc Ucraina (Liên Xô) một dây cáp điện 380 Vôn
bị đứt, đã gây tai nạn cho một nữ công nhân ba mươi bảy tuổi, tên là Yulia Vorobiova.
Suốt hai giờ liền các thầy thuốc ở trạm y tế cố gắng cứu chữa nạn nhân, nhưng vô ích
Sự cố xảy ra hôm thứ bảy, thứ hai tuần sau, một giáo sư thuộc Viện y học đưa một
nhóm sinh viên đến nhà xác. Một sinh viên đến bên cạnh nạn nhân coi như đã chết hẳn,
bỗng thấy chị ta cử động, và chị được đưa ngay vào bệnh viện. Sau hai tuần lễ, chị hồi tỉnh,
rồi nói được, nhưng hai tháng sau đó, chị thấy đau đớn kinh khủng. Chị kể lại: "Sáu tháng
liền tôi không ngủ được. Hình như có cái gì luôn luôn cựa quậy trong đầu tối, cứ loé lên và
nhức nhối ghê gớm trong tế bào của tôi".
Tất cả mọi sự chăm sóc và thuốc men đều vô hiệu. Chị xin được ra viện và hy vọng
về nhà mình chị sẽ ngủ được. Hy vọng đó đã thành sự thật. Chị ngủ ngon giấc và dần dần
bình phục. Chính lúc chị bình phục, đã xảy ra một việc làm đảo lộn mọi quan niệm cũ của
chị về thực tại. Chị kể: "Một buổi sáng tôi ra cửa hàng mua thịt, tại bến xe, có một phụ nữ
đang đứng chờ xe. Tôi lại gần quan sát chị ta và kinh khủng quá, hình như tôi đã nhìn
xuyên qua thân thể chị ta. Không, không, còn hình như gì nữa, tôi hoàn toàn nhìn thấy qua
lớp quần áo và lớp da, tất cả ruột gan của chị với những chi tiếg nhỏ nhất. Bây giờ tôi đã
quen rồi, nhưng hồi đó, thì tôi cứ tưởng như mình hoá điên".
Câu chuyện này, tôi mới trực tiếp nghe kể lại năm 1987, nhưng trước đây, những
người tôi quen đã cho tôi biết, ở vùng Dobasa có một phụ nữ chỉ nhìn người bệnh một lần,
cũng có thể đoán được mọi thứ bệnh trong cơ thể. Tất nhiên là thoạt đầu tôi không tin, và
tôi quan tâm tìm hiểu sự việc bằng cách đến tận nơi. Yulia vẫn ở Donetsk trong một căn
nhà ba phòng với hai con, một trai, một gái đều là sinh viên. Đó là một phụ nữ tầm vóc
trung bình, tóc sáng, mắt nâu, da không bóng. Thấy tôi, chị nhã nhặn hỏi:
- Anh vu lòng để tôi nói rõ sáng nay anh đã dùng gì rồi chứ?
- Tất nhiên - Tôi thích thú đáp, và tin rằng mình sẽ được cuộc vì sáng nay vội quá tôi
chưa ăn gì.
- Anh đã uống một thứ nước đo đỏ, chắc là nước bột hoa quả.
Tôi sửng sốt. Quả là tôi vừa uống hai ly ở khách sạn. Tôi liền đề nghị được phép
xem chị khám bệnh. Chị trả lời là không nhậnh bệnh nhân bao giờ. Hàng nghìn người tìm
cách nhờ chị giúp đỡ, có người đến tận nhà, có người viết thư cầu mong chị cứu họ "thoát
khỏi tình thế hiểm nghèo". Chị buộc phải từ chối: "Tôi không phải là thầy thuốc, mà chỉ có
một ít kiến thức thô điển về y học mà tôi học lỏm được ".
Luồng điện đã làm chị bị mất sức một cách nghiêm trọng. Đặc biệt là những lúc thay
đổi thời tiết. Chị thấy rất khó chịu và đau mình kinh khủng. Tuy vậy, chị vẫn phải tiếp
những người bệnh bám dai nhất.
Với một phụ nữ từ xa đến, chị bảo ngay:
- Chị không có bệnh gì đáng kể đâu, không cần uống nhiều thuốc như vậy. Chẳng qua
là vì cuộc sống thiếu vận động, làm cho cặn Ural đọng lại trong cơ thể. Không nên tự buông
lỏng mình, cần hoạt động tích cực hơn, chỉ có thế thôi.
Khám một người bệnh khác, một người đàn ông đứng tuổi, chỉ sau không đầy một
phút, chị nói:
- Anh bị sưng lá lách. Hôm qua anh đã uống rượu. Anh không được uống vốtka,
rượu vang. Tuyệt đối không được uống các thứ đó.
Tôi đã đi hỏi các thầy thuốc trong thành phố và được biết rằng họ rất coi trọng hiện
tượng Vorobiova. Bác sĩ S.Selderova tuyền bố: "Yulia là một hiện tượng có một không
hai. Chị đã không đoán nhầm một hiện tượng nào. Chị đặc biệt quan tâm tới trẻ em và
không bao giờ nhận tiền thù lao, mặc dù chị chỉ có một khoản trợ cấp nhỏ để sống".
ỴEidvertine, bác sĩ trưởng bệnh viện số chín của thành phố công nhận: "Vorobiova
đoán bệnh rất chính ax'c. Chị bảo mắt phải của tôi không nhìn rõ bằng mắt trái (từ trước tôi
không để ý đến điều này), tai phải của tôi nghe tốt hơn tai trái (đúng là tôi đã bị chấn
thương trong một lần bơi dưới biển).
Praskovia P. ở cạnh nhà Vorobiova kể lại:
- Một hôm, tôi thấy khó chịu. Đội cấp cứu tới, các thầy thuốc nghi tôi bị nhồi máu cơ
tim, thức chăm sóc tôi suốt sáu giờ, tôi bèn yêu cầu Vorobiova đến khám. Chị tới, nhìn tôi
và nói: "Không phải nhồi máu cơ tim mà là co giật chỗ ống thực quản gặp dạ dày". Điều
đó đã được xác nhận.
Phép lạ chăng? Chúng ta là những nhà duy vật. Chúng ta có thể giải thích hiện tượng
Vorobiova được không? Trả lời câu hỏi của tôi, I. Taranenco, giáo sư giảng dạy tại Viện Y
học Donetsk nói: "Tôi nghĩ rằng người ta có thể giải thích hiện tượng này bằng tác động
của luồng điện vào bộ não con người, làm cho nó có khả năng tiếp nhận bức xa tia hồng
ngoại của các bộ phận trong cơ thể".
Nhà tiên tri huyền bí
Chúng ta đã được nghe nhiều chuyện về các nhà tiên tri thần bí của các thế kỷ trước.
Bí quyết nào đã giúp các nhà tiên tri dự đoán được trước tương lai của một con người, một
đất nước, một dân tộc, thậm chí cả những biến đổi lớn lao trên hành tinh của chúng ta. Điều
này chưa biết ai có thể lý giải được. Chúng ta chỉ có thể giả thiết, đó là những con người
có tri giác "ngoại cảm siêu đặc biệt" xuyên suốt thời gian, không gian để nhận biết tương
lai. Ở nhiều nước trên thế giới, từ lâu người ta đã thừa nhận sự tri giác ngoại cảm là một
hiện tượng khoa học có thật. Hiện nay có nhiều trường đại học ở một số nước đang tiến
hành nghiên cứu hiện tượng kỳ lạ này. Còn đây là câu chuyện về nhà "đại tiên tri" của nước
Pháp thế kỷ thứ XVI: Mise Noch Dama, làm nghề thầy thuốc tại gia, nhưng ông rất quan
tâm đến lịch sử, triết học, tôn giáo và đặc biệt là chiêm tinh học. Nhà tiên tri đã bỏ bốn
năm ghi lại toàn bộ những thành quả nghiên cứu của mình trong cuốn "Các thế kỷ". Cuốn
sách gồm mười hai tập, mỗi tập gồm một trăm bài thơ tứ tuyệt. Vì những bài thơ này đều là
những bài thơ dự đoán về tương lai, nên còn goại là "thơ tiên tri".
Mở cuốn "Các thế kỷ" ra, mỗi một bài thơ làm cho người ta kinh ngạc: mặc dù ở thế
kỷ XVI, nhưng vị thầy thuốc đã tiên đoán những sự kiện của thế kỷ XX, chẳng hạn:
"Một đảng lớn chinh phục hai bờ sông Danube
Chu8~ thập ngoặc là biểu tượng cu/a tử thần"
(Chiến tranh thế giới thứ hai, phát xít Đức đã từng xưng hùng xưng bá ở châu Âu, và
biểu tượng của chúng là "chữ thập ngoặc").
Chưa xong trận, ba chàng khổng lồ đã ăn mừng chiến thắng.
Mục tiêu tiến công chỉ còn lại một mặt trời.
(Liên Xô - Anh - Mỹ đã đánh bại phát xít Đức ở châu Âu, chỉ còn lại Nhật Bản đất
nước mặt trời).
Nữ nhi bay vào vũ trụ
Và không lâu sau vị quốc trưởng qua đời
(Tháng 7-1963, Liên Xô phóng con tàu vũ trụ mang theo nhà nữ phi công vũ trụ và
tháng 11 năm đó tổng thống Mỹ Kenedy bị ám sát).
Mấy câu thơ trên chỉ là những ví dụ đơn giản. Ngoài ra việc xuất hiện ôtô, máy bay,
quân đồng minh đổ bộ lên vùng NOrmadic (miền Bắc nước Pháp); Mussolini bị bêu xác
trên đường phố, bom nguyên tử buộc Nhật Bản phải đầu hàng trong chiến tranh thế giới lần
thứ hai đều được nêu trong những bài thơ của vị thầy thuốc kỳ lạ đó. Trong đó, điều
người ta vô cùng ngạc nhiên là tên của Phrancô hoàn toàn đúng, còn tên của Hitle chỉ sai