SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG THPT CHUYÊN
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
MÔN VĂN
Đề tài:
TÌNH HUỐNG TRUYỆN TRONG TÁC PHẨM
" CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA"
Người thực hiện : Nguyễn Thị Bích Dậu
Trường : THPT Chuyên Thái Nguyên
THÁI NGUYÊN - 2012
2
MỤC LỤC
3
A. MỞ ĐẦU
I.Tính cấp thiết của đề tài
Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu
mới được đưa vào giảng dạy ở chương trình ngữ văn lớp 12. Đây là một trong
những tác phẩm mới tiêu biểu cho các sáng tác văn học sau 1975. Đồng thời,
nó cũng là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của Nguyễn Minh
Châu sau thời kì kháng chiến chống Mĩ. Vì vậy, việc dạy học tác phẩm này
trong nhà trường như thế nào còn gặp rất nhiều khó khăn. Bởi lẽ, đây là một
tác phẩm rất hay và khó tiếp cận đối với cả người dạy và người học. Nó hay
vì nó chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa sâu xa, gợi ra nhiều cách hiểu cho người
đọc. Nó khó bởi đòi hỏi học sinh khi tiếp cận phải có một vốn sống, vốn kinh
nghiệm dày dạn và sự từng trải trong cuộc đời mới có thể hiểu hết ý nghĩa của
tác phẩm. Mà ngày nay, số học sinh yêu thích môn văn không còn nhiều mà
những tâm hồn say mê văn chương thì lại càng ít. Vì vậy, việc giảng dạy một
tác phẩm văn học hay và mới như “ Chiếc thuyền ngoài xa” trong trường phổ
thông không phải là dễ. Nhất là lứa tuổi học trò còn nhiều mơ mộng mà kimh
nghiệm sống còn ít. Do vậy, tôi tiến hành đề tài này để khai thác tình huống
truyện để cùng trao đổi với đồnh nghiệp về cách tiếp cận tác phẩm sao cho
hiệu quả nhất.
II. Lịch sử vấn đề
Các bài nghiên cứu về tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu còn ít hơn nhiều so với các bài nghiên cứu về các tác phẩm khác
của ông như “Bến quê”, “Phiên chợ Giát”, “Người đàn bà trên chuyễn tàu tốc
hành”, “Mảnh trăng cuối rừng” Trong đó đã có một số bài viết tìm hiểu về
vấn đề tình huống truyện trong các sáng tác của ông như “Vấn đề tình huống
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu”( Một khía cạnh thi pháp thể loại ) của
Bùi Việt Thắng, “Nguyễn Minh Châu và sự trăn trở của một ngòi bút đầy
1
trách nhiệm” của Đinh Trí Dũng, “Một số cốt truyện trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu” của Trịnh Thu Tuyết,v.v Tuy nhiên, để có một công
trình nghiên cứu cụ thể về tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa”
thì vẫn chưa có ai đi sâu. Vì thế, việc nghiên cứu kĩ lưỡng tình huống truyện
của văn bản này là rất cần thiết để ứng dụng vào thực tiễn giảng dạy của giáo
viên và việc học tập của học sinh.
III. Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ nội dung chương trình ngữ văn 12 được đổi mới với nhiều
tác phẩm thật sự mới lạ được đưa vào tìm hiểu và căn cứ vào thực tế giảng
dạy và qua thực tế khảo sát quá trình tiếp cận tác phẩm của học sinh, tôi đã
lựa chọn vấn đề tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
để nghiên cứu. Đối với việc phân tích tác phẩm tự sự không thể bỏ qua việc
tìm hiểu tình huống truyện. Đó là một việc làm không hề đơn giản với một
truyện ngắn đa nghĩa như “Chiếc thuyền ngoài xa”. Tiến hành đề tài này, tôi
mong muốn sẽ cung cấp những định hướng nhất định cho học sinh trong quá
trình khai thác tác phẩm và tiếp tục được trao đổi với đồng nghiệp về những
vấn đề giảng dạy tình huống truyện trong văn bản tự sự.
IV. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tôi hướng tới mục đích giảng dạy một giờ văn
thật sự hiệu quả và có ích cho học sinh. Không nhằm hướng tới những kiến
thức hàn lâm mà ngược lại, đó là sự nhận thức chân thật, hồn nhiên của học
sinh về giá trị của tác phẩm. Mặt khác, nó giúp cho mỗi giáo viên giảng dạy
sẽ thấy được ý nghĩa quan trọng của vấn đề khai thác tình huống truyện đối
với các tác phẩm tự sự. Thực hiện đề tài này, tôi mong muốn được bồi dưỡng
cho những tâm hồn yêu văn chương luôn có một quan niệm đúng đắn về sự
sáng tạo trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học.
V. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
thông thường như phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại.
2
VI. Nội dung, quy mô của đề tài
Đề tài nghiên cứu về một phương diện nghệ thuật của tác phẩm đó là
tình huống truyện mà không phải là khai thác tất cả những nét đặc sắc nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm. Vì vậy, tôi chủ yếu khai thác ý nghĩa của
tình huống truyện để thấy được giá trị nội dung, tư tưởng của văn bản nhằm
mục đích phục vụ thiết thực cho việc giảng dạy. Nếu có điều kiện tìm hiểu
sâu hơn nữa thì đề tài này tiếp tục được khai thác trong mối liên hệ với nhiều
tác phẩm khác của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
VII. Bố cục của đề tài
Đề tài gồm ba phần:
A. Mở đầu
B. Nội dung
C. Kết luận
3
B. NỘI DUNG
I. Cách xác định tình huống truyện
1. Khái niệm tình huống truyện
Nếu như ở tác phẩm trữ tình, cảm xúc của nhân vật trữ tình là sự thăng
hoa của sáng tạo nghệ thuật thì ở tác phẩm tự sự, tình huống truyện là quầng
sáng để châu tuần các đốm sáng của sự kiện, chi tiết và hệ thống nhân vật
quanh nó. Đối với truyện ngắn, tình huống truyện giữ vai trò hạt nhân then
chốt của cấu trúc thể loại: “Nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi
một sự kiện đặc biệt khiến tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư
tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất”(Sách GV ngữ văn 12, NC, tr
64). Như vậy, tình huống là hoàn cảnh, là môi trường chứa đựng trong đó
những thử thách, bí ẩn mà nhân vật khi đặt vào đó sẽ tự bộc lộ tính cách, suy
nghĩ và khám phá ra nhiều điều. Chỉ có đứng trước những hoàn cảnh nhất
định, con người ta mới chịu tìm tòi, phát hiện về cuộc sống và tự bộc lộ con
người thật của chính mình. Do vậy, tình huống không chỉ có vai trò bộc lộ tư
tưởng, chủ đề của tác phẩm mà còn làm nổi bật tính cách nhân vật.Tình huống
truyện thường có vai trò gây đột biến, tạo ra bước ngoặt, sự biến đổi bất ngờ
trong cuộc đời, nhận thức của nhân vật. Đọc truyện ngắn “Chí Phèo”, ta
không thể nào quên tình huống Chí phèo say rượu, được Thị Nở nấu cho bát
cháo hành tuy đạm bạc nhưng chan chứa tình người. Thị Nở đã gieo mầm hy
vọng trong con quỷ dữ với hứa hẹn sẽ đưa hắn trở về với xã hội bằng phẳng
của những người lương thiện. Ở trong hoàn cảnh như một kẻ đang chết đuối
giữa dòng nước nên khi gặp được chiếc phao cứu hộ ấy, Chí trở thành một
con người hoàn toàn khác. Thì ra cái bản năng “lương tri”, cái đốm sáng
“nhân tính” trong con người Chí bấy lâu nay bị vùi lấp trong đống tro tàn
nhưng vẫn âm ỉ cháy mà chưa hề mất đi. Từ một con quỷ của làng Vũ Đại,
hắn như lột xác trở thành một kẻ hiền lành, yếu đuối, lương thiện. Hắn muốn
4
làm hòa với mọi người biết bao và còn tin tưởng vào nhân thế sẽ nhận hắn
vào xã hội bằng phẳng của những người lương thiện. Như vậy, một phút thức
tỉnh của lương tri trong Chí Phèo cũng đủ để thắp sáng ngọn lửa bất diệt của
niềm tin về vẻ đẹp nhân tính, về phần Người trong mỗi chúng ta. Trong mỗi
con người, cái ác và cái thiện luôn chuyển hóa lẫn nhau và luôn song song tồn
tại. Trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, cái thiện có thể bị cái ác lấn át
và che lấp nhưng không bao giờ tiêu tan. Sự chuyển hóa ấy làm nên sự hoàn
thiện nhân cách cho con người. Chỉ cần có một chiếc đũa thần nhiệm màu
đánh thức thì cái thiện sẽ hiện nguyên hình của nó. Khi đặt nhân vật vào tình
huống trớ trêu, ta thấy nhân vật của Nam Cao thường phải vật lộn, giãy giụa,
quằn quại lựa chọn giữa một bên là sự sinh tồn và một bên là sự sống đích
thực có ý nghĩa. Và Chí Phèo đã rơi vào một tình huống đầy bi kịch: hắn bị cự
tuyệt quyền làm người khi Thị Nở từ chối tình yêu. Điều đó nghĩa là hy vọng
vừa cháy lên trong Chí Phèo đã bị dập tắt. Chí Phèo rơi vào bế tắc, Thị Nở từ
chối đưa hắn trở về với xã hội bằng phẳng của những người lương thiện, đồng
nghĩa với việc hắn rơi vào cùng đường tuyệt lộ. Hắn xách dao đến nhà Bá
Kiến để đòi quyền sống: “Ai cho tao lương thiện? ”. Trước đây, để tồn tại,
Chí đã phải bán linh hồn cho quỷ, nay linh hồn trở về, hắn buộc phải tự kết
liễu đời mình để không phải sống cuộc đời tha hóa vô nghĩa. Bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người của Chí Phèo khiến chúng ta nhức nhối tâm can, khiến
ta phải suy nghĩ về nhân tình thế thái trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Không chỉ riêng Nam Cao mới có biệt tài xây dựng tình huống truyện
mà Kim Lân cũng là nhà văn luôn có ý thức sáng tạo những tình huống truyện
độc đáo, mới lạ và hấp dẫn. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt”, người đọc ấn tượng
ngay với tình huống Tràng nhặt được vợ giữa những ngày đói khát đang đe
dọa, bủa vây, bám riết lấy con người, khi mà sự sống và cái chết chỉ mong
manh như sợi tóc. Sự kiện Tràng lấy vợ không chỉ gây tò mò cho người dân
xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng - bà cụ Tứ mà còn gây ngạc nhiên cho chính bản
5
thân Tràng. Từ khi có vợ, Tràng có những thay đổi về mặt tâm lí, nhận thức.
Mặt hắn có vẻ gì phởn phơ khác thường “một nguồn vui sướng phấn chấn đột
ngột tràn ngập trong lòng”. Trước đây, Tràng chỉ sống tạm bợ cho qua ngày,
giờ hắn thấy hắn có trách nhiệm với gia đình “bỗng nhiên hắn thấy hắn
thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng Bây giờ hắn mới thấy hắn
nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
Như vậy, qua tình huống truyện độc đáo, Kim Lân muốn gửi gắm tới
chúng ta lời nhắn nhủ thấm thía rằng con người hãy biết tin tưởng vào cuộc
sống. Ngay trong những hoàn cảnh bi đát nhất, ngay trên mảnh đất khô cằn
nhất, mầm cây hạnh phúc vẫn đâm chồi và đơm hoa kết trái. Quan trọng nhất
là con người phải biết đối mặt, chấp nhận và vượt lên hoàn cảnh ấy. Trong
hoàn cảnh tăm tối nhất cũng không được bi quan, hãy biết hướng về phía mặt
trời, bóng tối sẽ ngả về phía sau bạn.
Tóm lại, tình huống truyện đóng vai trò then chốt trong cấu trúc chỉnh
thể của tác phẩm văn học. Mỗi nhà văn viết truyện ngắn có tài phải luôn sáng
tạo trong nghệ thuật xây dựng tình huống truyện. Nguyễn Minh Châu cũng là
một trong những cây bút truyện ngắn có biệt tài xây dựng tình huống truyện.
2. Một số kiểu tình huống truyện phổ biến
Thông thường có ba kiểu tình huống truyện phổ biến: tình huống hành
động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức. Tình huống hành động
chủ yếu xoay quanh hành động có tính bước ngoặt của nhân vật. Hành động
này có chức năng làm thay đổi số phận, tính cách, cuộc đời của nhân vật.
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, tình huống Mị cắt dây cởi trói cho A
Phủ là tình huống hành động. Mị từ người con dâu gạt nợ, sống kiếp nô lệ
trong nhà thống lí Pá Tra, sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ cũng có nghĩa là
tự giải phóng cho chính mình. Mị bỏ trốn theo A Phủ đi làm cách mạng. Như
vậy, hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ của Mị có ý nghĩa quan trọng, nó
cho thấy sự vận động trong tính cách của cô. Từ một cô gái lầm lũi như con
6
rùa trong xó nhà, giờ đây cô đã mạnh mẽ, táo bạo, dũng cảm, có ý thức về
thân phận của mình.
Bên cạnh đó thì tình huống tâm lí chủ yếu miêu tả diễn biến tâm trạng,
cảm xúc của nhân vật. Loại tình huống này thường gặp trong những kiểu
truyện trữ tình, không có cốt truyện, đậm yếu tố lãng mạn. Dòng diễn biến
tâm lí nhân vật là hạt nhân cốt lõi làm nên cấu trúc truyện ngắn. Đối với
những truyện ngắn thuộc kiểu tình huống này thường ít sự kiện, hành động li
kì, gay cấn. Bởi đối tượng chủ yếu mà nhà văn khám phá là thế giới nội tâm
tinh tế, là trạng thái cảm xúc mơ hồ của nhân vật trước cuộc sống. Tình huống
này ta có thể hiểu rõ hơn trong các tác phẩm “Hai đứa trẻ”, “Dưới bóng hoàng
lan”, “Gió lạnh đầu mùa” của Thạch Lam, “Tỏa nhị Kiều” của Xuân Diệu, “
Tôi đi học” của Thanh Tịnh
Không giống với hai kiểu tình huống truyện trên, tình huống nhận thức
chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí của nhân vật. Nhà văn đặt nhân
vật vào một tình huống đầy bất ngờ, nghịch lí để từ đó hiểu ra, vỡ lẽ ra và
nhận thức được những vấn đề mà trước đó họ chưa hiểu, chưa biết hoặc hiểu
sai, hiểu chưa đầy đủ về con người, cuộc sống. Kiểu tình huống này ta rất hay
gặp trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Minh Châu, điển hình là các
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Bến quê”, và “Bức tranh”.
II. Tình huống tự nhận thức trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
1.Xác định tình huống truyện
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” xoay quanh tình huống về nhân
vật Phùng - một nghệ sĩ nhiếp ảnh – người đang đi săn tìm cái đẹp của cuộc
sống để đem lại những bức ảnh đẹp cho vào bộ lịch nghệ thuật về thuyền và
biển. Nhân chuyến thăm người bạn chiến đấu năm xưa tên Đẩu - giờ là chánh
án tòa án huyện, Phùng sau bao đắn đo đã quyết định chụp cảnh đoàn thuyền
đánh cá vào lúc bình minh. Cảnh ấy thật lung linh, huyền ảo, thơ mộng với
“một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích, một vẻ đẹp của “đạo đức, chân lí của
7
sự toàn thiện”. Phùng cảm thấy sung sướng vô cùng khi anh “khám phá thấy
cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng chính lúc anh đang tràn
ngập niềm vui, hạnh phúc do “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang
lại” thì anh bất giác nhìn thấy chiếc thuyền của người đàn bà hàng chài ngay
trước mặt. Tệ hại hơn, anh còn được chứng kiến cảnh lão đàn ông dùng chiếc
thắt lưng quật tới tấp vào lưng vợ. Và rồi anh cùng với người bạn của mình
tìm hiểu về cuộc sống của gia đình người đàn bà hàng chài. Cuối cùng anh
cũng ngộ ra mối quan hệ giữa cuộc đời thật và nghệ thuật thật không đơn
giản. Đằng sau bức ảnh con thuyền chìm trong bầu sương mù trắng như sữa
có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào là số phận đớn đau
của người phụ nữ, là cuộc sống nheo nhóc, lênh đênh của một gia đình hàng
chài, là tình trạng bạo lực gia đình. Và con mắt tinh tường của anh đã từng
băn khoăn về một chân lí lớn đã được một đại văn hào phát hiện: bản thân cái
đẹp chính là đạo đức. Nhưng anh cũng nhận ra rằng quan niệm về đạo đức
cũng đang biến đổi theo hoàn cảnh, theo sự nhìn nhận của từng số phận cá
nhân. Cuối cùng, anh đã có cái nhìn thay đổi về cuộc sống và nghệ thuật.
Người nghệ sĩ không thể có cái nhìn đơn giản và sơ lược về cuộc sống. Trong
những bức ảnh anh đã mang về có một bức ảnh màu trắng thật đẹp và đã được
lựa chọn. Tuy là ảnh đen trắng nhưng lạ thay, mỗi lần anh ngắm đều thấy hiện
lên màu hồng hồng của sương mai, càng nhìn kĩ lại càng thấy hiện lên người
đàn bà hàng chài nghèo khổ, đang bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất
chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
Rõ ràng truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” xoay quanh tình huống
nhận thức của nhân vật Phùng. Anh đã đi từ lầm lẫn, ngộ nhận đến hiểu biết,
“giác ngộ” trong cách nhìn về cuộc sống. Qua tình huống tự nhận thức ấy, ta
không chỉ thấy được quan niệm nghệ thuật mới mẻ của Nguyễn Minh Châu –
người mở đường tinh anh cho văn xuôi Việt nam sau 1975 mà còn thấy được
ý nghĩa nhân bản sâu xa toát ra từ tác phẩm. Đó là tình yêu tha thiết với con
8
người. Tình yêu ấy cháy bỏng lên thành khát vọng kiếm tìm, phát hiện và tôn
vinh vẻ đẹp của con người. Đó còn là nỗi lòng khắc khoải, lo âu trước cái xấu
xa, tàn bạo. Tôi chợt nhớ tới câu nói của Nguyễn Đình Thi: “Nói nghệ thuật
tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Có khi nhà
văn miêu tả một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách
nhìn, cách miêu tả phải cao cả”. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã làm nên
những điều cao cả ấy trong thế giới văn chương. Đằng sau cái nhìn hiện thực
gồ ghề, thô ráp, đau đớn và cả cái ác là vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, là
trái tim của người phụ nữ hy sinh, nhân ái, vị tha. Cái nhìn hiện thực của nhà
văn sâu sắc, trĩu nặng tình thương và nỗi lo âu với con người. Nguyễn minh
Châu đã từng quan niệm: “Người viết văn là một người rất nặng nợ với đời”
( Trang giấy trước đèn ). Bởi trong thâm tâm, ông luôn quan niệm tình yêu ở
người nghệ sĩ “vừa là một niềm hân hoan, say mê, vừa là một nỗi đau đớn,
khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những
người xung quanh mình” ( Ngày xuân phỏng vấn các nhà văn, Báo văn
nghệ ). Ông luôn có ý thức rõ về vai trò của mình khi cho rằng cuộc đời nhà
văn “là một cuộc đời không bao giờ được phép ngừng lăn lộn trong cuộc sống
thực tế, không bao giờ ngừng nghiên cứu và quan sát xã hội, và trong khi
chăm chú đọc cái cuốn sách khổng lồ đó, anh ta phải đặt hết tâm hồn và trí tuệ
của mình vào, phải tỏ rõ chính kiến và lập trường của mình trước mỗi sự việc,
mỗi hoàn cảnh, mỗi một con người” ( Trang giấy trước đèn ).
Tình huống tự nhận thức cũng phản ánh rõ nét đặc điểm phong cách
nghệ thuật Nguyễn Minh Châu. Đó là một lối văn thâm trầm, giản dị, đôn hậu
mà sâu sắc, thấm thía, nhiều dư vị, lắng đọng chiêm nghiệm sâu xa về lẽ đời
để kết tụ thành những triết lí nhân sinh sâu sắc.
Vậy từ những tình huống tự nhận thức ấy, người nghệ sĩ văn chương và
độc giả rút ra những bài học nhận thức gì cho mình ?.
9
2. Ý nghĩa của tình huống tự nhận thức trong “Chiếc thuyền ngoài xa”
2.1. Nhận thức về con người và cuộc sống
Có lẽ, những người nghiên cứu văn học muôn đời luôn thấm thía một
câu nói của đại văn hào Nga, Mácxim Gorki “Văn học là nhân học”. Quả
thực, con người là chủ thể của vũ trụ và là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Chỉ nhắc đến hai tiếng Con Người, lòng ta đã tràn đầy niềm tự hào, hứng
khởi, hạnh phúc: “Con Người, hai tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và hùng tráng
xiết bao”. Bởi vậy, bất kì tác phẩm văn học chân chính nào cũng có những
nhận thức, khám phá mới mẻ về cuộc sống của con người. Cao quý hơn, nó
còn là tiếng nói tôn vinh những giá trị tốt đẹp của con người. Hơn ai hết,
Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ về thiên chức của người nghệ sĩ trong việc
phát hiện ra những bí mật ẩn chứa trong tâm hồn con người, đó là những “hạt
ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Ông là người nghệ sĩ luôn sưu
tầm, lượm lặt cái đẹp rải rác trong cuộc sống. Nhà văn luôn tìm đến những
phương trời xa lạ mà lại rất gần trong tâm hồn con người, khám phá những
vấn đề tiềm ẩn trong cuộc sống mà ta chưa biết, những diều tưởng như rất
giản dị, gần gũi mà ít ai nghĩ tới. Thế đấy, Nguyễn Minh Châu luôn quan
niệm con người như một thế giới bí ẩn mà loài người không bao giờ giải mã
hết những thông số về nó: “Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những
nét đẹp đẽ, kì diệu đến nỗi cả một đời cũng chưa đủ để nhận thức, khám phá
tất cả những cái đó”(Tr36, Nguyễn Minh Châu, tác giả - tác phẩm). Sự nhận
thức về con người quả là vô hạn. Vì vậy văn học mọi thời đại luôn quay
guồng thay đổi cùng với nhịp sống thì mới có thể hiểu sâu về con người.
Nếu văn học Việt Nam trước năm 1975 mang đậm khuynh hướng sử
thi và cảm hứng lãng mạn thì văn học sau năm 1975 lại phản ánh hiện thực
cuộc sống như nó vốn có, tìm về với những đề tài bình dị, phản ánh mọi góc
độ đời tư thế sự của cuộc sống. Trước đây, người ta chỉ thấy cảm hứng ngợi
ca, thấy ánh hào quang của lí tưởng sống quên mình vì tất cả, quyết tử cho Tổ
10
quốc quyết sinh. Còn bây giờ, tiếng súng chiến tranh đã im bặt, con người trở
về với nhịp sống bình lặng, yên ổn. Nhưng đó cũng là lúc con người phải đối
mặt với nhiều nỗi lo của cuộc sống mới như cơm áo, gạo tiền, kiếm kế mưu
sinh, sự tha hóa biến chất theo kiểu mới của nhân loại, đời sống cá nhân phát
triển với nhiều đòi hỏi riêng Từ những năm 1960, Nguyễn Minh Châu đã
từng băn khoăn: “Phải chăng bên cạnh những đức tính tốt đẹp thì tính cơ hội,
nịnh nọt, tham lam, ích kỉ, phản trắc, vụ lợi còn được ẩn kín và đã có lúc
ngấm ngầm phát triển đến mức gần như lộ liễu ? Bây giờ ta phải chiến đấu
cho quyền sống của cả dân tộc. Sau này, ta phải chiến đấu cho quyền sống của
từng con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp. Chính cuộc chiến
đấu ấy mới lâu dài”.
Quả thực, Nguyễn Minh Châu rất dũng cảm khi ông bước vào cuộc
chiến đấu cho quyền sống của từng con người. Là người sống sâu sắc, từng
trải với đời, Nguyễn Minh Châu giống như con tằm bấy lâu nay chắt chiu, cần
mẫn để nhả cho đời những sợi tơ văn chương óng vàng. Với cái nhìn tin
tưởng và hy vọng vào con người: “Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng
những nét đẹp đẽ, kỳ diệu đến nỗi cả một đời cũng chưa đủ để nhận thức,
khám phá tất cả những cái đó” nên sáng tác của ông thường đi vào việc phân
tích bề sâu tâm hồn con người để phát hiện nhiều vẻ đẹp bị khuất lấp. Phải
chăng, vì thế mỗi sáng tác của ông đều làm gợn lên những gợn sóng lăn tăn
băn khoăn, suy tư trên mặt nước tâm hồn người đọc ? Đọc “Chiếc thuyền
ngoài xa” có biết bao suy nghĩ đang ngủ quên trong khối óc bình yên của con
người được đánh thức. Đó là suy nghĩ về cuộc sống của những kiếp người lao
động nghèo khổ ở miền biển sống bằng nghề chài lưới lênh đênh trên mặt
nước, về số phận của người phụ nữ trước cái đói nghèo, là tình trạng bạo lực
vũ phu, về sự tha hóa của nhân tính, về tương lai của những đứa trẻ thơ, về
chuyện cơm áo để tồn tại mưu sinh, về những hạnh phúc và niềm ao ước giản
đơn của con người mà cũng không có được
11
Trước hết, nhà văn đã tái hiện bức tranh sinh động về cuộc sống của
người đàn bà hàng chài qua lời tâm sự của mụ khi đối thoại với Đẩu. Đó là
cuộc sống vô cùng “lam lũ và khó nhọc”. Nỗi nhọc nhằn vì cuộc sống mưu
sinh ấy hằn in trên dáng vẻ thô kệch và khuôn mặt của người đàn bà miền
biển: “Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái
ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Chua xót thay, từng lời tâm sự của chị
như đang trút ra những gánh nặng của cuộc sống đang hàng ngày đè nặng trên
đôi vai gầy guộc. “Cái nhìn suốt cả đời mình” khi nói chuyện với Đẩu dường
như là một nỗi lo âu cứ đeo bám, xuyên thấu cả một quãng đời nghèo khổ của
chị. Chị nói ra những điều tưởng như rất đơn giản nhưng chẳng biết bao giờ
chị mới có được nó: “Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc
thuyền rộng hơn”. Với người dân hàng chài thì cái chuyện sinh sống, ăn ở của
họ đều được phó thác cho biển cả. Đẩu hỏi người đàn bà sao không lên bờ mà
ở thì chị trả lời rất có lí: “Làm nhà trên đất ở một chỗ thì đâu có thể làm được
cái nghề thuyền lưới vó. Từ ngày cách mạng về, cách mạng cấp đất nhưng
chẳng ai ở vì không thể bỏ nghề được !”. Như thế nghĩa là không phải là
người đàn bà hàng chài không muốn lên bờ sinh sống, không phải không
muốn thoát khỏi kiếp sống lênh đênh trên con thuyền giữa mênh mông sóng
nước , đầy phong ba bão táp. Cái căn nguyên sâu xa của nó chính là miếng ăn
để tiếp tục tồn tại mưu sinh. Điều đó rất nan giải bởi nó còn quyết định sự
sống của biết bao con người, nhất là những đứa con thơ mà nhà nào cũng trên
dưới chục đứa. Thuyền thì chật mà đẻ lại nhiều. Phải chăng nhà văn Nguyễn
Minh Châu còn đặt ra một quy luật của xã hội loài người: con người luôn tập
trung đông đúc ở những nơi nào dễ làm ăn sinh sống. Còn mảnh đất nơi họ
định cư mà khó làm ăn thì họ sẽ bỏ quê hương đi tha phương cầu thực. Hoàn
cảnh sống quyết định rất nhiều đến sự lựa chọn cuộc sống của con người mà
không phải lúc nào con người cũng có quyền lựa chọn theo ý muốn. Sống cho
mình hay sống vì các con, sống trên bờ hay sống ở dưới nước đều là những
câu hỏi khiến người đàn bà hàng chài phải băn khoăn suy nghĩ.
12
Không chỉ dừng lại ở việc phản ánh những số phận chung chung của
người dân nghèo miền biển mà tác giả còn tạc vào không gian sóng nước kia
một bức chân dung của người đàn bà hàng chài như một ám ảnh, một nỗi
nhức nhối. Viết về đề tài người phụ nữ, xưa nay đã có không ít những áng thơ
văn nức danh. Có mấy ai nghĩ sẽ có những người phụ nữ nào đẹp và tài năng
hơn nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hay là hình ảnh người
phụ nữ vừa đẹp vừa tài năng, sắc sảo trong thơ bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân
Hương, vừa đẹp vừa dịu hiền nết na như nàng Vũ Nương trong “Truyền kì
mạn lục” của Nguyễn Dữ ? Nhưng quả thật, khi đọc truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ta dường như thấy vẫn có nhiều
điều mới mẻ, thú vị khi khám phá. Một vẻ đẹp không đơn điệu, không nhàm
chán, không trùng lặp mà ngược lại, ta thấy người phụ nữ ấy hội tụ đầy đủ cả
vẻ đẹp tâm hồn truyền thống và hiện đại của người phụ nữ Việt Nam. Ta đã
từng biết đến những người phụ nữ trong văn Nam Cao hiền lành, yếu đuối và
cam chịu như Từ ( Đời thừa), Nhu ( Ở hiền ) , là mẹ Lê tuy nghèo khổ
nhưng yêu thương con hết mực trong “Nhà mẹ Lê” ( Thạch Lam ) hay đó là
cô Đào vừa bất hạnh nhưng rất giàu nghị lực và sắc sảo trong “ Mùa lạc”, một
cô Mị vừa hiền lành, cam chịu nhưng cũng táo bạo, dũng cảm khi dám đấu
tranh để tự giải phóng cho mình trong “Vợ chồng A Phủ” ( Tô Hoài ) Rồi
sau này, khi đất nước có giặc ngoại xâm, biết bao người phụ nữ đã trở thành
những người anh hùng mà vẫn “trung hậu, đảm đang” như chị Út Tịch
( Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi ), là Mai, Dít - những cô gái của núi rừng
Tây Nguyên quả cảm trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, là Chiến
- người con gái Nam Bộ vừa nữ tính vừa mạnh mẽ, quyết đoán, tháo vát, đảm
đang trong “ Những đứa con trong gia đình” - Nguyễn Thi ) Và người phụ
nữ bước vào trang văn của Nguyễn Minh Châu cũng không phải là ít như Quỳ
trong “ Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, người vợ đảm đang của nhân
vật Nhĩ trong “Bến quê”, là Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” Làm một
13
phép quy nạp, ta thấy hầu hết người phụ nữ trong văn thơ đều đẹp từ hình
thức đến phẩm chất, tâm hồn. Bởi họ chính là những loài hoa tinh túy của trời
đất, tạo hóa ban cho họ vẻ đẹp tự nhiên, dịu dàng cũng như thiên chức của họ
là những người mẹ hiền từ, người chị đảm đang, người đàn bà đôn hậu, giàu
yêu thương. Vì vậy, người phụ nữ xứng đáng được tôn vinh, ngợi ca, trân
trọng hơn bao giờ hết. Còn người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài
xa” của Nguyễn Minh Châu thì sao ? Nếu như những người phụ nữ khác
thường chỉ lướt qua trong lòng người đọc thì người đàn bà hàng chài lại là
một bí ẩn mà càng khám phá, ta càng thấy toát lên vẻ đẹp kì diệu. Người phụ
nữ ấy không đến với người đọc một cách hời hợt, nông cạn bởi vẻ đẹp hình
thức mà đẹp ở bề sâu tâm hồn khiến ta phải vấn vương, suy nghĩ. Với tôi, sức
hấp dẫn của người đàn bà ấy không phải là ở sắc đẹp. Nếu như chúng ta cho
rằng tất cả phụ nữ đều xinh đẹp thì người đàn bà hàng chài là một ngoại lệ.
Về hình thức, mụ rất xấu và thô kệch, lại “rỗ mặt”, khi còn trẻ cũng vì xấu
quá trong phố không ai lấy nên cuối cùng trót mang với anh con trai nhà hàng
chài và lấy anh ta làm chồng. Phải chăng, xấu quá hay đẹp quá với người phụ
nữ đều có thể khiến cho cuộc đời họ gặp nhiều tai ương, trắc trở ? Miêu tả
hình thức của người phụ nữ xấu, có lẽ Nguyễn Minh Châu có điểm tương
đồng với Nam Cao khi khắc họa nhân vật Thị Nở trong “Chí Phèo”. Thị Nở
cũng là người phụ nữ xấu xí nhưng lại có một tấm lòng nhân hậu, giàu yêu
thương. Vậy mục đích của các nhà văn khi miêu tả người phụ nữ xấu có phải
để rêu rao, chế nhạo hay khinh miệt họ ?
Không, nếu chỉ thiên về tả ngoại hình xấu xí đến mức “vật hóa” thì các
nhà văn đó đã rơi vào chủ nghĩa tự nhiên. Dường như phải có cái gốc nhân
bản rất vững chắc thì Nguyễn Minh Châu mới dám miêu tả cái xấu của bề
ngoài để làm nền tôn vinh cái đẹp về tâm hồn. Cái đẹp đăng quang, tỏa rạng
từ cái xấu của ngoại hình mới đáng quý làm sao ! Sự thật, vẻ đẹp nhân cách
của Thị Nở và người đàn bà hàng chài đã chứng minh điều đó. Thị Nở trong
14
tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao cũng biết yêu thương và che chở, đùm
bọc, quan tâm đến những người bất hạnh trong khi đó bao người dân làng Vũ
Đại quay lưng bỏ mặc Chí Phèo. Tình yêu giản dị chân thành của Thị chính
là liều thuốc thần đánh thức phần Người bấy lâu nay trong con người Chí, vẻ
đẹp nhân tính bấy lâu nay bị chìm khuất trong con người Chí bỗng trỗi dậy.
Những ánh sáng của tình người đang hòa quyện, thanh khiết, thơm tho như
màu trắng của vị cháo hành mộc mạc. Còn người đàn bà hàng chài lặng lẽ,
thầm kín một đức hy sinh, tần tảo, cam chịu. Chị vốn là người phụ nữ chủ
động và đầy bản lĩnh trước cuộc sống. Sinh ra là phận đàn bà, có người phụ
nữ nào lại không khao khát một bờ vai của người chồng là điểm tựa vững
chắc cho cuộc đời của họ. Có ai lại không mong ước một người chồng giỏi
giang và tài hoa, còn những đứa con thì chăm ngoan, thành đạt. Nhưng đó
luôn là mong ước, là thế giới thần tiên trong trí tưởng tượng của con người.
Còn thực tế thì luôn đầy nghịch lí, trớ trêu và nghiệt ngã. Điều quan trọng với
mỗi người là phải dũng cảm đương đầu với thử thách và chấp nhận hoàn cảnh
để tiếp tục tồn tại. Người đàn bà hàng chài là một trong những người phụ nữ
kém may mắn và chịu nhiều bất hạnh, khổ nhục. Cuộc sống vốn lam lũ lại
thêm lão chồng vũ phu luôn dùng thắt lưng quật tới tấp vào lưng vợ “ba ngày
một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Nỗi nhọc nhằn hiện hình ngay trong
đôi mắt và trên khuôn mặt của chị “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức
trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vậy mà, khi Đẩu gọi
đến hỏi chuyện thì mụ đã van xin khẩn thiết “Con lạy quý tòa. Quý tòa bắt tội
con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Lạ lùng thay, bị
đánh đập và hành hạ dã man như vậy mà người đàn bà không muốn bỏ người
chồng vũ phu ấy. Hay ở lâu trong cái khổ, chịu những trận đòn chồng nhiều
nên mụ quen rồi ? Hay đó là mụ bất cần đời, không thiết gì đến sự sống của
mình nữa ? Cũng có thể đó là sự lựa chọn bất đắc dĩ nhưng đã được suy nghĩ
sáng suốt ? Tiếp tục lắng nghe lời tâm sự của mụ, ta sẽ vỡ lẽ ra nhiều điều.
15
Mụ đã nói với Phùng và Đẩu “là bởi vì các chú không phải là người đàn bà,
chưa bao giờ các chú biết thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một
chiếc thuyền không có người đàn ông”. Đến đây, ta còn thấm thía thêm một
nỗi khổ khác của người phụ nữ. Họ là phái yếu, họ cần lắm những bờ vai chở
che, những chỗ dựa tinh thần trong cuộc đời. Họ không thể tự quyết định số
phận hay tương lai của mình. Đâu đó trong ta những câu hát dân gian thưở
xưa vọng về “Thân em như hạt mưa xa. Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày”,
“Thân em như tấm lụa đào. Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Quả thực,
người phụ nữ phận mỏng cánh chuồn sướng hay khổ, hạnh phúc hay bất hạnh
đều do người khác quyết định. Đối với người đàn bà hàng chài, mụ dù khổ
nhưng không thể bỏ chồng dù người chồng ấy có man rợ, tàn bạo. Bởi họ
không thể một mình giữ mái chèo của con thuyền mưu sinh , con thuyền hạnh
phúc giữa mênh mông sóng nước đầy phong ba bão táp. Chị nói với Đẩu
“mong các chú thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần
phải có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi
đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người
đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái
khổ”. Như vậy, thái độ cam chịu của người đàn bà hàng chài bắt nguồn từ một
lí do hết sức cao đẹp: đó là ý thức về thiên chức của người phụ nữ là sinh con
đẻ cái, nuôi nấng chúng nên người nên sẵn sàng chấp nhận cái khổ và hy sinh
vì người khác. Đức hy sinh ấy của người phụ nữ Việt Nam biết bao lần đã tạc
nên những tượng đài bất tử trong văn chương. Đó là những người bà, người
mẹ, người chị có tên tuổi hay vô danh như người đàn bà hàng chài này luôn
nhẫn nhịn và giàu yêu thương.
Đặc biệt, hoàn cảnh sống của chị khiến chị còn phải hy sinh nhiều hơn.
Đã không được lựa chọn cuộc sống trên bờ như nhiều người phụ nữ khác vì
muốn có miếng ăn cho con, vậy mà còn phải chìa lưng ra hứng những trận
đòn khi cơn nóng giận của lão chồn bùng phát. Người đàn bà ấy sẵn sàng chịu
16
nỗi đau đớn về phía mình chỉ mong cho con cái có cuộc sống no đủ, vui vẻ.
Suy nghĩ của chị ngời sáng vẻ đẹp của tình mẫu tử, lòng bao dung, vị tha “đàn
bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở
trên đất được”. Như vậy, cuộc sống luôn là sự lựa chọn, lựa chọn giữa bổn
phận, trách nhiệm và sở thích. Người đàn bà hàng chài cũng có lúc cảm thấy
hạnh phúc khi được nhìn thấy cảnh gia đình vui vẻ và lũ con được ăn no. Mụ
nói với Đẩu: “Vả lại ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng, con cái chúng tôi
hòa thuận, vui vẻ”. Niềm vui của chị không phải là ham muốn vật chất, tiền
bạc mà nó thật bình dị, đời thường “vui nhất là lúc nhìn đàn con tôi, chúng nó
được ăn no”. Niềm vui của người đàn bà hàng chài hình như ta đã từng bắt
gặp trong nhân vật bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân. Giữa cảnh đói
khát, bà cụ Tứ thấy con mình lấy được vợ thì vừa mừng vừa lo, nhưng để đem
lai niềm lạc quan cho các con, trong bữa cơm ngày đói, bà kể toàn những
chuyện vui, chuyện làm ăn no đủ sau này. Bà cụ Tứ nói với Tràng: “Tràng ạ.
Khi nào có tiền mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái
chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho
mà xem ”( Vợ nhặt – Kim Lân ). Thì ra, trong đói nghèo, khổ cực, trong lam
lũ nhọc nhằn, đức hy sinh và tình yêu thương của những người mẹ luôn là
ngọn lửa sưởi ấm cho các con.
Đối xử với con thì yêu thương, hy sinh; còn với chồng là lòng vị tha,
bao dung vô bờ bến. Dù bị chồng đánh đập tàn bạo nhưng mụ vẫn nói về
chồng với thái độ bênh vực, bảo vệ. Mụ cho rằng bản chất của chồng mình
không phải là sự cục cằn, thô bạo mà đó là do hoàn cảnh đã làm thay đổi tính
nết. Nguyên nhân chủ yếu là gia đình đông con mà cuộc sống lại nghèo khổ,
chỗ ở chật chội. Mụ nói với Đẩu: “chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục
tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Không những vậy, chị
còn nhận hết lỗi về mình: “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá,
mà thuyền lại chật” nên mới sinh ra tính vũ phu, tàn bạo của chồng. Rõ ràng,
17
Nguyễn Minh Châu đã phát hiện ra hạt ngọc tâm hồn ẩn giấu sau vẻ bề ngoài
thô kệch, xấu xí của người đàn bà hàng chài. Đó là lòng vị tha, đức hy sinh,
tình mẫu tử ngọt ngào, sâu sắc. Vẻ đẹp khuất lấp ẩn kín trong tâm hồn con
người đâu dễ nhận ra nếu không được tìm hiểu kĩ, như nhà văn Nam Cao đã
từng viết: “Chao ôi ! đối với những người ở chung quanh ta, nếu ta không cố
mà tìm hiểu họ thì ta chỉ thấy họ là những người bần tiện, xấu xa, bỉ ổi. Toàn
những cái cớ để cho ta ghét họ, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng
thương và không bao giờ ta thương”.
Bên cạnh những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam,
người đàn bà hàng chài còn là người phụ nữ sắc sảo, từng trải, hiểu sâu sắc lẽ
đời. Ngay từ đôi mắt đã cho thấy sự từng trải, sắc sảo, một ánh mắt “như đang
nhìn thấu suốt cuộc đời mình”. Trong cách cư xử với Phùng và Đẩu ở tòa án,
chị nói năng bộc lộ sự hiểu biết về cuộc sống. Lí lẽ của người phụ nữ ấy là sự
đúc kết của con người từng trải lẽ đời. Lúc đầu mới đến tòa án, mụ còn có vẻ
sợ sệt, rón rén, ngồi vào mép ghế và cố thu người lại, rồi chắp tay vái lia lịa.
Mụ nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt. Nhưng sau khi nghe
Đẩu khuyên giải về việc mụ nên bỏ chồng thì người đàn bà mất hết vẻ sợ sệt,
khúm núm thay vào đó là những hành động và ngôn ngữ khác, bất ngờ. Đang
gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào Đẩu và Phùng, từng
người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác và nói: “Chị cám ơn các chú -
Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết - Đây là chị nói
thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải
là người làm ăn cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn
lam lũ, khó nhọc”. Rõ ràng người đàn bà tuy ít học nhưng vốn sống thực tế và
sự hiểu biết thì không hề ít ỏi chút nào. Điều mà mụ rất hiểu ấy là lẽ đời, là
cuộc sống thực tế để mưu sinh chứ không phải là những luật pháp hay lí
thuyết suông đẹp đẽ mà con người ta vẫn dùng để khuyên bảo nhau như
những lời giáo huấn cao đạo. Nhưng thật nghiêm trọng cho Đẩu và Phùng, vì
18
vốn sống thực tế của các anh quá ít ỏi nên những lời khuyên và giải pháp đưa
ra để giúp đỡ người phụ nữ miền biển là ảo tưởng và phi thực tế. Rồi mụ tiếp
tục phân trần, giải thích cho Đẩu nghe về lí do tại sao mụ không bỏ chồng:
“Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng
làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông
trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho
nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ
không thể sống cho mình như ở trên đất được ! Mong các chú lượng tình cho
cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó !”. Ở người phụ nữ ấy, tình thương
con cũng như nỗi đau không để lộ ra bên ngoài mà nó ẩn kín, sâu sắc thấm
thía xiết bao ! Chị đã khóc khi nghe Phùng nhắc đến thằng Phác. “Nhưng tình
thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái việc thâm trầm trong việc hiểu
thấu các lẽ đời chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Trong cái đám con cái
đông đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một đứa nào bằng thằng
Phác, cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn
ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết
nếu không có cách mạng về”.
Quả thật, sự nhận thức về đời sống không hề đơn giản, máy móc. Khi
nghe người đàn bà tâm sự, Đẩu – một chánh án tòa án huyện mới ngộ ra nhiều
điều. Anh là người hiểu rõ luật pháp và thực thi pháp luật nhưng anh lại ít
kiến thức thực tế. Chưa hiểu hết hoàn cảnh của người đàn bà hàng chài, khi
biết mụ bị chồng đánh nên anh nghĩ rằng giải pháp tốt nhất là mụ không nên
tiếp tục chung sống với lão. Nhưng khi nghe lời bộc bạch từ phía người đàn
bà hàng chài thì anh đã hiểu ra nhiều điều “Một cái gì vừa mới vỡ ra trong
đầu vị Bao công của cái phố huyện vùng biển”. Chính anh đã thú nhận với
người đàn bà trong sự đau đớn, chua xót khi phát hiện ra những nghịch lí trớ
trêu của cuộc sống “Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một
19
tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông dù hắn
man rợ, tàn bạo ?”. Như vậy, đâu phải lúc nào người ta cũng có thể vận dụng
luật pháp hay những thiết chế cứng nhắc để điều khiển cuộc sống của con
người. Và không phải bất cứ lúc nào ta cũng vận dụng một cách máy móc luật
pháp để giải quyết mọi tình huống trong thực tế cuộc sống. Quan trọng hơn cả
là sự linh hoạt của con người trong cách ứng xử, vận dụng nguyên tắc cứng
nhắc để bảo vệ quyền sống cho con người. Mặt khác, mọi lí thuyết sách vở
nếu không xuất phát từ thực tế thì chỉ trở thành lí thuyết suông, giáo điều và
có thể trở nên tai hại với cuộc sống của con người. Bởi vậy, mỗi chúng ta dù
là ai trong cuộc đời này, đã sống thì phải có trải nghiệm thực tế để hiểu sâu
sắc hơn mọi lẽ đời.
Bên cạnh đó, xây dựng nhân vật thằng Phác, nhà văn Nguyễn Minh
Châu còn đặt ra những vấn đề lớn lao, có tính thời sự đối với xã hội. Đó là
vấn đề bạo lực gia đình và quyền sống của trẻ thơ. Thằng Phác cũng như bao
trẻ thơ khác, lẽ ra phải được sống trong một gia đình yên ấm, hạnh phúc
nhưng em lại không được hưởng sự may mắn đó. Phác đã từng chứng kiến
cảnh cha đánh mẹ và bản thân nó cũng phải hứng chịu trận đòn từ người cha
chỉ vì thương mẹ, bênh vực cho mẹ mà vô lễ với cha. Theo lời kể của Phùng:
“Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác -
thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ
chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó lúc chạy qua không nhìn thấy
tôi. Như một viêm đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó
vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe
tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ồng Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc
thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng
được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào
giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín,
loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng
20
nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến
thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Chúng ta có thể có nhiều cái nhìn khác
nhau về nhân vật bé Phác. Nếu phán xét nhân vật theo quan điểm đạo đức thì
em là đứa trẻ bất hiếu, vô lễ với cha. Nhưng xét về phương diện tâm lí con
người thì em hành xử theo đúng tâm lí của những đứa trẻ bình thường và rất
cần được thấu hiểu, chấp nhận, cảm thông. Bởi chẳng có đứa trẻ nào lại
không thương mẹ và có thể sống thiếu mẹ. Vì thế việc làm của Phác chỉ là
hành động bột phát để bảo vệ mẹ trước người cha bạo lực. Điều gì khiến em
làm tất cả, có lẽ đó chính là tình yêu thương đối với người mẹ vất vả, tảo tần
nuôi em khôn lớn. Chúng ta thấy Phác đáng thương nhiều hơn là đáng trách.
Ai đã từng ở vào hoàn cảnh của em và như em thì mới có thể hiểu và đồng
cảm, rộng lượng khi đánh giá về cậu bé miền biển. Tuổi thơ của em đã thua
thiệt nhiều so với bao đứa trẻ khác. Và em sẽ trở thành người như thế nào nếu
cứ tiếp tục sống trong gia đình như vậy ? Câu hỏi đặt ra thì dễ nhưng câu trả
lời không đơn giản chút nào. Phác sống trong gia đình có người cha vũ phu
nên phần nào tính cách của em cũng chịu ảnh hưởng từ cha mình. Người đàn
bà hàng chài mặc dù đã bao nhiêu lần xin người chồng lên bờ mà đánh để các
con không nhìn thấy nhưng làm sao có thể giấu mãi được. Vì thương mẹ nên
Phác cũng không tránh khỏi hành động thô bạo. Em đã mất đi tuổi thơ tươi
đẹp và thói bạo lực gia đình đã cướp mất tâm hồn trong sáng như tờ giấy
trắng, đã phá vỡ niềm tin trong trẻo nguyên sơ của tuổi thơ. Đứa con ấy cũng
để lại cho những người mẹ biết bao dằn vặt, đau đớn. Và tình thương của em
dành cho mẹ cũng thật xúc động biết bao “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn
chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang
xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt và cái
thằng nhỏ lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt mẹ, như muốn lau
đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Để giúp tâm
hồn Phác không bị tổn thương và tránh làm những điều dại dột với người cha
21
nên người đàn bà hàng chài đã gửi nó lên ở với ông ngoại. Ở với ông, thằng
bé sướng hơn ở trên thuyền với bố mẹ nhưng cứ rời ra là nó lại trốn về. Và
trong lòng cậu bé vẫn nung nấu một quyết tâm bảo vệ và che chở cho người
mẹ đau khổ của mình “Thằng bé tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền
rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Như vậy, ngay
cả những chuẩn mực đánh giá về đạo đức con người cũng trở nên phức tạp và
không hề đơn giản một chiều. Và hoàn cảnh sống chi phối rất nhiều đến
những cách đánh giá về con người. Ở những lúc tưởng như con người không
đạt đến chuẩn mực nhân cách của phạm trù đạo đức thì lại có tình mẫu tử tỏa
sáng, là cứu cánh cho niềm hy vọng của con người. Tác giả đã có cái nhìn
toàn diện về cuộc sống, cuộc đời thì đa đoan, con người thì đa sự. Ngay trong
gia đình người dân hàng chài cũng tiềm ẩn nhiều nghịch lí: người đàn bà xấu
xí, bất hạnh nhưng lại có một đứa con biết thương mẹ, vì yêu mẹ mà sẵn sàng
và lúc nào cũng sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm để tìm dịp trả thù.
Qua nhân vật thằng Phác, tác giả không chỉ lên án và báo động về tình trạng
bạo lực gia đình mà còn ca ngợi vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, thấu
hiểu khát vọng được sống trong tình yêu thương và thế giới yên bình của
những mái nhà hạnh phúc mà biết bao em thơ đang chờ đợi. Cuộc sống của
những đứa trẻ bất hạnh như Phác sẽ thế nào nếu hoàn cảnh sống không thay
đổi ? “Trẻ em như búp trên cành. Biết ăn ngủ biết học hành là ngoan”, “Trẻ
em hôm nay, thế giói ngày mai”, vậy mà hiện nay có biết bao tâm hồn trẻ em
bị tổn thương vì những lỗi lầm của người lớn gây ra ?
Tóm lại, từ cái nhìn nhân đạo, Nguyễn Minh Châu phát hiện ra đằng
sau câu chuyện buồn của cuộc đời người đàn bà hàng chài là vẻ đẹp của tình
mẫu tử, là sự hy sinh nhẫn nhịn, là lòng vị tha và sự thấu hiểu sâu sắc lẽ đời,
là bản lĩnh của người phụ nữ hiện đại . Đó là “hạt ngọc ẩn giấu” trong cái lấm
láp đời thường mà người nghệ sĩ phải đi sâu tìm hiểu và khám phá, ca ngợi và
nâng niu. Như vậy, qua tình huống truyện, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã để
22