Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tỷ giá hối đoái và tác động của nó lên cán cân thanh toán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.48 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu
1. Lí do lựa chọn đề tài………………………………………………………………. 3
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………………… 3
3 Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………… ………. 4
4 Nội dung nghiên cứu………………………………………………………………. 4
CHƯƠNG I : Những vấn đề chung về tỷ gía hối đoái……………… 5
1.1 Khái niệm về tỷ giá hối đoái……………………………………………………… 5
1.2 Cơ chế tỷ giá hối đoái…… ……………………………………………………… 6
1,3 Phân loại tỷ giá hối đoái ………………………………………………………… 7
1.3.1 Dựa trên tiêu thức là đối tượng quản lý ……………………………………… 7
+ Tỷ giá chính thức………………………………………………………………… 7
+Tỷ giá thị trường. ………………………………………………………………… .7
+Tỷ giá danh nghĩa…………………………………………………………………. 7
1.3.2 Dựa trên kỹ thuật giao dịch……………………………………………………8
+Tỷ giá mua bán trao ngay………………………………………………………… 8
+ Tỷ giá mua/ bán kỳ hạn……………………………………………………………8
1.4 Vai trò của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế…………………………………. . 9
1.5 Các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái……………………………………… 10
1.5.1 Trong Ngắn hạn……………………………………………………………… 10
1.5.2 Trong dài hạn…………………………………………………………………. 10
CHƯƠNG 2 Tình hình tỷ giá hối đoái tác động đến cán cân thanh
toán Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2014…………………………… 12
2 1 Tình hình tỷ giá hối đoái từ năm 2008 đến năm 2014…………………………. . 12
2.1.1 Tình hình tỷ giá Năm 2008…………………………………………………… 12
2.1.2 Tình hình tỷ giá năm 2009……………………… .…………. … …. 16
2.1.3 Tình hình tỷ giá năm 2010………………………………………………………19
2.1.4 Tình hình tỷ giá năm 2011………………………………………………………21
2.1.5 Tình hình tỷ giá năm 2012………………………………………………………23
2.1.6 Tình hình tỷ giá năm 2013………………………………………………………25
2.2 Các chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2014…… 28


2.3 Tác động cảu tỷ giá hối đoái đến cán cân thanh toán Việt Năm từ năm 2008 đến
năm 2014………………………………………………………………………. 33
CHƯƠNG 3 Dự báo tình hình tỷ giá hối đoái thời gian tới và
những kiến nghi. ……………………………………………………………. 35
3.1 Dự báo tỷ giá trong thời gian tới………………………………………… 5
3.2 Một số kiến nghị………………………………………………………………. 39
KẾT LUẬN ……………………………………………………………… 44
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Hình 1 Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008 11
Hình 2 Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2009 15
Hình 3 Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2010 20
Hình 4 Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2010 21
Hình 5 Các đợt điều chỉnh tỷ giá ….30

LỜI MỞ ĐẦU
1, Lý do chọn đề tài:
Với sự phát triển vũ bão như nền kinh tế thế giới, các mối quan hệ quốc tế trên mọi
lĩnh vực của một nước ngày càng được mở rộng ra các nước, do đó vẫn đề thanh toán,
định nghĩa, so sánh, phân tích về mặt giá trị trở nên phức tạp hơn nhiều. Đơn vị thanh
toán không phải là tiền tệ trong nước mà còn sự dụng các ngoại tệ khác nhau liên quan
đến việc trao đổi tiền của nước khác, Tiền của mỗi nước được quy định theo pháp luật
của nước đó và đặc điểm riêng của nó ,vì vậy phát sinh nhu cầu tất yếu là phải so sánh
giá trị ,sức mua của đồng tiền trong nước với ngoại tệ và giữa các ngoại tệ với nhau .
Hoạt động chuyển đổi đồng tiền này thành đồng tiền khác trong quá trình quan hệ
giữa các nước nhóm nước với nhau đã làm nảy sinh phạm trù tỷ giá hối đoái Tỷ giá
hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến các phạm trù kinh tế khác
và đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực, có hiệu quả trong việc tác động đến
quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đồng thời là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với
chính sách tiền tệ quốc gia. Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên

quan đến các phạm trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực, có
hiệu quả trong việc tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đồng thời là
yếu tố cực kỳ quan trọng đối với chính sách tiền tệ quốc gia.
Đã Từ lâu , Loài người đã và đang cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một nhận thức
đúng đắn để từ đó xác định và đưa vào vận hành trong thực tế một tỷ giá hối đoái phù
hợp, nhằm biến nó trở thành một công cụ tích cực trong quản lý nền kinh tế ở mỗi
nước Tỷ giá hối đoái, như các nhà kinh tế thường gọi là một loại "giá của giá" , bị chi
phối bởi nhiều yếu tố và rất khó nhận thức, xuất phát từ tính trừu tượng vốn có của bản
thân nó. Tỷ giá hối đoái không phải chỉ là cái gì đó để ngắm mà trái lại, là cái mà con
người cần phải tiếp cận hàng ngày, hàng giờ, sử dụng nó trong mọi quan hệ giao dịch
quốc tế, trong việc sử lý những vấn đề cụ thể liên quan đến các chính sách kinh tế
trong nước và quốc tế.Qua đó em chọn đề tài của mình là “ Tỷ giá hối đoái và tác
động đến cán cân thanh toán của Việt Nam”.
2.Mục đích nghiên cứu:
Việc phân tích cơ sở lí luận của tỷ giá ,cơ chế xác định, những yếu tố ảnh hưởng và
vai trò của tỷ giá đối với nền kinh tế . Từ đó làm sáng tỏ lên tầm quan trọng của chính
sách tỷ giá trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, thực hiện các giải pháp
chính sách nhằm giúp cho cán cân thanh toán được hoạt động hiệu quả góp phần phát
triển nền kinh tế quốc dân.
3.Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về tỷ giá hối đoái như khái niệm, tác động của nó
đến cán cân thanh toán , hoạt động ngoại hối, các chính sách điều hành tỷ giá hiện nay,
để đúc kết lại và đưa ra các giải pháp cho nền kinh tế.
4.Nội dung nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu ngoài lời mở đầu bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lí luận chung về Tỷ giá hối đoái
Chương 2: Tình hình tỷ giá hối đoái và tác động của nó đến cán cân thanh toán Việt
Nam từ năm 2008 đến năm 2014
Chương 3: Tình hình tỷ giá hối đoái thời gian tới và những kiến nghị
Và cuối cùng là phần kết luận của em toàn bộ đề án. Do hạn chế về trình độ, kinh

nghiệm cũng như thời gian và việc sưu tầm tài liệu nên khoá luận không tránh được
nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đánh giá góp ý của các thầy cô. Em xin
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Nguyễn Đình Chiến người trực tiếp
hướng dẫn và các bạn đã nhiệt tình giúp đỡ trong việc tìm tài liệu để em hoàn thành đề
án này.
CHƯƠNG 1
Những vấn đề chung về tỷ gía hối đoái
1.Khái niệm tỷ giá hối đoái.
Việc thực hiện các nghĩa vụ thanh toán quốc tế đòi hỏi phải so sánh một đồng tiền
nước này với đồng tiền của nước khác. Khi việc trao đổi mua bán vượt ra khỏi phạm
vi một quốc gia phải thỏa thuận dùng đồng tiền nước nào để tính và thanh toán hợp
đồng. Việc thanh toán này có thể sử dụng một trong hai đồng tiền của hai nước nhưng
cũng có thể sử dụng một đồng tiền thứ ba nào đó, từ đó xuất hiện đòi hỏi phải xem xét,
tính toán một đồng tiền nội tệ được bao nhiêu đồng ngoại tệ hoặc ngược lại một đồng
ngoại tệ được bao nhiêu nội tệ, tức là phải bằng cách nào đó chuyển đổi một đơn vị
tiền tệ của nước này thành đơn vị tiền tệ của nước khác. Muốn thực hiện được điều đó,
cần phải dựa vào một mức qui đổi xác định. Nói cách khác đó chính là phải dựa vào tỷ
giá hối đoái.
Có nhiều khái niệm về tỷ giá hối đoái mà chúng ta có thể trích dẫn định nghĩa của
một số tác giả sau đây.
+ Theo Samuelson nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng: Tỷ giá hối đoái là tỷ giá để đổi
tiền của một nước lấy tiền của một nước khác.
+ Theo Lê Văn Tề (1999) cho rằng: Tỷ giá hối đoái là tỷ giá so sánh đồng tiền giữa
các nước xét về mặt giá trị Ở mục 5 điều 4 của Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày 17-8-
1998 của Chính phủ Về quản lý ngoại hối ghi rõ: “Tỷ giá hối đoái là giá của một đơn
vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ Việt Nam”.Ví dụ: Một người nhập khẩu ở
Việt Nam phải bỏ ra 797.5 triệu VND để mua 50,000USD trả tiền hàng nhập khẩu từ
Mỹ.
Như vậy giá 1 USD là 15,950 VND, đây là tỷ giá hối đoái giữa đồng đô la Mỹ và
đồng ngân hàng Việt Nam.

Chúng ta còn thấy tỷ giá hối đoái được hiểu là quan hệ so sánh giữa hai đồng tiền
của hai nước khác nhau. Trong chế độ bản vị vàng, tiền tệ trong lưu thông là tiền đúc
bằng vàng và giấy bạc ngân hàng được đổi tự do ra vàng căn cứ vào hàm lượng vàng
của nó. Tỷ giá hối đoái lúc này là quan hệ so sánh hai đồng tiền vàng của hai nước với
nhau hoặc là so sánh hàm lượng vàng của hai đồng tiền hai nước với nhau. Cách so
sánh này gọi là ngang giá vàng (Gold parity). Như vậy trong chế độ bản vị vàng,
ngang giá vàng là cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái.
Ví dụ: Hàm lượng vàng của bảng Anh là 2.488281 gam, của đô la Mỹ là 0.888671
gam, do đó quan hệ so sánh giữa GBP và USD là: 1 GBP = 2.488281/0.888671 =
2.8USD. Trong chế độ lưu thông tiền giấy, giấy bạc ngân hàng không được đổi tự do
ra vàng theo hàm lượng của nó, do đó ngang giá vàng không còn là cơ sở để hình
thành tỷ giá hối đoái. Lúc này việc so sánh hai đồng tiền với nhau được thực hiện bằng
cách so sánh sức mua của hai tiền tệ với nhau, gọi là ngang giá sức mua của tiền tệ
(Purchasing Power Parity).
Ví dụ: Một hàng hóa A ở Mỹ có giá là 100USD, ở Pháp có giá là 82EURO Ngang
giá sức mua là: 1USD = (82/100) = 0.82EUR. Đây chính là tỷ giá hối đoái giữa đô la
Mỹ và đồng EURO.
1.2 Cơ chế xác định tỷ giá.
1.2.1 Cơ Chế Thị trường.
Tỷ giá cũng là một loại giá cả, nó được xác định dựa trên các lực lượng cung cầu nội
ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối là nơi mua bán trao đổi đồng
nội và ngoại tệ.
+ Xuất hiện việc cung tiền của nước A trên thị trường ngoại hối so với đồng tiền nước
B khi người dân nước A mua hàng nhập khẩu từ B hoặc khi người dân nước A đầu tư
sang nước B. Đường cung về tiền có độ dốc dương trong không gian hai chiều tỷ giá
và lượng cung tiền e* Q* Q (VND) Q (VND) e .
+ Xuất hiện về cầu tiền nước A trên B mua hàng xuất khẩu từ nước A hoặc khi người
nước người dân nước B đầu tư sang nước A. Đường cầu về có độ dốc âm trong không
gian hai chiều tỷ giá và lượng tiền. Sự cân bằng cung cầu tiền đạt được khi hai đường
này giao nhau và tỷ giá cân bằng được xác định.

1.2.2. Cơ chế hành chính.
Ở những nước theo đuổi chính sách kiềm chế tài chính và kiểm soát chặt chẽ nguồn
vốn thường đưa ra một mức tỷ giá neo cố định. Tỷ giá này có thể được thay đổi điều
chỉnh song không phải do các lực lượng thị trường quyết định. Nó được ấn định lại khi
các nhà quản lý cần thấy phải thay đổi nó để phục vụ cho một mục đích nào đó.
1.3 Phân loại Tỷ Gía Hối Đoái.
Các loại tỷ giá thông dụng trên thị trường, để nhận biết được tác động của tỷ giá hối
đoái đối với các hoạt động của nền kinh tế nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu nói
riêng ,người ta thường phân loại tỷ giá theo các tiêu thức sau đây:
1.3.1. Dựa trên tiêu thức là đối tượng quản lý.
+ Tỷ giá Chính Thức: đây là loại tỷ giá được biết dến nhiều nhất và là tỷ giá được nêu
trên các phương tiện thông tin đại chúng do ngân hàng công bố chính thức trên thị
trường để làm cơ sở tham chiếu cho các hoạt động giao dịch, kinh doanh, thống kê.
+ Tỷ giá danh nghĩa: là tỷ lệ giữa giá trị của các đồng tiền so với nhau, đồng này đổi
được bao nhiêu đồng kia .
+ Tỷ giá thực: là tỷ giá phản ánh tương quan giá cả hàng hoá của hai nước được tính
theo một trong hai loại tiền của hai nước đó hoặc là giá trị tính bằng cùng một đồng
tiền của hàng xuất khẩu so với giá hàng nhập khẩu v.v
+ Tỷ giá Hoái Đối Thực Tế (er) được xác định
er=en * pn/pf
+ pn chỉ số giá trong nước
+ pf chỉ số giá nước ngoài
+ Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của chênh lệch lạm phát giữa các
nước và phản ánh đúng sức mua và sức cạnh tranh của một nước.
1.3.2 Dựa trên kỹ thuật giao dịch : cơ bản có hai loại tỷ giá.
+ Tỷ giá mua/bán trao ngay, kéo theo việc thay đổi ngay các khoản tiền
+ Tỷ giá mua/bán kỳ hạn, kéo theo việc trao đổi các khoản tiền vào một ngày tương lai
xác định.
Bên cạnh đó, trong quá trình theo dõi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, người ta
còn đưa ra các khái niệm tỷ giá:

+ Tỷ giá điện hối: tức là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện, thường được niêm yết tại
ngân hàng. Tỷ giá điện hối là tỷ giá cơ sở để xác định các loại tỷ giá khác.
+ Tỷ giá thư hối : là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư .
+ Tỷ giá của sec và hối phiếu trả tiền ngay: được mua và bán theo một tỷ giá mà cơ sở
xác định nó bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi của giá trị toàn bộ của sec và hối
phiếu phát sinh theo số ngày cần thiết của bưu điện để chuyển sec từ nước này sang
nước khác và theo số ngày kể từ lúc ngân hàng bán hối phiếu đến lúc hối phiếu được
trả tiền .
+ Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi phát sinh tính từ lúc
ngan hàng bán hối phiếu đến lúc hối phiếu đó được trả tiền. Thời hạn này thường là
bằng thời hạn trả tiền ghi trên hối phiếu cộng với thời gian chuyển tờ hối phiếu đó từ
ngân hàng bán hối phiếu đến ngân hàng đồng nghiệp của nó ở nước Tỷ giá hối đoái
của con nợ hối phiếu. Thông thường lãi suất được tính theo mức lãi suất của nước mà
đồng tiền được ghi trên hối phiếu.
1.4 Vai trò của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế.
Đối với từng quốc gia hay nhóm quốc gia ( nếu có sự liên kết và có đồng tiền chung)
thì tỷ giá hối đoái mà họ quan tâm hàng đầu chính là tỷ giá giữa đồng tiền của chính
quốc gia đó , hay nhóm các quốc gia đó (đòng nội tệ) với các đồng tiền của các quốc
gia khác ( các đồng ngoại tệ). Tỷ giá giữ vai trò quan trọng đối với mọi nền kinh tế, sự
vận động của nó có tác động sâu sắc mạnh mẽ tới mục tiêu, chính sách kinh tế vĩ mô
của mỗi quốc gia thể hiện trên hai điểm cơ bản sau :
+ Thứ nhất, TGHĐ và ngoại thương: Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng
đối với mỗi quốc gia vì trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá xuất nhập
khẩu của chính quốc gia đó. Khi đồng tiền của một quốc gia tăng giá (Tăng trị giá so
với đồng tiền khác) thì hàng hoá nước đó ở nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá
nước ngoài tại nước đó trở nên rẻ hơn. Ngược lại khi đồng tiền một nước sụt giá,hàng
hoá của nước đó tại nước ngoài trở nên rẻ hởn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước
đó trở nên đắt hơn (các yếu tố khác không đổi). Tỷ giá tác động đến hoạt động xuất
nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế, gây ra thâm hụt hoặc
thặng dư cán cân.

+ Thứ hai, TGHĐ và sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát.Tỷ giá hối đoái không chỉ
quan trọng là vì tác động đến ngoại thương , mà thông qua đó tỷ giá sẽ có tác động đến
các khía cạnh khác của nền kinh tế như mặt bằng giá cả trong nước , lạm phát khả
năng sản xuất , công ăn việc làm hay thất nghiệp. Tỷ giá hối đoái Với mức tỷ giá hối
đoái 1USD =10500VND của năm 1994 thấp hơn mức 1USD = 13500VND của năm
1998 ,tức tiền Việt Nam sụt giá và nếu giả định mặt bằng giá thế giới không đổi, thì
không chỉ có xe con khi nhập khẩu tính thành tiền Việt Nam tăng giá mà còn làm tất
cả các sản phẩm nhập khẩu đều rơi vào tình trạng tương tự và trong đó có cả nguyên
vật liệ , máy móc cho sản xuất .
Nếu các yếu tố khác trong nền kinh tế là không đổi,thì điều này tất yếu sẽ làm mặt
bằng giá cả trong nước tăng lên. Nếu tỷ giá hối đoái tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua
các năm ( đồng nội tệ Việt Nam liên tục mất giá ) có nghĩa lạm phát đã tăng. Nhưng
bên cạnh đó , đối với lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước, thì sự
tăng gi của hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh vực này,
giúp phát triển sản xuất và từ đó có thể tạo thêm công ăn việc làm , giảm thất nghiệp
,sản lượng quốc gia có thể tăng lên. Ngược lại , nếu các yếu tố khác không đổi thì lạm
phát sẽ giảm ,khả năng cạnh tranh của các lĩnh vực trong nước cũng có xu hướng giảm
, sản lượng quốc gia có thể giảm,thất nghiệp của nền kinh tế có thể tăng lên, nếu tỷ gá
hối đoái giảm xuống ( USD giảm giá hay VND tăng giá ).
1.5 Các Nhân Tố Tác Động Đến Tỷ Gía Hối Đoái
1.5.1. Trong ngắn hạn:
+ Lãi suất : Lãi suất là một biến số kinh tế tổng hợp tác động đến nhiều chỉ tiêu khác
nhau trong đó tỷ giá và lãi suất có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Trong một
nước nếu lãi suất nội tệ tăng trong khi lãi suất thế giới ổn định sẽ làm cho các luồng
vốn quốc tế đổ vào nhiều vì mức lãi suất quá hấp dẫn. Do vậy cầu tiền nước này tăng
lên và tỷ giá tăng theo .
+Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầu cơ: tất cả đều có thể làm dịch chuyển đường
cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong
điều kiện thông tin liên lạc hiện đại và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao đổi
hàng tỷ USD giá trị tiền tệ mỗi ngày.

+Cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh mức cung- cầu về ngoại tệ
trên thị trường, do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái. Bội thu cán cân
thanh toán sẽ làm cho tỷ giá giảm và bội chi cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá tăng
1.5.2. Về dài hạn có 4 nhân tố tác động tới tỷ giá:
Năng suất lao động, mức giá cả tương đối ở thị trường trong nước, thuế quan và hạn
mức nhập khẩu, ưa thích hàng nội so với hàng ngoại.
+Năng suất lao động(NSLĐ) trong nước đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh
hưởng đến tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ.NSLĐ trong nước tăng lên tương đối so với
nước ngoài, đồng nghĩa với việc các nhà kinh doanh có thể hạ giá thành sản phẩm,
dịch vụ của mình tương đối so với hàng ngoại nhập, dẫn đến sự gia tăng mức cầu của
hàng nội địa so với hàng ngoại nhập, làm cho hàng nội địa vẫn bán tốt khi giá đồng nội
tệ tăng lên(TGHĐ) giảm xuống và ngược lại. Thực tế trên thị trường thế giới TGHĐ
của đồng tiền phụ thuộc rất khăng khít vào NSLĐ tương đối của nước đó. Một nền
kinh tế phát triển có NSLĐ cao trong thời kì nào đó thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
sự tăng giá của đồng tiền nước đó.
+ Thuế quan và hạn mức nhập khẩu là những công cụ kinh tế mà chính phủ dùng để
điều tiết và hạn chế nhập khẩu. Chính công cụ này nhiều hay ít đã tác động và làm
tăng giả cả của hàng ngoại nhập,làm giảm tương đối nhu cầu với hàng nhập khẩu, góp
phần bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong nước. Những công cụ mà
nhà nước dùng để hạn chế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng và làm cho tỷ giá hối đoái của
đồng nội tệ có xu hướng giảm về lâu dài.
+ Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. Nếu sự ham thích của người nước ngoài về mặt
hàng trong nước tăng lên thì cầu về hàng nội sẽ tăng lên làm đồng nội tệ tăng giá,bởi
hàng nội địa vẫn bán được nhiều ngay cả với giá cao hơn của đồng nội tệ. Cầu đối với
hàng xuất của một nước tăng lên làm cho đồng tiền nước đó giảm giá.
+ Năng suất lao động : Năng suất lao động cao làm giá hàng của một nước rẻ tương
đối so với các nước khác. Cầu hàng xuất nước đó cao lên kéo theo sự tăng giá của
đồng tiền nước đó. Về lâu dài , do năng suất lao động của một nước cao hơn tương đối
so với nước khác, nên đồng tiền của nước đó tăng giá.
+ Ngoài Ra Yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng đến tỷ giá: Phần lớn các nước đang phát

triển đều phải đối mặt với tình trạng “Đôla hoá” trong nền kinh tế. Đó là sự mất niềm
tin vào đồng bản tệ, người dân và các tổ chức kinh tế găm giữ đôla và chỉ tín nhiệm
đồng tiền này trong thanh toán trao đổi. Do vậy cầu USD rất lớn và giá các đồng bản
tệ xuống thấp các nước luôn trong tình trạng căng thẳng về dự trữ ngoại hối đảm bảo
khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tỷ lệ lạm phát: Nếu tỷ lệ lạm phát nước A cao hơn tỷ
lệ lạm phát nước B,nước A cần nhiều tiền hơn để đổi lấy một lượng tiền nhất định của
nước B.
+ Cán cân thương mại: Nó liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, xuất khẩu lớn tỷ
giá lên giá.
CHƯƠNG 2
Tình hình tỷ giá hối đoái và tác động của nó đến cán cân
thanh toán Việt Nam từ năm 2008 đến Năm 2014.
2.1 Tình hình tỷ giá hối đoái ở Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2014.
2.1.1 Tình hình tỷ giá năm 2008.
Hình 1: Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008
Nguồn: BIDV
+ Giai đoạn đầu (3 tháng đầu năm từ 01/01/2008 – 25/03/2008).
Trong giai đoạn 3 tháng đầu năm, tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng
liên tục sụt giảm (từ mức 16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560
đồng/USD). Trên thị trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD.
Nguyên nhân: là thời điểm này đang ở giai đoạn gần tết Dương lịch, do đó lượng
kiều hối chuyển về nước khá lớn. Thứ hai, các nhà đầu tư dự kiến VND sẽ tăng giá so
với USD, cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn giữa USD và VND nên các nhà đầu tư đẩy
mạnh việc bán USD chuyển qua VND. Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ Việt Nam (1,4 tỷ USD), các doanh nghiệp xuất
khẩu vay USD để phục vụ sản xuất kinh doanh…Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh
bán USD.
Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế
lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng
12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD

nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ
0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.
+ Giai đoạn 2 (từ 26/03 – 16/07).
Trong giai đoạn này, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh
điểm lên đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần.
Tâm lý hoang mang cộng với động thái đầu cơ của giới buôn ngoại tệ trên thị trường
tự do đẩy USD cùng với giá vàng tăng mạnh lên gần 19 triệu đồng/lượng. Tỷ giá lên
đỉnh ngày 18/06, sau đó giảm dần. Ngày 27/06, NHNN tăng biên độ USD/VND từ 1%
lên 2%.
Nguyên nhân: USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ yếu do tâm lý bất ổn của
doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm ngoại tệ
của giới đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất và nhập khẩu
đến hạn cao; Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và
quốc tế.
Nhà ĐTNN bắt đầu rút vốn khỏi Việt nam bằng việc bán TPCP khi lo ngại về tình
hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu mua
USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD).
Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh
nghiệp xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để
chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện
tượng doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị trường.
+ Giai đoạn 3 (từ 17/07 – 15/10).
Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng, tỷ giá
giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn quanh
mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 – tháng 11.
Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN
đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị
trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm.
Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị
trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ

trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua
ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán
ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.
+ Giai đoạn 4 (từ 16/10 đến nay).
Tỷ giá USDVND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998
sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung hạn chế, cầu
ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày
7/11/2008, tăng tới mức 17.440 đồng/USD.
Nguyên nhân: Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước
ngoài đẩy mạnh việc bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ
phiếu (100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao
khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của các
ngân hàng nước ngoài cũng tăng mạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày).
Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập vàng
thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là
đồng tiền thanh toán chính).
Nhận Xét: Ở Giai đoạn 1 ta thấy tỷ giá giảm dưới mức sàn nhưng sang giai đoạn 2
tỷ giá lại tăng lên mạnh so với mức sàn, Giai đoạn 3 lại giảm mạnh như so với giai
đoạn 1 nhưng dần về sau lại ổn định . Giai đoạn 4 tỷ giá VND/USD lại tăng trở lại.
Qua 4 giai đoạn trên ta thấy Tỷ giá của Năm 2008 Biến động theo từng giai đoạn 1
cách rõ rệt.
2.1.2 Tình hình tỷ giá năm 2009.
Tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi
NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên NH
đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên TTTD tiến sát mức 18000đồng/USD. Trong
bối cảnh nguồn ngoại tệ ròng vào VN là + trong 4 tháng đầu năm thì dường như yếu tố
chính khiến cho tỷ giá USD/VNĐ tăng mạnh lại là do ‘sự găm ngoại tệ’.
+Giai đoạn 1 (từ 01/01 –24/11/2009): tỷ giá liên tục tăng.
Tỷ giá biến động mạnh trên cả thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do.Cụ thể:
Từ tháng 1 đến tháng 3: tỷ giá LNH dao động trong khoảng 17.450 - 17.700

đồng/USD, cách giá trần khoảng từ 0 – 200đồng,còn TTTD cao hơn tỷ giá LNH
khoảng 100 đồng
Từ tháng 4 đến tháng 9 :tỷ giá trên 2 thị trường dao động trong khoảng 18.180 -
18.500 đồng/USD.
Từ tháng 10 đến 25/11/2009: Biến động tỷ giá rất dữ dội từ 18.545 –
19.300đồng/USD, có lúc đạt đỉnh 20.000 đồng/USD trên TTTD và 19.750 đồng/USD
trên thị trường liên ngân hàng.
Nguyên nhân:
+ Hiện tượng găm giữ ngoại tệ chờ giá lên của người dân
+ Có hiện tượng DN vay USD tuy chưa đến kỳ trả nợ nhưng đã mua sẵn USD để giữ
vì sợ tỷ giá sẽ tăng. Chính lượng đặt mua nhiều của DN khiến cầu ngoại tệ tăng. Ngoài
ra, do tâm lý bất ổn của cả DN và người dân khi tỷ giá tăng nhanh dẫn tới hiện tượng
găm giữ ngoại tệ.
+ Do tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất cho các DN bằng tiền đồng, do lãi suất
vay tiền đồng thấp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính
phủ nên một số DN có ngoại tệ có xu hướng không muốn bán ngoại tệ và chỉ muốn
vay tiền đồng. Đây là 1 tác động thiếu tích cực không mong muốn khi triển khai gói
kích cầu.
+ Ngoài ra, còn 1 số nguyên nhân khác như: thâm hụt cán cân thương mại lớn các
tháng cuối năm 2008, yếu tố tin đồn ,…
Giai đoạn 2 (từ 25/11 đến hết năm 2009).
Tỷ giá bắt đầu giảm về quanh mức 18.500 đồng /USD.
Hình 3 : Diễn biến tỷ gái năm 2009

Nguồn NHNN
Giá USD đã tăng khá mạnh trong 2 năm 2008 và 2009, sang đến tháng 1.2010 lại
giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479 đồng/USD cho đến giữa tháng
2/2010.
Nguyên nhân: Nguồn cung USD có thể sẽ tăng khá từ các nguồn: Từ nước ngoài,
lượng USD vào nước ta sẽ tăng khá so với năm trước, kể cả nguồn vốn đầu tư trực tiếp

(thực hiện tháng 1 tăng 33,3%), vốn hỗ trợ phát triển chính thức do năm trước cam kết,
ký kết đạt mức kỷ lục. Vốn đầu tư gián tiếp khi các nhà đầu tư nước ngoài liên tục
mua ròng trên thị trường chứng khoán
Nguồn kiều hối từ Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; Nguồn
thu từ khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại (tháng 1 tăng 20,4%).Kim ngạch
xuất khẩu chuyển từ tăng trưởng âm sang tăng trưởng dương. Bên cạnh đó, các tập
đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép tâm lý găm
giữ USD do lo sợ rủi ro tỷ giá giảm, chênh lệch giữa giá thị trường tự do với giá niêm
yết trên thị trường chính thức đã giảm đáng kể.
Ngoài ra, từ cuối năm 2009 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp
“vượt trước ngăn chặn” với nhiều động thái để giảm sức ép tăng tỷ giá, như: Tăng tỷ
giá liên ngân hàng đồng thời với việc giảm biên độ giao dịch từ ±5% xuống còn ±3%.
Yêu cầu các tập đoàn và tổng công ty lớn của nhà nước bán lại ngoại tệ cho ngân hàng,
bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại có trạng thái dưới 5%, yêu cầu các tập
đoàn và tổng công ty lớn của nhà nước bán lại ngoại tệ cho ngân hàng. Bán ngoại tệ
cho các ngân hàng thương mại có trạng thái dưới 5%, hạ 3% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với tiền gửi USD.
2.1.3 Tình hình tỷ giá năm 2010
Gồm 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Sau lần điều chỉnh ngày 11/02, giá USD trên thị trường tự do giữ đã có
1 thời gian dài ổn định ở mức 19.010-19.040 đồng/USD trong khi tỷ giá liên ngân
hàng ở mức 18.544 đồng/USD. Hầu hết thời gian 7 tháng đầu năm chứng khiến việc tỷ
giá tự do xuống sát, thậm chí có lúc còn thấp hơn tỷ giá giao dịch của các ngân hàng
thương mại.
Nguyên nhân: chủ yếu của hiện tượng khá hiếm hoi này này bắt nguồn từ tăng
trưởng tín dụng ngoại tệ đầu năm rất cao, 7 tháng tăng hơn 30%. Điều này dẫn đến sự
ổn định tạm thời của tỷ giá với lượng “cung ảo” khá dồi dào. Tuy nhiên, khi các khoản
vay này đến hạn, tình trạng đảo ngược chiều cuối năm đã xảy ra.
Giai đoạn 2: Sau một thời gian ổn định trong suốt 7 tháng đầu năm, tỷ giá có dấu
hiệu tăng trở lại. Đầu tháng 8, tỷ giá trên thị trường tự do nhích dần lên mức 19.200-

19.300 VND/USD trong khi tỷ giá niêm yết của các ngân hàng thương mại hầu như
luôn ở mức kịch trần 19.100 VND/USD. Sau lần tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng
lần thứ 2 vào ngày 18/08, tỷ giá trên thị trường tự do tăng lên mức 19.400-19.500
VND/USD, tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại cũng tiếp tục tăng lên sát
mức kịch trần khoảng 19.450-19.500 VND/USD. Mốc này được giữ tương đối ổn định
đến cuối quý III.
Giai đoạn 3: Đến cuối quý III, đầu quý IV tỷ giá USD tự do có xu hướng phá trần
19.500VND/USD, tăng mạnh và liên tục lên mức 20.000VND/USD vào cuối tháng 10.
Tuy nhiên, quá trình đi lên của tỷ giá USD tự do vẫn chưa dừng lại ở đây, tháng 11
đánh dấu sự tăng đột biến của tỷ giá, tăng vọt từ mức 20.000 VND/USD lên tới trên
21.000 VND/USD. Sang tháng 12 mặc dù tỷ giá có dấu hiệu hạ nhiệt nhưng vấn duy
trì ở mức trên 21.000 VND.USD đến cuối năm 2010.
Nguyên nhân của giai đoạn 2 và 3 là:
+ Thứ nhất: Tỷ giá tạm thời bình ổn trong khoảng 7 tháng đầu năm nhờ lượng “cung
ảo” tăng lên khi tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ ở mức rất cao (trên 30%). Tuy
nhiên, đến đầu quý III, khi các khoản vay đến hạn, tình trạng đảo ngược diễn ra gây
sức ép lên tỷ giá. Về phía cầu, nhu cầu USD tăng mạnh khi các doanh nghiệp đến hạn
phải trả nợ các khoản vay trước đó, thêm vào đó là nhu cầu vay ngoại tệ để nhập hàng
cho các tháng cuối năm.
Về phía cung, nhập siêu tiếp tục gia tăng, năm 2010, tổng nhập siêu lên tới 12.4 tỷ
đô la Mỹ (xuất khẩu đạt 71,6 tỷ USD trong khi nhập khẩu đạt 84 tỷ USD). Nhập siêu
cao đã hút đi 1 lượng lớn ngoại tệ trong nền kinh tế, gây ra áp lực về phía cung.
+Thứ hai: Là sự tăng giá mạnh mẽ của giá vàng thế giới trong giai đoạn này. Đầu
tháng 11 chứng kiến sự gia tăng đột biến của giá vàng thế giới từ mức 1.353
USD/ounce lên mức kỷ lục 1.408 USD/ounce vào ngày 11/11/2010, từ đó góp phần
đẩy giá vàng trong nước tăng mạnh. Giá vàng trong nước trong tháng 11 đã tăng từ
mức 33.5 triệu đồng 1 lượng hồi đầu tháng lên mức bình quân 35-36 triệu đồng/lượng,
đặc biệt giá vàng đã có lúc chạm mức đỉnh 35-36 triệu đồng/lượng, đặc biệt giá vàng
đã có lúc chạm mức đỉnh cao 37-38 triệu đồng/lượng vào ngày 9/11.
Ở Việt Nam giá vàng và giá đô la Mỹ có quan hệ tăng giảm cùng chiều, khi tỷ giá đô

la tăng sẽ đẩy giá vàng nhập khẩu tăng. Trong khi đó, giá vàng tăng tạo ra mức chênh
lệch cao giữa giá vàng trong nước và thế giới, điều này làm gia tăng hoạt động thu
gom đô la để nhập lậu vàng. Do vậy, có thể thấy sự tăng mạnh của tỷ giá trong tháng
11 có sự góp mặt của cú sốc giá vàng thế giới rồi từ đó tạo lập 1 giá đô la vòng xoáy
giá vàng – tỷ giá đẩy giá của cả 2 mặt hàng này lên rất cao.
Những tác động chính trên tạo sự cộng hưởng từ loạt chính sách điều hành với diễn
biến thực tế thị trường. Và thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước liên tục phát đi
thông điệp thị trường ngoại hối có chuyển biến tích cực.
Báo cáo mới nhất của Ngân hàng Nhà nước cho biết: “Các doanh nghiệp đã bán
ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng thương mại, tính thanh khoản của thị trường được cải
thiện rõ rệt, nhu cầu mua ngoại tệ được đáp ứng đủ. Từ giữa tháng 3 đến nay, trạng
thái ngoại tệ của hệ thống tổ chức tín dụng liên tục dương và trong hầu hết các ngày số
ngoại tệ mua được lớn hơn số ngoại tệ bán ra”.
2.1.4 Tình hình tỷ giá năm 2011
Đầu năm 2011, thị trường ngoại hối căng thẳng trước áp lực lạm phát và lãi suất tăng
cao kết hợp với NHNN phá giá tiền đồng với biên độ khá lớn là 9,3% đã khiến tỷ giá
trên thị trường tự do tăng mạnh lên tới trên 22.000 VND/USD và chênh lệch khá xa so
với tỷ giá chính thức.
Trước tình hình đó đó, chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp quản lý chặt chẽ như
cấm kinh doanh ngoại tệ trên thị trường tự do, cấm kinh doanh vàng miếng: Yêu cầu
các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải bán ngoại tệ cho tổ chức tín dụng. Điều
chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ thêm 1 điểm phần trăm, từ 6% lên 7% trên
tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng: Lãi suất huy
động tối đa bằng USD từ 1%/năm xuống còn 0,5%/năm đối với tổ chức và 3%/năm
xuống còn 2%/năm đối với cá nhân.
Những giải pháp có phần hành chính trên đã khiến thị trường ngoại hối tự do thu
hẹp, tỷ giá tự do giảm về quanh ngưỡng 20.530 - 20.630 VND/USD trong quý II, thậm
chí từ cuối tháng 6 giao dịch thấp hơn tỷ giá bình quân của các ngân hàng thương mại.
Thời gian gần đây, trong lúc tỷ giá đang ở mức ổn định, NHNN đã mua vào một
lượng USD đáng kể để tăng dự trữ USD. Theo một báo cáo mới nhất của Chính phủ

gửi các đại biểu Quốc hội trước khi khai mạc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII
ngày 21/7, trong những tháng đầu năm NHNN đã mua vào tổng cộng khoảng 4 tỷ
USD từ các NHTM để bổ sung cho quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. Hiện không có con
số chính thức và mới nhất về lượng dự trữ ngoại hối của Việt Nam, nhưng theo IMF,
dự trữ ngoại hối của Việt Nam tính đến tháng 6/2011 đã đạt khoảng 13,5 tỷ USD,
tương đương 1,5 tháng nhập khẩu. Như vậy, Chính phủ đang dần hút một lượng ngoại
tệ lớn trong lưu thông vừa để bù đắp dự trữ, hỗ trợ xuất khẩu vừa làm tăng niềm tin
vào tiền đồng.
Có thể nhìn nhận, những giải pháp ổn định thị trường ngoại hối trong thời gian qua
đang có hiệu quả khá tốt. Tuy nhiên, với nền kinh tế mà suốt nhiều năm bị thâm dụng
vốn, tỷ lệ nhập siêu vẫn đang ở mức cao hiện nay và tình hình thu hút đầu tư nước
ngoài trong năm nay chưa được khả quan sẽ là những yếu tố gây áp lực lên tỷ giá USD
trong giai đoạn cuối năm.
Dự trữ ngoại hối tuy có cải thiện so với đầu năm nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu dự trữ
tối thiểu (ADB quy định dự trữ ngoại hối tối thiểu tương đương với 2,5 tháng nhập
khẩu). Trong khi đó, nhập siêu vẫn tăng cao, cụ thể trong 7 tháng đầu năm 2011 nhập
siêu đã ở mức 6,64 tỷ USD, nếu không tính khoảng 2 tỷ USD vàng và đá quý xuất đi
trong cùng thời gian còn cao hơn nữa. Trong khi lượng thu hút từ FDI và FII chưa có
sự cải thiện so với năm 2010.
Hiện nay, do chênh lệch quá lớn giữa lãi suất cho vay VND từ 20 - 25% so với 6 -
8% của ngoại tệ, nhiều doanh nghiệp đã chuyển sang vay USD. Ngân hàng được lợi vì
chênh lệch huy động và cho vay USD rất lớn nên đã tích cực cho vay ngoại tệ vượt
140 - 150% lượng huy động được. Hệ quả sẽ rất lớn khi các doanh nghiệp sẽ phải
thanh toán số tiền này về cuối năm.
Còn diễn biến trên thị trường thế giới, đồng USD sau một thời gian dài giảm giá
mạnh đã có sự phục hồi trở lại từ giữa tháng sáu cho tới nay. Trong báo cáo gần đây
mặc dù FED đánh giá kinh tế Mỹ sẽ phục hồi chậm lại với tăng trưởng GDP khoảng
2,7%, nhưng vẫn cao hơn các quốc gia như Anh 1,5%, Nhật - 0,7%, EU 2,0%. Vì thế,
đồng bạc xanh có thể phục hồi mạnh hơn trong thời gian tới so với các đồng tiền mạnh
khác.

Nhận xét: Nhìn toàn cuộc, Chính phủ đang tập trung nhiều biện pháp để ổn định thị
trường ngoại hối và giảm khoảng cách chênh lệch đang quá lớn giữa thị trường chính
thức và thị trường tự do, ngăn chặn tình trạng đô la hóa đang diễn ra quá mạnh. Kinh
tế vĩ mô sẽ từng bước ổn định, tuy nhiên tình hình xuất siêu vẫn cao, dòng vốn FDI
chưa được cải thiện, kiều hối có xu hướng giảm trong khi lượng dự trữ ngoại hối của
Việt Nam đang ở mức thấp, đồng USD phục hồi và niềm tin vào VND suy giảm vì lạm
phát tăng cao sẽ tạo áp lực tỷ giá cuối năm 2011.
2.1.5 Tình hình tỷ giá Năm 2012
Nhìn chung, diễn biến tỷ giá USD/VND trong năm 2012 có thể chia thành hai giai
đoạn sau:
+Giai đoạn 1: Từ tháng 1- 6/2012, tỷ giá tăng nhẹ. Trong 6 tháng đầu năm diễn biến
tỷ giá VND/USD diễn ra ổn định với chiều hướng tăng nhẹ khoảng 0,55%. Tỷ giá bình
quân liên ngân hàng (BQLNH) tiếp tục được duy trì ở mức 20.828 VND/1 USD. Tỷ
giá giao dịch của ngân hàng thương mại (NHTM) sau một thời gian duy trìởmức kịch
trần biên độ đã được các ngân hàng điều chỉnh giảm dừng ở mức 20.860 - 20.920
VND/USD vào thời điểm cuối tháng 6/2012.
Riêng những ngày đầu tháng 6/2012, các NHTM đồng loạt nâng giá bán ra USD
kịch trần và duy trì trạng thái này gần một tuần, sau đó đã được các ngân hàng điều
chỉnh giảm trở lại. Diễn biến tỷgiátrên thịtrường “chợđen” bám sát diễn biến tỷ giá
giao dịch của NHTM, chênh lệch giữa hai thị trường này chỉ còn ở mức từ 20 - 70
VND/1USD – một sự chênh lệch không đáng kể nếu so với năm 2011 trung bình mức
chênh lệch là 1.000 - 2.000 VND/1 USD.
Một điểm khác biệt so với các năm trước là trong quý I/2012, từ ngày 13/2/2012 tỷ
giá mua vào của Sở Giao dịch NHNN được điều chỉnh cao hơn tỷ giá mua vào của các
NHTM. Điều này nhằm khuyến khích các NHTM bán lại cho NHNN ngoại tệ mua
được từ các doanh nghiệp và dân cư, tạo điều kiện cho NHNN thực hiện mục tiêu tăng
dự trữ ngoại hối quốc gia.
Hình 3 Tăng giảm tỷ giá Năm 2012

+ Giai đoạn 2: Từ tháng 7 - 12/2012, tỷ giá giảm dần. Xu hướng biến động tỷ giá

VND/USD duy trì ở mức độ ổn định và giảm dần. Những quyết sách rõràng vàminh
bạch của NHNN trong công tác điều hành chính sách tỷgiá, cùng với diễn biến khả
quan của cung - cầu ngoại tệ trong nền kinh tế, góp phần quan trọng tạo nên thặng dư
của cán cân tổng thể trong nửa đầu năm 2012 tiếp tục duy trì xu thế ổn định vào cuối
năm.
Tháng 8/2012, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do có tăng nhẹ và kéo dài khoảng
cách chênh lệch với tỷ giá giao dịch của các NHTM ở mức gần 70 VND/1USD, nhưng
sang tháng 9 bắt đầu xu hướng giảm dần đều cho tới cuối năm 2012 khi xoay quanh
mức 20.850 – 20.870/VND/1USD. Tỷ giá BQLNH vẫn được duy trì một đường kẻ
thẳng kể từ ngày 24/11/2011 cho đến nay.
Hình 4:Diễn biến tỷ giá Năm 2012

Điều đáng nói, diễn biến tỷ giá VND/USD diễn ra dường như theo quy luật trong các
năm gần đây là vào những tháng cuối năm tỷ giá thường cóxu hướng biến động rất
mạnh, kèm với sự chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do thường ở
mức khá cao. Tuy nhiên, trong năm 2012 hiện tượng này lại được loại trừ hoàn toàn.
Nguyên nhân: Có được kết quả trên là do sự kết hợp linh hoạt các biện pháp điều
hành chính sách tỷ giá của NHNN trong suốt năm 2012, nhằm bình ổn thị trường
ngoại tệ.
Theo đó, tỷ giáVND/USD sẽ được điều chỉnh biên độ dao động không quá 2 - 3%
trong cả năm 2012. Ngoài ra, diễn biến thuận lợi của cán cân thương mại, cán cân tổng
thểtrong năm 2012, đã hỗ trợ khá đắc lực cho những cam kết của NHNN. Đồng thời,
những quy định và biện pháp kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng đã khiến cho biến
động của thị trường này không còn gây nhiều tác động tiêu cực đến thị trường ngoại
hối tự do như trước đây.
2.1.6 Tình hình tỷ giá Năm 2013.
Năm 2013 được coi là năm thành công về ổn định tỷ giá khi cuối cùng Ngân hàng
Nhà Nước chỉ tăng 1% tỷ giá bình quân liên ngân hàng trong khi cam kết tăng tỷ giá
USDVND không quá 2-3%.
Trong năm qua, thị trường USDVND chứng kiến 3 đợt biến động lớn: cuối tháng 2

đầu tháng 3, cuối tháng 6 đầu tháng 7 và đầu tháng 12. NHNN đã linh hoạt trong điều
hành tỷ giá thông qua việc điều chỉnh giảm giá bán ra về mức 20.950 VND/USD từ
ngày 5/3/2013 thay vì mức giá trần là 21.036 VND/USD được duy trì từ cuối năm
2011 và sẵn sàng bán ngoại tệ để can thiệp thị trường. Sau đó, tỷ giá bán USD của
NHNN được điều chỉnh thêm 3 lần nữa phù hợp với cung cầu trên thị trường, cụ thể
tăng từ mức giá 20.950 VND/USD tăng lên mức 21.005 VND/USD (ngày 20/5/2013),
tăng lên mức trần 21.036 VND/USD (ngày 5/6/2013) và tăng lên mức trần 21.246
VND/USD (ngày 8/7/2013). NHNN cũng đã linh hoạt thực hiện việc bán ngoại tệ bình
ổn thị trường tại các mức tỷ giá này.
Mặc dù khi nhìn vào diễn biễn tỷ giá thì thị trường ngoại hối có vẻ biến động khá sôi
nổi trong năm. Tuy nhiên, ngoại trừ giai đoạn điều chỉnh tỷ giá bình quân LNH thì các
mức biến động trong năm không cao. Có thể nói đây là một năm thành công của
NHNN trong việc ổn định tỷ giá.
Cùng với sự thành công về ổn định tỷ giá, dự trữ ngoại hối được cải thiện được coi
là điểm sáng của thị trường ngoại tệ trong năm 2013. NHNN đã mua được một lượng
lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối ước tính đạt trên 25 tỷ USD tăng 6 tỷ USD so với
năm 2012.
Năm 2013, cán cân thương mại Việt Nam thặng dư khoảng 900 triệu USD khi kim
ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 132,2 tỷ USD và nhập khẩu năm 2013 đạt 131,3 tỷ
USD, tăng 15,4% so với năm trước. Hơn nữa, nguồn kiều hối đạt 11 tỷ USD (xếp thứ
9 trên thế giới về nhận kiều hối trong năm), và nguồn vốn FDI và ODA dồi dào cộng
thêm nguồn thu USD từ các doanh nghiệp xuất khẩu đã phần nào giúp ổn định nguồn
cung ngoại tệ cho thị trường trong năm qua.
Trong năm 2013, NHNN đã đề ra mục tiêu duy trì tỷ giá trong biên độ không quá 2-
3%, điều hành chặt chẽ theo tín hiệu thị trường, phù hợp với các cân đối vĩ mô và cán
cân thanh toán quốc tế, thực hiện các biện pháp tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước và
chống đô la hóa trong nền kinh tế.
Định hướng này được đưa ra dựa trên diễn biến cung-cầu và khả năng bình ổn thị
trường ngoại tệ cũng như biến động tỷ giá trong năm 2012, khi tỷ giá USD cuối năm
2012 giảm tới 1% so với đầu năm. Trong đó, cơ sở quan trọng để ổn định tỷ giá trong

trường hợp cần thiết là chuẩn bị đủ nguồn ngoại tệ, và chỉ điều chỉnh tỷ giá khi các
biện pháp cân đối cung-cầu không mang lại hiệu quả.
Những năm trước đây, tỷ giá USD tăng đã gây tác động lên mặt bằng giá cả, đặc biệt
là giá dầu, do Việt Nam phải nhập khẩu hầu như toàn bộ xăng dầu chế biến. Đồng
thời, gây tác động tâm lý khi nhiều người chuyển sang USD nhằm tránh lạm phát, điều
này lại tiếp tục gây áp lực lên tỷ giá. Khi giá USD tăng, các doanh nghiệp phải điều
chỉnh lại phương án sản xuất kinh doanh và các hợp đồng kinh tế, gây tốn kém tiền
bạc và nhiều bất lợi khác cho doanh nghiệp. Ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu cũng
chưa chắc đã được hưởng lợi khi giá USD tăng, do nhiều doanh nghiệp trong nước vẫn
dựa chủ yếu vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Do đó, việc đưa ra thông điệp tỷ giá rõ ràng ngay từ đầu năm đã giúp các tổ chức
kinh tế và cá nhân tránh được một trong những rủi ro lớn nhất do bất ổn tỷ giá thường
ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị VND, qua đó ảnh hưởng đến giá cả các mặt hàng và tác
động tâm lý.
NHNN đã giữ quan điểm điều chỉnh tỷ giá dựa trên kết quả tính toán tỷ giá thực, chủ
yếu dựa trên cán cân thanh toán quốc gia và đảm bảo mục tiêu điều hành chính sách
tiền tệ, đưa ra mức lãi suất thích hợp đối với tiền gửi ngoại tệ theo hướng có lợi cho
người gửi VND, qua đó đã hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ, đảm bảo hiệu quả kinh
tế của dự trữ ngoại hối quốc gia.
Tại một số thời điểm trong năm 2013, áp lực tỷ giá tăng nhẹ theo diễn biến trên thị
trường tài chính trong nước và quốc tế, phản ánh đúng qui luật vận động của tỷ giá.
Trong đó, đợt tăng giá dài nhất xuất hiện vào cuối tháng 4/2013, khi một số ngân hàng
thương mại (NHTM) đã nâng giá USD lên kịch trần cho phép 21.036 VND/USD,
thậm chí tăng giá mua bằng giá bán lên kịch trần 21.036 VND, giá bán USD trên thị
trường tự do lên tới 21.320 VND Cũng trong thời gian này, lãi suất tiền gửi VND tiếp
tục giảm, một số người có xu hướng găm giữ USD hơn là VND và những tài sản khác.
Tuy nhiên, tác động của yếu tố này là không nhiều do gửi VND vẫn có lợi hơn so với
USD, trong khi năng lực tài chính của số đông doanh nghiệp và cá nhân đều thấp do
khó khăn kinh tế kéo dài.
Để phù hợp với tín hiệu thị trường, ngày 27/6/2013, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá

bình quân liên ngân hàng thêm 1% lên mức 21.036 VND/USD, sau 1,5 năm ổn định ở
mức 20.828 VND/USD, đồng thời tiếp tục khẳng định quyết tâm ổn định tỷ giá như
định hướng đề ra từ đầu năm. Sau thời gian đó, nhu cầu USD tại các NHTM bắt đầu
hạ nhiệt dần, gây tác động lan tỏa sang thị trường tự do vốn chỉ chiếm thị phần rất nhỏ
trên thị trường ngoại hối quốc gia. Trong những ngày cuối năm 2013, giá USD tại các
NHTM ổn định quanh mức 21.140 VND. Trên thị trường tự do, giá USD phổ biến ở
mức 21.180-21.200 VND.
Nhận Xét: Nhờ chính sách ổn định tỷ giá và chủ động can thiệp trong trường hợp
cần thiết, thị trường ngoại tệ năm 2013 giữ được sự ổn định, tỷ giá dao động trong
biên độ cho phép, không có đột biến về nhu cầu ngoại tệ trên thị trường. Chênh lệch tỷ
giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp, tỷ lệ đô la hóa giảm mạnh.
Các thị trường trong nước không còn chịu tác động của giá USD trên thị trường quốc
tế, đây là yếu tố quan trọng trong việc duy trì và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư.
Tỷ giá ổn định đã góp phần tích cực trong việc ổn định lạm phát, thu hút đầu tư nước
ngoài, tăng dự trữ ngoại hối. Do tỷ giá ổn định, các tổ chức kinh tế và cá nhân có xu
hướng đẩy mạnh bán ngoại tệ cho các NHTM để lấy VND.
2.2 Các chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam từ năm 2008 dến 2014
Chính sách tỷ giá Ảnh hưởng của tỷ giá đến nền kinh tế ở Việt Nam
Từ năm 2008, trước tình hình suy thoái kinh tế quốc tế ảnh hưởng mạnh đến Việt
nam, các dòng vốn vào Việt nam bị hạn chế, ngân hàng nhà nước đã chủ động điều
chỉnh tỷ giá liên ngân hàng để tăng tính thanh khoản trên thị trường ngoại tệ, Tính đến
26/12/2008, ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh biên độ tỷ giá từ 2% lên 5%, điều
chỉnh tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng 5,16%.
Ngày 26/11/2009, ngân hàng nhà nước hạ biên độ tỷ giá từ mức 5% xuống 3%, đồng
thời nâng tỷ giá liên ngân hàng thêm 5,44%, lên mức 17.961 VND/USD.
Ngày 10/2/2010, ngân hàng nhà nước quyết định điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng từ
mức 17.941 VND/USD lên mức 18.544 VND/USD, đồng thời ấn định lãi suất tiền gửi
tối đa bằng đôla Mỹ của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng ở mức 1%. Các quyết định
này là nhằm mục đích cân đối cung cầu ngoại tệ, tạo điều kiện kiểm soát cung tiền,
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.

Theo cơ chế này, hàng ngày Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ‘công bố tỷ giá giao
dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng ngày hôm trước làm cơ sở để các ngân
hàng thương mại (NHTM) xác định tỷ giá giao dịch trong ngày xoay quanh biên độ do
NHNN công bố trong từng thời kỳ.’
Như vậy, chế độ tỷ giá này sẽ có sự can thiệp của NHNN nhằm hạn chế những biến
động mạnh của tỷ giá hối đoái như quy định biên độ giao dịch giữa đồng Việt Nam và
USD, duy trì tỷ giá USD ở mức mục tiêu nhằm tránh những rủi ro có thể xảy ra đối
với các hoạt động kinh doanh quốc tế. Chế độ tỷ giá này vừa đảm bảo ổn định tỷ giá,
tạo điều kiện thuận lợi cho các DN hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, đảm bảo
được tính linh hoạt và tiên liệu được thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tăng khả
năng cạnh tranh của hàng.
Chính sách tỷ giá là một trong những chính sách kinh tế có tác động hóa sản xuất
trong nước, hỗ trợ xuất khẩu - một cấu thành quan trọng của tăng trưởng kinh tế.
Ảnh hưởng của chính sách tỷ giá đến mục tiêu tăng giảm xuất nhập khẩu( Cán cân
thương mại).
Đánh giá mức độ ảnh hưởng của tỷ giá đến việc tăng khả năng xuất khẩu của Việt
Nam còn có những hạn chế nhất định, do trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam
chủ yếu là hàng nông thủy sản, sản phẩm tài nguyên, như dầu thô, cao su. Thêm vào
đó, trong cấu thành các mặt hàng xuất khẩu, nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỷ trọng đến
70% là giá trị hàng nhập khẩu. Vì thế, sẽ có hiệu ứng trung chuyển của tỷ giá vào hàng
hoá được sản xuất để xuất khẩu.
Cán cân thương mại của một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim
ngạch nhập khẩu. Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được
ngoại tệ. Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội
tệ, mua hàng hoá dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung
ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ,
các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị
trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai
hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh

yếu của các nhân tố, đó chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư
thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ
lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá (đây là
trường hợp ở nước ta hiện nay). Về lý thuyết, việc tăng tỷ giá USD/VND sẽ hỗ trợ cho
hoạt động xuất khẩu, làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng việt xuất đi nước ngoài.
Chẳng hạn hàng thủ công mỹ nghệ, hàng nông lâm thủy hải sản. Trong tháng 1/2011,

×