Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vài nét về thơ ca Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (17991872)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.12 KB, 21 trang )

VÀI NÉT VỀ GIÁ TRỊ THƠ CA PHƯƠNG ĐÌNH NGUYỄN VĂN SIÊU
(1799-1872)
Nguyễn Văn Siêu tự là Tốn Ban, hiệu Phương Đình và Thọ Xương cư sĩ,
thụy là Chí Đạo. Ông sinh ngày mồng 3 tháng 7 năm Kỷ Mùi (1799), mất ngày
mồng 7 tháng 6 năm Nhâm Thân (1872); Nguyên quán làng Lủ (hay còn gọi là
làng Kim Lũ ), xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, sau định cư tại thôn Dũng Thọ,
huyện Thọ Xương, Hà Nội. Nguyễn Văn Siêu là một nhà Nho tiêu biểu của thế kỷ
XIX. Ông là người có trách nhiệm với dân với nước, là người thầy uyên bác đức
độ, là nhà văn hóa luôn gìn giữ truyền thống và là tác gia với sự nghiệp trước tác
khá đồ sộ. Về thơ ca tác giả còn để lại bốn tập thơ là Phương đình vạn lí tập,
Phương Đình anh ngôn thi tập, Phương Đình Lưu lãm thi tập, Phương Đình mạn
hứng thi tập. Phương Đình sáng tác theo các thể của thơ Đường luật và cổ phong.
Trong bốn tập thơ của ông có ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú, thất ngôn tứ
tuyệt, thất ngôn bát cú và thể trường thiên. Mỗi thể đều có những thế mạnh và
những thành công riêng. Ông sáng tác nhiều đề tài khác nhau, ở đây tạm chia
thành ba mảng lớn là đề tài thiên nhiên, đề tài con người và đề tài cá nhân với
những giá trị đặc sắc về nghệ thuật và nội dung.
1. Đề tài về thiên nhiên
Như nhiều bậc tao nhân mặc khách, Nguyễn Văn Siêu cũng say cảnh thiên
nhiên. Trong thi phẩm của ông, thiên nhiên tỏa sáng ở hai vẻ đẹp, thứ nhất là
những vẻ đẹp dữ dội gai góc tác động mạnh vào các giác quan, thứ hai là những vẻ
đẹp êm đềm thơ mộng, gợi tả cuộc sống bình yên. Đứng trước những núi cao, thác
hiểm, đèo sâu…ngòi bút tác giả trở nên thật sống động, khắc họa thật hữu hình.
Còn lúc đối diện với những mặt hồ trong xanh, những dòng sông hiền hòa, những
cánh đồng trải dài, những làng quê thanh bình…thi nhân chủ yếu dùng nghệ thuật
chấm phá, nắm bắt linh hồn của cảnh vật. Đặc điểm này có sự gặp gỡ giữa thơ ca
và văn xuôi, góp phần tạo thành những nét riêng trong diện mạo văn chương.
1.1. Thiên nhiên hùng vĩ và khắc nghiệt
Thiên nhiên hùng vĩ và khắc nghiệt ở cả hình hài, dáng vẻ, màu sắc, âm
thanh… Nào là:
Hữu cố vụ điền hải,


Tả cố vân yểm sơn.
Kình ngạc ba thần bế,
1
Hổ báo nham linh nhàn.
(Dạ xuất Hoành Sơn quan)
(Quay phải sương ngập biển,
Quay trái mây trùm núi.
Sóng kình ngạc dâng bí hiểm,
Đá hổ báo nằm linh thiêng)
(Đêm qua cửa ải Hoành Sơn)
Rồi thì:
Chướng lạc phan thành vũ,
Vân sinh các yểm phong.
(Nam Quan kỷ biệt)
(Khí lam chướng của núi rừng rơi xuống như mưa,
Mây đùn lên che phủ các ngọn núi)
(Từ biệt ở Nam Quan)
Lại nữa:
Tiền sơn ninh hữu vũ,
Bạch trú hà vi lôi.
Thạch kích Phi Tuyền tẩu,
Giang đầu cấp thế lai.
(Hưởng Hồ)
(Núi phía trước sao như có tiếng mưa,
2
Ngày nắng sáng sao nghe như có sấm.
Vách đá như kích dòng Phi Tuyền bay,
Đầu sông thế nước chảy cuộn đến)
(Hưởng Hồ)
Với những ngôn từ nghệ thuật giàu tính tạo hình, khả năng liên tưởng sắc

sảo, tác giả đã phô bày cảnh tượng kỳ vĩ của thiên nhiên. Thi nhân Phương Đình
đã sử dụng vốn Hán ngữ thuần thục điêu luyện và khả năng tạo hình đầy ấn tượng.
Người đọc như tận mắt chứng kiến, thể nghiệm những cảnh tượng này.
Hơn thế, trong vẻ đẹp dữ dội của thiên nhiên dường như ẩn chứa tâm sự
của tác giả, tuy mơ hồ mà cũng rất rõ nét:
Tháp thế phi tăng trọng,
Giang lưu nại nhược hà.
Khả lân sơn lưỡng ngạn,
Bôn thấu tự tùy ba.
(Ngao Đầu sơn)
(Thế tháp không thêm nặng,
Sông chảy chẳng hề chi.
Đáng thương hai bờ núi,
Cứ phải chạy theo những con sóng)
(Núi Ngao Đầu)
Dường như có một ý thức khẳng định cá nhân trong hình tượng ngọn núi
giữa lòng sông này? Trong những tứ thơ như trên, phép ẩn dụ tạo chiều sâu cho thi
ca. Những hình tượng nghệ thuật không phải cách tượng trưng quy phạm kiểu ngư
tiều canh mục, tùng cúc trúc mai, long li quy phụng… cũng không phải là ẩn dụ
mô-típ vật dụng thường nhật như quả dưa, cái chổi, ông đầu rau, cây gậy… Nhà
thơ đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ một cách rất riêng và mang tính hiện đại trong
cách lựa chọn cái biểu đạt và nội dung biểu đạt.
3
1.2. Thiên nhiên thơ mộng và bình yên
Bên cạnh những bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ dữ dội, thơ của thi nhân
Phương Đình còn có những bức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng, gợi xúc cảm nội tâm.
Nghệ thuật chấm phá, một thủ pháp tả cảnh quen thuộc của văn học phương Đông,
đã được phát huy thế mạnh để làm tha thiết hơn những cảnh những tình. Thiên
nhiên đất nước quê hương hiện lên qua rặng trúc xanh, tiếng chuông ngân trên mặt
hồ, ánh trăng huyền ảo, con thuyền bé nhỏ chòng chành, gợn sóng lăn tăn, làn khói

nhẹ phảng phất, cơn mưa nhập nhòa, những nếp nhà ẩn hiện …
Thành trì không lịch lịch,
Thiên thủy tự du du.
Chung thanh tỉnh phù thế,
Thụ sắc minh tàn thu.
(Du Tây Hồ)
(Thành trì còn không đó,
Trời nước tự xa xưa.
Tiếng chuông thức tỉnh kiếp đời trôi nổi,
Sắc của cây lộ rõ cảnh thu tàn)
(Chơi Hồ Tây)(*)
Duyên lưu yên hỏa thiên thôn quýnh,
Bạc phố chu phàm vạn lí thông.
Lao lạc khách tình đương ngạn Bắc,
Bồi hồi phiến nguyệt tự giang Đông.
Vân đê viễn thụ tà khuy thủy,
Thiên khoát cao lâu dị đáo không.
(Nhị Hà đối nguyệt)
4
(Men theo dòng sông, hàng nghìn thôn xóm xa xa, le lói ánh lửa,
đèn,
Thuyền đậu trong bến buồm giương cao sẵn sàng đi tới nơi vạn dặm.
Phía bờ Bắc lòng khách đượm nỗi buồn tha hương,
Mé Đông dòng sông bồi hồi ngắm mảnh trăng lơ lửng.
Mây thấp, rặng cây xa nghiêng dòm mặt nước,
Bầu trời rộng lớn, lâu đài cao vút tưởng chừng chạm đến hư không)
(Ngắm trăng trên sông Nhị)(*)
Chướng khiếm yên tiêu nhật chính huân,
Chiêu đàm đáo ảnh lạc tân phân.
Sàn nhan tích thúy sơ phùng vũ,

Bễ nghễ liên gia bán nhập vân.
(Bình Lạc triêu tễ lãm thắng)
(Chướng khí ít dần, khói sương mờ dần, mặt trời chiếu tỏ,
Hồ nước trong in bóng những hình ảnh dày đặc.
Sắc vẻ mờ nhạt xanh hơn khi bắt đầu gặp cơn mưa,
Trông nghiêng vài mái nhà liền nhau, một nửa như nhập vào mây)
(Ngắm cảnh mưa tạnh ở Bình Lạc)(*)
Tất cả những nét chấm phá đó đã tái hiện linh hồn cảnh vật để khẳng định
một tài năng văn chương với một tâm hồn rất nhạy cảm trước thiên nhiên. Bằng
nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, thi nhân đưa người đọc vào những cung bậc tình cảm
rất khác nhau, có thể là một nỗi buồn da diết từ tâm can ngấm vào cảnh vật và sự
se sắt của cảnh vật tràn vào lòng người:
Xuân ba chuyển lục thụ,
5
Sơn thúy tạp nhân yên.
Hà sự thôi bồng vũ,
Hàn thanh động nhất xuyên.
(Ninh Minh giang chu thứ)
(Sóng xuân nhuốm cây xanh,
Sắc núi biếc nhòa khói nương.
Cớ gì mưa trên mái bồng cứ gõ,
Tiếng mưa lạnh khuấy động cả dòng sông)
(Thuyền đậu trên sông Ninh Minh)(*)
Nhưng cũng có thể, ở đó thiên nhiên đẹp đẽ, như làm vợi bớt những cơn cớ ưu
phiền sầu muộn và bừng sáng một cảm thức thanh thoát và bình yên:
Thả tận minh triêu hứng,
Đồng quân đãng bách ưu.
(Du Tây Hồ)
(Cùng tận hưởng cái hứng của buổi sáng trong lành,
Cùng anh bỏ hết trăm mối sầu lo)

(Chơi Hồ Tây) (*)
1.3. Thiên nhiên mang dấu tích lịch sử
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Văn Siêu không chỉ là thiên nhiên đẹp bình
yên hay hùng vĩ mà còn là thiên nhiên mang dấu tích lịch sử. Thơ ông có rất nhiều
tác phẩm viết về những di tích lịch sử ở Việt Nam và ở Trung Quốc. Các tác phẩm
như Quan Cổ Loa thành An Dương Vương miếu hữu tác (Cảm xúc khi ngắm miếu
An Dương Vương thành Cổ Loa), Du Phổ Minh tự (Chơi chùa Phổ Minh), An Sơn
Phật Tích hoài cổ (Thăm núi Phật Tích ở An Sơn nhớ chuyện xưa), Long Trì dạ
nguyệt (Trăng đêm ở Long Trì), Chương Dương độ (Bến Chương Dương), Nhị
6
Thanh động yết Tiền Lê Đốc trấn Ngọ Phong tiên sinh di tượng (Tại động Nhị
Thanh bái yết tượng Đốc trấn Ngọ Phong thời Lê), Yết Mã Phục Ba tướng quân
miếu (Thăm miếu tướng quân Mã Phục Ba), Quá Tào Tháo nghĩ trủng (Qua mộ
giả của Tào Tháo), Quá Triệu Vương cổ thành (Qua thành cổ Triệu Vương),
Tuyên Hoá vịnh hoài cổ tích (Tại Tuyên Hoá vịnh dấu tích xưa)…Trong những
tác phẩm này, tác giả thường bộc lộ những suy tưởng, chiêm nghiệm sâu xa. Ví
như khi thăm núi Phật Tích ở An Sơn:
Lăng tằng sơ thế ngạo thương thương,
Hoa thảo trường lưu động khẩu hương.
Sinh hoá tương truyền Từ tử sự,
Hữu vô thuỳ biện Lí triều vương ?
Dục đồi cô tháp tranh phong vũ,
Bán lạc tàn bi chứng hải tang.
Nan dữ tục tăng đàm vãng sự,
Kiếp hôi không mãn cựu trì đường.
(An Sơn Phật Tích sơn hoài cổ)
(Lớp lớp núi cao đứng ngạo nghễ dưới bầu trời xanh,
Nơi cửa động vẫn còn lưu giữ hương thơm hoa cỏ.
Chuyện sinh rồi hoá của Từ Đạo Hạnh vẫn được lưu truyền,
Có hay không, ai nói rõ được thân thế của vua nhà Lí.

Ngọn tháp cô độc sắp đổ ganh đua với mưa gió,
Bia cũ vỡ một nửa làm chứng cho sự thay đổi.
Khó mà cùng những nhà sư tầm thường bàn chuyện đã qua,
Bụi của lửa kiếp vẫn đầy ở đê điều ao hồ xưa)
(Thăm núi Phật Tích ở An Sơn nhớ chuyện xưa) (*)
7
Tác giả như hoà mình vào dòng chảy của thời gian, tận hưởng vẻ đẹp của
thiên nhiên ở thế núi trùng điệp, ở màu sắc của bầu trời xanh thẳm, ở hương vị cỏ
cây còn lưu mãi với thời gian…rồi suy ngẫm về những nhân vật lịch sử như Từ
Đạo Hạnh, vua nhà Lí và găm lại lòng người dấu ấn của sự đổi thay. Hai hình ảnh
dục đồi cô tháp (ngọn tháp cô độc sắp đổ) và bán lạc tàn bi (tấm bia cũ đã vỡ một
nửa) trở thành những ám ảnh nghệ thuật về vòng quay tang thương dâu bể của
kiếp người, của cuộc đời và của cả những triều đại, những hệ tư tưởng.
Tác giả xót xa trước những nỗi đau của lịch sử. Khi thăm gò Đống Đa phía
Tây thành Hà Nội, nơi diễn ra một trong những cuộc chiến thảm khốc giữa quân
Tây Sơn và quân xâm lược Mãn Thanh, ông viết:
Sự dĩ đồi ba bất khả chi,
Tây Sơn quật khởi diệc tuỳ di.
Tha nhân ỷ trọng nan vi quốc,
Khách địa khinh phù mạn khí si.
(Điếu thành Tây Loa Sơn cổ chiến trường xứ)
Sự nghiệp (nhà Lê) như sóng nước trôi xuôi không thể chống đỡ được,
Tây Sơn nổi lên, cũng là sự biến chuyển theo thời thế.
Dựa vào người ngoài khó mà lo được việc nước,
Ở đất khách khinh suất là đem vất quân đi)
(Thăm viếng Loa Sơn phía Tây thành nơi chiến trường xưa) (*)
Và người con của dân tộc luôn quật cường chống lại giặc ngoại xâm đã bày
tỏ niềm tự hào trước những chiến công oanh liệt:
Nguyên nhân vô yếm tứ lăng xâm,
Bách vạn Nam lai độc tựu cầm.

Tranh đạo chiết xung đa tướng lược,
Thuỳ tri “sát Thát” thử nhân tâm.
8
Phân mao thế giới thành chung cổ,
Đoạt sóc uy danh thuyết chí câm.
Cổ độ thu phong trường tống khách,
Trung lưu hồi thủ nhất phi khâm.
(Chương Dương độ)
(Người Nguyên ngông cuồng đeo đuổi việc xâm lăng tham lam
không chán,
Hàng trăm vạn quân sang nước Nam đều bị bắt cả.
Cứ nói : bẻ gẫy sức mạnh của giặc là nhờ mưu lược của tướng lĩnh,
Mấy ai biết rằng: chính là nhờ lòng dân nung nấu hai chữ “sát Thát”.
Nơi cỏ rẽ đã thành biên giới muôn thuở,
Uy danh cướp giáo còn truyền tụng đến tận ngày nay.
Trên bến đò xưa gió thu thổi hoài tiễn khách,
Giữa dòng ngoảnh đầu lại phanh áo đón gió thu)
(Bến đò Chương Dương) (*)
Cùng là đứng trên bến sông đã diễn ra những chiến thắng lẫy lừng, nhưng
sau nhiều thế kỉ, bài thơ của Nguyễn Văn Siêu làm xúc động lòng người không
phải bởi hào khí Đông A hừng hực như bài Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang
Khải mà bởi niềm tự hào được viết lên sau những suy tư về lịch sử và nỗi niềm
hoài cổ vương vấn mãi trong những hình ảnh cổ độ thu phong (gió thu nơi bến đò
xưa), trung lưu hồi thủ (giữa dòng quay đầu lại)… Hàng loạt những tác phẩm với
những xúc cảm về thiên nhiên, không gian mang dấu ấn lịch sử đã cho thấy tác giả
thường có những ngẫm suy quá vãng. Tìm hiểu yếu tố lịch sử của một không gian
chính là tìm hiểu những giá trị văn hoá của không gian ấy. Đó cũng chính là nét
riêng trong sáng tạo nghệ thuật của thần thơ họ Nguyễn, một hồn thơ trầm lắng
với những chiêm nghiệm sâu xa.
2. Đề tài về con người

9
Đề tài nổi bật thứ hai trong thơ thi nhân Phương Đình là đề tài viết về con
người. Trong bốn tập thơ, đề tài này được khai thác trên nhiều phương, nhưng xúc
động hơn cả là mảng viết về sự thống khổ của người dân lao động với nỗi xót xa
vô hạn trước cuộc sống khó khăn cơ cực lầm than mà họ phải gánh chịu:
Quái sự, quái sự bất nhẫn văn,
Bạch trú sát nhân toàn gia khứ.
Quân lại quá giả cố chi tha,
Hương lí tàng nặc bất cảm ngữ.
Ngữ giả thập nhân vô nhất sinh,
Gia gia hôi tẫn thành phi nhứ.
Tróc nhân quan đạo như thâm sơn,
Vãng lai tinh tán vô nhân cự.
Thù giả sách tiền phục sát chi,
Nhân gia ngưu tửu nhật yếm ứ.
Triêu tịch hoành hành vi lí lư,
Phủ huyện nha biên thời tán xử.
Khoảnh khắc liên phá nhị tam thôn,
Kinh hoàng tẩu tử lão nhi nữ.
Thái thậm phất hoạch dĩ chi quan,
Tầm phục nhất không trục dữ trữ.
(Nhân tự Bắc Ninh lai,
ngôn Bắc Ninh sự, cảm tác)
(Chuyện lạ quá, chuyện lạ quá, không thể chịu nổi khi nghe,
10
Giữa ban ngày vào giết cả nhà người ta rồi bỏ đi.
Quân lính nha lại qua đó, ngó nhìn rồi lảng tránh,
Làng xóm che giấu không dám nói.
Nói ra, mười người không một ai sống sót,
Nhà nhà bị thiêu rụi, tàn bay khắp nơi.

Giữa đường lớn bắt người như ở chốn núi sâu,
Người qua lại đều bỏ chạy tán loạn không ai dám chống cự.
Thù ai, bọn chúng đòi tiền rồi giết đi,
Trâu rượu của người ta ngày ngày chúng no say chán chê.
Ngày đêm hoành hành bao vây thôn xóm,
Chúng lảng vảng, tụ tập ngay bên cạnh nha môn phủ huyện.
Trong khoảnh khắc cướp phá vài ba thôn,
Già trẻ gái trai sợ chết chạy tứ tán.
Quá quắt không chịu nổi lên kêu quan,
Thì nhà cửa cơ nghiệp đều sạch không)
(Có người từ Bắc Ninh tới, kể những việc xảy
ra ở Bắc Ninh, xúc động làm bài thơ này) (*)
Bài thơ được viết bằng ngòi bút hiện thực. Tác giả tái hiện cảnh hỗn loạn,
nỗi sợ hãi của người dân trong nạn cướp bóc. Căm giận tội ác bọn đạo tặc, ông tố
cáo sự bạo ngược của chúng bằng hàng loạt những động từ: sát (giết), tróc (bắt),
sách (đòi hỏi), phá (tàn phá)… Thậm chí trong một câu thơ tác giả sử dụng hai
động từ để lột tả hết sự tàn khốc trong hành động của chúng: thù giả sách tiền
phục sát chi (thù ai, bọn chúng đòi tiền rồi giết đi)… Cảm thương nỗi kinh hoàng,
hoảng loạn của người dân, ông miêu tả chân thực cảnh tượng, tâm trạng của họ:
khứ (bỏ đi), kinh hoàng (sợ hãi, hoảng loạn)… Đặc biệt thông qua những từ phủ
11
định tác giả đã cho thấy sự bất lực của người dân: vô nhất sinh (không một ai sống
sót), vô nhân cự (không một ai chống cự) …
Ông viết về hiện thực bằng nỗi ám ảnh, sự trăn trở và nước mắt của mình.
Vì thế chất hiện thực trong thơ ông sắc sảo mà xúc động. Từ nửa cuối thế kỉ XVIII
đến hết thế kỉ XIX, văn học Việt Nam xuất hiện trào lưu văn học hiện thực mang
giá trị nhân đạo với sáng tác của các tác giả như Phạm Nguyễn Du, Ngô Thế Lân,
Bùi Huy Bích, Nguyễn Du, Lý Văn Phức, Cao Bá Quát… Triều đại phong kiến có
thể nào làm ngơ trước những tai hoạ rình rập khắp nơi mà nạn nhân chính là
những người dân lam lũ chân lấm tay bùn. Họ chỉ là những thân phận bé nhỏ vô

nghĩa bị dìm chết trong đói khát, bệnh tật, cướp bóc, chém giết và chiến tranh.
Những con người đi nhiều, hiểu nhiều, luôn bị tổn thương trước bất công như tiên
sinh họ Nguyễn đã không thể dửng dưng trước những bi kịch nghiệt ngã ấy. Cố
nhiên, cũng như nhiều tác gia trong giai đoạn này, hiện thực trong các tác phẩm
của Nguyễn Văn Siêu dường như chỉ dừng lại ở việc phơi bày tội ác của nha lại
địa phương, đồng cảm với nỗi bất hạnh của “dân đen con đỏ” chứ chưa thấu suốt
được bản chất xã hội đương thời và vẫn giữ một lòng tin với nhà nước phong kiến,
triều đại phong kiến. Trong cảnh nhân dân đói khổ như thế, ông vẫn tin tưởng:
Triều đình uy đức dữ thiên tề,
Thiên hạ Đông Tây hàm an cư.
(Nhân tự Bắc Ninh lai )
(Uy đức của triều đình sánh với trời cao,
Thiên hạ khắp nơi được an cư)
(Có người từ Bắc Ninh tới ) (*)
Theo ông, những cảnh tượng bất nhẫn văn chỉ có tính “cá biệt” và chỉ đưa
ra lời giải đáp phỏng chừng:
Hồ vi hồ nhất phương hồng nhạn trường bi minh…
… Thiên lí sương môn bất tận văn.
(Nhân tự Bắc Ninh lai…)
(Cớ sao chỉ có riêng một phương mà chim hồng chim nhạn kêu thảm thiết.
…Cung vua xa ngàn dặm không thấu hết sự tình)
12
(Có người từ Bắc Ninh tới ) (*)
Hoặc cắt nghĩa sự khốn khổ của nhân dân bởi những hoàn cảnh bất lợi của
thiên nhiên:
Kim niên xuân hạ thu,
Vãng vãng Bắc phong khởi.
Giang hà lạo kê thiên,
Tây Nam Bắc đê tỵ…
(Trọng đông sơ hàn dạ hữu tiểu vũ phục chỉ cảm tác)

(Năm nay từ xuân hạ rồi lại sang thu,
Lúc nào cũng có gió bấc thổi.
Sông lớn sông bé ngập lụt đầy trời,
Tỉnh Tây, tỉnh Nam, tỉnh Bắc đê đều vỡ hết)
(Tháng mười một bắt đầu rét, đêm có
mưa nhỏ rồi tạnh, cảm xúc làm thơ)
Vẫn giữ một lòng tin với chính thể quân chủ, chưa phơi bày được bản chất xã hội
đương thời, chưa tìm ra nguyên nhân chính của những kiếp đời bất hạnh, Nguyễn
Văn Siêu chỉ có thể bày tỏ những mong ước của mình và những cảnh báo trước
hiện thực:
Nguyện ngôn tư thổ cấp vi mưu,
Vật sử văn giả đồ ưu lự,
Trích lựu bất tắc vi đồi ba,
Đại hoả liệu nguyên tài nhất cự.
(Nhân tự Bắc Ninh lai )
13
(Muốn nhắn nhủ người có trách nhiệm
trấn giữ địa phương cần mưu tính gấp,
Chớ để người nghe kể chuyện này luống những lo âu.
Giọt nước nhỏ tuôn xuống không sớm chặn lại sẽ thành nguồn sóng
lớn,
Đám cháy lớn thiêu cả cánh đồng lúc đầu chỉ là ngọn đuốc nhỏ)
(Có người từ Bắc Ninh tới ) (*)
Có thể lí giải điều này từ chính cuộc đời và cá tính của Nguyễn Văn Siêu.
Năm 1838 ông đỗ đạt, làm quan độ mười hai năm, cho dù có những va vấp thăng
trầm, nhưng so với nhiều số phận phải truân chuyên qua các triều đại, bị đày đoạ
trong những cực hình tàn khốc thì con đường quan trường của ông nhìn chung là
xuôi chèo mát mái. Ngay cả khi đã cáo quan về dạy học ông vẫn được tầng lớp
vua quan coi trọng. Mặt khác có thể do tính cách ôn hoà trung dung, dù nhận ra
bản chất của hiện thực nhưng không muốn đẩy chúng thành những thái cực, vì vậy

tác giả không đi đến phê phán những mâu thuẫn xã hội phức tạp và nảy lửa đương
thời. Cũng không loại trừ khả năng do nguyên nhân về hoàn cảnh và cá tính,
Nguyễn Văn Siêu chưa thực sự nhìn ra bản chất hiện thực với xu thế vận động tất
yếu của nó. Có lẽ vì những lí do trên mà thơ ca Phương Đình thường hàm chứa
giọng điệu chừng mực, trầm lắng, xúc động và có phần bức xúc mà không phải
giọng điệu bứt phá táo bạo sẵn sàng bỏ cái cũ dựng cái mới, càng không phải tiếng
thơ ngang tàng vượt lên mọi thói tục bình thường.
Tuy vậy, tình yêu thương con người vẫn tạo nên chất hiện thực sắc sảo và
đầy xúc động. Với ông, người dân thống khổ không chỉ là dân Việt Nam. Thi nhân
xót thương người dân Ba Lăng đất Nhạc Dương, Hồ Nam, cũng như dân tình hai
tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc rơi vào cảnh đói khát :
Trường đoạn Ba Lăng khất thực ca,
Lưỡng Hồ bách tính tại phong ba.
Quân Sơn thượng hữu trường sinh tửu,
Sở túc như châu khả nại hà?
(Ba Lăng ca giả duyên lưu vãng văn chi cảm hoài)
(Đứt ruột khi nghe bài hát ăn xin của người Ba Lăng,
14
Trăm dân hai tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc đang trong cơn sóng gió.
Trên núi Quân Sơn có rượu trường sinh,
Gạo nước Sở lại đắt như châu báu là vì sao?)
(Cảm xúc khi nghe bài ca của người Ba
Lăng)(*)
Thi nhân xót thương cả những người lính Trung Quốc chết trận ở
Việt Nam:
Tự thử quan hà đa hữu lệ,
Tòng tiền thảo mộc tận sinh bi.
Khả liên tích cốt vô quy nhật,
Loạn dữ quần sơn nhất vọng nguy.
(Điếu thành Tây Loa Sơn cổ chiến trường xứ)

(Núi sông từ đó rơi nhiều lệ,
Cỏ cây từ trước cũng ôm sầu.
Thương thay những đám xương kia không có ngày về,
Ngổn ngang cùng núi non, một ngọn cao ngất)
(Thăm viếng Loa Sơn ở phía Tây thành
nơi chiến trường xưa)(*)
Những câu thơ gợi liên tưởng đến niềm cảm thương của Nguyễn Du trong
Văn chiêu hồn. Nguyễn Du và Nguyễn Văn Siêu đều đau nỗi đau của những người
đi chẳng có ngày về. Nhưng khác với Nguyễn Du, Nguyễn Văn Siêu không tái
hiện lại cuộc đời người lính lúc sống thì lầm than, lúc chết thì oan khuất, mà bộc
lộ niềm xót xa vô hạn trước những đống xương tàn. Với hai câu thơ Khả liên tích
cốt vô quy nhật, loạn dữ quần sơn nhất vọng nguy, tác giả đã dựng lại một nghĩa
địa bằng thơ, day dứt mãi về những cuộc chiến đẫm máu, những kiếp người nghiệt
ngã, những oan hồn bơ vơ… Thơ ông xúc động lòng người trước hết bởi hiện thực
15
tàn khốc được phơi bày và ẩn chứa trong hiện thực đó là trái tim luôn nhạy cảm
trước đau khổ, bất hạnh của con người.
3. Đề tài về đời sống cá nhân
Đề tài thứ ba trong thơ ca của Nguyễn Văn Siêu là tâm tư, tình cảm của cá
nhân chủ thể sáng tạo. ở đó hiện lên bức chân dung tinh thần của con người có đời
sống hồn hậu, một trái tim yêu đất nước, yêu thiên nhiên, yêu gia đình, trân trọng
tình cảm bè bạn, xóm giềng… Thi nhân tả ngôi nhà vườn của mình:
Khích địa nhất cung Tô thuỷ nha,
Bán vi viên phố, bán vi gia.
Thời thời lai vãng hữu cầm điểu,
Xứ xứ tài bồi duy thụ hoa.
(Gia viên tạp đắc)
(Khoảng đất trống bên dòng sông Tô Lịch,
Một nửa làm vườn, một nửa dựng nhà.
Qua lại thường chỉ là loài chim chóc,

Khắp mọi nơi chỉ trồng cây hoa)
(Mấy vần thơ về cảnh vườn nhà)(*)
Và đời sống thật thư thái:
Túc hoả minh thư dũ,
Hiểu chung văn Phật đài.
Chủ nhân thôi bị khởi,
Tiểu tử báo hoa khai.
Dạ khí dung cô trúc,
Tình quang lộng tiểu mai.
16
Lưu oanh chuyển bất dĩ,
Ưng hữu cố nhân lai.
(Xuân nhật hiểu khởi)
(Đèn đêm còn soi sáng cửa sổ thư phòng,
Tiếng chuông chùa ban mai đã vẳng tới.
Chủ nhân gạt chăn trở dậy,
Chú nhỏ vào thưa rằng hoa đã nở rồi.
Khí lạnh ban đêm còn bao phủ ngọn trúc lẻ loi,
Ánh sáng ban mai đã rập rờn trên cành mai nhỏ bé.
Chim oanh hót líu lo không ngừng,
Chừng như có bạn cũ sắp tới chơi)
(Ngày xuân dậy sớm) (*)
Nhiều văn nhân đã viết về gia đình, người thân với những áng thơ văn cảm
động. Gia đình là thế giới thu nhỏ và thân thương đã từng xuất hiện qua thơ văn
của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du… và sau này là Nguyễn
Khuyến, Tú Xương… Thi nhân Phương Đình cũng tha thiết khi viết về con đường,
cây cầu, ngôi nhà, vườn mai và những người thân của mình. Một lần, trong bâng
khuâng nghẹn ngào của người đi xa nay trở về và lại sắp sửa phải đi xa, ông nhẹ
nhàng nâng niu mọi vật và tất cả dường như đều trở thành tri âm:
Thành Đông khúc hạng bất dung diêu,

Lạc nguyệt Tô giang bộ quá kiều.
Hạnh hữu ngô tiên thành thất tại,
Miễn vi du tử lữ bồng phiêu.
Tiếp môn đình quế như nhân sấu,
17
Phúc ốc viên mai quá ngã kiều.
Trân trọng thân lân lao vấn tấn,
Hỉ kinh tự mộng thuộc thâm tiêu.
(Bán dạ đáo gia)
(Ngõ nhỏ ở phía Đông thành, xe không qua được,
Trăng rơi xuống sông Tô từng bước qua cầu.
May mà tiên tổ ta đã dựng nghiệp ở đây,
Tránh cho kẻ du tử cảnh lữ thứ không nhà.
Quế trước đình sát cửa gầy như người,
Mai trong vườn trùm nóc chạm cành xuống ta.
Trân trọng tình cảm của những láng giềng thân thích ùa đến hỏi han,
Vừa vui vừa sợ tựa giấc mộng trong đêm trăng sâu)
(Nửa đêm đến nhà)
Hồn thơ giàu chất hiện thực đã tái hiện một cuộc sống bình dị qua một
mảnh vườn, một căn nhà, những luống hoa, hàng trúc, rồi cảnh đọc sách lúc đêm
khuya, cảnh bà con thăm nom hỏi han, cảnh ngắm hoa trong vườn, cảnh bạn đến
chơi hàn huyên tâm sự…tất cả gợi lên cuộc sống rất đỗi gần gũi bình dị, làm rưng
rưng những tâm hồn luôn chân thành trong tình cảm gia đình làng xóm quê hương.
Cuộc sống đã hiện lên như sự tồn tại vốn có của nó, đó là thành công của tài năng
Nguyễn Văn Siêu nhưng cũng chính là kết quả của sự chuyển mình âm thầm mà
bền bỉ của văn học Việt Nam suốt nhiều thế kỉ.
Trong mảng đề tài viết về cá nhân, ngoài cuộc sống gia đình thanh bình
đầm ấm, thơ Nguyễn Văn Siêu còn bộc lộ khá trực diện những cung bậc sâu kín
của tâm hồn. Phương Đình rất nhạy cảm và dẫu là một người từng trải nhưng với
ông cuộc sống vẫn có những giây phút thật yếu đuối. Hình như có những lúc ông

rất cô độc. Khi ngắm trăng trên sông Nhị Hà, thi nhân khao khát :
Vũ trụ khan lai hữu chí lạc,
18
Tiêu thân ý vị hữu thuỳ đồng.
(Nhị Hà đối nguyệt)
(Vũ trụ xem ra rất lí thú,
Ý vị này giữa đêm khuya khoắt, có ai cùng chia sẻ với ta
chăng?)
(Ngắm trăng trên sông Nhị) (*)
Khi bị bệnh nằm nghỉ trong vườn cũ ngắm trăng vào đêm thu, ông tâm sự:
Tế tư kim dữ tác,
Hà oán diệc hà ưu.
(Thu dạ cố viên ngoạ bệnh
đối nguyệt hứng)
(Suy nghĩ kĩ về chuyện hôm nay và hôm qua,
Oán thán gì đây và lo lắng gì đây?)
(Đêm thu ở vườn cũ bị bệnh nằm ngắm
trăng, cảm hứng mà sáng tác)
Nỗi cô đơn ấy rõ nét hữu hình hơn trong cảnh xa xứ. ấy là lúc thi nhân
ngắm vầng trăng ở Linh Xuyên:
Tương cung thanh tức tức,
Du liễu thụ xâm xâm.
Thử dạ Linh Xuyên nguyệt,
Thiên chu vạn lí tâm.
(Linh Xuyên kiến nguyệt)
(Tiếng dế kêu rầu rĩ,
19
Những cánh rừng du liễu rậm rạp.
Đêm nay nhìn trăng Linh Xuyên,
Một con thuyền nhỏ, một cõi lòng vạn dặm)

(Ngắm trăng ở Linh Xuyên)
Khi dừng thuyền hai ngày ở Tĩnh Cảng trong cảnh gió Bắc mưa lạnh:
Mịch La lãnh đê tử,
Vô tu điếu thử ông.
(Bắc phong hàn vũ Tĩnh Cảng đình chu nhị nhật muộn tác)
(Mịch La lạnh thấu thịt xương,
Không một chút thương xót ông già này)
(Trong gió bắc mưa lạnh dừng thuyền
ở Tĩnh Cảng hai ngày buồn mà làm thơ)
Khi gặp tiết trung thu ở quán trên đất Yên :
Độc thử trung thu nguyệt,
Ninh tri vạn lí nhân.
(Yên quán trung thu)
(Trăng trung thu này một mình đơn độc,
Có biết chăng người vạn dặm.
(Trung thu ở quán trên đất Yên)
Người khác có thể giấu nỗi cô đơn bằng vinh dự trọng trách trên con đường
hoàng hoa, bằng tự hào dân tộc, bằng ý chí lập công danh…nhưng điều đó thật
khó đối với thi nhân Phương Đình. Nỗi cô đơn chính là hiện thân của sự trăn trở
trước những buồn vui của cuộc đời và góp phần tạo nên một vẻ đẹp riêng trong
hồn thơ của ông, một hồn thơ tinh tế và đa cảm. Nguyễn Văn Siêu là tác gia lớn
20
của Việt Nam vào thế kỉ XIX, những sáng tác của ông ở cả văn xuôi và thơ ca đều
có những thành tựu về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật. Ông sáng tác bốn tập
thơ với ba mảng đề tài chính là thiên nhiên, con người, cá nhân. Ông bộc lộ tình
yêu thiên nhiên qua khả năng tận tả vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội, nắm bắt cái thần của
cảnh thơ mộng bình yên, bày tỏ suy tưởng sâu xa trước những dấu tích lịch sử.
Còn khi viết về con người đặc biệt là nỗi thống khổ của người dân, ngòi bút của
ông thấm đẫm chất hiện thực và nhân đạo với hệ thống ngôn từ sắc sảo và giọng
thơ chừng mực trầm lắng. Giọng thơ ấy trở nên đa cảm và tinh tế hơn khi bộc lộ

đời sống tinh thần cá nhân. Nguyễn Văn Siêu xứng đáng là tác giả tiêu biểu của
nền văn học Việt Nam thế kỉ XIX. /.


Chú thích
(*): Bản dịch của Tổng tập văn học (tập 42), (phần tác giả Nguyễn Văn Siêu ),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996; tr.1125-114
21

×