Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

các phương pháp gây chuyển dạ trong sản khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.69 KB, 39 trang )

1
I.TỔNG QUAN VỀ KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ
1. ĐỊNH NGHĨA
Chuyển dạ (CD) là quá trình diễn tiến của nhiều hiện tượng, quan trọng
nhất là co co tử cung (TC) làm cho cổ tử cung (CTC) xóa mở, kết quả là thai,
nhau được sổ ra ngoài [1]. Khởi phát chuyển dạ (KPCD) là chủ động gây ra
cơn co TC trước khi vào chuyển dạ tự nhiên, bất kể là ối đã vỡ hay chưa,
nhằm mục đích gây ra chuyển dạ đẻ [2]. KPCD thất bại khi TC không có đáp
ứng nào đối với kích thích hoặc khi TC co bất thường gây nguy hiểm cho thai
phụ và/ hoặc CTC không mở [3].
2. CƠ CHẾ SINH LÝ CỦA KPCD [4]
Các thay đổi ở cổ tử cung (CTC) xảy ra trước khi bắt đầu chuyển dạ
bao gồm sự mềm dần, ngắn dần đi và sự mở dần của lỗ trong cổ tử cung. Quá
trình này được gọi là sự chín muồi cổ tử cung (cervical ripening).
Cơ chế sinh lý của sự chín muồi CTC chưa được biết rõ, nhưng có
nhiều giả thuyết giải thích cho việc chín muồi CTC, trong đó quan trọng nhất
là sự tác động của prostaglandins E2 (PGE2) và F2α (PGF2α). Các
Prostaglandins có nguồn gốc từ tiền chất arachidonic acid, được tìm thấy ở
trong cơ tử cung, đặc biệt là các PGF2α có nhiều trong màng rụng mẹ, còn
các màng thai, đặc biệt là màng ối, sản xuất chủ yếu PGE2. Ngoài ra,
Prostaglandin nhóm E và F trong tử cung gia tăng khi chuyển dạ, cả ở thai
trưởng thành lẫn thai non tháng. Tác dụng của các Prostaglandins là tạo ra các
phản ứng sinh hóa phức tạp làm biến đổi các sợi collagen ở cổ tử cung cũng
như chất nền cổ tử cung. Các sợi collagen trở nên tách rời nhau và không còn
gắn bó chặt chẽ với nhau bởi các glycosaminoglycans khiến chúng dễ dàng
chuyển động; ngoài ra còn có sự gia tăng của Cytokin, sự thấm nhập của bạch
cầu làm cổ tử cung mở ra, bắt đầu cho cuộc CD. Trong in vitro, cả PGF2α lẫn
2
PGE2 đều gây ra cơn co TC. Tuy nhiên, trong in vivo, PGF2α màng rụng tác
động chủ yếu là thúc đẩy cơn co TC, trong khi PGE2 có vẻ hiệu quả hơn cho
sự chín muồi cổ tử cung. Vào cuối thai kì, có sự tăng tổng hợp prostaglandin


nhờ vào các cơ chế: (1) Giảm Progesterone nên giảm tác dụng ức chế sản xuất
prostaglandin, (2) estrogen tăng gây kích thích tổng hợp prostaglandin (3). Sự
gia tăng nồng độ Oxytocin cũng kích thích làm tăng prostaglandins. Các quan
sát cho thấy ở động vật, sự chín muồi CTC được khởi đầu chủ yếu bằng sự
giảm nồng progesterone máu, trong khi đó, ở người còn có thêm sự gia tăng
các chất đối kháng progesterone nội sinh. Sự chín muồi cổ tử cung diễn ra từ
trước khi bắt đầu vào CD có thể là vài ngày đến vài tuần.
Hình 1. Sơ đồ tác động của PGE2 trong chín muồi CTC [5]
3. CHỈ ĐỊNH, CHỐNG CHỈ ĐỊNH KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ [6], [2], [3]
3
KPCD được chỉ định dựa trên sự cân nhắc lựa chọn giữa 2 vấn đề nhằm
mang lại các lợi ích đối với mẹ và/hoặc đối với thai nhi nhiều hơn:
• Nên chấm dứt hay tiếp tục kéo dài thai kì?
• Nên KPCD để sanh ngã âm đạo hay chủ động mổ lấy thai?
3.1. Chỉ định KPCD
1.1.1. Chỉ định do mẹ
• Tiền sản giật nặng: sau khi tạm ổn định bằng điều trị nội khoa đối với
thai đủ tháng. Đối với thai non tháng nhưng đã có biểu hiện trên các cơ quan
thì cũng nên xem xét việc chấm dứt thai kỳ. Nếu đã có biến chứng sản giật thì
nên khởi phát chuyển dạ chấm dứt thai kỳ.
• Mẹ bị đái tháo đường: thai nhi có nguy cơ vào những tuần cuối của
thai kỳ nếu đường huyết mẹ không ổn định. Nếu các thử nghiệm đánh giá sức
khoẻ thai cho thấy thai có thể chịu được cuộc chuyển dạ thì KPCD có thể
được xem xét khi thai 38 - 39 tuần.
• Mẹ có bệnh lý nội khoa nặng khác như bệnh thận, bệnh phổi mãn
tính, Lupus, bệnh lý rối loạn đông máu, tăng cholesterone máu trong bệnh lý
gan thái hóa mỡ do thai kì…(*)
• Ung thư: chấm dứt thai kỳ là nhằm mục đích bắt đầu điều trị sớm cho
thai phụ (phẫu thuật, xạ trị, hoặc hóa trị).
• Các chỉ định về tâm lý-xã hội: hoang thai, ngoại tình, thai kỳ do loạn

luân
3.1.2. Chỉ định do thai
• Thai chết lưu trong tử cung, hoặc tiền căn thai chết lưu trong tử cung
nhiều lần (Bệnh cảnh kháng thể kháng phospholipid, thrombophilia, suốt thai
kỳ phải điều trị với aspirin và heparin trọng lượng phân tử thấp, sau 38 tuần
cần chủ động CDTK)
4
• Thai quá ngày (> 42 tuần) hoặc thai quá ngày dự sanh (> 41 tuần): có
sự suy giảm chức năng bánh nhau và nồng độ oxy trong máu thai nhi dẫn đến
nhiều nguy cơ: thai chết lưu, thai suy trường diễn, thai suy trong chuyển dạ
• Thai không đáp ứng với các test đánh giá sức khỏe trước sanh [6]
• Thai nhi có dị tật bẩm sinh nghiêm trọng. Khi các xét nghiệm chẩn
đoán tiền sản phát hiện thai nhi bất thường, cần phải tư vấn đầy đủ cho thai
phụ và KPCD có thể được đặt ra nếu tình trạng dị tật của thai khó thích ứng
được với đời sống.
• Thai đủ trưởng thành, nhà sản phụ xa trung tâm chăm sóc sức khỏe
sinh sản
3.1.3. Chỉ định do phần phụ
• Vỡ ối tự nhiên: nếu thai đủ trưởng thành, chuyển dạ không bắt đầu
sau 12-24 giờ thì việc KPCD nên được thực hiện. Theo khuyến cáo 2009 của
ACOG thì ối vỡ non ở thai >37 tuần là chỉ định chấm dứt thai kì, không chờ
đợi vào chuyển dạ tự nhiên sau 12 – 24 giờ.
• Thiểu ối
• Nhiễm trùng ối
3.2. Chống chỉ định KPCD
3.2.1. Về phía mẹ:
• Khi tử cung có sẹo mổ cũ ảnh hưởng đến chất lượng cơ tử cung (sẹo
do mổ dọc thân tử cung lấy thai, sẹo bóc u xơ tử cung có rách nội mạc tử
cung )
• Bất xứng đầu-chậu tuyệt đối: khung chậu hẹp, khung chậu dị dạng

• Các bất thường ở đường sinh dục như: Ung thư cổ tử cung giai đoạn
tiến triển, Herpes sinh dục đang giai đoạn hoạt động, mẹ nhiễm HIV
5
• Các bệnh lý mãn tính trầm trọng (suy tim nặng, tăng áp lực nội sọ, )
hoặc vùng chậu bị tổn thương nặng (do tai nạn, chấn thương )
3.2.2. Về phía thai nhi
• Thai suy cấp
• Đa thai
• Thai to, não úng thủy nặng
• Ngôi bất thường: ngôi ngang, ngôi chếch, ngôi trán,
• Tiền sử sanh con to nhiều lần ( chống chỉ định tương đối)
3.2.3. Về phía phần phụ
• Sa dây rốn
• Nhau tiền đạo, mạch máu tiền đạo
• Xuất huyết âm đạo 3 tháng cuối chưa rõ nguyên nhân
• Tử cung quá căng trong đa ối (chống chỉ định tương đối).
4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ THÀNH CÔNG CỦA KPCD
4.1. Chỉ số Bishop
Thời gian vào chuyển dạ và sự thành công của khởi phát chuyển dạ tùy
thuộc vào độ chín muồi của cổ tử cung.
Bishop E.H (1964) đã đưa ra một hệ thống cho điểm để dự đoán khả
năng thành công của khởi phát chuyển dạ ở thai đủ trưởng thành. Hệ thống
cho điểm này dựa trên các yếu tố của cổ tử cung (độ mở, độ xóa, độ lọt, mật
độ) và vị trí lọt của ngôi thai. Hiện nay, bảng điểm của Bishop đã được cải
tiến: sự xóa mở của CTC được thay bằng chiều dài CTC (Bảng IV-1).
Bảng 1: Đánh giá tình trạng cổ tử cung trước chuyển dạ bằng chỉ số Bishop [7]
Tham số
Điểm số
Độ mở cổ tử cung (cm)
6

Độ xóa cổ tử cung (%) Đóng 1-2 3-4 ≥ 5
Chiều dài CTC (Bishop cải thiện) < 30 40-50 60-70 ≥ 80
Mật độ cổ tử cung >2cm 1-2cm 0,5-1cm <0,5cm
Vị trí cổ tử cung trong ÂĐ Sau Trung gian Trước
Độ lọc ngồi thai -3 -2 -2 hoặc 0 +1 hoặc +2
Điểm số Bishop có giá trị trong việc tiên lượng khả năng KPCD thành
công, mức thường dùng là 7 điểm. Khi điểm số Bishop từ 7 điểm trở lên, khả
năng sanh ngả âm đạo sau KPCD tương đương như khi để chuyển dạ tự
nhiên. Nếu Bishop ≤ 5 điểm, tương đương với tình trạng CTC chưa thuận lợi
hay có nghĩa là CTC chưa mở thuận lợi, khả năng KPCD thất bại rất cao. 1
nghiên cứu tiền cứu được thực hiện ở Singapore từ thập niên 1980 cho thấy
45% trường hợp KPCD thất bại, phải mổ lấy thai là do CTC không thuận lợi,
Bishop ≤ 5 điểm. Cần lưu ý điểm số Bishop thuận lợi chỉ là điều kiện cần
thiết cho một cuộc sanh ngả âm đạo, các yếu tố quyết định khác (điều kiện
đủ) còn là: sự lọt của ngôi thai, tình trạng sức khỏe của mẹ và của thai. Ngoài
ra, một số yếu tố khác cũng có thể được xem xét bên cạnh các yếu tố kể trên
như: cổ tử cung đã từng được thử thách (có sanh ngã âm đạo trước đó hay
không (Bảng IV-2)), sự tương xứng giữa thai (kích thước, ngôi, kiểu thế) và
tình trạng khung chậu của người mẹ.
7
Bảng 2. Tỉ lệ mổ lấy thai sau KPCD thất bại tương ứng với điểm Bishop (1985) [8]
Điểm Bishop Con so (%) Con rạ (%)
0-3 45 7,7
4-6 10 3,9
7-10 1,4 9
Dựa vào tất cả các yếu tố trên, Bảng điểm Bishop đã được cải tiến như
sau [9]
• Cộng thêm 1 điểm khi:
√ Mẹ có bệnh lý tiền sản giật
√ Sanh con rạ: tiền căn cho mỗi lần sanh con ngả âm đạo trước đó

được tính 1 điểm
• Trừ 1 điểm khi:
√ Thai kì quá ngày dự sanh
√ Sanh con so
√ Ối vỡ sớm, hay ối vỡ lâu
Đánh giá kết quả: [10]
• Khởi phát chuyển dạ khi:
√ Bishop ≥ 5 điểm. (***)
√ Ối đã vỡ
• Làm chín muồi CTC bằng Prostaglandin trước khi thực hiện
KPCD:
√ Bishop < 5 điểm (***)
√ Ối còn
√ Không có cơn gò chuyển dạ.
(***): Theo ACOG 2009 là 6 điểm
4.2. FETAL FIBRONECTIN (FFN)
8
Với fFN ≥ 50 ng/ml (được xem là thử nghiệm dương tính) qua phết
dịch âm đạo, khả năng KPCD thành công cao hơn nhóm có fFN < 50 ng/ml
kể cả khi Bishop thấp < 5 điểm [11]. Tuy nhiên vấn đề này vẫn còn đang
được bàn luận. Hatfield và cộng sự (2007) thực hiện một phân tích gộp từ 20
nghiên cứu ghi nhận có liên quan giữa chiều dài kênh cổ tử cung qua siêu âm
giúp tiên lượng khả năng thành công của KPCD. Một số nghiên cứu chọn điểm
cắt tiên lượng khả năng KPCD thành công với chiều dài kênh cổ tử cung là 28
mm. Tuy nhiên một số nghiên cứu khác chưa cho thấy sự khác biệt giữa việc
dùng bảng điểm Bishop so với siêu âm đo chiều dài kênh cổ tử cung [12] [13].
5. CÁC BIỆN PHÁP KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ (KPCD)
Có những phương pháp có ưu thế làm chín muồi cổ tử cung, có những
phương pháp lại có ưu thế tạo cơn gò tử cung hữu hiệu và có những phương
pháp lại có cả hai tác dụng (Bảng V-1). KPCD có thể chỉ dùng một phương

pháp đơn thuần nhưng cũng có lúc cần sự kết hợp nhiều phương pháp.
Bảng 3: Các biện pháp KPCD
II. KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ BẰNG PROSTAGLANDINS
9
Việc sử dụng các prostaglandins để gây chín muồi cổ tử cung ở thai đủ
trưởng thành đã được thực hiện từ những năm 1968. Ban đầu các
prostaglandins được dùng đường uống và đường tĩnh mạch về sau mới dùng
đường tại chỗ vì có ít tác dụng phụ hơn [14] [15]. Một bài viết tổng quan trên
Cochrane nghiên cứu trên 10.000 sản phụ cho thấy prostaglandins hiệu quả
gây ra chuyển dạ trong vòng 24 giờ, giảm được tỉ lệ mổ sanh [16]. Không
giống như oxytocin, sự đáp ứng của TC đối với prostaglandins không thay đổi
đáng kể trong suốt thai kỳ. Thời gian bán hủy của các prostaglandins trong
tuần hoàn máu ngoại vi là khoảng 1-2 phút.
Điều này đã dẫn đến việc sử dụng rộng rãi prostaglandins nhằm mục
đích chấm dứt thai kỳ kể cả trong tam cá nguyệt thứ II hoặc để khởi phát
chuyển dạ ở các trường hợp thai chết lưu ở tam cá nguyệt thứ II. Đặc biệt, các
nghiên cứu gần đây cho thấy PG hiệu quả và an toàn trong KPCD cho các
trường hợp ối vỡ non [17]. Tuy nhiên không nên dùng prostaglandins trong
các ca vết mổ cũ mổ lấy thai vì làm tăng nguy cơ nứt vết mổ cũ [18] [19].
Điểm lưu ý khi dùng các prostaglandins cho KPCD là việc quản lý và theo
dõi cần hết sức chặt chẽ vì các lý do sau: (1) Cơn co tử cung thường nhiều và
mạnh. (Nhiều là khi có từ 6 cơn co trong 10 phút trở lên và mạnh là khi cơn
co kéo dài hơn 2 phút.) (2) Sự thay đổi tại vùng cổ tử cung và đoạn dưới tử
cung nhanh, đôi khi không đồng bộ. Do vậy hiện tượng vỡ tử cung dù hiếm
nhưng khi xảy ra lại rất nặng nề. Do vậy các phương pháp này chỉ nên thực
hiện tại các cơ sở có đủ điều kiện, có kinh nghiệm và khả năng xử trí các tác
dụng ngoại ý. Khi có cơn co tử cung nhiều hay mạnh, việc ngưng thuốc có thể
hiệu quả trong trường hợp ngậm, đặt âm đạo bằng cách nhả thuốc hay rửa âm
đạo với một dung dịch có tính kiềm nhẹ. Các tác dụng phụ khác ghi nhận
được là: sốt, ớn lạnh, buồn nôn và tiêu lỏng.

° Prostaglandin E2
10
Nhờ tác động sinh lý của PGE2, việc sử dụng tại chỗ gel PGE2 hiện
nay đã trở thành tiêu chuẩn vàng cho sự chín muồi cổ tử cung trong thực hành
lâm sàng. Các chế phẩm PGE2 ngoại sinh thúc đẩy sự chín muồi cổ tử cung
mạnh hơn so với PGE2 nội sinh. PGE2 được đưa vào nghiên cứu sử dụng lần
đầu tiên vào năm 1979 bởi Liggins cho kết quả khả quan với liều 0.4 mg: hầu
hết các sản phụ đều vào chuyển dạ trong 48 giờ [20]. Về sau Rayburn đã tổng
kết từ 59 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng với tổng số 3313 sản phụ được sử
dụng PGE2 tại chỗ để làm chín muồi CTC trước khi áp dụng các biện pháp
KPCD khác cho thấy PGE2 thật sự hiệu quả gây xóa mở CTC, rút ngắn thời
gian chờ vào chuyển dạ, giảm tỉ lệ giục sanh với Oxytocin và tỉ lệ mổ lấy thai
do KPCD thất bại [21]. Tuy nhiên giá thành của PGE2 thì khá đắt. Theo
nghiên cứu của Keirse, sử dụng PGE2 ở bất kì đường nào đều đạt hiệu quả cải
thiện tỉ lệ sanh ngả âm đạo [15]. Mặc dù PGE2 đặt âm đạo dễ thực hiện hơn
và sản phụ cũng cảm thấy dễ chịu hơn [16], nhưng ACOG 2009 đã khuyến
cáo PGE2 đặt CTC ít gây cơn gò cường tính hơn so với đặt âm đạo 5 lần [22].
Có 2 loại chế phẩm của PGE2:
• Chế phẩm PGE2 dùng bơm vào kênh CTC phổ biến nhất là
Dinoprostone gel (Prepidil 0.5mg/2.5ml hay Cerviprime 0.5mg/2.5ml). Có thể
lập lại tối đa mỗi 6 – 12 giờ, tối đa 3 liều trong 24 giờ.
Hình 2: Dinoprostone gel
11
Một chế phẩm khác của PGE2 là dây Cervidil chứa 10 mg
Dinoprostone đặt trong âm đạo. Tốc độ phóng thích của thuốc là 0.3 mg/giờ.
Đặt mỗi 12 giờ, có thể dùng đơn thuần hay phối hợp Oxytocin. Khi dùng
thêm Oxytocin cần hết sức thận trọng trong việc theo dõi. Ưu điểm của chế
phẩm này là, không giống như gel, có thể dễ dàng được lấy ra nếu có các biến
chứng lâm sàng như bất thường tim thai hoặc tử cung tăng trương lực [6].
Hình 3: Dây Cervidil đặt trong âm đạo chứa 10 mg Dinoprostone phóng

thích 0,3mg/giờ [2]
Ngoài ra Dinoprostone còn có dạng viên đạn đặt âm đạo 20 mg dùng
trong phá thai nội khoa với liều đặt 1 viên 1 lần, có thể lập lại từ 3 – 5 giờ cho
đến khi thai sẩy.
Theo hướng dẫn chuẩn quốc gia 2009, sau khi sử dụng Dinoprostone 4
– 6 giờ cần khám lại và ghi nhận dấu hiệu sinh tồn, bề cao tử cung, tim thai,
cơn gò, tình trạng xóa mở CTC (chỉ số Bishop). Nếu cơn gò tử cung hiệu quả,
tiếp tục theo dõi thêm 6 giờ, Nếu cơn gò ≤ 2 cơn / 10 phút, có thể lập lại 1 liều
50mcg (thường tối đa là 4 liều), hoặc 25mcg (tối đa là 8 liều) [10]. Nếu
Bishop cải thiện (tăng ≥ 3 điểm) so với lúc đầu, hoặc bệnh nhân vào chuyển
dạ thật sự (CTC chín muồi với Bishop ≥ 7 điểm) thì tiếp tục theo dõi và giục
sanh với Oxytocin. Tuy nhiên theo khuyến cáo của nhà sản xuất nên trì hoãn
Oxytocin ít nhất là 6 – 12 giờ đối với Dinoprostone gel bơm vào kênh TC)
12
hay 30 – 60 phút sau khi lấy dây Cervidine ra khỏi âm đạo. Nếu Bishop
không cải thiện (tăng < 3 điểm) so với lúc đầu thì lập lại liều thuốc cho đến
khi đạt tổng số liều tối đa. Nếu vẫn không cải thiện điểm Bishop, xem như
KPCD thất bại.
º Prostaglandin E1
Trên thực tế người ta sử dụng các chất tương tự PGE1 (thường được
biết đến là Misoprostol (Miso), tên biệt dược Cytotec có 2 dạng là 100 mcg và
200 mcg) trong KPCD khá tốt. Hiện nay Miso được United States Food and
Drug Administration (FDA) khuyến cáo sử dụng chủ yếu trong chống loét dạ
dày liên quan đến sử dụng nhóm thuốc kháng viêm non-steroid, không được
RCOG 2008 khuyến cáo sử dụng Miso trong thai sống, dù RCOG vẫn công
nhận các kết quả RCT về thuốc này [23] [24] [25] [26] [27] [28]. Trong khi
đó, ACOG 2009 lại chấp thuận Miso như là 1 phương tiện rẻ tiền và hữu hiệu,
thậm chí là an toàn trong việc KPCD nếu sử dụng đúng liều lượng, chỉ định
và theo dõi hợp lý. Ngoài ra, Miso còn có ưu điểm là dễ lưu trữ, có thể sử
dụng cả đường uống lẫn đường đặt âm đạo mà rất ít tác dụng phụ toàn thân

[29]. Đường dùng, liều và khoảng cách giữa các lần dùng tối ưu cho các chế
phẩm PGE1 vẫn chưa được thống nhất:
• Theo hướng dẫn chuẩn quốc gia: Đặt vào túi cùng sau âm đạo với
liều 50 mcg, cứ 3 giờ/lần, tối đa là 6 liều hoặc 25 mcg cứ 3 giờ/lần, tối đa 8
liều hoặc bằng đường uống 50 mcg cứ 4 giờ/lần.
• Khuyến cáo của WHO: liều sử dụng an toàn của Misoprostol đặt âm
đạo tùy vào tuổi thai (Hình V-3):
• 3 tháng đầu thai kì 800mcg/24 giờ
• 3 tháng giữa thai kì 200 mcg/12 giờ
• Sau 24 tuần: 25 mcg/6 giờ.
13
Hình 4: Liều an toàn, nguy hiểm và hiệu quả của Misoprostol trong KPCD
tùy theo tuổi thai [30]
Ngoài ra có 1 số tác khuyến cáo sử dụng 50mcg mỗi 3 đến 6 giờ,
thường tối đa là 4 liều, hoặc 25mcg mỗi 3 đến 6 giờ, tối đa là 8 liều) hoặc
bằng đường uống (50 mcg mỗi 4 giờ). Tuy nhiên, ACOG không khuyến cáo
sử dụng thường quy liều 50 mcg mỗi 3 – 6 giờ vì tuy rằng dùng liều cao có
thể làm rút ngắn được thời gian khởi phát chuyển dạ, nhưng lại làm tăng tỉ lệ
xuất hiện cơn gò cường tính, toan hóa máu thai nhi và làm tăng tỉ lệ chết chu
sinh [31] [23] [32] [25] [26] [27] [28] [33] [34] [35] [36].
° Misoprostol đường uống thường dùng với liều là 50 mcg mỗi 3 – 6
giờ, tương đối an toàn, dễ chịu, tuy nhiên hiệu quả không bằng so với đường
đặt âm đạo, thời gian sử dụng kéo dài hơn và nhiều trường hợp cần phối
hợp thêm oxytocin mới đạt được hiệu quả. Còn nếu dùng liều cao 100
mcg mới đạt được hiệu quả tương đương với 25 mcg Miso đặt âm đạo, tuy
nhiên lại làm tăng nguy cơ xuất hiện cơn gò cường tính [26] [37] [38]
[39] [40] [41] [42] [43].
14
° 1 số tác giả cho rằng ngậm Misoprostol áp má hay dưới lưỡi tăng
hiệu quả vì cũng như đường đặt âm đạo Misoprostol không qua chuyển hóa ở

gan chính nhờ vậy làm nhanh đạt đỉnh tác dụng của Misoprostol, và kéo dài
thời gian sử dụng Misoprostol hơn các đường khác. Tuy nhiên liều dùng của
ngậm áp má phải cao hơn đặt âm đạo (200mcg so với 50 mcg) mới cho hiệu
quả tương đương [44]. Đồng thời 50 mcg Misoprostol ngậm áp má cũng cho
hiệu quả tương đương với uống 100mcg Misoprostol, tuy nhiên ngậm áp má
ít gây gò cường tính hơn là uống Misoprostol [45].
° Do vậy, hầu hết các tác giả nghiên cứu trên đều đồng thuận liều an
toàn và hiệu quả khi sử dụng Misoprostol trên thai đủ tháng là đặt âm đạo 25
mcg mỗi 4 giờ.
Hình 5: Viên Cytotec (Misoprostol)- Các liều tương đương thường dùng trên
lâm sàng [46]
Theo hướng dẫn chuẩn quốc gia 2009, cần theo dõi sát sản phụ: sau khi
đặt thuốc 3 – 6 giờ khám lại và ghi nhận dấu hiệu sinh tồn, bề cao tử cung,
tim thai, cơn gò, tình trạng xóa mở CTC (chỉ số Bishop). Nếu cơn gò đạt hiệu
quả, tiếp tục theo dõi thêm. Nếu cơn gò ≤ 2 cơn / 10 phút, có thể lập lại 1 liều
15
50mcg (thường tối đa là 4 liều), hoặc 25mcg (tối đa là 8 liều) [10]. Nếu
Bishop cải thiện (tăng ≥ 3 điểm) so với lúc đầu, hoặc bệnh nhân vào chuyển
dạ thật sự thì tiếp tục theo dõi và giục sanh với Oxytocin, nhưng chỉ bắt đầu
dùng Oxytocin sau liều cuối của Miso ít nhất là 4 giờ.
Nếu Bishop không cải thiện (tăng < 3 điểm) so với lúc đầu thì lập lại
liều thuốc cho đến khi đạt tổng số liều tối đa. Nếu vẫn không cải thiện điểm
Bishop, xem như KPCD thất bại.
III. KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ BẰNG OXYTOCIN VÀ CÁC
THUỐC KHÁC
1. OXYTOCIN
Là chuỗi peptide gồm 9 acid amin đựơc sản xuất ở hạ đồi và được tiết
ra bởi thùy sau tuyến yên theo dạng xung. Oxytocin được thải ra khỏi máu
ngoại biên bởi gan, thận và chuyển hóa bởi enzyme oxytocinase được sản
xuất lượng nhiều bởi nhau và mô thai. Oxytocin có khoảng 1% hiệu quả

kháng bài niệu của vasopressin, thấy rõ khi dùng liều cao oxytocin truyền tĩnh
mạch. Tiêm mạch nhanh oxytocin gây hạ huyết áp và nhịp tim nhanh do hiệu
quả ngọai ý lên sự giãn cơ trơn thành mạch. Oxytocin có thể dùng bằng
đường tĩnh mạch, tiêm dưới da, tiêm bắp, hấp thu qua niêm mạc má. Dùng
đường tĩnh mạch oxytocin ảnh hưởng mô có thụ thể oxytocin và là cách dùng
hiệu quả. Dùng oxytocin làm tăng tần số, thời gian co, và cường độ cơn co tử
cung. Sự đáp ứng oxytocin rất khác nhau và tử cung tăng động có thể xảy ra ở
bất kỳ liều dùng nào tùy thuộc vào từng bệnh nhân. Khi tử cung tăng động
cần phải ngưng dùng thuốc hoặc giảm liều sử dụng ngay. Trong thai kỳ bình
thường nồng độ oxytocin huyết thanh tăng dần theo tuổi thai, tăng cao nhất
trong chuyển dạ. Sự nhạy cảm của cơ tử cung với oxytocin tăng dần theo sự
gia tăng thụ thể oxytocin, bắt đầu từ tuần 20 của thai kỳ. Trước 34 tuần sự
16
nhạy cảm của cơ tử cung đối với oxytocin không nhiều, nhưng vào những
ngày dự sanh thì sự nhạy cảm này tăng lên do thụ thể oxytocin ở màng rụng
và cơ tử cung tăng nhiều vào những tuần gần ngày dự sanh, và khi chuyển dạ
bắt đầu thì sự đáp ứng của cơ tử cung đối với oxytocin rất lớn. Chính vì thế
oxytocin đạt hiệu quả trong tăng co hơn là KPCD. Chứng cứ từ Cochrane qua
110 thử nghiệm lâm sàng với hơn 11000 sản phụ cho thấy so với
Prostaglandins, tỉ lệ thất bại trong KPCD sau 24 giờ dùng Oxytocin khi CTC
chưa thuận lợi thì cao hơn 1 cách có ý nghĩa [47]. Ngược lại, khi CTC đã
được làm “chín muồi” bằng các tác nhân khác, tiếp tục giục sanh với
Oxytocin đem lại hiệu quả cao. Từ mô tả sử dụng lâm sàng đầu tiên vào thập
niên 1940 vẫn còn nhiều tranh cãi về cách dùng oxytocin thích hợp và tốt
nhất. Có nhiều phác đồ khác nhau liên quan đến khởi phát chuyển dạ bằng
oxytocin. Có thể chia thành 2 nhóm:
• Phác đồ “liều thấp”: liều khởi đầu thấp, tăng liều chậm, liều tối đa thấp.
• Phác đồ “liều cao”: liều khởi đầu cao, tăng liều nhanh, liều tối đa cao (bảng)
17
Bảng 3. Liều Oxytocin dùng truyền tĩnh mạch trong KPCD [4]

Loại
Liều bắt đầu
(mU/min)
Liều tăng thêm
(mU/min)
Khoảng cách tăng liều
(phút)
Liều
thấp
0,5 - 1 1 30 - 40
1-2 2 15
Liều cao 6 3-6 15-40
So sánh giữa 2 phác đồ trên cho thấy dùng Oxytocin liều cao làm rút
ngắn được chuyển dạ hơn, nhưng lại làm tăng nguy cơ xuất hiện con gò
cường tính và xuất hiện nhịp tim thai bất thường dẫn đến việc phải giảm liều
hoặc thậm chí ngưng tăng co. Tuy nhiên tỉ lệ thất bại giữa 2 nhóm (hệ quả là
mổ lấy thai) thì như nhau [48]. Phác đồ thông dụng tại Việt Nam là phác đồ
liều thấp [10]:
º Khởi đầu oxytocin:
• Lập đường truyền tĩnh mạch với dung dịch Glucose 5%, chai 500ml,
hòa 5UI oxytocin, chỉnh giọt tốc độ thấp nhất có thể được, thường V giọt/ph,
tương đương tốc độ 3mUI/ph.
• Nếu dùng bơm tiêm điện, bắt đầu với tốc độ 2 đến 2.5 mUI/ph
º Tăng liều oxytocin:
• Nếu cơn co không đạt yêu cầu, tăng tốc độ truyền oxytocin lên dần
dần, mỗi lần điều chỉnh giọt cách nhau 30ph. Biên độ 1 lần điều chỉnh là 1.5
đến 2.5 mUI/ph.
• Khi đạt cơn co mong muốn, duy trì tốc độ truyền ổn định cho đến khi
sanh. Trong phần lớn trường hợp tốc độ truyền 12mUI/ph sẽ giúp mang lại
cơn co có hiệu quả.

• Nếu cơn co tử cung không đạt yêu cầu ở tốc độ truyền 20mUI/ph (40
giọt/ph) có thể xem xét tăng nồng độ oxytocin trong dịch truyền nhằm tránh
quá tải dịch và dễ điều chỉnh liều oxytocin. Tốc độ truyền 20mUI/ph là tốc độ
18
rất cao, quyết định tăng nồng độ oxytocin trong dịch truyền phải được cân
nhắc kỹ.
• Sau khi đã truyền hết 5UI oxytocin mà vẫn chưa tạo được cơn co cần
thiết cần tạm ngưng khởi phát chuyển dạ và thực hiện lại vào ngày hôm sau.
• Nếu đã đến giới hạn 32mUI/ph mà vẫn không khởi phát được chuyển
dạ có thể xem như khởi phát chuyển dạ thất bại. Có vài phác đồ thử sử dụng
tốc độ truyền oxytocin cao hơn nhưng không có bằng chứng khởi phát chuyển
dạ thành công.
º Cần theo dõi:
• Mạch và huyết áp sản phụ trong quá trình khởi phát chuyển dạ,
cơn gò tử cung và tim thai phải được theo dõi chặt chẽ bằng monitor sản
khoa nếu được.
• Mỗi 30ph một lần, thực hiện khám và ghi chép trên sản đồ về thời
gian, tần số cơn co trong 10ph, nhịp tim thai ngay sau cơn co.
• Giảm hoặc ngưng truyền oxytocin ngay nếu có rối loạn cơn co có
hoặc không kèm bất thường nhịp tim thai (dưới 100 l/ph qua ống nghe hoặc
nhịp giảm đe dọa thai trên CTG). Nếu không giải quyết được, sử dụng thuốc
giảm co: Salbutamol 10mg pha trong 1000ml dịch (NaCl 0.9% hoặc Lactate
Ringer) truyền tĩnh mạch X giọt/ph.
º Không sử dụng oxytocin 10UI trong 500ml (20mUI/ml) ở người con
rạ và phụ nữ có sẹo mổ lấy thai.
19
2. CÁC NHÓM THUỐC KHÁC
Relaxin
Relaxin là 1 hormone polypetide được sản xuất bởi nang hoàng thể thai
kì, có tác dụng làm mềm cổ tử cung nhờ đẩy mạnh sự tái phân bố mô liên

kết. Relaxin có ưu điểm hơn các tác nhân khác ở chỗ có lẽ nhờ tác dụng
điều hòa hoạt động cơ tử cung, nhờ đó giảm nguy cơ tăng động cơ tử cung.
Tuy nhiên hiệu quả của Relaxin tái tổ hợp làm mềm CTC chưa được chứng
minh rõ ràng [49],[50],[51].
Đối kháng cạnh tranh với receptor của Progesterone: Mifepristone
(RU – 486), Onapristone (K98299)
Mifepristone là 1 steroid đối kháng cạnh tranh receptor của
progesterone có ảnh hưởng trên cả hoạt động của progesterone lẫn corticoids;
trong khi đó Onapristone là chất đối kháng receptor Progesterone có chọn lọc
hơn. Dùng 200 mg Mifepristone đặt âm đạo mỗi ngày trong 2 ngày có hiệu quả
làm chín muồi CTC, tuy nhiên cho đến nay chưa có nghiên cứu đầy đủ so sánh
tác dụng của Mifepristone so với các tác nhân khác [52] [53] [54] [55] [56].
IV. KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ - CÁC BIỆN PHÁP KHÔNG DÙNG
THUỐC
1. Kích thích núm vú (nipple stimulation hay breast stimulation)
Kích thích núm vú hay se đầu vú là một phương pháp có tính tự nhiên.
Cơ chế của phương pháp này là sẽ tạo các xung động đến vỏ não, kích thích
tuyến yên tiết ra oxytocin gây hiệu quả co cơ tử cung. Kích thích quầng vú
từng bên trong 5 đến 30 giây, cách khoảng 2 đến 3 phút, ngưng kích thích khi
đang có cơn co tử cung nhưng phương pháp này chỉ hiệu quả nếu CTC đã
20
thuận tiện [56]. Phương pháp này cũng được dùng sau sanh để ngừa băng
huyết sau sanh.
2. Lóc ối (stripping of the membranes)
Lóc ối là dùng ngón tay tách màng ối ra khỏi thành cổ tử cung và đoạn
dưới TC. Để lóc ối thành công thì đầu ngón tay phải lọt vào kênh cổ tử cung
và qua khỏi lỗ trong.
Lóc ối nhằm mục đích gây phóng thích các prostaglandins nội sinh từ
các màng thai. Nồng độ 13,14-dihydro-15-keto-prostaglandin F2α, chất
chuyển hóa sơ cấp của PGF2α màng rụng, tăng rõ rệt trong máu mẹ một thời

gian ngắn sau khi lóc ối hoặc bấm ối. Prostaglandins nội sinh này có thể giúp
làm chín muồi cổ tử cung, kích thích gây cơn co TC và khởi đầu chuyển dạ.
Hơn nữa, lóc ối có thể gây ra một phản xạ thần kinh tự trị, phản xạ Ferguson,
thúc đẩy sự phóng thích oxytocin từ thùy sau tuyến yên. Tuy nhiên về phản xạ
này vẫn còn đang bàn luận [46]. Một phân tích tổng hợp bao gồm 19 nghiên
cứu thử nghiệm lâm sàng chứng minh việc lóc ối thường quy lúc thai đủ ngày
làm giảm khoảng thời gian chờ chuyển dạ tự nhiên là 3 ngày, giảm tỉ lệ thai
quá ngày, và giảm vào chuyển dạ tự nhiên, và giảm tỉ lệ áp dụng các biện
pháp khởi phát chuyển dạ khác [58]. 2 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so
sánh hiệu quả của việc lóc ối làm chín muồi CTC với không lóc ối trước khi
giục sanh với Oxytocin cho thấy việc lóc ối làm tăng tỉ lệ sanh ngã âm đạo và
làm rút ngắn thời gian chờ chuyển dạ [59] [60].
Bất lợi thường gặp nhất khi thực hiện lóc ối là chảy máu do ngón tay
chưa qua lỗ trong cổ tử cung, gây tổn thương kênh cổ tử cung.
3. Bấm ối (amniotomy)
Bấm ối là gây vỡ nhân tạo các màng, là đục lỗ gây thủng màng ối bằng
cách dùng 1 kim dài, hoặc 1 cành Kocher, hoặc 1 kẹp Allis hoặc 1 cái móc
21
bằng chất dẻo (Amniohook, Hollister, Chicago, IL). Hiện nay một số nơi tại
Việt Nam dùng que vô khuẩn bằng nhựa để bấm ối. Thủ thuật này được Kreis
áp dụng lần đầu vào năm 1929. Các chỉ định của bấm ối bao gồm:
° Màng ối dày, CTC không tiến triển
° Rút ngắn chuyển dạ hay làm nghiệm pháp lọt ngôi chỏm hoặc đẻ thai
thứ 2 trong sinh đôi
° Nhau bám bên, bám mép chảy máu
° Giảm áp lực buồng ối trong đa ối
Bấm ối là 1 phương pháp KPCD hiệu quả, tuy nhiên chỉ được thực hiện
khi Bishop đã thuận lợi: CTC đã bắt đầu xóa và mở ít nhất một ngón tay.
Ngoài ra, chống chỉ định của bấm ối còn có sa dây rốn trong bọc ối, CTC
chưa mở trọn trong trường hợp ngôi thai không phải ngôi đầu. Trường hợp

đầu ối dẹt thì nên bấm ối trong cơn co, nếu ối phồng thì nên bấm ối ngay sau
đỉnh cơn co. Sau khi dùng dụng cụ chọc thủng màng ối, dùng ngón tay cho
qua lỗ thủng màng ối và xé rộng màng ối. Ghi nhận số lượng, màu sắc, có
chất gây, có máu hay có phân su của dịch ối chảy ra [10]. Cần phải theo dõi
nhịp tim thai trước và ngay sau khi bấm ối. Nhịp tim thai nhanh nhất thời
thường gặp sau bấm ối. 1 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên của
Cochrane cho thấy hiệu quả của việc kết hợp giữa bấm ối và tăng co với
oxytocin làm tăng khả năng thành công hơn bấm ối đơn độc [61]. 1 nghiên
cứu nhỏ khác với 123 sản phụ chứng minh hiệu quả của việc dùng oxytocin
ngay sau khi bấm ối làm nhanh vào chuyển dạ, rút ngắn cuộc chuyển dạ hơn
là việc dùng oxytocin trì hoãn sau bấm ối [62]. Tuy nhiên chưa đủ bằng
chứng thuyết phục hiệu quả phối hợp của bấm ối và tăng co với oxytocin thì
cao hơn là việc sử dụng oxytocin đơn độc [63]; hay so với khởi phát chuyển
dạ bằng prostaglandin đơn độc [61],[63]. Cần lưu ý rằng bấm ối không phải là
1 biện pháp thường quy để làm rút ngắn cuộc chuyển dạ. Tổng hợp nghiên
22
cứu từ 14 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên với mẫu gồm 4893 sản phụ so
sánh giữa nhóm có bấm ối thường quy và nhóm chứng không bấm ối, cho
thấy việc bấm ối làm rút ngắn thời gian của giai đoạn 1 chuyển dạ, đồng thời
làm giảm nguy cơ chuyển dạ bất thường, tuy nhiên không có sự khác biệt
đáng kể về tỉ lệ mổ lấy thai và tăng co bằng oxytocin giữa 2 nhóm. Như vậy
cho thấy việc bấm ối hay không cũng không chứng minh được là có đem lại
lợi ích lâm sàng hay không [64]. Tuy vậy, cũng từ các nghiên cứu trên cho
thấy việc bấm ối cũng không làm tăng nguy cơ nhiễm trùng ở mẹ. 1 nghiên
cứu tổng hợp phân tích khác cho thấy việc bấm ối sớm và tăng co với
oxytocin làm giảm nguy cơ mổ lấy thai và rút ngắn thời gian chuyển dạ 1 giờ
[65]. Các nguy cơ của bấm ối bao gồm:
(1) Sa dây rốn, đặc biệt nguy hiểm là sa dây rốn bên ngôi (do khó phát hiện).
(2) Tổn thương thai nhi.
(3) Tư thế thai nhi thay đổi do vỡ ối có thể dẫn đến ngôi bất thường.

(4) Vỡ mạch máu tiền đạo nếu không chẩn đoán được trước đó có thể
gây tử vong thai.
Các chống chỉ định của bấm ối sớm ngoài các nguy cơ kể trên còn bao
gồm: mẹ nhiễm HIV, nhiễm HSV (herpes simplex viral) đang trong giai đoạn
hoạt động, nhiễm viêm gan siêu vi.
4. Các phương pháp nong cơ học bằng dụng cụ (Mechanical Techniques)
Tất cả các phương pháp nong cơ học bao gồm: nong bằng cách hút ẩm,
laminaire, túi nước, bóng nước,… đều dựa trên sự phóng thích prostaglandins
nội sinh từ các màng thai và màng rụng mẹ để thúc đẩy sự chín muồi cổ tử
cung và/hoặc khởi phát chuyển dạ. Tuy nhiên một bất lợi quan trọng chung
của các tác nhân nong cơ học là phải chờ đợi một thời gian để cổ tử cung giãn
nở từ từ và sản phụ thường rất khó chịu khi đặt dụng cụ nong cơ học. Vì vậy
với các dược chất có hiệu quả tương tự, rõ ràng không có lý do gì để sử dụng
23
thường qui các tác nhân nong cơ học. Tuy nhiên, trong các tình huống lâm
sàng đặc biệt mà các prostaglandin cần phải tránh sử dụng như sản phụ có vết
mổ cũ hoặc ở những nơi mà các dược chất khác không có sẵn thì các tác nhân
nong cơ học có thể được sử dụng vừa an toàn vừa có hiệu quả. Không dùng
phương pháp nong trong trường hợp ối đã vỡ vì tăng nguy cơ nhiễm trùng.
4.1. Nong bằng cách hút ẩm (hygroscopic dilators)
Các tác nhân nong bằng cách hút ẩm bao gồm Laminaria japonica
(rong biển Nhật đã được sấy khô), Dilapan (polyacrilonitrile) và Lamicel
(magnesium sulfate trong polyvinyl alcohol) dựa trên cơ sở khi hút nước
chúng sẽ phồng to dần và làm giãn nở dần cổ tử cung: bình thường kích thước
Laminaria từ 2 – 6 mm, sau 6 – 12 giờ hút ẩm thì đạt kích thước tối đa.
Laminaria được chứng minh là có hiệu quả tương tự như gel PGE2 trong làm
việc làm chín muồi CTC [66]. Tuy laminaira rất rẻ tiền và tương đối an toàn,
hiệu quả, nhưng do đặt laminaria sản phụ rất khó chịu, do vậy nếu có các tác
nhân có hiệu quả tương tự người ta không khuyến cáo sử dụng laminaria
thường quy.

4.2. Nong bằng túi nước, bóng nước (Transcervical Balloon Catheters)
Đặt túi nước trong lòng tử cung là một phương pháp thường được áp
dụng trước đây và một số trường hợp chọn lọc hiện nay tại Việt Nam với tên
gọi Kovac’s. Cách thực hiện: dùng bao cao su (condom) với một ống thông
Nelaton bên trong. Tất cả được đưa qua kênh cổ tử cung vào buồng tử cung
(ngoài buồng ối). Một thể tích dung dịch muối sinh lý được truyền vào túi
(100-300 ml). Tuy nhiên do một số nguy cơ được ghi nhận như: làm thay đổi
vị trí ngôi thai có thể tạo điều kiện cho sa dây rốn, gây rách màng ối, nhau
bong non, hoặc chảy máu khi thủ thuật nên phương pháp này ngày càng ít
được dùng.
24
Hiện nay thường sử dụng sond Foley 16 French với bóng nước dung
tích 30 ml đưa qua kênh CTC khi còn xẹp vào buồng tử cung (ngoài buồng
ối) sau đó bơm phồng bóng nước và kéo nhẹ để bóng nằm sát lỗ trong
CTC. Để tăng lực kéo, 1 số nhà lâm sàng đặt túi chứa khoảng 1 lít nước
vào đuôi foley sau đó treo hoặc cố định ở mặt trong đùi của sản phụ, tuy
nhiên hiệu quả của việc tăng cường lực kéo nói trên vẫn chưa được chứng
minh. So sánh với giục sanh đơn thuần bằng oxyctocin thì phương pháp
này tốt hơn vì làm giảm tỉ lệ mổ lấy thai [67], không làm tăng nguy cơ gây
sanh non ở lần mang thai sau [68].
Một số nhà lâm sàng sử dụng sond bóng đôi ATA (ATA double –
balloon) thay cho Foley. 1 cuộc thử nghiệm nhỏ gồm 95 sản phụ có Bishop <
4 điểm chia làm 3 nhóm KPCD: 1 nhóm được nong với sond ATA, 1 nhóm
được dùng PGE2, và 1 nhóm giục sanh với Oxytocin, kết quả cho thấy chỉ
số Bishop thay đổi có ý nghĩa sau 12 giờ ở 2 nhóm dùng sond ATA và
PGE2 so với nhóm giục sanh với Oxytocin. Thêm vào đó, tỉ lệ thất bại của
nhóm dùng Oxytocin là 58%, cao hơn hẳn so với nhóm dùng PGE2 (20%)
và nhóm đặt ATA balloon (5.7%); tỉ lệ sanh ngã âm đạo của nhóm dùng
oxytocin là 26.7%, 70% đối với nhóm dùng PGE2 và 77% đối với nhóm
đặt ATA balloon [69] [70] [71].

Một phương pháp nong khác hiện nay được áp dụng là extra-amnionic
saline infusion (EASI) (tạm dịch là Nong CTC tăng cường với truyền dung
dịch nước muối đẳng trương ngoài buồng ối): sond Foley được đặt vào trong
kênh CTC sao cho vị trí bóng nước nằm ở giữa lỗ trong CTC và màng ối, sau
đó bơm truyền nước muối sinh lý vào trực tiếp trong ống sond với tốc độ 20 –
40 ml/giờ nhờ đó tạo 1 khoang ảo nhằm bóc tách màng ối ra khỏi đoạn dưới
tử cung. Phương pháp nong cải tiến này đạt hiệu quả cao vì vừa làm mở CTC
từ từ, vừa làm tách rộng màng ối, tiết prostaglandins nội sinh giúp chín muồi
25
CTC và đồng thời tiết các hormone khác làm khởi phát cơn gò tử cung.
Phương pháp này được chứng minh làm tăng chỉ số Bishhop lên 1 cách hiệu
quả, và làm rút ngắn thời gian chờ chuyển dạ so với sử dụng prostaglandins. 1
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên khác so sánh hiệu quả của việc
tăng co bằng oxytocin sau khi KPCD bằng laminaria, EASI, và dùng PGE2
đơn độc, kết quả cho thấy tỉ lệ mổ sanh ở cả 3 nhóm là như nhau, tuy nhiên
thời gian chờ chuyển dạ trung bình của nhóm dùng catheter + tăng co là 18
giờ thì ngắn hơn so với nhóm đặt laminaira + tăng co (21 giờ) và 25 giờ đối
với nhóm dùng PGE2 đơn độc [72].
Hình 6: Chuyền nước ối đẳng chương vào ngoài buồng ối
Tuy nhiên, tổng quan Cochrane so sánh EASI với prostaglandins cho
thấy EASI có vẻ ít dẫn tới sanh ngả âm đạo trong vòng 24 giờ hơn cũng như
không giảm được tỉ lệ gò cường tính. Ngoài ra còn có tác giả đánh giá hiệu
quả kết hợp Foley với các biện pháp bằng thuốc khác. Ví dụ 1 nhóm dùng
Foley (+EASI) đồng thời truyền oxytocin, 1 nhóm dùng misoprostol (73-75).
Tuy nhiên kết quả không cho thấy có thêm tác dụng nào tốt hơn so với dùng
PG đơn thuần, tỉ lệ mổ lấy thai cũng như nhau giữa 2 nhóm. Từ các chứng cứ

×