Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tóm tắt luận án định danh sự vật liên quan đến sông nước vùng đồng bằng sông cửu long trong phương ngữ nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.19 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------------------------------

HỒ VĂN TUYÊN

ĐỊNH DANH SỰ VẬT
LIÊN QUAN ĐẾN SÔNG NƯỚC
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TRONG PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Ngũn Cơng Đức

HÀ NỢI- 2013


Cơng trình được hồn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI – VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Công Đức
Phản biện 1: GS. TS. Nguyễn Thiện Giáp
Phản biện 2: GS. TS. Bùi Minh Toán
Phản biện 3: PGS. TS. Lê Hùng Tiến

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện, họp tại Học viện Khoa học Xã hội, 477 Nguyễn Trãi,
Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi ……..giờ……….ngày…….tháng……..năm ……….



Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Định danh là một chức năng của ngôn ngữ và cũng là nhu
cầu của con người trước thế giới khách quan. Tên gọi giúp con người
nhận thức và phân định thế giới khách quan quanh mình.
Nghiên cứu về tên gọi sự vật liên quan đến sông nước vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) không những cho thấy sự tri
nhận, cách phân cắt hiện thực và đặt tên sự vật này của con người
vùng sông nước Cửu Long, mà nó cịn thể hiện những nét văn hố,
ngơn ngữ rất đặc trưng của vùng đất. Thế nhưng vấn đề này vẫn chưa
được các nhà Việt ngữ học quan tâm một cách sâu sắc và toàn diện.
Đề tài “Định danh sự vật liên quan đến sông nước vùng
Đồng bằng sông Cửu Long trong phương ngữ Nam Bộ” xuất phát từ
nhu cầu lí luận và thực tiễn trên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Luận án muốn chỉ ra đặc điểm riêng về định
danh sự vật liên quan đến sông nước qua các tên gọi (bao gồm cả tên
chung và tên riêng) ở ĐBSCL, qua đó làm rõ những nét đặc trưng về
ngơn ngữ và văn hóa của vùng sơng nước này.
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu các vấn đề về lí thuyết định danh và một số vấn
đề lí thuyết khác có liên quan;
- Thu thập ngữ liệu, thống kê số liệu; mô tả và phân tích các
cứ liệu để rút ra những nhận xét, kết luận cần thiết.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và ngữ liệu khảo sát
* Đối tượng nghiên cứu của luận án là tên gọi các sự vật liên
quan đến sông nước vùng ĐBSCL.


* Luận án chỉ tập trung nghiên cứu những mảng tên gọi, các
từ ngữ sau: tên riêng của sơng ngịi, kênh rạch, ao đầm…; các từ ngữ
chỉ phương tiện di chuyển trên sông nước, từ ngữ chỉ phương tiện
đánh bắt thủy hải sản, từ ngữ chỉ dòng nước, mực nước, loại nước,
loại sóng, từ ngữ chỉ địa hình tự nhiên sông nước.
* Tổng số tên gọi được khảo sát là 1127 đơn vị.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu dưới
đây nhằm hướng đến mục đích nghiên cứu đã xác định:
- Phương pháp điều tra điền dã;
- Phương pháp miêu tả;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp so sánh, đối chiếu;
- Phương pháp lập sơ đờ, mơ hình hoá.
5. Ý nghĩa lí ḷn và thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa lí luận, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp
phần làm sáng tỏ một số vấn đề lí thuyết về định danh, bổ sung vào
sự phát triển của một số ngành học như Phương ngữ học Việt Nam,
đặc biệt là các bộ môn Danh học, Ngôn ngữ học xã hội - những
ngành học, có thể nói, mới chỉ bước đầu phát triển ở nước ta một vài
thập niên gần đây. Đồng thời, qua đó cũng sẽ góp phần làm rõ thêm
mối quan hệ giữa ngơn ngữ với văn hóa và tư duy được thể hiện qua
hoạt động định danh (ngôn ngữ) của con người,...
Về ý nghĩa thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài
liệu tham khảo phục vụ cho việc biên soạn giáo trình về Phương ngữ

học và Văn hóa học, biên soạn từ điển địa danh Nam Bộ.


6. Tổng quan về tình hình nghiên cứu định danh
Việc nghiên cứu về lí thuyết định danh, về các loại đơn vị
định danh có thể kể đến các công trình như: Cơ sở ngữ nghĩa học từ
vựng (NXB Giáo dục, 1998) và cuốn Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt
(NXB Giáo dục, 1999) của Đỗ Hữu Châu; “Từ ngữ tiếng Việt trên
đường tìm hiểu và khám phá” (trong Tuyển tập ngơn ngữ học – NXB
KHXH, 2010) của Hoàng Văn Hành; hai cơng trình Tìm hiểu đặc
trưng văn hóa – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy (trong sự so sánh
với những dân tộc khác) – (NXB ĐHQG HN, 2002) và Đặc trưng
văn hóa – dân tộc của ngơn ngữ và tư duy (NXB KHXH, 2008) của
Nguyễn Đức Tồn; luận án tiến sĩ Đặc điểm trường từ vựng – ngữ
nghĩa tên gọi động vật (trên tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng
Nga), của Nguyễn Thúy Khanh (1996); luận án tiến sĩ Đặc điểm của
lớp tên riêng chỉ người (chính danh) trong tiếng Việt của Phạm Tất
Thắng (1996); luận án tiến sĩ Các đơn vị định danh đa thành tố, một
cách tiếp cận từ điển học tương phản Dương Kì Đức (1993);…
Nghiên cứu về địa danh có các cơng trình của Nguyễn Văn Âu, Lê
Trung Hoa, Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Kiên Trường, Từ Thu Mai, Trần
Văn Dũng, v.v.. Nghiên cứu về định danh sự vật sơng nước có:
Hồng Thị Châu (“Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á
qua một vài tên sông”, Thông báo khoa học của Đại học Tổng hợp
Hà Nội, NXB Giáo dục- 1996); Trịnh Sâm (“Miền ý niệm sông nước
trong tri nhận của người Việt”, Tạp chí Ngơn ngữ, số 12- 2011).
Nghiên cứu về tên gọi sự vật sông nước Nam Bộ còn khá
khiêm tớn. Cơng trình Phương ngữ Nam bộ (những khác biệt về từ
vựng – ngữ nghĩa giữa phương ngữ Nam Bộ và phương ngữ Bắc Bộ)
(NXB KHXH, 1995) của Trần Thị Ngọc Lang nghiên cứu về nhóm



từ chỉ địa hình vùng đất, sự vận động của dịng nước, sự vận động
của con người trên sơng nước và những phương tiện dùng cho hoạt
động này nhưng không đặt vấn đề nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo
cũng như phương thức định danh.
Nhìn chung, định danh sự vật liên quan đến sơng nước
ĐBSCL cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách
chun sâu, tồn diện.
7. Cấu trúc của luận án: Luận án gồm ba chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận;
- Chương 2: Cấu tạo và phương thức định danh tên gọi sự
vật liên quan đến sông nước Đồng bằng sông Cửu Long;
- Chương 3: Ng̀n gớc, ngữ nghĩa và đặc trưng văn hóa
của tên gọi sự vật liên quan đến sông nước Đồng bằng sơng Cửu
Long.
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Cơ sở ngơn ngữ học
1.1.1. Định danh
1.1.1.1. Lí thuyết về định danh
a. Khái niệm định danh (nomination): Định danh hiện nay
được hiểu khác nhau. Chúng tơi theo quan niệm của Từ điển giải
thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Như Ý – chủ biên): “Sự cấu
tạo các đơn vị ngơn ngữ có chức năng dùng để gọi tên, chia tách các
đoạn của hiện thực khách quan trên cơ sở đó hình thành những khái
niệm tương ứng về chúng dưới dạng các từ, cụm từ, ngữ cú và câu”.
Luận án chỉ đi sâu nghiên cứu định danh dưới cấp độ từ vựng.
b. Về cơ chế định danh



Sau khi tri giác, phân cắt hiện thực khách quan phục vụ nhu
cầu nhận thức, quá trình tiếp theo là biểu hiện kết quả của q trình
đó bằng ngơn ngữ.
c. Về đặc điểm và nguyên tắc định danh
- Theo V.G. Gac: đặc điểm định danh có thể được xét theo
ba tiêu chí sau: 1. Cách biểu thị tên gọi theo lối hịa kết hay phân
tích; 2. Mức độ về tính rõ lí do của tên gọi; 3. Cách chọn đặc trưng
của đối tượng để làm cơ sở định danh. Đối với loại hình ngơn ngữ
đơn lập như tiếng Việt thì tiêu chí (1) là cách biểu thị theo lối phân
tích (dẫn theo Nguyễn Đức Tồn, Đặc trưng văn hoá - dân tộc của
ngôn ngữ và tư duy, NXB KHXH, 2008).
- Nguyên tắc định danh: cái biểu hiện và cái được biểu hiện
phải có mối liên hệ với nhau, tên gọi của đối tượng phải có sự phân
biệt với các tên gọi khác và nếu định danh theo kiểu vay mượn thì
tên gọi phải được chuyển từ loại hình ngơn ngữ được mượn sang loại
hình ngơn ngữ mượn.
d. Các dạng định danh và phương thức định danh
G.V. Consanski chia định danh thành ba dạng: định

danh từ vựng, định danh bằng câu, định danh bằng văn
bản. B.A. Serebrennikov nêu cụ thể bảy cách định danh: (1) sử dụng
tổ hợp âm biểu thị đặc trưng nào đó trong số các đặc trưng của đối
tượng; (2) mô phỏng âm thanh (tức tượng thanh); (3) phái sinh; (4)
ghép từ; (5) cấu tạo các biểu ngữ đặc ngữ; (6) can – ke (hay sao
phỏng); (7) vay mượn (theo Nguyễn Đức Tồn, tài liệu đã dẫn).
Phương thức định danh còn tuỳ thuộc loại hình ngôn ngữ.
e. Quá trình tri nhận trong định danh
Đây là quá trình tinh thần của con người, liên quan mật thiết



đến việc thu nhận, xử lí, chế biến và lưu trữ thông tin trong não một khâu quan trọng của quá trình định danh.
1.1.1.2. Định danh sự vật ở cấp độ từ vựng
Từ là những đơn vị định danh sự vật, hiện tượng, quá trình…
ở cấp độ từ vựng. Tuy nhiên, khơng phải tất cả các từ đều có chức
năng định danh. Chỉ thực từ mới có chức năng này. Trong vốn từ
tiếng Việt, những từ đơn âm tiết là những đơn vị định danh gốc (bậc
một), những từ đa âm tiết (phần lớn là song tiết) là những đơn vị
định danh phái sinh (bậc hai). Những đơn vị định danh gốc trở thành
yếu tố cơ sở để tạo ra những đơn vị định danh phái sinh.
Tên (name) là một từ hoặc nhóm từ dùng để chỉ một cá nhân,
cá thể, phân biệt với cá nhân, cá thể khác cùng loại. Tên gồm có tên
chung và tên riêng. Nếu tên chung là những từ chỉ một lớp đối tượng
cùng loại, liên hệ đến khái niệm thì tên riêng chỉ là những kí hiệu
định danh cho một đối tượng cá biệt, đơn lẻ, khơng có mối liên hệ
đến bất kì một khái niệm nào. Tên chung và tên riêng đều có nghĩa.
Tên chung biểu thị khái niệm. Tên riêng chỉ có nghĩa khi nó xác lập
được mối liên hệ trực tiếp với đối tượng được định danh. Khi nghiên
cứu về định danh sự vật, đối tượng khảo sát chính là tên gọi. Khảo
sát tên gọi, chúng ta cần thiết phải khảo sát cả tên chung (danh từ
chung) và tên riêng (danh từ riêng).
1.1.1.3. Về tính võ đốn trong định danh
a. Quan niệm tên gọi là võ đoán, quan niệm này xuất phát từ
lí thuyết về tín hiệu ngơn ngữ của F. de Saussure: “tín hiệu ngơn ngữ
là võ đốn” (Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB KHXH, Hà
Nội, 1973).


b. Quan niệm tên gọi là phi võ đoán là quan niệm của hầu
hết các nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực tri nhận luận ngơn ngữ học;

trong đó, ở Việt Nam, tiêu biểu là tác giả Nguyễn Đức Tồn. Ông cho
rằng, “tất cả mọi kí hiệu ngơn ngữ đều có lí do, chứ khơng phải là võ
đốn” (Tài liệu đã dẫn). Chúng tôi chấp nhận quan niệm này. Có thể
chia lí do trong định danh thành hai loại: lí do khách quan và lí do
chủ quan.
1.1.2. Phương ngữ Nam Bộ
1.1.2.1. Khái niệm phương ngữ
Phương ngữ (dialect) còn được gọi là phương ngôn/ tiếng
địa phương. Quan niệm về phương ngữ cũng có sự khác nhau trong
nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan: 1. Nếu trừu tượng hóa,
phương ngữ hoàn toàn có thể coi là một hệ thống ngơn ngữ hồn
chỉnh, chứ khơng phải là mợt bợ phận của ngơn ngữ tồn dân
(national language); 2. Bên cạnh, cũng có quan niệm, coi phương
ngữ chỉ là một biến thể địa lí/ khu vực của ngôn ngữ toàn dân.
1.1.2.2. Vấn đề phân vùng phương ngữ tiếng Việt và xác
định vùng phương ngữ Nam Bộ
Hiện có nhiều quan điểm phân chia vùng phương ngữ tiếng
Việt. Trong các vùng phương ngữ mà các nhà Việt ngữ học chia đều
có vùng PNNB. Vùng phương ngữ này cơ bản trùng với vùng địa lí
từ Bình Phước đến Cà Mau. Có thể nói, tiếng Việt ở ĐBSCL là
PNNB tiêu biểu.
1.1.2.3. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ
Cũng như các phương ngữ khác, PNNB có đặc điểm riêng
của nó. Đặc biệt là đặc điểm về ngữ âm, từ vựng. Về đặc điểm từ
vựng, chúng tôi cho rằng, hệ thống từ vựng trong PNNB gồm có hai


lớp: lớp từ ngữ toàn dân chiếm đại đa số trong vốn từ thuộc PNNB
(ví dụ: sông, thuyền, câu,...) và lớp từ ngữ ít hơn trong PNNB gồm
các nhóm nhỏ như: nhóm đặc Nam Bợ, nhóm khác âm đờng nghĩa

với từ toàn dân, nhóm đồng âm khác nghĩa với từ tồn dân, nhóm
chênh/ lệch nhau về nghĩa với từ toàn dân.
1.1.2.4. Sự tiếp xúc ngôn ngữ ở Đồng bằng sông Cửu Long
Ở ĐBSCL có nhiều tộc người sinh sống nói những thứ tiếng
Nam Á, Nam Đảo, Hán - Tạng,.. khác nhau, với khung cảnh ngôn
ngữ như vậy, tất yếu sẽ diễn ra sự tiếp xúc ngơn ngữ. Trong q trình
tiếp xúc, có hiện tượng giao thoa, vay mượn giữa các ngôn ngữ trên
địa bàn.
1.2. Cơ sở văn hoá học
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) xác định từ văn hóa
có đến năm nghĩa. Chúng tơi quan tâm đến nghĩa thứ nhất mà từ điển
này đưa ra: “Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.
ĐBSCL là một vùng đất mới, kênh rạch chằng chịt. Đây là
vùng đất nằm ở phía tây Nam Bộ nên có thể gọi đây là một tiểu vùng
văn hóa Nam Bộ. Vùng đất này có những đặc trưng văn hoá vật chất
và tinh thần riêng. Nơi đây cũng diễn ra sự biến đổi và giao thoa về
văn hố.
Chúng tơi xuất phát từ cơ sở khoa học nêu trên để triển khai
vấn đề ở chương 2 và chương 3.
1.3. Tiểu kết
Luận án tiến hành trình bày cái nhìn tổng quan về nghiên
cứu định danh, nêu ra một số vấn đề về lí thuyết định danh và những
vấn đề lí thuyết liên quan khác để định hướng cho việc mô tả, phân


tích, nhận xét những đặc điểm về định danh sự vật liên quan đến
sông nước vùng ĐBSCL.
Chương 2
CẤU TẠO VÀ PHƯƠNG THỨC ĐỊNH DANH

SỰ VẬT LIÊN QUAN ĐẾN SÔNG NƯỚC
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
2.1. Cấu tạo của tên gọi
2.1.1. Thành tố và mơ hình cấu tạo của tên gọi
2.1.1.1. Tên chung
a. Thành tố cấu tạo của tên chung
Tên chung chỉ sự vật liên quan đến sơng nước ĐBSCL có
hai dạng cấu tạo: dạng 1 là dạng có cấu tạo bằng một từ đơn, thường
có một âm tiết hoặc từ có nguồn gốc vay mượn, dạng này khó tìm
được lí do đặt tên; dạng 2 thường là từ ghép phân nghĩa, gồm hai
thành tố: thành tố về chủng loại sự vật (gọi tắt là thành tố A) và
thành tố phân biệt, cá thể hóa sự vật (gọi tắt là thành tố B). Thành tố
A là bộ phận chỉ chủng loại, đứng trước thành tố B trong tên chung.
Các thành tố A thường gặp là: nước, câu, xuồng, ghe, kênh, bưng,…
Thành tố B có một hoặc hai yếu tố phân biệt, cá thể hóa. Mỗi yếu tố
ở thành tố B có thể được cấu tạo bởi một hoặc nhiều âm tiết.
b. Cấu tạo đơn và phức của tên chung
Cấu tạo đơn của tên chung khơng có thành tố phân biệt, cá
thể hóa đối tượng, chiếm 19%. Ví dụ: ghe, xiệc, xịp,… Cấu tạo phức
của tên chung có thành tố phân biệt, cá thể hóa đối tượng và thường
có nhiều âm tiết, chiếm 81%. Ví dụ: ghe bản lồng,…
2.1.1.2. Tên riêng
a. Thành tố cấu tạo của tên riêng: Phức thể tên riêng có một


dạng cấu tạo gồm hai thành tố: thành tố loại hình địa danh - danh từ
chung (A) và thành tố khu biệt đối tượng - danh từ riêng (B).
b. Cấu tạo đơn và cấu tạo phức của tên riêng
Cấu tạo đơn của tên riêng, trong thành tố B chỉ có một yếu tố
bằng số, bằng một chữ cái, bằng cụm từ đẳng lập hoặc mượn tiếng

nước ngoài, tỉ lệ 97%. Cấu tạo phức của tên riêng, ở thành tố B có
hai yếu tố khu biệt, cá thể hóa đối tượng (B1 và B2), chiếm 3%.
2.1.2. Hình thức ghép yếu tố trong cấu tạo tên gọi
Tên gọi sự vật sông nước ĐBSCL được cấu tạo bằng hình
thức ghép yếu tố ngôn ngữ là chủ yếu: tên chung 133 đơn vị, tên
riêng 970 đơn vị, tổng số 1103 đơn vị, chiếm tỉ lệ 98,3 %. Yếu tố
ghép nhiều nhất là nước, yếu tố chỉ sự vật, hoạt động (trong tên
chung); yếu tố chỉ loại chung cái, vàm, sông, rạch, yếu tố chỉ người
ông, bà, thị, yếu tố chỉ đặc trưng tân, mĩ, yếu tố chỉ phương vị
thượng, hạ… (trong tên riêng). Cơ chế ghép theo chiều tuyến tính
theo mô thức: A  B => AB, ví dụ: nước (A)  rong (B) => nước
rong, kênh (A)  Tàu Hủ (B) => kênh Tàu Hủ,… Một số tên riêng
Hán Việt, vị trí các yếu tố ghép ngược lại: BA (có thể gọi là chiều
tuyến tính ngược), ví dụ: Cường Oai giang, Trúc giang,…
2.2. Phương thức định danh sự vật liên quan đến sông nước
2.2.1. Phương thức cơ sở
2.2.1.1. Sử dụng từ ngữ biểu thị đặc trưng đối tượng hoặc
biểu thị sự vật, yếu tố có quan hệ gần gũi với đối tượng
a. Tên chung
* Tên phương tiện di chuyển trên sông nước, những đặc
trưng được chủ thể chọn để đặt tên bao gồm: về cấu tạo (16/ 59 đơn
vị), ví dụ: ghe chạy buồm…; chức năng (12 đơn vị), ví dụ: đị khách,


ghe cá,…; hình dạng (8 đơn vị), ví dụ: ghe bầu, vỏ lải,…; kích cỡ (2
đơn vị): ghe cui,…; tốc độ (2 đơn vị): tàu cao tốc, vỏ vọt; màu sắc (1
đơn vị): ghe son; nguồn gốc (3 đơn vị): xuồng xà no,…; vật liệu (3
đơn vị): ghe nóc gia,…; vùng hoạt động (2 đơn vị): ghe cửa,…. Khi
định danh sự vật sông nước, người Việt ở ĐBSCL còn dùng những
yếu tố ngôn ngữ biểu thị cảm thức chủ quan của mình về đối tượng

định danh (hay đờng hoá trạng thái cảm xúc của chủ thể với đặc
điểm của đối tượng): ghe bất mãn, ghe điệu,…
* Tên công cụ, phương tiện đánh bắt thủy sản, những đặc
trưng được chọn để đặt tên cho sự vật này gồm: hoạt động (6/20 đơn
vị), ví dụ: kéo cào, câu giăng…; vị trí (4 đơn vị), ví dụ: đăng áp…;
âm thanh (1 đơn vị): xịp; cấu tạo (3 đơn vị): câu dây; vật liệu (1 đơn
vị): chà.
* Tên dòng nước, mực nước, loại nước, loại sóng, những đặc
trưng lựa chọn để đặt tên loại này khá phong phú: hoạt động của
dòng nước (26/54 đơn vị), ví dụ: nước chạy,…; mực nước (11 đơn
vị), ví dụ: nước lớn hai phần mà…; hình dạng (5 đơn vị), ví dụ: sóng
lưỡi búa…; lượng nước (4 đơn vị), ví dụ: nước kém…; chiều hướng
chảy (2 đơn vị): nước xuôi, nước ngược; thời gian (2 đơn vị): con
nước mười lăm,…; số lần (2 đơn vị): nước hai con,…; độ sạch (1 đơn
vị): nước cỏ; màu sắc (1 đơn vị): nước bạc.
* Tên địa hình sơng nước, những đặc trưng đối tượng chọn
là: hình dạng (4 đơn vị), ví dụ: kinh địn dơng, gãy…; tính chất lớn
nhỏ, dài ngắn (3 đơn vị), ví dụ: xép, cái…; nguồn gốc (1 đơn vị):
kinh trời sanh; chức năng (1 đơn vị): búng tàu. Đa số tên chung sự
vật sông nước ĐBSCL đều rõ lí do và tập trung ở các tên có cấu tạo
phức, thường đa tiết (126/157, chiếm 80,25 %). Tuy nhiên vẫn còn


một số tên gọi chưa thể tìm được lí do hoặc đó là những tên gọi
mượn tiếng nước ngồi (31/ 157, chiếm 19,75 %).
b. Tên riêng
* Lấy thực vật điển hình mọc ở khu vực có đối tượng địa lí
để đặt tên chiếm số lượng nhiều nhất (91 đơn vị) và phần lớn là
những thực vật đặc trưng vùng sông nước Nam Bộ như dừa nước gọi tắt là lá, cóc, giá, tràm, xồi, vắp, bần, vang, bằng lăng, bèo, lá
bn, rau ráng, ơ rơ, mù u, gịn, bơng súng, bình bát… Ví dụ: rạch

Lá, kênh Bằng Lăng,…
* Lấy sự vật điển hình ở gần đối tượng về mặt địa lí để đặt
tên có 76 tên gọi. Ví dụ: kênh Cạnh Đền, rạch Cái Chùa,…
* Lấy tḥc tính, đặc điểm của đối tượng để đặt tên. Đó là:
độ nông, sâu, chiều dài, chiều rộng của chính đối tượng, có 22 đơn vị
(ví dụ: kênh Bảy Ngàn, mương Sâu,…); dáng vẻ có 2 đơn vị (rạch
Gấm, bến Tiên); hương vị (theo cảm nhận) có 4 đơn vị (ví dụ: rạch
Nước Mặn, kênh Nước Đục,…); chiều hướng, kiểu cách của dòng
chảy có 8 đơn vị (ví dụ: ngã ba Nước Xoáy, rạch Eo Xi,…), tâm
linh, kì lạ có 3 đơn vị (ví dụ: vũng Linh, sơng Lũng Kì,…); cũ, mới
có 5 đơn vị (ví dụ: kênh Cũ, rạch Cái Mới,…); sự chuẩn mực có 1
đơn vị (kênh Kiểu Mẫu); hoạt động có 2 đơn vị (rạch Chèo, cửa rạch
Đóng); hình dạng của đối tượng có 19 đơn vị (ví dụ: ngã ba Cổ Cị,
kênh Ruột Ngựa, rạch Cui,…). Tất cả có 67 đơn vị tên gọi được đặt
căn cứ vào tḥc tính, đặc điểm của đối tượng định danh.
* Lấy phương vị của đối tượng địa lí để đặt tên có 35 đơn vị.
Ví dụ: sông An Thủy Tây,… Phương vị được chọn nhiều nhất là
Thượng, Hạ, Đông, Tây.


* Lấy động vật sinh sống ở khu vực có đối tượng địa lí để
đặt tên có 27 đơn vị. Ví dụ: rạch Cá Rô, đầm Chim, rạch Dơi,…
* Lấy thời gian khởi cơng tạo ra đối tượng địa lí để đặt tên,
ví dụ: kênh 68, kênh 90,…
* Lấy tộc người sống trong vùng để đặt tên, ví dụ: rạch
Chiêm, rạch Kinh, rạch Mọi,…
* Lấy khởi chung điểm dòng chảy để đặt tên có 17 tên gọi.
Ví dụ: kênh Bạc Liêu – Cà Mau,…
* Lấy phương tiện thi công để đặt tên, ví dụ: kênh Sáng
(xáng),…

* Lấy nghề nghiệp của con người sống trong vùng để đặt
tên, ví dụ: kênh xáng Thợ May.
2.2.1.2. Ghép chữ số, chữ cái, yếu tố Hán
a. Ghép chữ số để tạo tên gọi (34 đơn vị), thể hiện ở ba kiểu
sau: ghép số vào thành tố A (kênh 2,...); ghép “Số” + số đếm vào
thành tố A (kênh Số 10,..); ghép “Thứ” + số (kênh Thứ Nhứt,...).
b. Ghép chữ cái để tạo tên gọi, chỉ có 3 đơn vị: kênh B,...
Riêng ghép kết hợp chữ cái “T” + số là tên của 6 con kênh: T1,
T2,... “T” là bí danh - chữ viết tắt từ “Thủ tướng”.
c. Ghép yếu tố Hán để tạo tên gọi xuất hiện trong 84 tên
riêng và 1 tên chung.
2.2.2. Phương thức chuyển hóa
- Chuyển đổi loại hình: Tên gọi có trước (nguồn) trở thành
thành tố khu biệt của tên gọi mới. Giữa tên có trước và tên mới khác
nhau về loại hình.
Cách thức chuyển đổi loại hình có 116 đơn vị. Trong tên gọi
có trước hoặc yếu tố nguồn loại tự nhiên sông nước chiếm ưu thế


(93/112 - 83 %). Loại hình kênh trong tên mới chiếm tỉ lệ khá cao
(31/ 112 – 27,6 %).
- Chuyển từ tên người sang tên kênh rạch: Sự chuyển hoá
theo kiểu này có 196 tên gọi và cũng chỉ gặp ở những tên riêng địa
hình sơng nước. Trong đó, 7 tên gọi chuyển đầy đủ họ và tên chính
của người, ví dụ: kênh Dương Văn Dương,…; 133 tên gọi được
chuyển từ những từ nhân xưng “ông”, “bà” hoặc “thị” gắn với tên
riêng của người phía sau; 56 tên gọi chuyển từ hiệu, chức vị hoặc
danh pháp của người sang tên kênh rạch, ao đầm.
2.2.3. Phương thức vay mượn
Đặt tên cho sự vật sơng nước ở ĐBSCL, ngồi việc định

danh bằng các yếu tố thuần Việt, chủ thể định danh cũng đã vay
mượn một số yếu tố tiếng Khmer (chiếm 33 %, 102/303 đơn vị
mượn) để cấu tạo tên gọi (tộc người Khmer chiếm một số lượng lớn
trong cơ cấu các tộc người thiểu số ở ĐBSCL, nên có thể coi những
đơn vị định danh như vừa nói trên là những tên gọi bằng những biến
thể của ngôn ngữ bản địa). Có thể nói, những tên gọi chỉ sự vật sơng
nước vay mượn là kết quả của sự sao phỏng phức hợp âm và nghĩa từ
ngôn ngữ vay mượn trên. Ví dụ: Piam -> vàm, (srock) Mỳ xó -> sơng
cái Mĩ Tho,…
2.2.4. Hiện tượng lặp tên và trùng tên khác đối tượng
Hiện tượng lặp tên là hiện tượng một đối tượng nhưng có hai
tên gọi giớng nhau. Ví dụ: Cần Thay giang/ sông Cần Thay, Đầm
giang/ Cái Đầm,… Ngược lại với hiện tượng trên là hiện tượng trùng
tên khác đối tượng (hiện tượng này xuất hiện ít hơn).


2.3. Tiểu kết
Tên sự vật liên quan đến sông nước vùng ĐBSCL, nhìn
chung có cấu tạo phức tạp. Tên chung và tên riêng đều có hai dạng
cấu tạo đơn và cấu tạo phức. Đa số tên gọi có hai thành tố: thành tố
chỉ loại, chủng loại hoặc loại hình địa danh và thành tố khu biệt, cá
thể hóa. Phần lớn tên gọi được cấu tạo bằng hình thức ghép (1097/
1127, chiếm 97,3%) và chủ yếu là ghép kiểu phân nghĩa (chính phụ).
Cơ chế ghép cơ bản theo chiều tuyến tính thuận. Đây là phương thức
cấu tạo từ chủ yếu trong tiếng Việt.
Những yếu tố tham gia trong quá trình ghép phần nhiều là
yếu tố chỉ nước, loại hình sông nước, yếu tố nhân xưng, yếu tố Hán
(có nghĩa mới, tốt đẹp) và yếu tố chỉ phương vị. Những yếu tố này
không chỉ góp phần gợi nên diện mạo một vùng sông nước đặc trưng
của Nam Bộ mà còn thể hiện tâm lí, tư tưởng của con người nơi đây.

Trong số tên gọi xác định được phương thức định danh (998
đơn vị), ta thấy người Việt ở ĐBSCL đã sử dụng các phương thức
theo từ “nội hệ thống” (internal system) đến “ngoại/ cận hệ thống”
(external system) như sau: phương thức cơ sở > chuyển hóa > vay
mượn. Phương thức cơ sở chiếm ưu thế không chỉ cho thấy người
Việt ở ĐBSCL đã thiên về sử dụng ngơn ngữ của mình để tạo tên gọi
mới cho sự vật sơng nước mà cịn cho thấy chủ thể đã coi tiêu chí
hình thức bề ngoài của chính đối tượng là đáng tin cậy và hoàn chỉnh
để đặt tên và khu biệt từng cá thể.
Trong phương thức cơ sở, cách thức chọn đặc trưng của đối
tượng hoặc chọn yếu tố, sự vật gần gũi với đối tượng chiếm tỉ lệ cao
nhất (456/998, chiếm 44,7%). Điều này chứng tỏ người Việt ở


ĐBSCL quan sát đối tượng chủ yếu bằng thị giác. Sự tri giác ở đây
rất cụ thể, đầy tính trực cảm.
Chương 3
NGUỒN GỐC, NGỮ NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG VĂN HOÁ
CỦA TÊN GỌI SỰ VẬT LIÊN QUAN ĐẾN SÔNG NƯỚC
ĐỒNG BẰNG SƠNG CỬU LONG
3.1. Ng̀n gớc tên gọi
Tên sự vật liên quan đến sơng nước vùng ĐBSCL chủ yếu có
nguồn gốc thuần Việt. Vay mượn chiếm tỉ lệ ít hơn. Vay mượn từ
tiếng Hán, có số lượng cao nhất (199 đơn vị). Trong đó, tên chung
chỉ có 1 đơn vị (bè thủy lực); tên riêng có 198 đơn vị. Vay mượn
tiếng Khmer có tổng số 102 đơn vị (tên chung 10 đơn vị, tên riêng
92), chiếm 8,8%. Vay mượn ngôn ngữ khác (tiếng Anh 1, tiếng
Bahnar 1). Như vậy, tổng số đơn vị tên gọi vay mượn là 303/ 1127
(chiếm 26,7%,).
3.2. Ngữ nghĩa của tên gọi

3.2.1. Nghĩa phân biệt của tên gọi
- Đối với tên chung, nghĩa được phân biệt theo từng nhóm
tên. Ở mỗi nhóm, các tên lại được phân biệt thêm một bậc nữa. Cuối
cùng là phân biệt theo nghĩa từng tên gọi. Ví dụ, phân biệt: nước cạn
(có thể xắn quần lội qua hoặc ghe thuyền nhẹ có thể di chuyển bằng
cách dùng (cây) sào chống xuống đáy sông/ kênh/ rạch,... và đẩy đi),
nước sát (nước rút tới đáy lịng sơng), nước rặt (nước chỉ cịn chảy ở
tim con rạch, sơng), nước kiệt (hết nước chảy ra, có thể ở sông cái
nước bắt đầu chảy vào),...
- Tên riêng có chức năng định danh nhưng đồng thời cũng có
chức năng biểu thị. Hình thức biểu thị của tên riêng theo lối miêu tả.


Số lượng từ chỉ loại hình sông nước ở thành tố A của tên riêng khá
cao (23 đơn vị). Số lượng này không chỉ phản ánh sự đa dạng về địa
hình sông nước ở ĐBSCL mà còn thể hiện sự phong phú về nghĩa vị
của các từ trong trường từ vựng chỉ loại sự vật địa hình sông nước
trong PNNB. Nghĩa phân biệt ở thành tố A của tên riêng là phân biệt
loại hình địa danh tự nhiên sơng nước. Mỗi từ lại được phân biệt ở
nghĩa cụ thể (như đã trình bày ở phần tên chung).
Nghĩa phân biệt ở thành tố B của tên riêng bao gồm: nghĩa
biểu hiện thuộc tính của đối tượng định danh (kích cỡ 7,4%, hình
dạng/ dáng vẻ 6,7%, chiều hướng dòng chảy 2,5%, cũ/mới 1,6%,
màu sắc 1,0%, tâm linh, kì lạ 0,6%, chuẩn mực 0,3%, v.v.); nghĩa
biểu hiện sự vật, yếu tố có quan hệ với đối tượng định danh; nghĩa
biểu hiện tâm lí, trạng thái của chủ thể; nghĩa biểu hiện ước vọng của
chủ thể định danh, biểu hiện sự mới mẻ của vùng đất và biểu hiện
phương vị của đối tượng qua những từ Hán Việt.
3.2.2. Nghĩa chuyển của tên gọi
Hiện tượng chuyển nghĩa có trong 35 đơn vị tên gọi (tỉ lệ

3%). Trong đó có 26 đơn vị tên chung: chân, đỉnh (thủy triều), ngọn,
nước bò, nước chạy, nước đứng... và 9 đơn vị tên riêng: ngã ba Bần
Quỳ, kênh Trời Đánh,...
3.2.3. Ý nghĩa của tên gọi
- Tên gọi phản ánh hiện thực: Tên gọi sự vật sông nước
ĐBSCL, phản ánh lịch sử các con kênh, thành phần dân tộc, nguồn
gốc dân cư; cho biết về lịch sử vùng đất này nói riêng và lịch sử Nam
Bộ, lịch sử dân tợc nói chung. Tên gọi sự vật sơng nước nơi đây còn
để lại dấu vết về vùng đất mới, hoang dã, phản ánh môi trường và


cuộc sống sơng nước, hiện thực địa lí, địa hình đặc trưng của vùng
đất, thể hiện đặc điểm tiêu biểu của PNNB trên vùng đất.
- Về mức độ rõ lí do của tên gọi: Tên sự vật liên quan đến
sông nước vùng ĐBSCL đa sớ có lí do (80,25%). Trong đó, có cả lí
do chủ quan và lí do khách quan. Sớ lượng tên có lí do ở mảng tên
riêng cao hơn ở mảng tên chung.
3.2.4. Hiện tượng đồng sở chỉ trong tên gọi
Đồng sở chỉ là hiện tượng nhiều tên gọi khác nhau nhưng
cùng chỉ một đối tượng. Cụ thể: có 108 đối tượng (sự vật chung 12,
sự vật cá thể 96) nhưng có tới 252 tên gọi (tên chung 30, tên riêng
222). Như vậy, hiện tượng đồng sở chỉ chiếm tỉ lệ khá cao, hơn 22%.
3.3. Đặc trưng văn hoá trong tên gọi
Tên gọi sự vật sông nước vùng ĐBSCL không chỉ giúp cho
việc tìm hiểu về đặc điểm định danh, về đặc điểm của ngôn ngữ địa
phương mà qua đó cịn có thể cho thấy nét đặc trưng văn hoá của
vùng đất này. Đặc trưng văn hoá trong tên gọi được biểu hiện qua
phương thức định danh, hiện tượng biến đổi tên gọi, nguồn gốc ngôn
ngữ, cấu tạo và ý nghĩa của tên gọi.
3.4. Tiểu kết

Tên gọi sự vật liên quan đến sông nước vùng ĐBSCL phần
lớn có khả năng xác định được nguồn gốc (ngôn ngữ). Tên gọi có
nguồn gốc thuần Việt chiếm tỉ lệ cao (73,3%) và thường là tên gọi
gốc, từ vựng gốc. Đa số tên gọi sự vật liên quan đến sông nước vùng
ĐBSCL xác định được lí do đặt tên. Số tên gọi chưa tìm được lí do ở
tên chung nhiều hơn ở tên riêng (tên chung 11%; tên riêng 0,3%).
Nguyên nhân vì tên riêng là đơn vị định danh bậc hai nên việc tìm lí
do ít khó khăn hơn.


Tên chung có nghĩa biểu niệm và biểu vật, tên riêng có nghĩa
biểu vật. Cả hai loại tên gọi này đều có nghĩa phân biệt.
Tên gọi sự vật liên quan đến sông nước vùng ĐBSCL phản
ánh môi trường tự nhiên, hiện thực lịch sử, văn hóa của vùng đất.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đặc điểm định danh sự vật
liên quan đến sông nước vùng ĐBSCL, bước đầu luận án rút ra một
số kết luận như sau:
1. Việc phân cắt và định danh thế giới hiện thực là một nhu
cầu tất yếu của con người. Sự phân cắt và định danh này bị ảnh
hưởng, chi phối bởi môi trường tự nhiên, đặc điểm lịch sử, xã hội,
văn hóa và ngôn ngữ của một dân tộc, của một cộng đờng nhất định.
Vì thế, việc nghiên cứu về định danh nói chung, định danh sự vật
liên quan đến sông nước vùng ĐBSCL nói riêng vừa phải lưu ý đến
những đặc điểm trên, vừa phải quan tâm tới mối quan hệ giữa văn
hóa, ngơn ngữ và tư duy.
ĐBSCL là vùng đất mang đặc trưng sông nước nổi bật. Môi
trường tự nhiên và c̣c sớng gắn bó với sơng nước đã trở nên rất đỗi
thân tḥc với con người nơi đây. Chính điều kiện tự nhiên cùng với
văn hoá vùng sông nước hịa trong văn hoá tợc người, ngơn ngữ bản

địa và lối tri nhận riêng của người Việt vùng sông nước Cửu Long là
những nhân tố cơ bản đã chi phối, ảnh hưởng đến cấu tạo, phương
thức định danh, đặc điểm ngữ nghĩa và sự biến đổi của tên gọi sự vật
liên quan đến sông nước nơi đây.
2. Tên gọi sự vật liên quan đến sông nước ĐBSCL có hai
loại: tên chung và tên riêng. Tên chung chỉ phương tiện di chuyển
trên sông nước, phương tiện và công cụ đánh bắt thuỷ hải sản, chỉ


dòng nước, mực nước... ở PNNB phong phú, đa dạng hơn trong
tiếng Việt toàn dân. Điều đó chứng tỏ những sự vật liên quan đến
sông nước ĐBSCL cũng rất phong phú và đa dạng, gồm nhiều chủng
loại khác nhau. Tên riêng chỉ địa hình tự nhiên sông nước cũng hết
sức phong phú về loại hình, phản ánh sự đa dạng về địa hình của
vùng đất sông nước Nam Bộ.
3. Xét về phương diện hình thức cấu tạo, tên gọi sự vật liên
quan đến sơng nước ĐBSCL có cấu tạo phức tạp. Đa số tên gọi có
hai thành tố: thành tố chỉ chủng loại hoặc loại hình địa danh và thành
tố khu biệt, cá thể hóa. Phần lớn tên gọi được cấu tạo bằng hình thức
ghép (97,3%) và chủ yếu là ghép theo kiểu phân nghĩa hay chính
phụ. Cơ chế ghép cơ bản theo chiều tuyến tính thuận. Đây chính là
hệ quả của đặc điểm cấu tạo từ, cụm từ tiếng Việt nói chung và trong
PNNB nói riêng.
́u tớ tham gia cấu tạo các tên gọi phần nhiều là các yếu tố
chỉ nước, loại hình sông nước, yếu tố nhân xưng, yếu tố Hán Việt (có
nghĩa chỉ sự mới mẻ, tốt đẹp) và yếu tố chỉ phương vị. Những yếu tố
này góp phần gợi nên diện mạo một vùng sông nước đặc trưng của
Nam Bộ, đồng thời thể hiện tâm lí, tư tưởng, tình cảm của cư dân
vùng đất mới.
Tên chung và tên riêng đều có hai dạng cấu tạo đơn và phức.

Tên có cấu tạo phức thường nhiều âm tiết, có khả năng phân biệt sâu
và nhiều đối tượng khác nhau, đáp ứng được nhu cầu định danh,
đồng thời phản ánh thực tế sự vật của vùng sông nước Cửu Long vốn
hết sức phong phú và đa dạng.
Kiểu cấu tạo phức của tên gọi phù hợp với sự phát triển vốn
từ chủ yếu theo hướng ghép yếu tố của loại hình ngơn ngữ đơn lập


như tiếng Việt. Số lượng từ đơn đơn tiết thuộc tên chung chỉ sự vật
liên quan đến sông nước vùng ĐBSCL có tỉ lệ thấp hơn từ ghép. Tỉ
lệ này phù hợp với tỉ lệ giữa từ đơn và từ phức trong vốn từ tiếng
Việt. Có thể nói, đặc điểm loại hình của tiếng Việt đã để lại dấu ấn
đậm nét trong cách cấu tạo tên gọi sự vật ở vùng sông nước này.
4. Các phương thức định danh chủ yếu của sự vật liên quan
đến sông nước vùng ĐBSCL gồm: cơ sở, chuyển hoá và vay mượn,
trong đó phương thức cơ sở được dùng nhiều hơn (chiếm 58,4%). Và
trong phương thức này, tỉ lệ cao nhất là chọn đặc trưng khu biệt của
chính đới tượng để làm căn cứ đặt tên gọi (chiếm 45,7%). Điều này
nói lên rằng chủ thể định danh đã căn cứ chủ yếu vào ngôn ngữ bản
địa và dựa vào đặc điểm của chính bản thân đối tượng để tạo ra các
tên gọi cho chúng. Việc ưu tiên chọn những đặc trưng của chính đới
tượng để định danh chứng tỏ rằng những đặc trưng này rất đáng tin
cậy và có giá trị khu biệt cao đối với việc đặt tên cho sự vật liên
quan đến sông nước vùng ĐBSCL.
5. Thiên hướng chọn đặc điểm bề ngoài nổi bật và đặc điểm
“động” của đối tượng để làm cơ sở đặt tên sự vật liên quan đến sông
nước là nét độc đáo của sự định danh ở vùng sông nước Nam Bộ,
phản ánh lối tư duy cụ thể, đầy tính trực cảm của người Việt
ĐBSCL, đó cũng là “kiểu tư duy liên hợp, cảm giác, hành động –
trực quan” [160,377] của người Việt nói chung.

Nước, dòng nước, mực nước và những biểu hiện của chúng
rất gần gũi, quen thuộc, gắn bó máu thịt với con người. Con người
rất am hiểu về chúng, chú ý nhiều đến chúng và tri giác rất kĩ về
chúng. Hoạt động, trạng thái của nước hiện lên qua tên gọi như một
sinh thể, sớng đợng. Hình ảnh của con người “thấp thoáng” đằng sau


những tên gọi này. Điều đó có thể lí giải: “Đời sống tinh thần của
con người, hệ thống tri giác và thuyết giải tất cả những gì xung
quanh, động cơ hành động trong hoạt động thực tiễn cũng như hoạt
động tinh thần – tất cả đều dựa trên cơ sở “dĩ nhân vi trung” [32,73].
6. Trước một đối tượng cần định danh, chủ thể định danh chỉ
cần chọn một đặc trưng nào đấy chứ khơng chọn hết tất cả. Đó là đặc
trưng bản chất, dễ “đập vào mắt” của đối tượng được người Việt ở
ĐBSCL tri nhận làm căn cứ đặt tên.
Những đặc điểm về hình thức bề ngoài của đối tượng được
người Việt ở ĐBSCL chú ý tri giác nhiều hơn cho thấy rằng, trong
năm giác quan để thu nhận thông tin về đối tượng thì thị giác được
phát huy cao nhất. Đây cũng chính là đặc điểm chung của lồi người
trong q trình nhận thức thế giới khách quan.
Đối với các tên gọi sự vật liên quan đến sông nước ĐBSCL,
nếu như ở tên chung, đặc trưng hoạt động, hoặc hình dạng của đối
tượng có tần số xuất hiện cao, thì ở tên riêng, đặc trưng chiếm tỉ lệ
cao lại là thực vật hoặc sự vật có quan hệ gần gũi với đối tượng địa lí
được định danh. Rõ ràng, khi định danh sự vật, chủ thể không chỉ ưu
tiên đặc biệt đến đặc điểm của chính đối tượng mà còn quan tâm cả
đến mối quan hệ giữa đối tượng với sự vật xung quanh, đặt đối
tượng trong môi trường mà nó tồn tại. Người Việt ĐBSCL sống
trong môi trường tự nhiên hoang sơ, trong một không gian mở, khiến
cho họ phải thường xuyên chú ý quan sát xung quanh và phải xác

định vị trí, định hướng cho mình giữa một không gian sông nước
rộng lớn. Việc quan tâm đến động thực vật, sự vật đặc trưng cho
vùng đất hay xác định phương vị của đối tượng để định danh sự vật
sông nước đã cho thấy điều này.


7. Định danh bằng phương thức vay mượn tiếng Khmer chủ
yếu được thực hiện theo lối sao phỏng phức hợp âm và nghĩa. Đây là
một biểu hiện sinh động kết quả của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ ở
vùng đất phương nam này. Tên gọi sự vật liên quan đến sông nước
ĐBSCL không chỉ cung cấp cứ liệu về sự tiếp xúc ngôn ngữ trong
vùng mà còn cho một cái nhìn cụ thể hơn về những nét tương đồng
và dị biệt giữa phương ngữ Nam Bộ và ngôn ngữ toàn dân.
Lấy tên người làm thành tố tạo tên sông nước nhằm “đánh
dấu”, phân biệt và có cả mục đích ghi ơn các tiền nhân là biểu hiện
của truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Tên người
trong thành phần cấu tạo tên sự vật liên quan đến sông nước là tên
của những danh nhân từng có công với dân tộc, đặc biệt là trong sự
nghiệp mở cõi, cải tạo vùng đất, phát triển kinh tế, phục vụ đời sống
nhân dân.
8. Định danh sự vật liên quan đến sông nước ĐBSCL chủ
yếu theo lối miêu tả. Do vậy, mức độ rõ lí do của các định danh này
rất cao. Đa số tên gọi được khảo sát đều cho thấy rõ lí do đặt tên. Đó
có thể là lí do chủ quan xuất phát từ chủ thể đặt tên, có thể là lí do
khách quan vốn là đặc trưng nào đó được chọn của khách thể được
định danh. Cơ sở gọi tên phổ biến là lí do khách quan. Những tên gọi
được tạo bằng yếu tố Hán Việt thường mang ý nghĩa tốt đẹp hoặc
đồng hoá cảm xúc, trạng thái của chủ thể với một đặc điểm nào đó
của đối tượng để định danh (loại này ít hơn) là những tên gọi mang lí
do chủ quan.

9. Tên gọi sự vật liên quan đến sông nước ĐBSCL phần lớn
có khả năng xác định được nguồn gốc ngôn ngữ, chủ yếu là tiếng
Việt (chiếm tỉ lệ 73,3%) và thường là tên gọi gốc, từ vựng gốc. Nếu


×