Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

tăng cường quản lý nhà nước đối với dịch vụ văn hóa ở thị xã tam điệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.93 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BIỂU
TÓM TẮT LUẬN VĂN
DANH MỤC CÁC BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: “Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần
của nhân dân…Tạo chuyển biến mạnh trong việc xây dựng văn hoá, đạo đức
và lối sống”; “Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước…Thực hiện
quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành
chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp…Phát triển mạnh các
dịch vụ công cộng: giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hoá, thể dục
thể thao”.
Sau hơn hai mươi lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã
đạt được thành tựu to lớn và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Góp phần vào những thành tựu to lớn ấy có
đóng góp không nhỏ của lĩnh vực văn hoá. Trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, Nhà nước ta luôn coi trọng các chính sách đầu tư cho văn hoá, đầu tư
nhân tố con người, khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng
tạo văn hóa và hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn, các dịch vụ văn hóa
được khuyến khích đầu tư phát triển, chủ trương xã hội hoá trên lĩnh vực văn
hoá được triển khai rộng rãi.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa trên lĩnh vực văn hóa, thời gian qua,
trên địa bàn thị xã đã nhanh chóng phát triển nhiều loại hình dịch vụ văn hóa
như karaoke, băng đĩa hình, trò chơi điện tử, Internet… thu hút đông đảo các
tầng lớp trong xã hội tham gia, góp phần làm phong phú đời sống văn hoá
tinh thần trong nhân dân. Khẳng định chính sách của Nhà nước ta đã ban hành
là phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội và khẳng định nền tảng tinh
thần được quan tâm nhiều hơn.
1


Tuy nhiên, trong tiến trình hội nhập sự tiếp cận văn hoá đã nảy sinh
không ít các biểu hiện tiêu cực trong các loại hình dịch vụ văn hóa, tác động
xấu đến tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân, nhất là đối tượng thanh thiếu niên. Dư luận xã
hội và các phương tiện truyền thông đại chúng đã phản ánh với nhiều mức độ
khác nhau. Cơ quan chức năng cũng rất khó khăn, lúng túng và bị động trong
công tác quản lý đối với một số loại hình dịch vụ văn hóa.
Bản thân tôi đã có nhiều năm là người trực tiếp tham mưu cho UBND thị
xã về công tác quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hoá và hiện nay được
Ban Thường vụ Thị uỷ phân công trực tiếp tham mưu cho Ban Thường vụ Thị
uỷ lãnh đạo, chỉ đạo về công tác Tuyên giáo của Đảng bộ, trong đó có công
tác quản lý dịch vụ văn hoá. Tôi nhận thấy, những năm qua trong tiến trình đẩy
mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh những yếu tố tích cực thì những sản
phẩm văn hóa có nội dung đồi trụy, phản nhân văn của các dịch vụ karaoke,
băng đĩa hình, trò chơi điện tử, Internet đã làm xói mòn những giá trị đạo đức,
thuần phong mỹ tục của dân tộc, lối sống, thị hiếu văn hóa, hành vi cư xử của
con người, từ đó xuất hiện những biểu hiện đáng lo ngại. Thực trạng đó cần
phải tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với các dịch vụ văn hoá.
Chính vì vậy, qua tìm hiểu, nghiên cứu tôi chọn đề tài: “Tăng cường
quản lý nhà nước đối với dịch vụ văn hóa ở thị xã Tam Điệp” làm luận văn
thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị, với mong muốn góp phần trong công
tác quản lý các dịch vụ văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước
góp phần nâng cao đời sống văn hóa, xây dựng vững chắc nền tảng tinh thần
của xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về hoạt động văn
hóa và dịch vụ văn hóa trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa:
2
- Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc

dân tộc: Nguyễn Khoa Điềm, NXB chính trị quốc gia, 2001.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học và mỹ học: tiến sỹ Cù Huy Chử,
NXB Chính trị Quốc gia, 1998.
- Hội nhập kinh tế khu vực và văn hóa kinh doanh: Phó giáo sư, Tiến sỹ
Lâm Quang Huyên, “văn hóa và kinh doanh”, NXB Lao động, 2001.
- Về phát triển toàn diện con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa: Giáo sư viện sĩ Phạm Minh Hạc, NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
- Khoa học xã hội và nhân văn, mười năm đổi mới và phát triển: Giáo sư
Phạm Tất Dong, NXB Khoa học xã hội, 1998.
- Phát triển kinh tế tri thức rút ngắn quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa: Giáo sư viện sĩ Đặng Hữu, NXB Chính trị Quốc gia 2001.
- Văn hóa trong cơ chế thị trường: Tiến sĩ Nguyễn Danh Ngà, “Văn hoá
và kinh doanh”, NXB Lao động, 2001.
Tuy nhiên, chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu một cách toàn
diện cả về cơ sở lý luận và thực tiễn vai trò quản lý Nhà nước đối với dịch vụ
văn hóa; thực tiễn quản lý Nhà nước về dịch vụ văn hóa ở thị xã Tam Điệp,
cũng như đề xuất những giải pháp đồng bộ nhằm tăng cường quản lý Nhà
nước về các hoạt động dịch vụ văn hóa ở thị xã Tam Điệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và quản lý Nhà nước đối
với dịch vụ văn hoá và đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước đối với dịch vụ
văn hoá ở thị xã Tam Điệp, luận văn nêu lên phương hướng, mục tiêu và đề
xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường quản lý Nhà nước đối với
dịch vụ văn hoá ở thị xã Tam Điệp trong thời gian tới.
3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý Nhà nước đối
với dịch vụ văn hóa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch

vụ văn hoá ở thị xã Tam Điệp.
- Đề xuất những giải pháp đồng bộ có tính khả thi nhằm tăng cường quản
lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hóa ở thị xã Tam Điệp tỉnh Ninh Bình trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Lĩnh vực văn hóa rất rộng, đề tài này chỉ nghiên cứu vai trò quản lý
Nhà nước đối với dịch vụ văn hóa.
- Về thời gian: Đề tài chỉ nghiên cứu thực tiễn dịch vụ văn hóa và vai trò
quản lý Nhà nước về dịch vụ văn hóa ở thị xã Tam Điệp từ năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Dựa trên lý luận học thuyết kinh tế chính trị Mác - Lênin; phương pháp
duy vật biện chứng, trừu tượng hóa, khoa học, thống kê, so sánh.
- Khảo sát, đối chứng, tổng hợp tư liệu, phân tích…
6. Những đóng góp khoa học của đề tài nghiên cứu.
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý Nhà nước
đối với dịch vụ văn hóa trong nền kinh tế thị trường.
- Phân tích, đánh giá sát thực thực trạng quản lý Nhà nước về dịch vụ
văn hóa ở thị xã Tam Điệp.
- Đề xuất phương hướng và hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm tăng
cường quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hóa ở thị xã Tam Điệp.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
4
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý Nhà nước đối
với dịch vụ văn hóa trong nền kinh tế thị trường
Chương 2: Thực trạng quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hóa
ở thị xã Tam Điệp
Chương 3: Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp và kiến nghị tăng
cường quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hóa ở thị

xã Tam Điệp



5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ VĂN HOÁ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Dịch vụ văn hoá, đặc điểm và vai trò của dịch vụ văn hoá trong nền
kinh tế thị trường
1.1.1. Dịch vụ văn hóa và đặc điểm của dịch vụ văn hóa trong nền kinh tế
thị trường
1.1.1.1. Khái niệm dịch vụ văn hoá
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh các hàng hóa vật thể hữu hình
còn có những loại dịch vụ mà người ta mua và bán trên thị trường. Đó là,
hàng hóa phi vật thể, hay còn gọi là hàng hóa - dịch vụ.
Dịch vụ văn hóa là những hoạt động trên lĩnh vực văn hóa có tổ chức
và được trả công, nhằm phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của
công chúng.
Dịch vụ văn hóa tồn tại ở nhiều dạng: văn hóa phi vật thể, văn hóa tâm
linh, văn hóa du lịch, văn hóa giải trí, văn hóa sinh hoạt xã hội…Những nhân
tố ảnh hưởng đến dịch vụ vụ văn hóa bao gồm: nhân tố thời đại, nhân tố
truyền thống, nhân tố lịch sử.
1.1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ văn hóa
Ngày nay, nền sản xuất xã hội cùng với khoa học - kỹ thuật và công
nghệ phát triển với tốc độ cao đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao
động xã hội, làm gia tăng nhu cầu phục vụ sản xuất cũng như cuộc sống văn
minh của con người. Từ đó, hoạt động dịch vụ trở thành một ngành kinh tế
độc lập. Dịch vụ văn hoá là loại hình dịch vụ đời sống nhằm thoả mãn nhu

6
cầu con người, làm cho con người sống ngày càng văn minh, hiện đại. thực tế
hiện nay cho thấy, ở nhiều nước trên thế giới, khi thu nhập của người dân tăng
lên, đủ ăn, đủ mặc thì hoạt động dịch vụ văn hoá không thể thiếu. Theo đó,
dịch vụ văn hoá có các đặc điểm như sau:
- Giá trị sử dụng của sản phẩm dịch vụ không có hình thái vật thể (hữu
hình) mà tồn tại dưới hình thái phi vật thể.
- Quá trình sản xuất ra hàng hóa dịch vụ hướng vào phục vụ trực tiếp
người tiêu dùng với tư cách là những khách hàng (chữa bệnh, dạy học, cắt
tóc, may đo…); quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời.
- Do không mang hình thái vật thể và do quá trình sản xuất đồng thời
cũng là quá trình tiêu dùng, nên hàng hóa dịch vụ không thể tồn tại độc lập,
không thể tích lũy hay dự trữ.
Hiện nay, trong xã hội nước ta xuất hiện rất nhiều các loại hoạt động
dịch vụ. Chính quá trình này đã phát sinh nhiều biểu hiện cần được quan tâm:
- Rất nhiều hộ gia đình, sáng thức đậy đã nhận được giấy mẫu quảng cáo
của các tổ chức kinh tế được nhét qua khe cửa hoặc quăng vào sân nhà mình.
Nào là quảng cáo bán gạo, bán tivi, đầu đĩa, máy giặt, máy điều hoà nhiệt
độ…Thậm chí, có những ngôi nhà mới xây xong, quét vôi, sơn trắng toát, đẹp
một cách mỹ miều, thế nhưng sáng mở mắt ra đã thấy trên tường nhà mình
xuất hiện những dòng chữ đỏ lạnh lùng: “Nhận khoan, cắt, đập, phá bê tông”
hoặc “Thuốc gia truyền, đặc trị trĩ - mạch lươn, yếu sinh lý”, kèm theo đó là
số điện thoại để liên hệ.
- Nếp sống và những phong tục truyền thống ở một bộ phận dân cư ít
nhiều đã có những thay đổi theo quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường
và sự da dạng của các loại hình dịch vụ. Xã hội ngày nay, khi mà nhân tố con
người được coi trọng và phát huy thì đó cũng chính là nhân tố kích thích con
người lao vào công việc với sự nhiệt tình hơn, trách nhiệm hơn. Chính vì thế,
7
nếp sống văn hóa trong gia đình cũng có nhiều thay đổi. Ngày nay, rất ít gia

đình có những bữa cơm hội tụ đầy đủ các thành viên của gia đình mình, từ
ông bà, cha mẹ, đến con cái. Hầu như ai cũng chịu sự tác động của cơ chế thị
trường và bị cơ chế này cuốn hút. Cho nên tâm lý của một số bậc cha mẹ, mỗi
sáng cứ phát tiền cho con cái ăn ngày ba bữa để khỏi phải bận rộn chuyện bếp
núc. Còn bên ngoài xã hội đã xuất hiện rất nhiều các loại dịch vụ phục vụ cho
bữa ăn: cơm trưa văn phòng, cơm phần, cơm hộp.
1.1.1.3. Các loại hình dịch vụ văn hoá: Dưới tác động của quá trình hội nhập
nền kinh tế toàn cầu và giao lưu văn hóa thế giới, đã xuất hiện nhiều loại hình
văn hóa ở nước ta: karaoke, vũ trường, băng đĩa nhạc, cà phê video,
internet…Các loại hình này ngày càng phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu về
đời sống tinh thần của con người.
1.1.2. Vai trò của dịch vụ văn hóa đối với sự phát triển kinh tế văn hóa xã
hội và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân
Có thể nói rằng các loại dịch vụ trong xã hội ngày càng phát triển đa
dạng, vừa tạo cơ hội cho người kinh doanh, lại vừa đáp ứng nhu cầu tinh thần
của chính bản thân con người.
Hoạt động kinh doanh của dịch vụ văn hóa gắn với quá trình phát triển
của nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường phát triển sẽ tác động làm cho
các hoạt động dịch vụ văn hóa ngày càng phát triển phong phú đa dạng. Các
hoạt động này tác động trực tiếp đến nhận thức và hành vi của người dân.
Hoạt động dịch vụ văn hóa trong xã hội càng phát triển thì nhu cầu
hưởng thụ của con người càng được đáp ứng. Xã hội phát triển càng cao, nhu
cầu hưởng thụ văn hóa của con người càng lớn. Văn hóa nói chung và dịch vụ
văn hóa nói riêng có tác động lớn trong sự phát triển và chiến lược xây dựng
con người. Thực tiễn ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy: trong sự tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, nếu như không đồng bộ, không cân bằng
8
thì sẽ rơi vào tình trạng khủng hoảng trong đời sông văn hoá – tinh thần của
toàn xã hội. Vì vậy, phát triển đa dạng và phong phú các hoạt động dịch vụ
văn hóa cũng là một trong số những biện pháp tích cực để nâng cao đời sống

tinh thần, làm cho văn hoá xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy văn hoá phát triển.
Hoạt động dịch vụ văn hoá ở nước ta không chỉ xuất hiện trong thời đại
ngày nay. Trong các thời trước đây, ở một số địa phương với những tập quán,
phong tục, đã tổ chức các hình thức hoạt động văn hoá trong các ngày hội
làng, đám tế, cúng đình…bà con thường đóng góp để mời các đoàn hát
xướng, phường tuồng, phường chèo…về phục vụ những đoàn ca diễn ở làng
đã được nhân dân nuôi dưỡng; những phường hát hay, đàn giỏi, diễn tốt thì
được nhân dân hưởng ứng, thưởng tiền hoặc hiện vật. Như vậy thông qua các
hình thức sinh hoạt như thế, quần chúng vừa được hưởng thụ lại vừa tham gia
sáng tạo văn hoá, dù rằng các hoạt động này ở mức sơ khai, chưa có sự hướng
dẫn, sự quản lý chặt chẽ.
Giai đoạn nước ta thực hiện cơ chế quản lý tập trung – bao cấp, các hoạt
động dịch vụ văn hoá chưa có điều kiện để phát triển, một số loại hình hoạt
động chỉ dừng lại ở mức độ nhỏ, phân tán, manh mún. Một số do Nhà nước
quản lý và tổ chức thực hiện, có thu tiền (ca nhạc, cải lương, kịch, chiếu
phim…), một số do tư nhân thực hiện ở mức độ vừa phải (cho thuê sách -
truyện, chụp hình đám tiệc - lễ hội…). Cơ chế quản lý này đã làm cho con
người quen với phong cách chịu đựng, vừa mang tính ỷ lại - phụ thuộc, vừa
thiếu năng động, sáng tạo. Trên thực tế, nền kinh tế tập trung bao cấp đã kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, không thể giải phóng được mọi tiềm
năng, mọi lực lượng trong xã hội. Ở lĩnh vực văn hoá, với cơ chế này, Nhà
nước là nơi cung cấp và phân phối chủ yếu các sản phẩm văn hoá cho toàn xã
hội. Quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân ở hoạt động văn hoá chủ yếu là quan
9
hệ trao và nhận. Chính sự bao cấp về văn hoá như thế, không chỉ tạo tâm lý
thụ động, trông chờ vào Nhà nước của người dân, mà còn dẫn đến một thực tế
là Nhà nước không đủ khả năng bao cấp về văn hoá, làm cho nhiều nơi, nhất
là vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, hải đảo, vùng nông thôn, người dân vẫn
bị thiếu thốn về đời sống sinh hoạt văn hoá - tinh thần. Một số nơi tuy có đề

ra phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, song do ỷ lại và bao cấp
nên chưa phát huy được. Nội dung cung cấp sản phẩm văn hoá ở một số nơi
lại không căn cứ vào nhu cầu thực tế của người dân; hình thức tuyên truyền,
phổ biến các sản phẩm văn hóa còn biểu hiện minh hoạ giản đơn, làm hạn chế
tính xã hội và đặc trưng của văn hoá và không khơi dậy được tiềm năng văn
hoá trong nhân dân. Hệ quả này dẫn đến sự thụt lùi trong tăng trưởng kinh tế
và do đó đời sống văn hoá - tinh thần của người dân chậm nâng lên, các hoạt
động dịch vụ văn hoá thiếu phát triển, không thể hiện được chức năng phản
ánh nhịp sống của một xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, dưới tác động của quy luật giá trị, các hàng
hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, trong đó có cả dịch vụ
văn hoá - hàng hoá tinh thần. Trên thị trường, hàng hoá đều phải được trao
đổi theo giá trị xã hội, người sản xuất nếu có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã
hội thì sẽ bất lợi trong cạnh tranh. Hoạt động dịch vụ văn hoá, dưới góc độ là
hàng hoá tinh thần, cũng chịu sự tác động của quy luật cạnh tranh, đây là
động lực, là một trong những nguyên tắc cơ bản, tồn tại khách quan và không
thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường.
Trên thực tế, cạnh tranh có vai trò to lớn, nó buộc người sản xuất - kinh
doanh - dịch vụ phải thường xuyên áp dụng phương pháp công nghệ mới,
phải nhạy bén năng động và tổ chức quản lý có hiệu quả. Ở bất cứ nơi đâu và
bất cứ lúc nào, nếu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì lại xuất
hiện tình trạng bảo thủ, trì trệ, kém hiệu quả, cái cũ không được thay thế, cái
mới không đi vào cuộc sống và do vậy cũng không phát triển được.
10
Tuy nhiên, cạnh tranh cũng để lại những tác hại, làm xuất hiện những
hình thức lừa đảo, chộp giựt, câu khách, trốn lậu thuế, xâm phạm bản quyền,
mua chuộc, hối lộ, làm đồi bại các quan hệ xã hội. Nếu đơn thuần chạy theo
lợi ích riêng, sẽ dẫn đến hậu quả về tài nguyên môi trường, thất nghiệp, gia
tăng sự phân hóa giàu nghèo và những bất công trong xã hội. Hoạt động dịch
vụ văn hóa trong nền kinh tế thị trường cũng không đứng ngoài sự tác động

này của quy luật cạnh tranh trong xã hội.
Hoạt động dịch vụ văn hóa cũng phản ánh tính hai mặt, vừa có mặt tích
cực, lại vừa có mặt tiêu cực. Mặt tích cực là đòi hỏi các hoạt động phải đáp
ứng được mọi nhu cầu của đời sống văn hóa tinh thần trong nhân dân, thúc
đẩy sự cạnh tranh lẫn nhau, do vậy phải luôn năng động, sáng tạo, tiếp cận
nhanh và tiếp thu cái mới. Tuy nhiên, mặt tiêu cực là dễ đẩy các hoạt động
dịch vụ văn hóa đi vào con đường thương mại hóa, xuất phát từ lợi ích riêng,
với mục tiêu là lợi nhuận, dẫn đến các hành vi bất chấp các quy định của pháp
luật, làm băng hoại đạo đức lối sống của một bộ phận thành viên trong xã hội,
nhất là thanh - thiếu niên.
Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường cũng chính là quá trình làm
phong phú hơn đời sống tinh thần trong xã hội, đòi hỏi phải có sự đổi mới và
nâng cao chất lượng các dịch vụ hoạt động văn hóa. Đây cũng là yêu cầu nội
tại của loại hình này. Bởi vì để hoạt động văn hóa trở thành của toàn xã hội,
có vai trò thực sự trong các lĩnh vực của đời sống, mang tính định hướng,
hướng dẫn nhận thức và hành động của con người chỉ khi nó có chất lượng
cao và đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội. Điều này cũng thể hiện rõ nét quy
luật cung cầu trong cơ chế thị trường.
Với quan niệm văn hóa như một hoạt động sản xuất, là một thực thể tồn
tại khách quan, là một lĩnh vực do con người sáng tạo ra, cho nên đối với các
hoạt động dịch vụ văn hóa cũng chính là phát huy quyền tổ chức và điều hành
11
các hoạt động sản xuất văn hóa, lưu giữ, phổ biến, tổ chức hưởng thụ theo xu
hướng đa dạng hóa chủ thể quản lý nhằm để thu hút các lực lượng trong xã
hội, tập thể và tư nhân tổ chức các hạt động văn hóa, điều hành quá trình sản
xuất dịch vụ văn hóa theo chính sách pháp luật của Nhà nước.
Việc mở rộng các nguồn đầu tư cho văn hóa là yêu cầu khách quan của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế toàn cầu. Điều này
thể hiện vai trò của hoạt động dịch vụ văn hóa đối với quá trình phát triển
kinh tế xã hội và xây dựng con người

Một thời gian dài trước đây, với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và
cũng do nhận thức chưa đúng mối quan hệ giữa vai trò quản lý của nhà nước
với việc phát huy nguồn nhân lực trong nhân dân, đã dẫn đến sự nghèo nàn về
tiềm năng của dịch vụ văn hóa, hạn chế tính chất phát triển rộng rãi của văn
hóa trong toàn xã hội.
Việc khai thác tiềm năng toàn diện trong toàn xã hội bao gồm cả trí tuệ,
năng lực sáng tạo, lực lượng tham gia văn hóa không chỉ dừng lại ở việc khai
thác tiền của, vật chất, mà đó phải là sự sáng tạo, tính toàn diện và mang giá
trị tinh thần tự nguyện của người dân. Nhận thức về điều này, cũng chính là
xây dựng cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội để tạo lập và cải thiện môi
trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự nghiệp phát triển văn hóa. Từ đó,
nâng cao quyền tổ chức vận động, vừa nâng cao năng lực điều hành các hoạt
động văn hóa theo hướng đa dạng của chủ thể hoạt động, tổ chức và quản lý
hoạt động dịch vụ văn hóa. Chính ở vai trò này sẽ góp phần tạo ra một diện
mạo mới cho sự phát triển văn hóa, nhất là tính đa dạng, phong phú, sự năng
động và sáng tạo trong tổ chức các hoạt động dịch vụ văn hóa. Sự xuất hiện
những gương mặt chủ thể mới với những nỗ lực tìm tòi trong tổ chức và quản
lý văn hóa sẽ tạo cho sự phát triển đa dạng của văn hóa đáp ứng các nhu cầu
tinh thần ngày càng phong phú của các tầng lớp nhân dân.
12
Việc phát huy cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân, các tổ
chức xã hội để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình tổ chức hoạt động
dịch vụ văn hóa. Chính vì vậy, nhận thức về yêu cầu của sự phối hợp, liên kết
giữa các ngành, các đơn vị, các tổ chức xã hội, tập thể cá nhân có vị trí hết
sức quan trọng. Những thành tựu mới về văn hóa, những sắc thái mới của các
dịch vụ văn hóa, tính đa dạng của các loại hình…xuất hiện trong nhiều năm
gần đây cũng là kết quả của sự phối hợp, liên kết có hiệu quả của các tổ chức
và cá nhân trong toàn xã hội. Đây cũng là một trong những đặc điểm mới
đang phát triển trong thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa, nhu cầu tinh thần
của nhân dân ta trong những năm qua.

1.2. Nội dung và sự cần thiết tăng cường quản lý Nhà nước đối với dịch
vụ văn hoá trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Quan niệm và đặc điểm của quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch
vụ văn hoá trong nền kinh tế thị trường
1.2.1.1. Quan niệm về quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá.
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp những quan điểm hợp lý của nhiều
quan niệm khác nhau về quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá,
có thể rút ra: “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá là phương
thức mà thông qua hệ thống các công cụ quản lý bao gồm pháp luật, chính
sách, quy hoạch, kế hoạch Nhà nước tác động vào đối tượng quản lý để định
hướng, điều chỉnh những hoạt động của xã hội về lĩnh vực văn hoá đi theo
đúng hướng, đúng mục đích theo chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước về phát triển văn hoá trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Như vậy, nói đến quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá là
nói đến cơ chế quản lý. Cơ chế đó, một mặt, phải tuân thủ các yêu cầu của
quy luật kinh tế khách quan; mặt khác, phải có một hệ thống công cụ như
pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch thích hợp để quản lý hoạt động
13
dịch vụ văn hoá. Quan niệm này bao hàm những nội dung cơ bản như: các cơ
quan nhà nước có chức năng quản lý Nhà nước về dịch vụ văn hoá từ Trung
ương đến địa phương là chủ thể quản lý; các quan hệ xã hội vận động và phát
triển trong lĩnh vực dịch vụ văn hoá là đối tượng quản lý và hệ thống pháp
luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, là công cụ để Nhà nước thực hiện sự
quản lý.
Với tư cách là đối tượng quản lý, hoạt động dịch vụ văn hoá phải được tổ
chức và vận động trên cơ sở các quy định của pháp luật và chịu sự kiểm tra,
giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Với tư cách là cơ sở và là công cụ để Nhà nước thực hiện sự quản lý,
pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, phải được xây dựng trên cơ sở
chính xác, đầy đủ, thống nhất là những chuẩn mực để đối tượng quản lý dựa

vào dó vận động, phát triển và chủ thể quản lý thực hiện sự kiểm tra, giám sát
đối tượng quản lý.
Quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá là tạo môi trường
thông thoáng, ổn định, định hướng, hỗ trợ, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ
văn hoá phát triển nhưng có trật tự nhằm giải quyết hài hoà các lợi ích. Thực
hiện kiểm tra, giám sát hoạt động dịch vụ văn hoá nhằm đảm bảo trật tự, kỷ
cương, uốn nắn những hiện tượng, hành vi vi phạm pháp luật. Điều khiển
những hoạt động của văn hoá, đời sống văn hoá đi theo đúng chuẩn mực xã
hội chủ nghĩa. Mục đích cuối cũng là tạo được tính nhân văn, nhân bản trong
mỗi con người để phát triển hoàn thiện nhân cách của từng cá nhân trong
cộng đồng từ đó giữ gìn được bản sắc dân tộc kết hợp với sự tiến bộ của
nhân loại.
1.2.1.2. Đặc điểm của quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá.
Một là, Nhà nước là người tổ chức và quản lý các hoạt động dịch vụ văn
hoá diễn ra trong nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh
14
tế thị trường là tính phức tạp, năng động và nhạy cảm. Vì vậy, hoạt động dịch
vụ văn hoá đòi hỏi Nhà nước phải đề ra pháp luật, chính sách, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch và sử dụng các công cụ này để tổ chức và quản lý hoạt động
dịch vụ văn hoá.
Hai là, hệ thống công cụ như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch…phát triển dịch vụ văn hoá là cơ sở, là những công cụ để
Nhà nước tổ chức và quản lý hoạt động dịch vụ văn hoá. Trong nền kinh tế thị
trường, hoạt động dịch vụ văn hoá diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng về
chủ thể, về hình thức tổ chức và quy mô hoạt động Dù phức tạp thế nào đi
chăng nữa, sự quản lý Nhà nước cũng phải đảm bảo cho hoạt động dịch vụ
văn hoá có tính tổ chức cao, ổn định, công bằng và có tính định hướng rõ rệt.
Do đó, Nhà nước phải ban hành pháp luật, đề ra các chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển dịch vụ văn hoá và dùng các công cụ này tác
động vào lĩnh vực dịch vụ văn hoá.

Ba là, quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá đòi hỏi phải
có một bộ máy nhà nước mạnh, có hiệu lực, hiệu quả và một đội ngũ cán bộ
quản lý Nhà nước có trình độ, năng lực thực sự.
Quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá phải tạo được
những cân đối chung, điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột
biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động dịch vụ văn hoá
phát triển. Và để thực hiện tốt điều này thì tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ
quản lý Nhà nước không thể khác hơn là phải được tổ chức thống nhất, đồng
bộ, có hiệu quả từ Trung ương đến địa phương.
Bốn là, quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá còn xuất
phát từ chính nhu cầu khách quan của sự gia tăng vai trò của chính sách pháp
luật trong nền kinh tế thị trường với tư cách là công cụ quản lý. Nền kinh tế
thị trường với những quan hệ kinh tế rất đa dạng và năng động đòi hỏi có một
15
sân chơi an toàn và bình đẳng, đặc biệt khi vấn đề toàn cầu hoá kinh tế, hội
nhập kinh tế quốc tế là mục tiêu mà các quốc gia hướng tới. Trong bối cảnh
đó, phải có một hệ thống chính sách, pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp không chỉ
với điều kiện trong nước mà còn với thông lệ và luật pháp quốc tế. Đây là sự
thách thức lớn đối với mỗi quốc gia. Bởi vì, mọi quan hệ hợp tác dù ở bất kỳ
lĩnh vực nào và đối tác nào cũng cần có trật tự nhất định và chỉ có thể dựa trên
cơ sở chính sách, pháp luật.
1.2.1.3. Vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá trong
nền kinh tế thị trường.
Vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá không nằm
ngoài mục đích hỗ trợ và tạo điều kiện cho dịch vụ văn hóa phát triển nhanh
và bền vững. Theo đó, Nhà nước sử dụng tất cả các biện pháp có thể để can
thiệp vào hoạt động dịch vụ văn hoá nhằm tạo ra môi trường dịch vụ văn hoá
lành mạnh, phân bổ nguồn lực một cách tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, phát triển xã hội một cách hài hoà, phù hợp với giá trị truyền thống và văn
hoá của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Mặt khác, với tính chất là

một ngành kinh tế - xã hội mang lại những hiệu quả tổng hợp cũng như các
ngành kinh tế khác, dịch vụ văn hoá muốn phát triển bền vững không đặt
ngoài sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt
động dịch vụ văn hoá được thực hiện ở những khía cạnh sau:
- Nếu không có sự quản lý của Nhà nước thì hoạt động dịch vụ văn hoá
sẽ vận động theo hai hướng vừa tích cực, vừa tiêu cực. Đó là quy luật vận
động của nền kinh tế thị trường nói chung. Vai trò quản lý Nhà nước thể hiện
ở chỗ, Nhà nước trên cơ sở nắm bắt những quy luật vận động khách quan của
nền kinh tế, định hướng cho hoạt động dịch vụ văn hoá phát triển theo hướng
tích cực, hạn chế tiêu cực để nhanh chóng đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Nhà nước tạo cơ sở pháp lý, có chính sách khuyến khích các tổ chức và cá
nhân tham gia hoạt động dịch vụ văn hoá.
16
- Trong quá trình tham gia hoạt động dịch vụ văn hoá, các tổ chức và cá
nhân không thể tự giải quyết những vấn đề vượt quá khả năng của mình trong
quá trình hoạt động cũng như vấn đề thủ tục hành chính trong dịch vụ văn
hoá. Do đó, cần phải có sự quản lý của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho hoạt
động dịch vụ văn hoá phát triển.
1.2.2. Sự cần thiết khách quan về quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn
hóa trong nền kinh tế thị trường
1.2.2.1. Do yêu cầu phải giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa phải hội tụ cả hai yếu tố: yêu nước
và tiến bộ. Yêu nước là truyền thống của dân tộc, yêu nước ngày nay cũng
chính là yêu chủ nghĩa xã hội; yếu tố tiến bộ ở đây, ngoài việc phát huy tinh
hoa văn hóa dân tộc, còn phải kế thừa và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân
loại phù hợp với đặc điểm dân tộc Việt Nam.
Đậm đà bản sắc dân tộc chính là những giá trị của dân tộc đã được
hun đúc trong suốt nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó chính là truyền
thống đoàn kết, lòng nhân ái, khoan dung, độ lượng, vị tha, đức tính nhân

nghĩa, cần cù trong lao động, sự ham học hỏi và cầu tiến, tinh thần bất
khuất, kiên cường…
Vấn đề quan trọng là định hướng hoạt động dịch vụ văn hóa trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nếu không có định
hướng tốt, nếu buông lỏng sự hướng dẫn của cơ quan chức năng và vai trò
quản lý của nhà nước, thì sẽ dẫn đến hoạt động dịch vụ văn hóa tràn lan, vi
phạm pháp luật, tác động tiêu cực trong xã hội và ảnh hưởng đến thuần phong
mỹ tục của dân tộc.
Một vấn đề đặt ra, nếu trong lĩnh vực kinh tế thì xóa bao cấp, còn trong
lĩnh vực văn hóa thì phải như thế nào? Phát triển văn hóa để xây dựng nền
17
tảng tinh thần cho xã hội, vậy thì phát triển văn hóa để xây dựng nền tảng tinh
thần cho xã hội cần được tiến hành ra sao? Từ trong thực tế cuộc sống cho
thấy, với quy luật sinh tồn, văn hóa là giao lưu, tiếp diễn, kế thừa và sáng tạo,
không thể có một chế độ nào, một bộ máy công quyền nào có thể bao cấp toàn
bộ về nền tảng tinh thần nói chung, về văn hóa chính trị nói riêng. Bởi lẽ nền
tảng tinh thần của bất kỳ cộng đồng dân tộc nào cũng được sản sinh và xây
dựng trong chính cuộc sống thường ngày của mỗi người dân, chứ không thể
chỉ bằng món ăn ngoại nhập, văn hóa từ nước ngoài vào hay từ trên xuống.
Nền tảng tinh thần ấy chính là bản sắc dân tộc, là diện mạo đích thực của mỗi
dân tộc, trên những chặng đường thăng trầm của lịch sử.
Ngày nay, văn hóa có ý nghĩa to lớn trong đời sống con người và sự phát
triển của xã hội. Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) đã ban hành nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết đã khẳng định: “Văn hóa
là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội”. Quan điểm của Đảng ta là xây dựng một nền văn hóa
Việt Nam hội đủ các yếu tố yêu nước, tiến bộ, giữ gìn và phát huy những giá
trị văn hóa của dân tộc trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Trong tình hình hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới

toàn diện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa, chủ
động và tích cực hội nhập nền kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa
hiện đại hóa. Quá trình này, thay đổi một cách toàn diện từ cơ chế tập trung
bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; một bộ máy hành chính quan liêu, nhiều tầng nấc,
chuyển thành bộ máy của nhà nước pháp quyền. Và từ đó, những khái niệm
“hàng hóa”, “sản xuất hàng hóa”, “cơ chế thị trường”, “các loại thị trường”…
đã được phổ biến trong xã hội.
18
Văn hóa là một hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội. Nhưng giá trị
không tồn tại siêu hình, mà giá trị chính là nội dung, là bản chất của văn hóa,
bao giờ cũng được khách quan hóa, đối tượng hóa dưới dạng những hình
thức, những hiện tượng, những quan hệ và quá trình xã hội.
Quản lý văn hóa không đơn giản là công tác tuyên truyền, huấn thị, mà
chính là quản lý những quá trình xã hội này. Khoa học quản lý đòi hỏi phải
nhìn nhận những đối tượng quản lý trong sự vận động của nó, phải nắm bắt
được những quy luật của đối tượng.
Mặt khác, không một giai cấp thống trị nào, một bộ máy nhà nước nào
lại buông lỏng quản lý văn hóa, xa rời văn hóa. Tình trạng buông lỏng, thậm
chí bất lực trong quản lý văn hóa bao giờ cũng là dấu hiệu sự suy yếu của hệ
thống chính trị hoặc của bộ máy quyền lực quốc gia đó.
Đối với nước ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, còn rất nhiều vấn đề chúng ta cần quan tâm. Xây dựng và
bảo vệ ở đây không chỉ đơn thuần là bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc, mà
còn là quá trình bảo vệ Đảng, chính quyền nhân dân; bảo vệ công cuộc đổi
mới định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Quan điểm của Đảng ta là xây dựng một nền văn hóa Việt Nam
hội đủ các yếu tố yêu nước, tiến bộ, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa
của dân tộc trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
1.2.2.2. Do tác động của quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu.

Văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam và sự du nhập văn hóa của nước
ngoài cũng có tính hai mặt. Việc định hướng chính là phát huy mặt tích cực,
ngăn chặn và đẩy lùi mặt tiêu cực. Những nơi thiếu định hướng, thiếu quản lý
chặt chẽ đã làm cho các yếu tố tiêu cực, mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội có
cơ hội để phát triển. Vì vậy, khi mà nền kinh tế thị trường với sự hội nhập
càng phát triển, giao lưu văn hóa càng rộng, thì việc định hướng và quản lý
các hoạt động này càng phải nghiêm ngặt hơn, cụ thể hơn nhằm để các hoạt
19
động này đều hướng tới mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Phát triển dịch vụ văn hóa trong nền kinh tế thị trường, nhân dân sẽ là
người được hưởng những gì mà họ đóng góp và xây dựng đồng thời sẽ khẳng
định được vai trò chủ thể của mình, có quyền đánh giá, thẩm định các giá trị
nghệ thuật, dịch vụ văn hóa mà trước đây hầu như chỉ dành cho những nhà
chuyên môn và cơ quan chức năng. Nhờ đó, mặt bằng dân trí được nâng lên,
tính dân chủ được củng cố, tính phong phú và đa dạng của hoạt động dịch vụ
văn hóa được khuyến khích phát triển.
Cơ chế thị trường với tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh
và cung cầu đã kích thích tối đa tính năng động và sáng tạo của con người -
chủ thể của quản lý, đồng thời hướng các cơ sở sản xuất kinh doanh quan tâm
đến tính hiệu quả. Do vậy, phải đổi mới kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng
cao năng suất lao động, đổi mới phương thức quản lý, phát triển nền kinh tế.
Nhân tố con người ngày nay lại càng có vai trò quan trọng trong toàn bộ đời
sống xã hội. Mặt trái tác động của cơ chế thị trường sẽ bộc lộ nhiều khuyết
điểm, không chỉ tác động về mặt kinh tế mà còn tác động đến thị hiếu, nhân
cách, thẩm mỹ, hành vi ứng xử của con người; mặt khác, quá trình hội nhập
nền kinh tế toàn cầu và việc Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại
quốc tế WTO, văn hóa và dịch vụ văn hóa nước ngoài tràn vào sẽ tác động
trực tiếp đến nhận thức, lối sống, thị hiếu, thẩm mỹ trong đời sống người dân.
Chính vì thế, đòi hỏi phải tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trên tất cả

các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa, hoạt động dịch vụ văn hóa.
1.2.2.3. Do tính chất xã hội hóa hoạt động văn hóa.
Nếu trên lĩnh vực kinh tế - nền tảng vật chất - vai trò quản lý của Nhà
nước vận hành điều tiết theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thì trên lĩnh vực văn hóa - nền tảng tinh thần - có sự khác biệt. Ở đây không
có sự phân chia quyền lợi văn hóa giữa Nhà nước và công dân cũng không có
20
sự đa dạng hóa về hình thức sở hữu các giá trị văn hóa. Nhưng việc sản xuất,
bảo quản, lưu thông và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa lại không nhất thiết
và không thể bao cấp nhà nước hoàn toàn tuyệt đối. Do vậy, Đảng ta chủ
trương phát triển các hình thức hoạt động văn hóa văn nghệ của nhà nước, tập
thể và cá nhân. Điều này cũng chính là phải thực hiện xã hội hóa hoạt động
văn hóa, văn nghệ của Nhà nước, tập thể và cá nhân. Đó chính là phải thực
hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để
cùng tham gia vào quá trình sáng tạo văn hóa và tổ chức hoạt động văn hóa
Đảng lãnh đạo thông qua chủ trương, đường lối, nghị quyết. Vai trò của
nhà nước là quản lý và điều hành xã hội theo Hiến pháp, pháp luật. Hoạt động
văn hóa và dịch vụ văn hóa phải đi đôi với việc nâng cao năng lực và hiệu lực
quản lý của bộ máy Nhà nước. Quá trình này, phải tạo điều kiện và phát huy
cho được các lực lượng xã hội, các thành phần kinh tế tham gia hoạt động văn
hóa, tạo điều kiện tốt nhất cho các chủ thể văn hóa sáng tạo, đồng thời vấn đề
quan trọng là phải tổ chức và quản lý các loại hình hoạt động dịch vụ văn hóa.
Một trong những tư tưởng chủ đạo của Đảng để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ cao cả đó là: “Văn hóa văn nghệ là sự nghiệp của toàn xã hội”. Phát
triển các hoạt động văn hóa văn nghệ của Nhà nước, tập thể và cá nhân theo
đường lối của Đảng và sự quản lý của Nhà nước (Văn kiện Hội nghị lần thứ 4
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóaVIII).
1.2.2.4. Do dịch vụ văn hóa cũng mang tính kinh doanh, vì lợi nhuận nên dễ
cạnh tranh không lành mạnh.
Nhìn nhận hoạt động văn hóa như một hệ thống tổ chức sản xuất tinh

thần, đòi hỏi và cho phép vận dụng một cách khoa học các biện pháp quản lý
vào trong lĩnh vực này, nhằm tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước không
chỉ trong việc khắc phục tình trạng hành chính hóa các tổ chức văn hóa, mà
còn khắc phục hữu hiệu tình trạng thương mại hóa các hoạt động văn hóa.
21
Hoạt động nghệ thuật chẳng hạn, khi mà một số người có tiền đứng ra
làm “đầu nậu”, sẽ đưa các sản phẩm sân khấu, điện ảnh, ca nhạc chạy theo thị
hiếu tầm thường, hạ thấp giá trị nghệ thuật; những cá nhân kinh doanh dịch
vụ văn hóa karaoke, internet, khiêu vũ, băng đĩa hình…nếu chạy theo đồng
tiền sẽ tác động làm ảnh hưởng đến nhân cách, lối sống của một bộ phận
người dân trong xã hội; hoặc một số trường hợp kinh doanh dịch vụ, lợi dụng
các di tích lịch sử, di tích văn hóa, thắng cảnhthành nơi buôn bán trục lợi cá
nhân, bất chấp lợi ích của cộng đồng, sẽ dẫn đến hạ thấp tầm giá trị của di tích
đó.
Không thể biến toàn bộ hoạt động văn hóa thành chuyện kinh doanh
chạy theo lợi nhuận, lời lỗ. Điều này, không đồng nghĩa với việc triệt tiêu
hoàn toàn tính chất thương mại trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, nơi tồn tại
đa thành phần (nhà nước, tập thể, cá nhân), nơi tồn tại quy luật cung cầu, sự
thống nhất định hướng giá trị văn hóa không phải là sự đồng nhất để mọi
người cùng ở chung một phòng, ngồi chung một bàn với những sản phẩm vật
chất, tinh thần như nhau. Đã nói đến cung cầu là nói đến cạnh tranh thị trường
và tác động của quy luật giá trị, nói đến sản xuất là nói đến hoạch định kinh
tế. Đây là những vấn đề kinh tế học trong văn hóa, không chỉ có ý nghĩa to
lớn trong nghiên cứu lý luận, mà còn có giá trị thiết thực cấp bách trong tổ
chức hoạt động thực tiễn.
Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về văn hóa bằng các biện pháp
chuyên môn và kinh tế là điều kiện cần thiết để phát triển văn hóa lành
mạnh phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu phát triển về nhân cách, trí tuệ
tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi thành viên trong xã hội, mỗi gia
đình và cộng đồng.

Nhà nước cần mở rộng các nguồn thu để tăng ngân sách, tăng chi cho
các hoạt động văn hóa, vừa phát huy quyền lợi, vừa tăng cường nhận thức về
22
nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân tham gia dịch vụ văn hóa. Thực hiện điều
này cũng chính là thể hiện chủ trương của Đảng ta trong việc khắc phục xu
hướng “thương mại hóa”, không vì chạy theo lợi nhuận mà bất chấp những
quy định của pháp luật, làm phát sinh những biểu hiện tiêu cực trong hoạt
động dịch vụ văn hóa.
Văn hóa là một hệ thống những giá trị và chuẩn mực xã hội. Nhưng giá
trị không tồn tại siêu hình, mà chính là nội dung, là bản chất của văn hóa, bao
giờ cũng được khách quan hóa, đối tượng hóa dưới dạng những hình thức,
những hiện tượng, những quan hệ và quá trình xã hội. Quản lý văn hóa
không đơn giản là công tác tuyên truyền, huấn thị, mà chính là quản lý
những quá trình xã hội này. Khoa học quản lý đòi hỏi phải nhìn nhận
những đối tượng quản lý trong sự vận động của nó, phải nắm bắt được
những quy luật của đối tượng.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo khoa học quản lý là điều kiện thực hiện
thắng lợi đường lối của Đảng, xây dựng có trọng điểm cơ sở vật chất kỹ thuật
cao cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin đại chúng, đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng, từng bước phát triển, sánh bước cùng với trình độ của
khu vực và thế giới.
1.2.3. Nội dung quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hoá
1.2.3.1. Tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật chung của Nhà nước liên
quan đến hoạt động dịch vụ văn hoá và ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật, chính sách phát triển hoạt động dịch vụ văn hoá mang tính đặc thù của
địa phương thuộc thẩm quyền.
Hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật đã khó, nhưng cái khó hơn là
làm thế nào để đưa nó đi vào đời sống thực tế. Bản thân chính sách, pháp luật
đối với nền kinh tế của một đất nước nói chung và trong lĩnh vực dịch vụ văn
hoá nói riêng mới chỉ là những quy định của Nhà nước, là ý chí của Nhà nước

23

×