LỜI NÓI ĐẦU
Là một bộ phận của ngành sản xuất nông nghiệp, nhưng nghề hoa kiểng còn có
những nét đặc trưng riêng biệt yêu cầu tính thẩm mỹ và kỹ thuật cao, bởi vì sản phẩm
được làm ra là những tác phẩm nghệ thuật sống động. Người trồng hoa kiểng cần phải tìm
hiểu nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như: các yếu tố môi
trường, vốn đầu tư, lao động, tư liệu sản xuất, lưu thông phân phối, vận chuyển, thị trường
nội địa và xuất khẩu Ngoài ra, họ cần phải tìm hiểu thẩm mỹ và thị hiếu của người tiêu
dùng, thường xuyên tìm tòi để sáng tạo ra những giống cây kiểng mới lạ, ứng dụng công
nghệ mới vào sản xuất. Có thể nói danh hiệu nghệ nhân dành cho những bậc lão làng
trong ngành hoa kiểng là hoàn toàn xứng đáng.
Nước ta có các điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng đa dạng có thể trồng được nhiều
loại hoa từ các loại hoa nhiệt đới ở đồng bằng đến hoa xứ lạnh trên các cao nguyên như
Lâm Đồng, Pleiku và vùng núi như Sapa, Hoàng Liên Sơn Ngoài ra, thảm thực vật nhiệt
đới của nước ta rất đa dạng và là nguồn gen quý giá cho việc chọn tạo giống mới
Các mặt kinh tế và xã hội của nước ta đang trên đà phát triển, các công trình xây
dựng ngày càng nhiều, trình độ dân trí và đời sống tinh thần ngày càng được coi trọng
hơn, thu nhập và nhu cầu thẩm mỹ của người dân ngày càng được nâng cao hơn đã tạo
nên thị trường tiêu thụ nội địa rộng lớn cho nghề trồng hoa kiểng. Đáp ứng nhu cầu thị
trường, ngành trồng hoa đã phát triển nhanh chóng và tạo nên các sản phẩm đa dạng có
chất lượng cao hơn.
Ngành trồng hoa Việt Nam cũng đã được định hướng phát triển để xuất khẩu qua
đó chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp, tạo việc làm thu nhập cao cho nông
dân, góp phần vào tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa cả nước. Sản xuất hoa xuất khẩu có thể
cho thu nhập cao hơn gấp trên 10 lần so với trồng lúa và các cây trồng khác.
Để tạo nguồn nhân lực cho tương lai phát triển của ngành trồng hoa kiểng, những
chương trình đào tạo theo chuyên ngành đã được thực hiện ở nhiều trường đại học. Chúng
tôi hy vọng tập bài giảng này sẽ cung cấp những tư liệu có ích cho các bạn sinh viên và
những người yêu thích trồng hoa thảo.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do thời gian gấp rút nên chắc chắn sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các
độc giả quan tâm. Xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI HOA, CÂY CẢNH
1.1.1. Khái niệm
Cây hoa cây cảnh còn gọi là cây trang trí. Đó là những cây có hoa đẹp hoặc thân, lá
cành, củ quả hấp dẫn hoặc có một dáng vẻ mang ý nghĩa tinh thần tình cảm, thẩm mỹ nào
đó được trồng lấy hoa cắt hoặc trang trí cả cây để làm đẹp hoặc cải thiện mỹ quan không
gian cảnh quan như sân vườn, nhà ở, nội thất, công viên, vườn cảnh…
Ngành trồng hoa (floriculture or flower farming) là một bộ phận (discipline) của
ngành làm vườn (horticulture) bao gồm trồng hoa và cây kiểng quy mô vườn gia đình và
quy mô công nghiệp.
Ngành trồng hoa có các bộ phận cấu thành như sau:
- Trồng hoa cắt cành (cut flower).
- Trồng hoa trong chậu (pot flower)
- Trồng cây xanh trang trí và cây che phủ đất (foliage and bedding plants).
Có hai phương pháp trồng hoa chính là theo phương pháp truyền thống-cây hoa
thảo được trồng chủ yếu ở ngoài đồng hay trong chậu và trồng hoa theo công nghệ hiện
đại-cây hoa thảo được trồng trong nhà kính nhà lưới.
Số lượng giống hoa và cây kiểng được trồng thương mại hiện nay có thể lên đến
vài ngàn, tuy nhiên việc nghiên cứu lai tạo và phát triển giống mới vẫn luôn rất quan trọng
với ngành trồng hoa.
Ngành trồng hoa kiểng cần có sự liên kết với các ngành nghề khác (công nghệ,
thương mại, tiếp thị, giao thông vận tải,v.v…) để phát triển. Ví dụ, theo thống kê ở châu
Âu những người có liên quan đến nghề trồng hoa là:
- Người trồng hoa.
- Các chuyên gia về nhà kính nhà lưới, công nhân cơ giới làm đất ngoài đồng, công
nghiệp hóa nhựa (tiêu độc đất, màng phủ nông nghiệp…), năng lượng (điện, khí đốt )
- Thương nhân, các điểm bán sỉ hoa (chợ đầu mối, điểm đấu giá…), trung tâm
thương mại, siêu thị bán lẻ.
- Dịch vụ vận chuyển, bốc xếp.
- Thầu xây dựng, các công viên giải trí, du lịch….
- Dịch vụ trang trí hoa, thợ kết hoa,.
- Cửa hàng mua bán, dịch vụ nghề vườn (garden centres).
- Những người bán lẻ (ven đường, trong tiệm,…)
Ngành hoa cây kiểng là một bộ phận của sản xuất nông-lâm-thương nghiệp, việc
phát triển hoa kiểng cho phép xóa dần thế độc canh tạo nên sự năng động cho từng địa
bàn, từng nông hộ. Một số đặc điểm chính của ngành hoa thảo ở nước ta là:
- Sản xuất hoa kiểng yêu cầu kỹ thuật cao và mang tính nghệ thuật. Phần lớn các
loại hoa kiểng đều cần được chăm sóc đặc biệt vì bộ rễ yếu, thân lá non mềm, nhiều sâu
bệnh phá hại làm ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất cây. Những đặc tính thẩm mỹ
2
của cây được thể hiện thông qua sự nuôi dưỡng chăm sóc cẩn thận tạo nên một tác phẩm
nghệ thuật sống động.
- Hoa kiểng rất nhạy cảm với điều kiện ngoại cảnh. Các yếu tố môi trường tác
động rất rõ rệt đến đời sống của cây, nhất là các giống hoa ngắn ngày, gây ra những thay
đổi trong quá trình sinh trưởng và phát triển, làm ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất.
Cần phải nghiên cứu yêu cầu của từng loại hoa đối với điều kiện bên ngoài để bảo đảm sự
phát triển phù hợp nhất.
- Chu kỳ sản xuất của hoa kiểng dài ngắn khác nhau đối với từng loại cây nên thích
hợp với nhiều đối tượng đầu tư: vốn ít thì đầu tư ngắn hạn; vốn nhiều thì đầu tư dài
hạn…hay trồng xen canh trên cùng một diện tích cây kiểng xen với cây ăn trái, cây lâm
nghiệp,v.v…
- Sản xuất hoa kiểng là ngành có khả năng tận dụng mọi nguồn lao động, mọi tư
liệu sản xuất, kể cả không gian (vườn, ao, sân…) để sản xuất. Có thể tận dụng các điều
kiện sản xuất để phát triển mà ít làm thay đổi cơ cấu, diện tích sử dụng đất.
- Sản xuất hoa kiểng cần có sự lưu thông phân phối kịp thời. Việc xuất khẩu cần
phải đồng bộ, xử lý vận chuyển cần phải nhanh chóng kịp thời.
1.1.2. Giá trị thẩm mỹ tinh thần của ngành hoa, cây cảnh
Hoa là biểu tượng của cái đẹp, hoa có màu sắc hài hòa và hương thơm, hình thái đa
dạng hấp dẫn, làm đẹp cảm xúc của con người Hoa là một sản phẩm đặc biệt của cây
trồng, nói đến hoa là nói đến vẻ đẹp của thiên nhiên được cây cỏ chắt lọc ban tặng cho con
người. Hoa trong cuộc sống của con người chiếm một vị trí thẩm mỹ quan trọng, hoa là
tượng trưng của cái đẹp, là nguồn cảm giác ngọt ngào của cuộc sống.
Hoa không chỉ đem lại cho con người sự thoải mái thư giãn khi thưởng thức vẻ đẹp
của chúng mà còn đem lại cho những người sản xuất hoa giá trị kinh tế cao hơn hẳn so với
những cây trồng khác. Nhiều nước trên thế giới như Hà Lan, Pháp, Bungari… đã có nền
sản xuất hoa rất phát triển và là nguồn thu nhập quan trọng của đất nước.
1.1.3. Giá trị kinh tế của ngành hoa, cây cảnh
Điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng nước ta rất đa dạng có thể trồng được nhiều loại
hoa từ các loại hoa nhiệt đới ở đồng bằng đến hoa xứ lạnh trên các cao nguyên như Lâm
Đồng, Pleiku và vùng núi như Sapa, Hoàng Liên Sơn Ngoài ra, nước ta có lãnh thổ chạy
dài từ Bắc xuống Nam gần 1700 km nằm gọn trong vành đai nhiệt đới bắc bán cầu, trải
dài trên 15 vĩ tuyến từ cực Bắc 23
o
23’ (Hà Giang) đến cực nam 8
o
33’ (Cà Mau). Khí hậu
Việt Nam vừa có tính chất chung của vùng nhiệt đới ẩm, vừa phân thành nhiều tiểu vùng
khí hậu khác nhau, vì thế đất nước ta có đủ thảm thực vật của cả 3 miền khí hậu: nhiệt đới,
cận nhiệt đới và ôn đới. Đây là nguồn gen quý để lai tạo ra những giống mới có giá trị.
Vào thời điểm nhu cầu tiêu thụ hoa của thế giới tăng cao trong khoảng từ tháng 12
đến tháng 2 dương lịch, ở các nước châu Âu, Mỹ, Nhật…đang là mùa đông lạnh. Trong
khi đó ở Việt Nam khí hậu se lạnh nhưng chan hòa ánh nắng và các loài hoa trổ bông hàng
loạt. Điều đó rất thuận lợi cho ngành trồng hoa Việt Nam phát triển để xuất khẩu.
Những năm gần đây, đời sống tinh thần được coi trọng hơn, thu nhập và nhu cầu
thẩm mỹ của người dân ngày càng được nâng cao hơn đã tạo nên thị trường tiêu thụ nội
3
địa rộng lớn cho nghề trồng hoa kiểng. Đáp ứng nhu cầu thị trường, ngành trồng hoa đã
phát triển nhanh chóng và tạo nên các sản phẩm đa dạng có chất lượng cao hơn. Phát triển
sản xuất các loại hoa giá trị kinh tế cao thay thế cho những cây trồng hiệu quả kinh tế
thấp, qua đó chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, tạo việc làm thu nhập cao cho nông
dân, góp phần vào tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa của cả nước. Đã xuất hiện một số mô
hình phát triển sản xuất và xuất khẩu hoa đạt hiệu quả kinh tế cao, giá trị sản xuất trên một
ha là 400 - 500 triệu VND/năm, cũng đã có những doanh nghiệp xuất khẩu được hàng
triệu USD/năm. Rõ ràng là sản xuất hoa xuất khẩu có thể cho thu nhập cao hơn gấp trên
10 lần so với trồng lúa và các loại cây trồng khác.
1.2. Thực trạng tình hình sản xuất và thị trường tiêu thụ hoa, cây cảnh trên
thế giới.
1.2.1. Thị trường hoa, cây cảnh thế giới những năm gần đây
Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghệ mang tính toàn cầu (thông tin,
hàng không, du lịch, thương mại…) đã thúc đẩy ngành sản xuất và kinh doanh hoa kiểng
phát triển. Theo thống kê của Trung tâm thương mại quốc tế, những năm 1950 kim ngạch
mậu dịch hoa kiểng trên thế giới chưa đến 3 tỷ USD. Đến năm 1985 đã lên đến 15 tỷ
USD, sau đó vào năm 1990 là 30,5 tỷ USD và tiếp tục tăng khoảng 10% mỗi năm.
Trước những năm 1990, sản xuất hoa kiểng xuất khẩu chủ yếu tập trung ở Châu
Âu, Mỹ, Nhật Nhưng hiện nay các quốc gia đang phát triển đang phát huy lợi thế về khí
hậu, đất đai, giá lao động thấp để phát triển ngành này một cách mạnh mẽ hơn.
Nhìn chung thị trường hoa thế giới ngày càng mở rộng về quy mô, nhưng cục diện
cũng đang biến động. Các nước xuất khẩu hoa đang đối mặt với những vấn đề chung là:
- Cung đang tiếp cận với cầu nên giá hoa trên thị trường có xu hướng giảm.
- Cạnh tranh ngày càng quyết liệt.
- Khách hàng ngày càng kén chọn hơn.
Trước những khó khăn đó, các nước phát triển đang tận dụng ưu thế về mặt khoa
học công nghệ và kỹ thuật cao để giữ vững và mở rộng thị phần trên thị trường hoa thế
giới. Những lợi thế đang nghiêng về các nước đang phát triển vì họ có điều kiện thiên
nhiên thuận lợi, giá lao động thấp nên giá thành hạ. Chỉ cần tiếp thu quy trình công nghệ
sản xuất hiện đại, tạo các giống mới đáp ứng yêu cầu của thị trường thì họ có thể đẩy các
nước phát triển vào tư thế giữ nguyên thị phần hay suy giảm từng bước một.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, một số nước phát triển đã bắt đầu hợp tác đầu
tư với các nước đang phát triển để ứng dụng công nghệ cao sản xuất những sản phẩm có
giá thành thấp. Ví dụ một số công ty từ Hà Lan, Nhật Bản, Mỹ… đã đầu tư sản xuất hoa
kiểng tại các nước đang phát triển (Guatemala, Braxin, Ấn Độ, New Zealand, Malaysia,
Việt Nam, Trung Đông…) với mục đích xuất khẩu sản phẩm có giá cạnh tranh.
1.2.2. Châu Âu
Hà Lan được mệnh danh là nhà kính của Châu Âu vì có những vùng chuyên canh
trồng hoa trong nhà kính xuất khẩu sang các nước trong khu vực này. Năm 1991 diện tích
trồng hoa của Hà Lan là 33.000ha (trong đó hơn 50% diện tích được trang bị nhà kính)
với giá trị hoa xuất khẩu là 4,6 tỷ USD. Ngoài ra tại đây còn có nhiều Sàn bán đấu giá
(auction) hoa và cây cảnh phân phối đi khắp thế giới. Trị giá xuất khẩu hoa của Hà Lan
4
tăng 3% trong quý I/2003 so với cùng kỳ năm trước, đạt 1,3 tỷ Euro. Tuy nhiên, tốc độ
tăng này thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng 11% của quý I/2002, do đồng Euro tăng giá so
với nhiều đồng tiền khác và do tình hình kinh tế cũng như chính trị ở nhiều nước bất ổn.
Xuất khẩu hoa cành của Hà Lan quý I/2003 vẫn ổn định ở 6.875 triệu cành, chủ yếu sang
3 thị trường truyền thống là Đức, Anh và Pháp. Nhu cầu đã giảm mạnh ở Mỹ và Nhật
Bản. Xuất khẩu hoa trong chậu và cây cảnh Hà Lan tăng 10% trong quý I/2003 đạt 397
triệu Euro (tăng 15% so với quý I /2002) nhờ nhu cầu nhập khẩu tăng lên ở Đức.
Nước Anh cũng được xem như là nơi sản xuất và nhập khẩu hoa lớn của thế giới
với doanh số mỗi năm 1,2 tỷ USD (1998). Châu Âu là thị trường nhập nhiều hoa nhất,
trong đó riêng Đức mỗi năm nhập tới 1,8 tỷ USD (1998). Các nước Italia, Tây Ban Nha,
Đan Mạch, Bỉ là những nước trong EU trồng nhiều hoa đứng sau Hà Lan, …
Israel coi hoa cảnh là ngành kinh tế có ưu thế: với diện tích canh tác là 2.800 ha và
tỷ trọng là 8% tổng thu nhập của ngành nông nghiệp. Năm 1998, xuất khẩu hoa đạt 40
triệu USD và dự tính sẽ tăng lên 70 triệu USD vào những năm tới.
1.2.3. Các nước châu Á:
Hiện nay, Trung Quốc là nước sản xuất và tiêu thụ hoa cành lớn nhất thế giới. Diện
tích trồng hoa ở Trung Quốc đã tăng từ 11.000ha (1994) lên 75.000ha (1998) và 122.400
ha (2004). Sản lượng sản xuất 2,7 triệu tấn mỗi năm, năm 2004 đạt trị giá 6,6 tỷ USD (so
với năm 1998 chỉ mới đạt 1,27 tỷ USD) hay là 26,5% tiêu thụ hoa toàn cầu (tiêu thụ hoa
toàn cầu khoảng 25 tỷ USD mỗi năm); trong đó xuất khẩu đạt 32 triệu USD. Nguồn: Tạp
chí Ngoại thương (27/1 - 10/02/2004)
Yếu tố chính hỗ trợ cho ngành kinh doanh hoa ở Trung Quốc phát triển nhanh là
do tăng trưởng kinh tế cao, làm tăng nhu cầu tiêu thụ hoa trong nước. Trong giai đoạn tái
thiết ngành nông nghiệp, chính phủ đã hỗ trợ cho ngành trồng hoa tham gia hợp tác quốc
tế để phát triển và học hỏi công nghệ hiện đại. Trong kế hoạch phát triển quốc gia lần thứ
10, lĩnh vực nghiên cứu công nghệ mới được tập trung mạnh cho kinh doanh hoa cành.
Đây sẽ là cơ hội hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, vì 70% hạt và củ giống hoa, và
80% máy móc dùng trong kinh doanh hoa cành, được nhập từ nước ngoài.
Ngoài ra, chính phủ Trung Quốc cũng khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong
sản xuất hoa như trồng trong nhà kính. Dự đoán kinh doanh hoa cành ở Trung Quốc sẽ rất
khả quan trong 5 năm tới. Đây cũng sẽ là thị trường cho hoa nhập khẩu, nhất là từ các
nước trong khu vực như Thái Lan. Đồng thời, Trung Quốc cũng sẽ trở thành đối thủ cạnh
tranh lớn với các nước sản xuất hoa trong khu vực, vì giá sản phẩm của Trung Quốc luôn
rẻ.
Bắt đầu hoạt động từ 10/12/2002, Sàn đấu giá hoa tươi quốc tế Côn Minh - tỉnh
Vân Nam đã trở thành trung tâm giao dịch lớn với khối lượng giao dịch hàng ngày từ
600.000-800.000 bông. Hiện có khoảng 100 doanh nghiệp kinh doanh, 300 người trồng
hoa vừa và lớn cung cấp hoa và hơn 70 thương gia mua hoa mỗi ngày.
Tỉnh Vân Nam cung cấp hơn 50% tổng sản lượng hoa Trung Quốc. Trên 80% sản
lượng hoa của tỉnh được bán cho hơn 70 thành phố trên toàn quốc, xuất khẩu 15% ra nước
ngoài. Vân Nam có 7.864,7 ha đất trồng hoa, cho sản lượng hoa trị giá 0,4 tỷ USD, trong
5
đó xuất khẩu hoa khoảng 18 triệu USD, chủ yếu sang Thái Lan, Singapore, Malaysia,
Philipin và Hàn Quốc.
Thành phố Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến, đã đề ra kế hoạch phát triển ngành trồng
hoa từ nay tới năm 2010, theo đó sẽ xuất khẩu khoảng 26,9 triệu USD. Hiện Chương
Châu trồng 1.400 loại hoa, trong đã cã 800 giống nhập từ nước ngoài. Chương Châu là
trung tâm sản xuất và xuất khẩu hoa lớn nhất của tỉnh Phúc Kiến, đồng thời cũng là trung
tâm thông tin và hợp tác giữa Trung Quốc lục địa và Đài Loan.
Ngành trồng hoa của Đài Loan cũng đang tăng trưởng nhanh 15-20%/năm. Năm
1998 diện tích trồng hoa là 10.172 ha đạt doanh thu tới 9,3 tỷ Đài tệ.
Từ giữa thập niên 1990 ngành công nghiệp trồng hoa Hàn Quốc bắt đầu phát triển
mạnh, 10 năm qua Bộ Nông Lâm đã hỗ trợ khoảng 100 triệu USD để dành cho các hoạt
động phát triển những loài hoa xuất khẩu, thu thập thông tin quốc tế và phát triển thị
trường mới về hoa. Năm 1999 Hàn Quốc đã xuất khẩu hoa trị giá 16 triệu USD.
Các nước Đông Nam Á cũng có ngành hoa kiểng phát triển với tốc độ nhanh
- Singapore năm 1991 xuất khẩu 13 triệu USD (chủ yếu là hoa Lan) đến 1998 đã
đạt trên 20 triệu USD.
- Thái Lan năm 1991 xuất khẩu mặt hàng này đến 200 triệu USD/năm, bảo đảm
tăng trưởng hàng năm là 8% -10%.
- Malaysia, chính phủ đã quy hoạch 300 ha ở bang Zohor và giao cho Hiệp hội
Hoa Lan tổ chức ở đây thành khu “Trung tâm sản xuất Hoa kiểng xuất khẩu”.
Ngành trồng hoa trị giá 140 triệu USD của Ấn Độ đã phát triển từ những năm
1992-2002, song năm 2003 gặp rất nhiều khó khăn do phải cạnh tranh mạnh với các nước
châu Phi, đặc biệt là Kênia. Ngành trồng hoa Ấn Độ đang tăng trưởng ấn tượng, song mới
chỉ chiếm 0,75% thị trường hoa thế giới, kém rất nhiều so với các nước đi trước như
Kênia và Israe
l. Hoa hồng là loại hoa xuất khẩu chính của Ấn Độ. Năm 2001, xuất khẩu
hoa hồng đạt 1.500 tấn. Do chủ yếu vận chuyển bằng đường thủy nên xuất khẩu hoa Ấn
Độ khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. Năm 2003, hoa cành của Ấn Độ được
xuất khẩu chủ yếu sang Nhật Bản và Trung Đông. Năm 2003, châu Âu chỉ nhập 25% hoa
xuất khẩu của Ấn Độ, do sản lượng trong nước của những thị trường nhập khẩu truyền
thống đã cao hơn mọi năm. Và do nhu cầu hoa cành trên thị trường nội địa tăng mạnh,
nhờ đời sống người dân tăng lên và tăng nhu cầu hoa dùng trong tế lễ và thờ cúng.
Hoạt động vào đầu năm 2004, Sàn đấu giá hoa Dubai hứa hẹn sẽ góp phần làm
giảm mạnh chi phí xuất khẩu của Ấn Độ. Trước đó hoa tươi Ấn Độ phải chuyên chở đến
các Sàn bán đấu giá ở Amsterdam (Hà Lan) trước khi xuất khẩu đến các quốc gia khác
nên phải mất thêm một khoản “chi phí giao dịch” khoảng 30%, làm giảm tính cạnh tranh.
Với Sàn đấu giá giao dịch trong nước, “chi phí” có thể giảm còn dưới 10%.
Nhật Bản là một trong số những quốc gia nhập khẩu nhiều hoa trên thị trường thế
giới. Trước đây Nhật Bản chỉ nhập khẩu những giống hoa mà trong nước không trồng
được, nhưng xu hướng nhập khẩu hoa ngày nay theo thị hiếu người tiêu dùng với giá cạnh
tranh hơn. Theo dự đoán của Hiệp hội nhập khẩu hoa tươi Nhật Bản những năm tới đây
mỗi năm Nhật Bản sẽ phải nhập khẩu trên 1 tỷ USD hoa kiểng. Hiện nay thị trường Nhật
tiêu thụ trên 70% hoa tươi của New Zealand.
6
1.2.4. Các quốc gia khác
Ngành kinh doanh hoa châu Phi đang phát triển, góp phần quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế của khu vực này. Cho đến nay, Kênia vẫn là nước xuất khẩu hoa lớn nhất
châu Phi, với lượng xuất khẩu nhiều gấp 9 lần Nam Phi, Kênia cã mối quan hệ vững chắc
hơn với các kênh bán lẻ của Anh như Tesco và Sainsbury.
Ngành hoa Nam Phi dự kiến sẽ tăng trưởng mạnh và đang dần nổi lên thành nước
xuất khẩu hoa. Bốn yếu tố thuận lợi hỗ trợ ngành hoa Nam Phi phát triển nhanh là: tăng
cường vốn đầu tư cho sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm, gần với nhiều thị trường tiêu thụ
lớn và cơ sở vật chất tốt. Hiện Nam Phi mới chỉ chiếm 0,5% tổng xuất khẩu hoa toàn cầu
và đang phải cạnh tranh với nhiều đối thủ mạnh khác như Kênia, Zimbabuê và Zambia
trên thị trường châu Âu. Nam Phi sản xuất chủ yếu là hoa hồng và một số hoa khác và
đang hy vọng sẽ trồng được hoa cúc để xuất khẩu. Hiện một nửa sản lượng hoa Nam Phi
được tiêu thụ trong nước, nửa còn lại được xuất khẩu.
Zimbabuê xuất khẩu tổng cộng 17.000 tấn hoa cành trong năm 2003, giảm so với
23.000 tấn của năm trước do diện tích trồng hoa giảm. Giá hoa trên các thị trường xuất
khẩu giảm dần cũng tác động xấu tới nghề trồng hoa Zimbabuê. Ngoài ra, nguồn cung hoa
tăng mạnh trên các thị trường cũng ảnh hưởng đến xu hướng giảm giá. Zimbabuê xuất
khẩu khoảng 150 loại hoa hồng và nhiều loại hoa khác.
Sau hàng chục năm điêu đứng, ngành trồng hoa Uganda đã hồi phục từ năm 2000
với chất lượng được cải thiện rõ rệt. Uganda thu nhập 26 triệu USD từ 6.000 tấn hoa năm
2003, tăng 3 triệu USD so với năm trước. Nghề trồng hoa hồng đang trở nên ngày càng
quan trọng trong nền kinh tế Uganda.
Trước đây, Israel là thị trường tiêu thụ hoa lớn nhất của Uganda, song nay Kênia
đã giành được vị trí này. Uganda đang hướng vào thị trường Hà Lan với những kế hoạch
cạnh tranh mạnh mẽ với Kênia và Zimbabuê. Đến cuối năm 2004, Uganđa có thể sẽ vượt
Zimbabuê để trở thành nước xuất khẩu lớn thứ 2 sang thị trường Hà Lan.
Ở Colombia ngành sản xuất hoa kiểng đã trở thành ngành kinh tế quan trọng đứng
hàng thứ tư sau dầu mỏ, than, cà phê…, năm 1996 đã xuất khẩu hoa sang Mỹ đạt trị giá
510 triệu USD.
1.3. Thực trạng tình hình sản xuất và thị trường tiêu thụ hoa, cây cảnh ở nước ta.
1.3.1 Thành tựu phát triển sản xuất và xuất khẩu
Những năm qua, việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hoa cảnh đã đựợc Đảng và
Nhà nước quan tâm tìm nhiều biện pháp để tháo gỡ khó khăn, đầu tư, hỗ trợ tích cực.
Tháng 9/1999, Chính phủ đã phê duyệt đề án phát triển rau, hoa, quả, cây cảnh thời kỳ
1999 - 2010 của Bộ Nông nghiệp & PTNT làm định hướng chiến lược cho việc phát triển
sản xuất rau, hoa, quả. Đồng thời ngày 15/6/2000, Chính phủ có Nghị quyết 09/2000/NQ
qui định chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ đầu tư, tạo
điều kiện cho các hộ nông dân, các chủ trang trại, chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp
tác xã vay vốn phát triển sản xuất và kinh doanh trong điều kiện khó đảm bảo về thế chấp,
giao quyền sử dụng đất lâu dài 20-30 năm để nông dân an tâm đầu tư sản xuất, cho ưu đãi
về thuế để khuyến khích việc đầu tư sản xuất ở các vùng miền khó khăn, áp dụng giống
cây trồng mới, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.v.v…
7
Về công tác quy hoạch, mặc dù trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa phải
dành đất xây dựng các khu công nghiệp tập trung nhưng các địa phương (Lâm đồng, Long
An, Tiền Giang, Bắc Giang, Nam Định, Hải Dương ) và một số thành phố lớn đã rất
quan tâm đến quy hoạch vùng trồng hoa cây cảnh cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Bên cạnh đó, các hoạt động nghiên cứu khoa học và áp dụng tiến bộ khoa học công
nghệ trong sản xuất hoa cây cảnh đã được chú ý với các chương trình giống và khuyến
nông.
Về thị trường nội địa, những năm gần đây tốc độ xây dựng cơ bản tăng mạnh, kéo
theo nhu cầu tăng nhanh về số lượng các loại cây kiểng để trang trí công trình. Tại TP. Hồ
Chí Minh trước những năm 1980 chỉ có hơn một chục vựa kiểng, đến nay đã có trên 200
vựa kiểng nằm rải rác khắp các quận huyện. Mặt khác, đời sống người dân ngày càng
được nâng cao, nhu cầu thưởng thức hoa kiểng ngày càng nâng cao cả về số lượng và chất
lượng. Trên thị trường thành phố đã xuất hiện nhiều giống hoa cao cấp như: Lyly, Hồng
Môn, Lay ơn giống mới, Đồng tiền giống mới, Thiên điểu, Tulíp, … được trồng tại Việt
Nam. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi cơ cấu giống cây
trồng đang đặt ra cấp bách đối với ngành Nông nghiệp của nước ta.
Diện tích, sản lượng:
Diện tích trồng hoa kiểng ở nước ta hiện nay (năm 2005) là khoảng 15.000ha, tăng
7% so với năm 2004. Sản xuất hoa đang cho thu nhập cao (bình quân đạt khoảng 70-130
triệu đồng/ha) nên rất nhiều địa phương trong cả nước đang mở rộng diện tích trồng hoa
trên những vùng đất có tiềm năng. Một số tỉnh duyên hải miền Trung cũng bắt đầu phát
triển sản xuất hoa cắt cành theo hướng hàng hóa, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tại chỗ.
Các tỉnh phía Nam, điển hình là TP. Hồ Chí Minh cùng các tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long (Tiền Giang, Đồng Tháp…) là nguồn cung cấp hoa và cây cảnh đáng kể. Tuy
nhiên, các địa bàn này chủ yếu chỉ sản xuất một số loại hoa nhiệt đới (cúc móng rồng, cúc
vàng, huệ, mai…) còn các loại hoa cắt cành truyền thống (hồng, cúc, cẩm chướng, lay ơn,
đồng tiền…) thì còn rất hạn chế và chất lượng chưa thật cao. Diện tích trồng hoa cảnh tập
trung nhiều ở ngoại thành Tp. Hồ Chí Minh khoảng 700ha, tập trung ở các quận huyện
như quận 12 (110ha), Thủ Đức (87ha)…và nhiều nhất là Củ Chi (131ha). Số cơ sở trồng
hoa ở Tp. Hồ Chí Minh vào khoảng 1400 nông hộ. Các giống hoa cao cấp như Lyly, hồng
môn, lay ơn giống mới, đồng tiền giống mới, thiên điểu, tulip đang được ưa chuộng.
Trong phát triển sản xuất hoa, đã có một số mô hình thí điểm và triển khai sản xuất
hoa trong nhà lưới, nhà plastic, nhà kính ở cả 3 miền (trong đó tập trung chủ yếu ở Đà Lạt)
cho hiệu quả gấp trên 10 lần so với trồng lúa (bình quân 400 - 500 triệu đồng/ha/năm).
Với điều kiện khí hậu, đất đai thích hợp để phát triển các loại hoa có thu nhập cao
nên ngành trồng hoa là ngành kinh tế có tiềm năng rất lớn của Tp. Đà Lạt. Tỉnh Lâm
Đồng được coi là trung tâm sản xuất hoa cắt cành lớn nhất cả nước với khả năng sản xuất
hầu nhu quanh năm. Diện tích trồng hoa của Lâm Đồng năm 2005 đạt 2.027ha chủ yếu
tập trung tại Tp. Đà Lạt, các xã Hiệp Thành, Hiệp An… Sản lượng hoa khoảng 640 triệu
cành, nghề trồng hoa Đà Lạt đang có xu hướng phát triển mạnh nhờ áp dụng những công
nghệ mới.
8
Tp. Đà Lạt đã lập ra Hiệp hội hoa lan cây cảnh nhưng hầu như vẫn chưa giúp tháo
gỡ được các khó khăn về giống, ngăn chặn dịch bệnh, và vẫn chưa liên kết nhà vườn để
xây dựng một thương hiệu tương xứng với tiềm năng. Ví dụ, chỉ riêng với cây địa lan, từ 2
năm nay, Đà Lạt đã bị mất hàng ngàn chậu do căn bệnh thối rễ hiện chưa có thuốc trị.
Chủng loại hoa hiện được trồng tại Đà Lạt rất phong phú như: Hoa Cúc (Chrysanthemum
sp.) có trên 40 loại, gồm các nhóm: cúc đại đóa màu vàng anh, trắng, tím; các giống hoa
nhỏ và nhóm cúc tía có muỗng; Hoa hồng (Rosa sp): có trên 15 loại có nguồn gốc từ
Italia, Hà Lan…Hoa hồng Đà Lạt to, cánh thẳng, bền, thơm, sinh trưởng và phát triển tốt,
khả năng kháng bệnh từ trung bình đến cao; Cẩm chướng (Dianthus caryophyllus): gồm
14 loại, có nhiều màu.
Ngoài ra Đà Lạt còn sản xuất nhiều chủng loại hoa khác như Lay ơn (Gladious
communis), huệ tây (Lilium longiflorum), đồng tiền, ngàn sao, cúc chổi, salem, huệ trắng,,,
Tiềm năng về hoa ở Đà Lạt đang được chú ý phát triển nhưng nhìn chung vẫn
mang tính tự phát. Việc nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào đang trở nên
thịnh hành nhưng không ai kiểm soát đánh giá chất lượng nên có thể nhân cả giống đang
có mầm bệnh.
Các tỉnh phía Bắc: Hà Nội được đánh giá là vùng hoa tập trung lớn nhất vùng phía
Bắc, ví dụ xã Tây Tựu huyện Từ Liêm có 330ha trồng hoa (chiếm 66% trong tổng số
500ha trồng hoa của huyện) và chiếm 84,6% diện tích đất canh tác toàn xã. Các chủng loại
hoa chủ yếu là hoa cúc, hoa hồng, đồng tiền, hoa ly, hoa loa kèn… Ngoài ra còn một số
vùng trồng hoa tập trung tại các quận huyện khác ngoại thành Hà Nội và các tỉnh lân cận
như Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hà Tây, Thái Bình…
Vùng hoa Trung du và Miền núi Bắc Bộ: theo kết quả điều tra năm 2005 diện tích
trồng hoa toàn vùng là 135,7ha, sản lượng đạt 44,08 triệu bông. Trong đó Lào Cai là tỉnh
có diện tích lớn nhất 95,7ha, chiếm 70,5% tổng diện tích cả vùng. Về mặt chủng loại thì
hoa hồng chiếm diện tích lớn nhất 75ha (chiếm 55,27%) với sản lượng là 26,53 triệu
bông.
1.3.2. Thực trạng phân phối tiêu thụ sản phẩm hoa, cây cảnh
Hiện nay, sản xuất hoa ở nước ta đang được thực hiện ở 2 quy mô chính là:
- Quy mô nhỏ do nông dân sản xuất tự phát theo nhu cầu thị trường nội địa.
- Quy mô lớn do các doanh nghiệp tư nhân trong nước, liên doanh với nước ngoài
hoặc 100% vốn nước ngoài chủ yếu cho xuất khẩu.
Hoa tiêu thụ trong nước có chủng loại đa dạng, cung cấp ra thị trường theo mùa vụ,
chất lượng từ thấp đến cao,giá cả vừa phải, hiệu quả kinh tế không cao, sản xuất nhỏ lẻ và
thiếu ổn định. Các doanh nghiệp sản xuất hoa xuất khẩu mang tính hàng hoá, lượng hoa
nhiều hơn, chất lương hoa cao hơn nhờ được sản xuất trong điều kiện kỹ thuật cao, sản
phẩm tiêu thụ theo hợp đồng. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã chọn tỉnh Lâm Đồng -
vùng đất có tiềm năng lớn nhất về sản xuất hoa của cả nước để đầu tư trồng hoa phục vụ
thị trường nội địa và xuất khấu, đó là các công ty Nhật Thái ở Bảo Lộc, Lâm Thăng (Đài
Loan) ở Di Linh, Chánh Đài Lâm (Đài Loan) ở Đức Trọng và Hasfarm (Hà Lan) ở thành
phố Đà Lạt.
9
Công ty TNHH Đà Lạt Hasfarm đang áp dụng công nghệ sản xuất hoa tiên tiến với
quy mô diện tích nhà kính 15ha và diện tích nhà thép 2ha có hệ thống tự động điều chỉnh
nhiệt độ, ẩm độ, hệ thống tưới nhỏ giọt đồng bộ với bón phân và thuốc bảo vệ thực vật.
Các chủng loại hoa chính đang được sản xuất tại công ty Đà Lạt Hasfarm là hoa hồng,
cúc, cẩm chướng, lyly, đồng tiền và lá trang trí. Sản lượng hoa xuất khẩu (Hồng Kông,
Nhật Bản, Đài Loan, Singapore…) chiếm 55%, phần còn lại dành cho tiêu thụ nội địa.
Quy trình sản xuất được thực hiện khép kín từ gieo trồng đến thu hoạch. Công nghệ sau
thu hoạch (xử lý dung dịch giữ hoa tươi lâu, đóng gói, bảo quản và vận chuyển trong ngày
để chuyển đến nơi tiêu thụ) đều đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Tóm lại, tình hình xuất khẩu hoa Việt Nam có một số điểm chính như sau:
- Kim ngạch xuất khẩu hoa tươi chính ngạch đã tăng từ 5,3 triệu USD năm 2004
lên gần 10 triệu USD vào năm 2005, trên 14 triệu USD năm 2009.
- Về thị trường, ngoài một số tỉnh phía Nam Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chủ
yếu (dưới dạng tiểu ngạch qua biên giới phía Bắc), hoa chủ yếu được xuất khẩu sang các
nước châu Á (Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản, ) và bước đầu xuất khẩu được
sang các thị trường xa (Australia, Nga, Đức, Pháp, Hoa Kỳ ) nhưng không đáng kể.
- Về chủng loại, Việt Nam đã xuất khẩu được các sản phẩm hoa cắt cành như hồng,
phong lan, cúc, đồng tiền, cẩm chướng, ly ly, sao tím sang Trung Quốc, Hồng Kông, Đài
Loan, Nhật Bản, Singapore, Australia, Ả rập Xêut; vạn niên thanh, mai chiếu thủy, mai
cảnh sang Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản.
- Về phương thức tổ chức kinh doanh xuất khẩu, chủ yếu do các thương lái thu
gom ở các địa phương trong cả nước và xuất khẩu tiểu ngạch, theo thời vụ, sang các tỉnh
nam Trung Quốc. Xuất hiện một số mô hình liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với nông
dân hoặc Hợp tác xã với nông dân. Doanh nghiệp/ HTX là trung tâm tổ chức xuất khẩu.
Các hộ nông dân là vệ tinh, quan hệ với doanh nghiệp theo nguyên tắc ký hợp đồng để sản
xuất theo quy trình do doanh nghiệp/hợp tác xã quy định. Sản phẩm sản xuất ra được
doanh nghiệp mua lại theo hợp đồng đã ký và đưa vào phân loại, đóng gói và xuất khẩu.
Tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu nhưng nhìn chung sản xuất và xuất khẩu
hoa của nước ta còn nhiều khó khăn và bất cập về các mặt như áp dụng các biện pháp
KHKT còn chậm, việc nghiên cứu thị trường chưa được quan tâm đúng mức. Sản xuất và
kinh doanh hoa tươi luôn tiềm ẩn các rủi ro cao nên các doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh
doanh còn chưa yên tâm tập trung đầu tư phát triển.
1.4. Mục tiêu và phương hướng phát triển ngành hoa, cây cảnh Việt Nam.
Mục tiêu là hướng tới đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu.
1.4.1. Mục tiêu:
Theo “Đề án phát triển xuất khẩu giai đọan 2006-2010” của Bộ Thương mại đã
được Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 156/2006 QĐ-TTg, mục tiêu phát triển xuất
khẩu rau-hoa-quả là “Phấn đấu tăng kim ngạch xuấtt khẩu rau, hoa, quả lên 600 - 700 triệu
vào năm 2010, đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân giai đọan 2006 -
2010 là 23 - 25%/năm và đạt kim ngạch khoảng 1000 triệu USD vào năm 2015”.
Trước mắt tập trung xuất khầu vào các thị trường gần có yêu cầu không cao về tiêu
chuẩn chất lượng, mà trọng tâm là các tỉnh nam Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, bước
10
tiếp theo là Hàn Quốc, Nhật Bản, sau đó từng bước vươn ra các thị trường xa như Hoa Kỳ,
Liên bang Nga, EU. Đồng thời, khai thác tốt thị trường nội địa.
Phương hướng mở rộng diện tích tại các vùng chuyên canh sản xuất hoa như sau:
- Dự kiến đến năm 2015 diện tích trồng hoa cả nước sẽ là 20.000 ha, trong đó
nhiều vùng trồng hoa theo quy trình công nghệ cao (Đà Lạt, TP. Hồ Chí Minh, Lào Cai,
Hà Nội ).
- Phát triển sản xuất sản phẩm hoa xuất khẩu trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh
của mỗi vùng, mỗi địa phương nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Phải luôn luôn gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất và xuất khẩu, xuất phát từ nhu cầu thị
trường, lấy thị trường làm căn cứ chủ yếu để xây dựng kế hoạch, qui hoạch sản xuất kinh
doanh.
- Tạo cơ chế hợp tác giữa các địa phương, các đơn vị sản xuất và kinh doanh, phối hợp
hài hòa, linh hoạt giữa tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, tạo nguồn cung ứng ổn định, dần
từng bước nâng cao năng lực xuất khẩu.
Bảng 1.1. Kế hoạch mở rộng diện tích các vùng trồng hoa đến năm 2015
Đơn vị tính: Ha
Vùng trồng hoa
2005
Đến 2015
Ghi chú
1
Đồng bằng sông Hồng
1.500
3.000
Từ Liêm, Đông Anh, Tây Hồ.
2
Trung du miền núi Bắc Bộ
137
500
Lào Cai, Hà Giang, Sơn La
3
Tây Nguyên
2027
3.000
Lâm Đồng, TP Đà Lạt
4
Đông Nam Bộ
700
1.500
Củ Chi, Thủ Đức
5
Cả nước
15.000
20.000
1.4.2. Phương hướng phát triển ngành hoa, cây cảnh Việt Nam.
Nhóm giải pháp cho sản xuất:
- Xây dựng các mô hình các liên kết vệ tinh với vai trò chủ đạo là các doanh
nghiệp sản xuất, xuất khẩu. Đẩy mạnh sản xuất - tiêu thụ thông qua hợp đồng giữa các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và người sản xuất (hợp tác xã, hộ nông dân,
chủ trang trại ), trong đó các doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo ứng dụng các công nghệ
tiên tiến, tổ chức sản xuất, thu gom và xuất khẩu theo quy trình công nghệ mới. Các điển
hình này sẽ được nhân rộng ra các địa phương khác
- Thành lập các Trung tâm giao dịch rau, hoa, quả tại Lào Cai, Đà Lạt và thành
phố Hồ Chí Minh: Đây sẽ là các trung tâm tập kết, bảo quản, giao dịch và ký kết các hợp
đồng xuất khẩu hoa cảnh nhằm giảm thiểu tình trạng hư hỏng sản phẩm hàng hóa và tránh
nguy cơ bị ép cấp, ép giá. Các trung tâm này sẽ được trang bị hệ thống kho lạnh để bảo
quản hoa, các Kiôt cho khách hàng từ các nơi đến thuê để giao dịch, mua bán; các tiện ích
khác như ngân hàng, vận tải, bốc vác, ăn nghỉ.
- Khuyến khích thành lập các tổ chức, công ty sản xuất và kinh doanh vật tư phục
vụ ngành hoa cảnh. Khuyến khích và giúp đỡ các công ty có khả năng, có nguyện vọng
đứng ra thành lập các công ty chuyên doanh các loại vật tư phục vụ sản xuất, xuất khẩu
như giống, phân bón, các loại thuốc bảo vệ thực vật, giá thể hoặc chất liệu (như mùn dừa)
để trồng hoa theo phương pháp canh tác mới, máy móc nông cụ, thiết bị (nhà kính, nhà
11
lưới, máy tưới tiêu, lọc nước, ống dẫn nước ) dụng cụ canh tác (xe kéo, máy cắt cỏ, dao,
kéo ).
-Quy hoạch lại các cơ sở hạ tầng thương mại. Để tăng cường khả năng tiêu thụ,
giảm chi phí trung gian để hạ giá thành, chọn lựa hàng phẩm cấp cao cho xuất khẩu; bên
cạnh việc phát triển sản xuất, các cấp, các ngành cần quy hoạch lại cơ sở hạ tầng thương
mại:
- Hệ thống vận tải và kho lạnh bảo quản cho hoa để vận tải đường bộ, đường sắt,
đường thủy và nhất là đường hàng không.
- Xây dựng và tổ chức kinh doanh kho tàng, bến bãi, bốc xếp, giao nhận; Xây
dựng và tổ chức kinh doanh các chợ đầu mối, trung tâm giao dịch, nhất là nâng cấp và xây
dựng mối các chợ đầu mối hoa tại các khu vực trung tâm của các vùng, các khu đô thị.
- Liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài. Để phát triển các loại cây trồng có khả
năng cạnh tranh trong xuất khẩu, có thể sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các dự
án phát triển sản xuất theo hướng thâm canh tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản
phẩm. Các mô hình sản xuất có thể với các hình thức: huy động 100% vốn nước ngoài
hoặc liên doanh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, hướng mạnh
vào những khu nông nghiệp công nghệ cao.
Nhóm giải pháp cho xuất khẩu
- Tổ chức xuất khẩu: Hỗ trợ các công ty TNHH/HTX đàm phán ký kết hợp đồng
ngoại và tổ chức xuất khẩu, thanh toán quốc tế. Thiết lập các quan hệ bạn hàng nước
ngoài và tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Cần tăng cường theo hướng:
+ Đàm phán song phương với các nước để ký kết các hiệp định về kiểm dịch động
thực vật, công nhận lẫn nhau về các cơ sở kiểm tra, cấp giấy chứng nhận chất lượng.
+ Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chuyển giao khoa học công nghệ, tiếp cận với các
loại giống hoa tiên tiến và kỹ thuật hiện đại trên thế giới
+ Hợp tác quốc tế về lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm. Nắm bắt kịp thời những
yêu cầu VSATTP của mỗi nước, giúp các doanh nghiệp hiểu và đáp ứng kịp thời.
- Chấn chỉnh hệ thống các trung tâm kiểm tra chất lượng.
- Hỗ trợ xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại. Các doanh nghiệp cần phải
quan tâm đầu tư xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá cho sản phẩm của mình.
- Thành lập và phát triển các Hiệp hội ngành hàng. Theo kinh nghiệm các nước
phát triển, cần thành lập Hiệp hội xuất nhập khẩu hoa. Trong tương lai, có thể lập riêng
Hiệp hội cho từng loại hoa hay mặt hàng. Tổ chức này là đầu mối giao lưu với các tổ chức
quốc tế.
- Thống kê, thông tin thị trường: Tổ chức nghiên cứu thị trường hoa thế giới và khu
vực, các tư liệu cần thiết cho sản xuất và xuất nhập khẩu, những vật tư thiét bị chuyên
dùng.
Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách
Trong giai đọan công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, phát triển xuất khẩu hoa
là một nhu cầu khách quan bởi vì ngành hàng này, nếu được tổ chức tốt, áp dụng các tiến
12
bộ khoa học kỹ thuật, sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao, hơn cả lúa và nhiều loài hoa màu
khác.
- Chính sách hỗ trợ sản xuất, bảo quản hoa xuất khẩu Tiếp tục đổi mới chính sách
tài chính, đổi mới cơ chế tín dụng, quy chế và thủ tục cho vay.
- Chính sách về chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đất đai, khuyến nông.
+ Nghiên cứu điều chỉnh các chính sách về đất đai nhằm khuyến khích các tổ chức
trong và ngoài nước tăng cường đầu tư vào nông nghiệp. Khuyến khích người nông dân
tích tụ đất, phát triển một cách ổn định và lâu dài, sản xuất hàng hoá trên quy mô lớn, có
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường
+ Tiếp tục hoàn thiện hệ thống khuyến nông. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế
đầu tư vào ngành giống. Đầu tư nâng cấp và hoàn thiện các cơ sở sản xuất giống, ứng
dụng công nghệ sinh học trong nghiên cứu hoa cảnh;
- Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực. Tổ chức đào tạo ngắn hạn hay dài hạn. Áp
dụng các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề cho các doanh
nghiệp sản xuất hoa xuất khấu. Khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công
nghệ và đào tạo quản lý cho các doanh nghiệp Việt Nam. Khuyến khích các hình thức hợp
tác đào tạo giữa các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo nghề trong nước và quốc tế.
- Chính sách xúc tiến xuất khẩu Thông qua các cơ quan ngoại giao đại diện ở nước
ngoài quảng bá thương hiệu và giới thiệu tiềm năng ngành sản xuất hoa kiểng của Việt
Nam. Xây dựng mục tiêu dài hạn nhằm xuất khẩu đến các thị trường Bắc Mỹ và châu Âu.
13
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẠI CƯƠNG
2.1. Nguồn gốc và phân loại:
2.1.1. Nguồn gốc:
Cũng giống như các loại cây trồng khác, các chủng loại hoa ngắn ngày hiện nay đã
trải qua hàng nghìn năm tiến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Từ
các trung tâm khởi nguyên ban đầu, chúng đã biến đổi để thích nghi với điều kiện sinh
thái vì được con người đem đi trồng ở nhiều nơi khác nhau. Do ảnh hưởng lâu dài của
điều kiện khí hậu môi trường thay đổi và các hình thức chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân
tạo đã sản sinh ra nhiều loại hình mới với đặc tính sinh học có nhiều thay đổi. Tuy vậy,
nhờ cơ chế di truyền nên chúng vẫn giữ nguyên một số đặc tính di truyền căn bản.
Nguồn gốc xuất xứ khác nhau của các loại hoa, cây cảnh được phản ánh qua các
yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh khác nhau. Trên cơ sở đó, kỹ thuật trồng trọt cũng lưu ý
để thoả mãn yêu cầu riêng biệt của từng loài cây trồng hay hoa, cây cảnh cụ thể.
Nguồn gốc các loài hoa thảo được phân tích dựa trên các học thuyết cơ bản đó là:
- Học thuyết về các trung tâm khởi nguyên các giống cây trồng trên thế giới và qui
luật về dãy biến dị tương đồng của nhà khoa học Nga nổi tiếng N. I. Vavilov.
- Học thuyết tiến hóa của nhà tự nhiên học người Anh Đac Uyn (Charles Robert
Darwin 1809-1892). Trên cơ sở học thuyết của Đac Uyn các nhà khoa học sau đó đã hình
thành nên thuyết tiến hóa tổng hợp rất có ý nghĩa trong công tác lai và chọn tạo giống
mới.
Các loại hoa cảnh trên thế giới phần lớn có nguồn gốc ở hai vùng sau:
- Vùng cận nhiệt đới và vùng ôn đới ven biển khí hậu tương đối ấm áp với nhiệt độ
trong năm chia làm các mùa khác nhau rõ rệt, mùa đông nhiệt độ xuống thấp nhưng không
lạnh lắm. Đó là các vùng như Mêhicô, Trung cận đông, Trung Quốc và Nhật Bản.
- Vùng nhiệt đới có khí hậu ấm áp quanh năm, không có mùa đông rõ rệt, lượng
mưa tương đối cao và phân bố không đều trong 1 năm hình thành nên 2 mùa mưa và mùa
khô. Đó là các vùng như Đông nam Á, vùng nhiệt đới châu Phi và vùng nhiệt đới Nam
Mỹ.
Có thể liệt kê một số loài hoa có chung nguồn gốc từ các trung tâm khởi nguyên
như:
- Trung tâm Mêhicô (Trung Mỹ):
+ Ánh hồng (Pachyptera hymenaea (DC.) A. Gentry) họ Đinh (Bignoniaceae).
+ Cúc chuồn chuồn (Cosmos bipinnatus Cav.), họ Cúc (Asteraceae).
+ Cúc chuồn chuồn hoa vàng (Cosmos sulphureus Cav.), họ Cúc (Asteraceae).
+ Cúc chùy (Rudbeckia fulgida Ait.), họ Cúc (Asteraceae).
+ Cúc hôi tím (Ageratum houstonianum Mill.), họ Cúc (Asteraceae).
+ Cúc di nha (Zinnia elegans Jacq.), họ Cúc (Asteraceae).
+ Hoa Phlốc (Phlox drummondii Hook. f), họ hoa Phlốc (Polemoniaceae)
+ Long thủ (Justicia brandegeana Wass. Et Sm), họ Ô rô (Acanthaceae)
14
+ Thược dược (Dahlia pinnata Cav.), họ Cúc (Asteraceae)
- Trung tâm Địa Trung Hải (hay Trung Cận Đông)
+ Anh thảo (Cyclamen persicum) họ Trân châu (Primulaceae)
+ Cẩm chướng nhung (Dianthus barbatus) họ Cẩm chướng (Caryophyllaceae)
+ Cẩm chướng thơm (Dianthus caryopyllus L.) họ Cẩm chướng (Caryophyllaceae)
+ Hoa mõm sói (Antirrhinum majus L) họ Mõm sói (Scrophulariaceae)
+ Lay ơn (Gladiolus gandavensis hort.) họ Lay ơn (Iridaceae).
+ Lô hội (Aloe barbadensis Mill.) họ Lô hội (Asphodelaceae)
+ Súng đỏ (Nymphaeae rubra Roxb.ex Salisb) họ Súng (Nymphaeaceae)
- Trung tâm Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản)
+ Bồ công anh Trung quốc (Taraxacum officinale Wigg.) họ Cúc (Asteraceae)
+ Cẩm chướng tàu (Dianthus chinensis L) họ Cẩm chướng (Caryopyllaceae)
+ Cẩm tú cầu (Hydrangea marcophylla DC.) họ Tú Cầu (Hydrangeaceae)
+ Cúc hoa trắng (Chrysanthemum morifolium Ramat.) họ Cúc (Asteraceae)
+ Cúc tím (Callistephus chinensis L) họ Cúc (Asteraceae)
+ Hoa chông (Barleria cristata L) họ Ô rô (Acanthaceae)
+ Hoa hồng (Rosa chinensis Jacq.) họ Hoa hồng (Rosaceae)
+ Hoa sao (Hoya carnosa R. Br.) họ Thiên lý (Asclepiadaceae)
+ Lan thoát bào (Lycoris aurea Herb.) họ Thủy tiên (Amaryllidaceae)
+ Mẫu đơn (Paeonia sulffruticosa Haw.) họ Mao lương (Ranunculaceae)
- Trung tâm vùng nhiệt đới châu Phi
+ Agabăng (Agapanthus umbella L.) họ Hành (Alliaceae).
+ Bướm hồng (Mussaenda erythrophylla Schum. & Thonn.) họ Cà phê
(Rubiaceae)
+ Dây bông cảnh (Thunbergia battescombei) họ Ô rô (Acanthaceae)
+ Đồng tiền (Gerbera jamesonii Bolus. Ex Hook.) họ Cúc (Asteraceae).
+ Huyết hoa (Haemanthus multiflora) họ Thủy tiên (Amaryllidaceae)
+ Mai địa thảo (Impatiens walleriana Hook.) họ Bóng nước (Balsaminaceae).
+ Thiên điểu (Strelitzia reginae) họ Thiên điểu (Strelitziaceae)
2.1.2. Phân loại:
Do sự khác biệt về ngôn ngữ, thổ ngữ nên tên gọi của các loài hoa có thể khác
nhau giữa các quốc gia, các dân tộc và giữa các vùng miền trong một quốc gia, do đó các
nhà khoa học luôn dựa trên hệ thống phân loại thực vật bằng tiếng Latin để định danh một
loài cụ thể nào đó. Thứ tự sắp xếp là phân giới – ngành – lớp - bộ - họ - chi - loài .Theo hệ
thống này các loài hoa thảo đều thuộc về phân giới thực vật bậc cao, phần đông thuộc
ngành hạt kín hay là ngành Ngọc Lan (Magnoliophyta). Trong ngành này có 2 lớp là lớp
hai lá mầm (Dicotyledoneae) và lớp một lá mầm (Monocotyledoneae) với nhiều loại thực
vật hoa thảo.
Hệ thống phân loại này cho biết mối quan hệ họ hàng giữa các loài hoa và các loài
thực vật khác rất có ý nghĩa đối với các nhà nghiên cứu về thực vật học, di truyền và chọn
tạo giống mới. Trong các giao dịch buôn bán quốc tế, kiểm dịch thực vật, sưu tập và bảo
tồn nguồn gen… cũng định danh loài cụ thể dựa trên hệ thống phân loại này.
15
Ngoài ra, người ta còn phân nhóm các loài hoa thảo theo đặc tính cơ quan sinh sản,
kiểu hình cây…, ví dụ:
- Căn cứ vào đặc điểm thực vật (thân leo, dạng bụi….)
- Căn cứ vào kỹ thuật trồng trọt
Cách phân loại này phản ánh phần nào đặc điểm riêng biệt của loài hoa thào, người
trồng có cơ sở định hướng ban đầu về cách trồng và chăm sóc cho từng loài hoa để đạt
được hiệu quả cao (bảng 2.1).
Bảng 2.1. Phân loại hoa thảo theo đặc tính thực vật và kỹ thuật trồng trọt
STT
Đặc điểm thực vật,
trồng trọt
Các loài hoa
1
Trồng bằng củ
Lay ơn, Thược dược, Huệ, Lan huệ, Lyly, Tulip, Thuỷ tiên,
Lys,
2
Thân dây leo
Tigôn, nho, bìm bìm, chùm ớt, đậu thơm, thiên lý, bông giấy,
huỳnh anh…
3
Tán cây dạng bụi
Hồng, tú cầu, nguyệt quới, bụp, lài, trang, thơm ổi, cúc,…
4
Cây thủy sinh
Sen, súng
5
Thân mộc
Ngọc lan, mai, đào, hồng…
6
Thân thảo
Cúc, cẩm chướng, Thu hải đường, Vạn thọ, Mào gà, sao nhái,
đồng tiền, thược dược…
7
Che phủ đất
Mười giờ, dừa cạn, cỏ lá gừng, cỏ lông heo…
2.2. Môi trường khí quyển và đời sống của cây hoa:
Nhiều yếu tố trong thiên nhiên như nhiệt độ, ẩm độ không khí, ánh sáng, … tác
động trực tiếp và có tính quyết định đến đời sống cây trồng nói chung. Riêng đối với các
loài hoa ngắn ngày, tác động lại càng rõ rệt hơn, vì cây hoa nói chung rất mẫn cảm với
môi trường xung quanh. Người trồng hoa phải sắp xếp công việc một cách hợp lý nhằm
đảm bảo sự phát triển của hoa đạt năng suất cao, chất lượng tốt. Trong quá trình trồng trọt
cần phải chú ý đến sự tác động và sự cân đối giữa các yếu tố đó đối với từng giai đoạn
phát triển của cây hoa. Ở chương này chỉ trình bày một số yếu tố chính như: nhiệt độ, ẩm
độ, ánh sáng.
2.2.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ không khí tác động mạnh mẽ đến đời sống của thực vật. Trong từng giai
đọan sinh trưởng và phát triển, cây trồng cần điều kiện ngoại cảnh nhất định, trước hết là
nhiệt độ. Cho nên tình hình biến thiên của nhiệt độ ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển của
cây trồng trong tất cả các giai đọan cũng như đối với mọi hoạt động sinh lý của cây, quang
hợp, hô hấp, hấp thụ chất dinh dưỡng trong đất. Nhiệt độ không khí cao thúc đẩy sự phát
triển của cây nhờ tăng cường độ quang hợp. Khi hoa mới kết nụ gặp nhiệt độ cao sẽ nở
nhanh hơn. Nhưng nếu nhiệt độ quá cao so với yêu cầu của cây, lại gặp lúc không khí khô,
gió hanh thì sự sinh trưởng và phát triển của cây bị ngưng trệ, hoặc sự sống bị đe dọa,
nhất là vào giai đọan cây sắp ra hoa. Nhiệt độ cao kéo dài có thể rút ngắn tuổi thọ của hoa.
Theo R. Bossard, khi nhiệt độ tăng 10
o
C thì sự chuyển biến trong cây tăng 2,2 lần so với
nhiệt độ bình thường. Nhưng nếu nhiệt độ tăng lên trên 40-50
o
C thì sự sinh trưởng của
nhiều loài cây bị ngừng lại. Điều kiện nhiệt độ không khí thích hợp hay khí trời ấm áp thì
cây sinh trưởng và phát triển được thuậ
n lợi, hoa tốt và nở sớm hơn, hiệu suất cao hơn,
chất lượng tốt hơn. Đa số các loài hoa thích hợp với nhiệt độ ôn hòa, mát mẻ 18-25
0
C.
16
Trong điều kiện nhiệt độ thấp, hạt giống khó nảy mầm, lâu mọc, cây con chậm lớn,
sự sinh trưởng gần như ngừng lại, cành nhánh phát sinh ít và yếu, hoa nở muộn và không
đều. Tuy không chết nhưng cây sống cằn cỗi, lá giòn, cành úa vàng, cây thấp, nụ hoa mới
nhú bị điếc hoặc khô cháy. Nói chung trong điều kiện nhiệt độ thấp, cây khó sinh trưởng
và phát triển. Một số biện pháp áp dụng để chống rét như: chọn giống chịu rét, bón phân
tưới nước đầy đủ, xới đất kỹ, che chắn gió, tủ gốc cây bằng rơm rạ, lá khô, hoặc vun
những đống phân nhỏ giữa các hàng cây để phân tiếp tục hoai tỏa nhiệt làm ấm cây trong
vài ba tuần (tưới nước những đống phân để thúc đẩy sự lên men).
Tuy vậy, nhiệt độ thấp cũng có thuận lợi như hoa lâu tàn, hoa cắt bảo quản được
lâu hơn, củ hoa cất giữ trong điều kiện nhiệt độ thấp để hãm sự nảy mầm sớm. Ban đêm
nhiệt độ hạ thấp sẽ hạn chế sự hô hấp nhờ vậy cây sẽ ít bị tiêu hao các chất dự trữ.
Nhiệt độ trong đất cũng tác động mạnh đến quá trình sinh trưởng và phát triển của
cây. Rễ là bộ phận chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhiệt độ đất. Trong điều kiện nhiệt độ đất
cao, bộ rễ cây phát triển mạnh, hạt giống mới gieo nảy mầm nhanh. Hạt giống các loài hoa
nói chung, chỉ có thể nảy mầm trong phạm vi nhiệt độ đất nhất định. Nhiệt độ quá cao
hoặc quá thấp, hạt giống khó mọc hoặc không mọc được.
Nhiệt độ đất cũng là một trong những yếu tố tác động mạnh đối với sự xâm nhập
nước vào rễ cây. Trong những lúc nhiệt độ đất thấp, khả năng hút nước của cây giảm sút
khá nhanh. Vấn đề đặt ra cho người trồng hoa là phải tìm mọi biện pháp để nâng cao nhiệt
độ đất. Nhiệt độ trong đất được nâng cao chủ yếu bằng năng lượng bức xạ của mặt trời.
Ngoài ra còn nhờ nhiệt lượng do hoạt động của vi sinh vật chuyển hóa các chất mùn trong
đất. Do đó, đất nhiều mùn, thoáng, là đất có chế độ nhiệt tốt. Vì vậy cần bón nhiều phân
hữu cơ, phân chuồng, phân xanh, rác, lá, có tác dụng cải tạo đất hợp lý. Đây là những biện
pháp có hiệu quả để đảm bảo điều kiện nhiệt tốt cho đất.
Tóm lại, nhiệt độ không khí và nhiệt độ đất tác động mạnh đến đời sống của cây.
Nhiệt độ cao thích hợp thì thuận lợi đối với sự sống của cây hoa, cho hiệu suất cao, chất
lượng tốt, hoa nở sớm hơn, trái lại nếu nhiệt độ quá thấp thì không những cây khó phát
triển, hoa nở chậm, hiệu suất và chất lượng kém. Hiện nay người trồng hoa đã áp dụng
nhiều biện pháp tác động nhiệt độ để thúc đẩy hoa nở sớm hơn hay hãm hoa nở chậm.
2.2.2. Độ ẩm không khí và các biện pháp tưới tiêu
Phân tích theo các chỉ tiêu liên quan đến độ ẩm và nhu cầu nước đối với đời sống,
thực vật được chia thành 3 nhóm: thực vật ưa ẩm, thực vật chịu hạn và thực vật trung sinh.
Độ ẩm không khí hay hơi nước trong khí quyển là một yếu tố khí tượng quan trọng, không
những ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của thực vật trong tất cả các giai đọan của nó một
cách rõ rệt mà còn kết hợp với nhiều yếu tố môi trường khác như ánh sáng, nhiệt độ… để
tác động đến toàn bộ hoạt động sinh lý của cây trồng.
Tưới nước cho cây trồng là biện pháp canh tác quan trọng để thõa mãn nhu cầu
nước, cải thiện môi trường sống trong điều kiện khí hậu khô nóng khi độ ẩm không khí
thấp. Thực vật cần độ ẩm không khí cao để đáp ứng cho các nhu cầu sinh lý và còn để hạn
chế sự phát tán hơi nước của bộ lá. Đối với những loài cây có tán lá lớn, bản lá rộng, diện
tích phát tán hơi nước rất lớn thì độ ẩm không khí cao là rất cần thiết. Sự phát tán hơi
nước càng ít nếu độ ẩm không khí càng cao và ngược lại. Nếu độ ẩm không khí hạ thấp thì
17
cường độ phát tán hơi nước của cây tăng nhiều có khi tăng đến mức làm ảnh hưởng xấu
đến hoạt động sinh lý trong cây. Một số cây kém chịu đựng đối với hoàn cảnh này có phản
ứng rõ rệt, ví dụ: cành lá rũ rượi, toàn bộ cây trồng xơ xác. Trong lúc này nếu không tưới
nước và tạo môi trường ẩm ướt thì sẽ có nhiều tác hại cho cây về cả hai mặt năng suất và
phẩm chất. Tùy theo quy mô sản xuất, biện pháp trồng trọt (trong chậu, trồng đất, nhà
lưới…) và chủng loại cây trồng người trồng hoa có thể áp dụng các phương pháp tưới
nước như: tưới theo băng, tưới theo rãnh, tưới bằng đường ống áp lực, tưới phun mưa hạt
lớn cố định và di động, tưới phun mưa hạt nhỏ và tưới nhỏ giọt.
Hàng ngày tiến hành tưới phun 1-3 lần tùy tình hình hanh khô nhiều hay ít, và tuỳ
sự chịu đựng của từng giống cây. Cần chú ý chỉ gây ẩm không khí ban ngày, tránh ban
đêm, vì độ ẩm không khí sẽ thúc đẩy sự hô hấp của cây mạnh hơn, mà hô hấp mạnh làm
cho tiêu hao dự trữ trong cây tăng nhiều. Trừ những ngày hè quá nóng thì có thể bơm
nước tưới cây lúc mặt trời sắp lặn.
Đối với những cây mới bứng trồng, bộ rễ bị cắt đau, điều kiện hút nước giảm sút
nhiều, trong lúc bộ lá vẫn tiếp tục phát tán hơi nước bình thường đến mức độ làm cây hết
nước, khô héo, chết. Độ ẩm không khí cao sẽ hạn chế rất hiệu quả sự phát tán hơi nước
trong trường hợp đó. Trong thực tế sản xuất người ta đã ứng dụng (cắt cành lá, phun
mù…) vào các công việc như bứng cây, giâm cành vv…Đối với những cây như phong
lan…sống gởi trên các cây khác hoặc trên một vật đỡ khác thì sự đòi hỏi độ ẩm không khí
cao lại càng khắt khe hơn, vì đây là nguồn cung cấp nước chính của chúng.
Trong điều kiện thiếu nước tưới, nếu độ ẩm không khí cao sẽ là nguồn cung cấp
nước cho cây trồng rất tốt, bởi vì lá có thể hút nước từ không khí qua các khí khổng.
Ngoài những lợi ích như đã nêu trên, độ ẩm không khí cao cũng gây một số tác hại nhất
định cho cây trồng nhất là lúc ra hoa kết quả. Ví dụ, ẩm độ cao, quả và hạt sẽ chứa nhiều
nước, khó bảo quản, dễ bị nấm phá hại; hay cây chứa nhiều nước khó thu hoạch, dễ bị đổ
ngã.
Độ ẩm không khí cao có lợi, nhưng độ ẩm không khí thấp cũng cần thiết trong một
số trường hợp, ví dụ lúc hoa nở cần khí trời hanh khô. Vì nếu độ ẩm không khí cao, nước
sẽ đọng lại trong tuyến mật làm thối hoa, hoặc gây khó khăn cho thu hoạch hạt giống hoa.
Do đó cần nghiên cứu bố trí thời vụ để phù hợp với sự thay đổi của độ ẩm không khí và
tránh hoặc hạn chế các tác hại của nó.
2.2.3. Ánh sáng
2.2.3.1. Cường độ ánh sáng Trong đời sống thực vật, ánh sáng là nhân tố cơ bản,
chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp đến hầu hết các nhân tố khác. Cường độ và thành phần
của phổ ánh sáng giảm dần từ xích đạo đến các cực, từ mặt nước đến đáy sâu. Ánh sáng
nhìn thấy trực tiếp tham gia vào quá trình quang hợp, quyết định đến thành phần cấu trúc
của hệ sắc tố và sự phân bố của các loài thực vật. Phổ hấp thụ ánh sáng của chất diệp lục
(chlorophyl) hấp thụ mạnh trong miền xanh (bước sóng khoảng 430nm) và trong miền đỏ
(bước sóng khoảng 660nm). Vì ánh sáng màu lục ở giữa miền ánh sáng nhìn thấy (hay
ánh sáng khả kiến) không được diệp lục hấp thụ hiệu quả nên hầu hết các tia ánh sáng lục
được phản chiếu vào mắt ta và tạo cho cây có đặc trưng màu lục.
18
Tiến hóa và thích nghi với điều kiện chiếu sáng khác nhau tạo nên các loài thực vật
có nhu cầu ánh sáng khác nhau đối với đời sống, và được chia thành 3 nhóm chính:
- Nhóm cây ưa sáng (nhiều loại cỏ….) mọc nơi trống trải, có lá dày, màu xanh
nhạt. Trên tầng ưa sáng của rừng ẩm nhiệt đới cây còn phân thành 3 đến 5 tầng cây vượt
tán với những thân cây cao 40-50m hay hơn nữa.
- Nhóm cây chịu bóng tiếp nhận ánh sáng khuyếch tán, thường sống dưới tán cây
khác (phong lan, vạn niên thanh…) có lá mỏng, màu xanh đậm.
- Nhóm cây trung gian giữa 2 nhóm trên bao gồm những loài cây phát triển được
cả ở nơi nhiều ánh sáng và ở những nơi thiếu ánh sáng tạo nên tấm thảm xanh ở đáy rừng.
Ánh sáng nói chung, nhất là ánh sáng do mặt trời cung cấp, là nguồn năng lượng
quan trọng đối với đời sống của thực vật. Ánh sáng rất cần thiết đối với sự sinh trưởng và
phát triển của cây cối. Ánh sáng đầy đủ giúp cho cây quang hợp đảm bảo sự tăng trưởng
(lớn lên về khối lượng) và tạo nên những bộ phận dự trữ trong cây như rễ, củ, quả.
Cường độ ánh sáng và thời gian chiếu sáng tác động mạnh đến sự phát triển, ra hoa
kết quả, và nhu cầu thay đổi tùy loại cây, tuổi cây. Đối với những loài cây mẫn cảm với
ánh sáng thì cường độ ánh sáng có tác dụng thúc đẩy sự sinh trưởng và phát triển của cây.
Nhưng trong giai đoạn đầu, lúc cây còn nhỏ, cường độ ánh sáng cũng không đòi hỏi cao.
Tuổi cây càng cao, nhu cầu cường độ ánh sáng càng nhiều hơn.
Cây con mới nảy mầm, cành mới cắt giâm, cần được che kín, hạn chế ánh nắng
trực xạ để rễ non không bị khô nóng. Trong thời kỳ này, mầm non sử dụng chất dự trữ
trong hạt giống, trong cành giâm, vì vậy trong bóng tối, mầm non mọc nhanh hơn so với
ngoài ánh sáng. Nhưng khi chất dự trữ trong hạt giống, trong cành giâm đã giảm, mầm
non mọc chậm lại (hoặc cố vươn vống một mức độ nào đó rồi cũng khô héo). Sở dĩ như
vậy là vì trong bóng tối cây không quang hợp được. Cho nên khi giâm cây cần che mấy
ngày đầu. Sau đó, tháo mái che dần dần cho cây con làm quen với ánh sáng, cây quang
hợp, tự tạo lấy thức ăn. Mùa hè, cường độ ánh sáng mạnh hơn so với các mùa khác trong
năm; giữa trưa, cường độ ánh sáng cao hơn so với các giờ khác trong ngày. Tuy ánh sáng
rất cần thiết cho sự quang hợp, nhưng nếu cường độ ánh sáng quá mạnh thì sự quang hợp
cũng bị giảm sút, nhất là các loại cây ưa bóng râm. Đối với những loài cây không chịu
được ánh sáng giữa trưa hè, cần phải có biện pháp hạn chế bằng cách che chắn, hoặc trồng
xen cây leo cho bóng. Tùy theo sức chịu đựng của từng loại cây và tuổi cây người ta sử
dụng các loại lưới để che ánh sáng khoảng 30-50%.
Nếu nhiệt độ cao, trời nhiều mây, ánh sáng yếu, lúc này cây quang hợp yếu nhưng
hô hấp lại mạnh, nên tiêu hao nhiều chất hữu cơ. Trong trường hợp này, cần áp dụng một
số biện pháp để hạn chế tác hại, ví dụ như tưới phun để hạ thấp nhiệt độ không khí vv
2.2.3.2. Hiện tượng quang chu kỳ hay tương quan độ dài ngày đêm
Ngoài phản ứng với cường độ ánh sáng, cây hoa còn phản ứng với thời gian chiếu
sáng trong ngày hay tương quan độ dài ngày đêm và được phân thành 3 nhóm là cây ngày
ngắn, cây ngày dài, và cây trung tính.
Nhóm cây ngày ngắn
Những cây ngày ngắn phần lớn là cây miền nhiệt đới, ví dụ hoa huệ, hoa sen, thời
gian chiếu sáng hàng ngày chỉ cần từ 10-12h. Nếu thời gian chiếu sáng hàng ngày dài trên
19
13h hoa nở chậm, thời gian chiếu sáng dài hơn nữa, hoa sẽ không nở, lá phát triển rậm
rạp. Nhưng thời gian chiếu sáng hàng ngày dưới 10h, hoa cũng sẽ chậm nở, thời gian
chiếu sáng quá ngắn, hoa không nở được.
Đối với những cây hoa ngắn ngày nên trồng ở những khu vực được che bóng mát
từ khoảng 4 giờ chiều cho đến tối. Có thể giảm bớt thời gian chiếu sáng, hoặc bằng cách
che chắn tạo bóng tối trước khi mặt trời lặn kéo dài đến tối. Thông thường, nên che bóng
tối từ 16-17h trước khi mặt trời lặn. Trong trường hợp tạo thêm thời gian bóng tối, phải
thực hiện liên tục không ngắt quãng giữa ban ngày và ban đêm vì điều kiện chủ yếu là
tổng số thời gian bóng tối liên tục.
Nhóm cây ngày dài
Những cây ngày dài phần lớn là cây ở miền ôn đới, ví dụ các giống hoa mùa rét
như: cẩm chướng, mõm sói, chân chim, hướng dương,…
Đối với cây ngày dài, nếu ngày càng dài, cây trổ hoa càng sớm. Người ta đã dùng
đèn chiếu sáng bổ sung làm cây ngày dài nhanh ra hoa kết quả. Có thể chiếu sáng bằng
ánh sáng đèn điện trước khi mặt trời mọc, hoặc liền sau khi mặt trời lặn. Thông thường,
nên bố trí thêm giờ chiếu sáng trước khi mặt trời mọc. Vì lúc này, độ ẩm không khí còn
cao, tình hình phát tán hơi nước qua lá cây còn yếu, nước do rễ hút lên còn dự trữ trong
cây nhiều. Nhờ đó, điều kiện quang hợp thuận lợi hơn. Bổ sung thêm giờ chiếu sáng trước
khi mặt trời mọc còn có lợi là rút ngắn thời gian cây hô hấp, giảm tiêu hao chất dự trữ
trong cây. Không nên thêm giờ chiếu sáng vào giữa đêm vì điều chủ yếu không phải là
tổng số giờ chiếu sáng bị ngắt quãng, mà chính là tổng số giờ chiếu sáng liên tục. Điều
cần chú ý là phải làm liên tục suốt thời gian sinh trưởng và phát triển của cây, kết quả mới
rõ ràng. Biện pháp tăng thêm giờ chiếu sáng để tăng năng suất cây trồng là một biện pháp
thực tế, thông thường áp dụng cho nhóm cây dài ngày.
Rút ngắn thời gian chiếu sáng xuống dưới 13h/ngày đối với cây ngày dài thì hoa sẽ
nở chậm hoặc không nở, lá phát triển rậm rạp. Vì vậy, đối với cây hoa ngày dài, cần nhiều
ánh sáng, phải chọn nơi không cớm bóng để trồng, đảm bảo đủ ánh sáng liên tục từ 6 giờ
sáng đến18 giờ chiều
Nhóm cây trung tính
Đối với nhóm cây trung tính như tú cầu, trà, đỗ quyên thì thời gian chiếu sáng hàng
ngày ít ảnh hưởng. Cây có thể trổ hoa trong bất kỳ thời gian chiếu sáng nào, nhưng phải
đảm bảo tối thiểu từ 8-10h/ngày. Nếu đem trồng ở nơi dãi nắng suốt ngày thì hiện tượng
phản ứng đầu tiên của chúng là lá bị nổ cháy, tiếp theo là cây cằn cỗi và có thể khô héo
dần rồi chết. Do đó, nên chọn những khu vực cớm bóng để trồng những cây hoa nhóm
trung tính.
Tóm lại, ánh sáng là một nhân tố quyết định đời sống của thực vật. Tác động của
cường độ ánh sáng và thời gian chiếu sáng thay đổi tùy loại cây, tuổi cây. Người trồng hoa
cần phải nghiên cứu nắm vững những kiến thức đó để có biện pháp canh tác sử dụng ánh
sáng một cách có lợi nhất.
2.2.4. Sự phân hóa mầm hoa:
2.2.4.1. Các pha phát triển của thực vật có hoa:
20
Sự phát triển của cá thể thưc vật diễn ra theo chu kỳ được chia thành các giai đoạn
hay các pha phát triển chủ yếu dựa theo các dấu hiệu hình thái. Theo Chailakhyan chu
trình phát triển của thực vật có hoa gồm các giai đoạn như sau:
- Giai đoạn phôi thai: thời kỳ bắt đầu từ tế bào trứng đã thụ tinh đến thời điểm hạt
bắt đầu nảy mầm.
- Giai đoạn non trẻ: bắt đầu từ khi hạt nảy mầm đến lúc xuất hiện khả năng tạo các
cơ quan sinh sản.
- Trưởng thành: từ khi xuất hiện cơ quan sinh sản đến khi thụ tinh, xuất hiện phôi.
- Sinh sản: từ khi thụ tinh đến khi hình thành hạt.
- Già: từ lúc hình thành quả, hạt đến chết.
Theo học thuyết này thì sự phân hóa mầm hoa nằm là sự chuyển tiếp từ giai đoạn 2
(non trẻ) sang giai đoạn 3 (trưởng thành). Hay còn gọi là sự chuyển đoạn từ sinh trưởng
dinh dưỡng sang phát triển sinh sản.
2.2.4.1. Các kiểu phát triển của thực vật có hoa:
Dựa theo sự phát triển cá thể, có thể phân thực vật có hoa thành ba nhóm như sau:
- Thực vật một năm: Thực vật một năm trải qua chu trình phát triển từ hạt đến hạt
ít hơn một năm. Tại miền nhiệt đới với khí hậu ấm áp quanh năm, do vậy hạt và chồi có
thể nảy mầm liên tục quanh năm. Tác nhân hạn chế sự nảy mầm nảy lộc là nước (mưa
hoặc là hoạt động tưới của con người).
- Thực vật hai năm (nhị niên): Chu trình phát triển trong vòng hai năm.
- Thưc vật lâu năm (đa niên): thực vật nhóm này có thể phân thành 2 nhóm nhỏ:
+ Thực vật đa niên sinh sản một lần.
+ Thực vật đa niên sinh sản nhiều lần: Đặc trưng của nhóm này là các cơ
quan sinh dưỡng tiếp tục sinh trưởng cả trong thời gian đang ra hoa cũng như khi cành đã
mang quả. Nhóm thực vật này bao gồm các dạng sống khác nhau: thân thảo, dây leo, cây
bụi nhỏ, cây bụi, cây gỗ. Nhiều loài hoa thuộc nhóm này như hoa hồng, hoa lài, hoa mai,
trúc đào, trường sinh, tigôn,…vv.
2.2.4.3. Các tác nhân bên trong ảnh hưởng đến sự phân hóa mầm hoa:
- Tuổi cây: Theo học thuyết các pha phát triển của thực vật có hoa của
Chailakhyan trong giai đoạn trưởng thành trên cây sẽ xuất hiện các cơ quan sinh sản. Đến
độ tuổi xác định (trên thực vật thân thảo có thể xác định bằng chỉ tiêu số lá trên cây) tại
đỉnh sinh trưởng của thân, mầm lá chuyển hóa thành mầm hoa và gặp điều kiện thuận lợi
cây ra hoa, kết quả.
- Tương quan dinh dưỡng: Theo các kết quả nghiên cứu của Klebs (1905), khi hàm
lượng các hợp chất hydrat carbon trong cây cao hơn các hợp chất nitơ, nghĩa là tỷ lệ C/N
lớn thì cây chuyển từ trạng thái sinh trưởng sinh dưỡng sang trạng thái phát triển sinh sản.
Nhưng không chỉ có tương quan mà các giá trị tuyệt đối của C và của N là quan trọng. Ví
dụ thiếu nitơ sẽ ngăn cản ra hoa ở cây cà chua.(Heller R., 1995). Nhưng ngược lại nếu bón
dư thừa đạm (N) sẽ làm chậm ra hoa. Các tác nhân có lợi cho sự tích luỹ đường (hydrat
carbon) hoà tan kích thích cây ra hoa, ngược lại các tác nhân bất lợi sẽ làm chậm sự ra
hoa Theo Chailakhyan (1964) nguyên tắc của Klebs chỉ đúng với thực vật ngày dài.
21
- Tương quan hormon: các loài thực vật tự điều khiển sự ra hoa theo tuổi cây.
Trong chu trình phát triển đến độ tuổi xác định (tuỳ thuộc vào yếu tố di truyền của loài
hay giống cây) sẽ xuất hiện tương quan hormon, hình thành gradient của trạng thái trưởng
thành trong mô phân sinh đỉnh, kiểm tra sự phân hoá của tế bào theo hướng tạo mầm hoa
thay vào sự hình thành mầm lá như trong thời kỳ pha sinh dưỡng. Trạng thái trưởng thành
phụ thuộc vào tương quan các chất, trong đó có tương quan các hormon nội sinh trong
cây.
- Hormon ra hoa (florigen) trên cơ sở kết quả các nghiên cứu tách chiết hormon ra
hoa trên thưc vật ngày dài. Trong điều kiện ngày ngắn, nếu được phun gebberelin chúng
sẽ ra hoa. Theo Chailachyan điều đó chứng tỏ sự tồn tại của hormon ra hoa là florigen –
một hệ hormon hai thành phần bao gồm gibberelin và một chất chưa tách chiết được là
antezin.
Để chứng minh cho học thuyết của mình Chailachyan đã làm nhiều thử nghiệm, ví
dụ thí nghiệm đặt 1 lá trong ngày ngắn (che tối), phần cây còn lại đặt trong ngày dài. Kết
quả cây ra hoa ở những vị trí khác. Lá nhận cảm ứng, chồi là nơi phản ứng ra hoa, điều đó
khẳng định có sự vận chuyển kích thích từ lá đến chồi. Kích thích có bản chất Hormon là
do florigen. Hay thí nghiệm ghép cây ngắn ngày và cây dài ngày hay chích chất trích từ
cây ngắn ngày hay biến đổi đang hoa vào 1 cây chưa cảm ứng quang kỳ thì làm cây này ra
hoa
2.2.4.3. Các tác nhân bên ngoài ảnh hưởng đến sự phân hóa mầm hoa: Nhiều loài
thực vật đã đến độ tuổi ra hoa nhưng vẫn tiếp tục sinh trưởng sinh dưỡng. Chúng chỉ ra
hoa trong những điều kiện xác định dưới tác động của tác nhân cảm ứng tạo hoa đó là:
tương quan độ dài ngày đêm gọi là chu kỳ quang và nhiệt độ dương thấp gọi là tác nhân
xuân hóa.
- Ánh sáng: hiện tượng quang chu kỳ hay tương quan độ dài ngày đêm đã được
nghiên cứu trong phần 2.2.3.2. Thực vật theo đó được chia thành 3 nhóm theo phản ứng
chu kỳ quang là: thực vật ngày ngắn, thực vật ngày dài và thực vật trung tính. Những
nghiên cứu tiếp theo đã phát hiện thêm sự tồn tại phản ứng chu kỳ quang 2 bậc: thực vật
ngày dài- ngày ngắn đòi hỏi đầu tiên tác động của ngày dài, tiếp theo là tác động của ngày
ngắn và những thực vật ngày ngắn-ngày dài đòi hỏi đầu tiên sự tác động của ngày ngắn,
còn về sau là tác động của ngày dài.
- Xuân hóa hay tác động của nhiệt độ thấp: Một số thực vật trong quá trình phát
triển yêu cầu phải qua giai đoạn đầu ở nhiệt độ thấp thì mới phát triển bình thường mục
đích để phân hóa mầm hoa. Căn cứ vào mức độ yêu cầu nhiệt độ khác nhau chia thành 4
nhóm:
+ Thực vật “đông tính”: yêu cầu nhiệt độ từ 0
o
C đến 10
o
C trong thời gian 30-70
ngày để hoàn thành giai đoạn xuân hóa
+ Thực vật “xuân tính”: yêu cầu nhiệt độ 5-10
o
C trong 5-15 ngày, phần lớn là cây
hoa một năm
+ Thực vật “bán đông tính”: là loại hình giữa 2 loại trên
+ Thực vật không có giai đoạn xuân hoá hoặc xuân hoá không mẫn cảm với nhiệt
độ.
22
Sau khi cây sinh trưởng dinh dưỡng một thời gian nhất định, sau khi qua giai đoạn
phân hóa thì bước vào giai đoạn sinh thực. Trước khi chuyển giai đoạn, sinh trưởng dinh
dưỡng
thấp dần rồi ngưng hẳn và phân hóa mầm hoa bắt đầu. Quá trình này có thể chia
thành 3 giai đọan:
- Giai đọan biến đổi sinh lý sinh hóa với sự thay đổi ở các đỉnh sinh trưởng biểu
hiện sự tích tụ nhiều protein ở đỉnh và các tế bào phân chia mạnh.
- Giai đoạn phân hóa hình thái: búp thay đổi.
- Giai đọan hình thành tế bào đơn tính (đực, cái) trong các bông hoa hình thành các
vòi nhò túi phấn, và các bầu nhụy
2.2.4.4. Loại hình phân hóa mầm hoa: Trên cơ sở thời kỳ ra hoa trong một năm có
thể phân thành 3 loại như sau
Loại hình phân hóa Hè –Thu: Mỗi năm phân hóa một lần từ tháng 6 đến tháng 9
trong mùa hè nhiệt độ cao, cuối mùa thu các bộ phận chủ yếu của hoa được hình thành. Tế
bào đơn tính hình thành ở nhiệt độ thấp (thu-đông). Nhiều loại cây thân gỗ ở dạng này:
mẫu đơn, linh hương, mai, đào. Các loại cây có rễ là loại thân củ cũng phân hóa mầm hoa
mùa hè khi nhiệt độ tương đối cao. Nhiệt độ để phân hóa không nên quá cao (> 20
o
C)
Loại hình phân hóa Đông – Xuân:
Ví dụ: một số loài cây thân gỗ nhỏ như cam, quít thường phân hóa mầm hoa vào
tháng 2 - tháng 4. Thời gian tương đối ngắn và không liên tục. Một số loài cây 2 năm và
các loại mọc theo khóm cũng phân hóa theo mùa Đông – Xuân.
Loại hình phân hóa và ra hoa trong năm
* Một số loài cây ra hoa trong mùa thu, đỉnh ngọn và cả cành đó phân hóa ngay. Ví
duï, tường vi và các loại hoa nhóm phân hóa Hè – Thu, ra hoa vào ngay mùa thu đó như
cúc. Loại hoa này thời gian phân hóa ngắn.
* Loại hình phân hóa nhiều lần trong năm, một năm nhiều lần ra cành. Mỗi lần trên
đỉnh đầu cành đều có thể hình thành mầm hoa. Các loại hoa mọc cụm như Lan Ý. Khi
thân chính ở dưới mọc đến độ cao nhất định thì sinh trưởng dinh dưỡng ngừng lại, hình
thành mầm hoa. Hoa Vạn thọ: khi nhiệt độ cao thì ngày ngắn mới ra hoa, ngược lại khi
nhiệt độ thấp 12 – 13
o
C thì ngày dài mới ra hoa.
Đối với cây Duyên cúc hay cúc Di nha (Zinnia elegans) khi ngày ngắn thì hình
thành mầm hoa nhanh, nhưng hoa nhỏ cây phân cành nhiều. Khi ngày dài thì cây ra hoa
muộn, hoa nhiều và to, cây mọc dày rậm.
Cây đỗ quyên: Dưới điều kiện ngày ngắn, xúc tiến hình thành mầm hoa. Giữa các
giống khác nhau thì hình thành khác nhau: ngày ngắn dưới 40 – 50 ngày thì hiệu quả tốt.
Cây thược dược: ngày ngắn 10 – 12h thì mầm hoa phát triển nhanh, ra hoa sớm.
Dưới điều kiện ngày dài, cành nhánh nhiều, hoa nhiều nhưng phát triển chậm.
Cây báo xuân (Primula prinata): Dưới nhiệt độ thấp thì bất kể ngày dài hay ngắn
cũng ra hoa. Dưới nhiệt độ cao thì chỉ ngày ngắn mới ra hoa.
2.3. Đất, giá thể và chất dinh dưỡng
2.3.1. Đất trồng hoa
2.3.1.1. Phân loại đất trồng hoa: Đất là nơi sinh sống của cây trồng. Mặc dù cây
lấy một phần khá lớn thức ăn trong không khí, trong nước, nhưng đất vẫn là một nguồn
23
cung cấp dinh dưỡng dồi dào. Dựa trên kinh nghiệm đánh giá hàm lượng mùn, thành phần
cơ giới….người trồng hoa thường chia thành một số loại đất trồng hoa như sau: đất thịt,
đất sét, đất cát, đất đen, đất đỏ bazan, đất phù sa
- Đất thịt tơi xốp có khả năng giữ nước tốt, đồng thời không khí cũng dễ dàng xâm
nhập. Ngoài chế độ nước và sự lưu thông không khí được bảo đảm, thì chế độ nhiệt được
điều hòa cũng tạo điều kiện cho sự phát triển bình thường của cây. Đất thịt có tỉ lệ mùn
nhất định, nhờ vậy sự điều hòa chế độ nhiệt tốt hơn các loại đất khác, chất mùn hấp thụ
ánh sáng nhiều, phản chiếu lại ít. Ngoài ra sự phân giải chất mùn cũng là nguồn năng
lượng làm ấm đất. Nói chung, các chủng loại cây hoa phát triển rất tốt trên đất thịt, loại
đất có kết cấu tốt và giàu chất dinh dưỡng.
- Đất sét tuy giữ nước tốt, tương đối giàu chất mùn, nhưng thấm nước rất kém,
thường bị ứ đọng, không khí khó xâm nhập, lực cản kéo lớn, khó làm, khi khô cứng làm
đứt rễ cây. Biện pháp cải tạo loại đất này chủ yếu là bón phân hữu cơ như phân chuồng,
phân xanh, mùn, hoặc nếu có điều kiện thì bồi thêm đất thịt, đất cát để thay đổ thành phần
cơ giới.
- Đất cát tuy thấm nước nhanh, không khí dễ xâm nhập, nhưng là loại đất xấu,
nghèo chất dinh dưỡng. Đất cát giữ nước và giữ chất màu kém, phân bón phân giải quá
nhanh, và có thể bị thấm xuống sâu trong đất quá tầm hút của rễ. Biện pháp cải tạo loại
đất này là bón nhiều phân hữu cơ, hoặc bồi thêm đất mùn, đất thịt, đất sét để cải tạo thành
phần cơ giới.
- Đất đen hay đất than bùn: là loại đất có màu đen xám, nhẹ xốp, khi nắm trong tay
đất rã nhuyễn thành hạt nhỏ. Đất màu mỡ, thích hợp để trồng các loại kiểng chậu lâu năm,
để làm vườn ươm giâm cành một số cây hoa và để làm vườn kiểng nuôi cây giống
- Đất đỏ bazan: có nguồn gốc từ phún xuất núi lửa, màu vàng đỏ. Đất màu mỡ, khi
ướt dính vào chân. Đất giữ ẩm lâu nhưng nếu để khô, đất sẽ nứt nẻ, loại đất này thường
gặp trên vùng cao, khí hậu lạnh, thích hợp với hoa dài ngày.
- Đất phù sa: do các sông ngòi vận chuyển, bồi đắp hoặc lắng đọng lại trên đồng
ruộng sau khi nước lũ rút đi. Đất rất giàu dinh dưỡng và có màu sắc giống như đất bazan.
Khi lấy từ ruộng về, đất có lẫn rơm rạ nên rất xốp, dùng làm đất trồng hoa kiểng ngắn
ngày
2.3.1.2. Các biện pháp cải tạo đất: Đối với bất kỳ loại đất nào cũng phải nghiên
cứu các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học để tiến hành biện pháp cải tạo thích hợp.
Cải tạo thành phần cơ giới và hóa lý của đất thông qua các khâu như: cày xới làm
đất, luân canh cây trồng, bón phân. Cải tạo tính chất đất phải đạt mục đích làm thay đổi
những điều kiện không hợp lý về vật lý và hóa học của đất, biến đất xấu thành đất tốt.
Trong thực tế, loại đất tốt đầy đủ các yếu tố hóa, lý để trồng hoa rất hiếm, mà phải qua
quá trình trồng trọt cải tạo mới làm thay đổi tính chất đất theo hướng có lợi nhất.
- Kỹ thuật làm đất: Trong quá trình này, không nên đập đất quá vụn vì làm như vậy
là phá vỡ kết cấu của đất. Cày đất phơi ải, năng xới, vun gốc để không khí dễ xâm nhập
vào đất, diệt cỏ dại. Tưới nước đủ nhưng không quá nhiều để ứ đến mức bít tất cả các khe
hở giữa các hạt đất. Đối với cây hoa, vấn đề kỹ thuật đó lại càng quan trọng hơn. Cây hoa
24
thường có bộ rễ yếu, để giúp cho bộ rễ hô hấp được dễ dàng, đảm bảo cho sự phát triển
bình thường thì phải tạo điều kiện cho đất thông thoáng.
Cây hoa trồng chậu, nếu tưới nước nhiều làm cho đất ngày càng bị nén không
thoáng khí, vì vậy bộ lá có thể bị vàng úa và rụng. Các chủng loại hoa trồng bằng củ nên
chọn trồng ở các khu đất thịt có độ thông thoáng và tiêu nước tốt.
- Luân canh cây trồng là sự thay đổi cây trồng trên từng cánh đồng theo một thứ tự
chu kỳ nhất định, dựa trên cơ sở khoa học cây trồng, điều kiện trồng trọt, điều kiện phân
bón không những nhằm tăng năng suất cây trồng mà còn để cải tạo đất, đồng thời còn là
một biện pháp tích cực phòng chống sâu bệnh và cỏ dại.
Mỗi loài cây yêu cầu một số chất dinh dưỡng nhiều hơn các chất khác trong các
giai đọan sinh trưởng và phát triển của nó. Cho nên nếu trồng liên tiếp một loại cây trên
một đám đất thì có thể làm cho một vài chất dinh dưỡng bị thiếu hụt, trong khi các chất
khác còn nhiều. Vì vậy, cây trồng tiếp theo trong các vụ sau, sản lượng bị giảm sút. Luân
canh thay đổi cây trồng vụ sau khác vụ trước, tình trạng đó có thể khắc phục được. Độ sâu
của bộ rễ cây trồng khác nhau, có loại ăn sâu (họ đậu), có loại ăn cạn (họ hòa thảo), cho
nên thay đổi cây trồng tận dụng được chất dinh dưỡng ở các lớp đất khác nhau. Trong
thực tế, có cây sử dụng dễ dàng các chất dinh dưỡng khó tiêu, nếu luân canh cây có khả
năng sử dụng các loại chất dinh dưỡng khó tiêu trong vụ trước sẽ có lợi cho những cây
trồng vụ sau.
Luân canh có tác dụng phòng ngừa sâu bệnh, vì mỗi loài cây thường bị một số loài
sâu bệnh phá hại. Sau vụ thu hoạch, mầm mống sâu bệnh còn sống sót trong đất, nếu mùa
sau gặp lại loài cây đã trồng trong vụ trước (hay cùng một họ thực vật), chúng sẽ phá hại
mạnh hơn. Nếu thay đổi cây trồng thì những mầm mống sâu bệnh sẽ bị suy giảm tiêu diệt.
Đối với cây hoa, cần nghiên cứu một hệ thống luân canh hợp lý. Luân canh các
loại cây hoa trồng củ (lay ơn, thược dược, loa kèn,…) với các loại cây trồng bằng gieo hạt
(cẩm chướng, bươm bướm, mõm sói,…) hay các loại cây trồng bằng giâm ngọn (cúc, thu
hải đường, tùng diệp,…). Luân canh các loại cây có bộ rễ ăn sâu (phần lớn thuộc họ đậu)
và các loại cây có bộ rễ ăn không sâu (bươm bướm, cúc kim tiền…). Luân canh các loại
cây dễ bị sâu bệnh (lay ơn, cẩm chướng thơm…) với các loại cây chống chịu tốt (mõm
sói, phlox…).
2.3.2. Giá thể:
Giá thể là những chất liệu nhân tạo có độ nhẹ, xốp giúp cho bộ rễ cây bám vào và
phát triển, trong nhiều trường hợp giá thể còn cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng. Chất
liệu theo kinh nghiệm dân gian dùng làm giá thể gồm có trấu, rơm vụn, mạt cưa, than bùn,
than trấu (trấu un), hạt nhựa nhỏ, gạch loại xấu có độ xốp được đập nhỏ, bột xơ dừa cũ, đá
hoặc sỏi, vermiculite, perlite…. Tuỳ theo loại cây trồng và biện pháp canh tác người trồng
hoa phối trộn hỗn hợp các vật liệu này với nhau hay là trộn thêm phân chuồng hoai mục
và đất sạch (đã được ủ để diệt cỏ dại và mầm mống gây bệnh).
Hỗn hợp các chất bao gồm tro trấu, đất vườn hay đất đen, phân rác mục và phân
chuồng thật hoai có tính chất tơi xốp và nhẹ nên thường được sử dụng làm giá thể trong
gieo ươm, trồng cây trong túi nylon, chậu hay giỏ tre vì rất tiện lợi cho việc bốc xếp vận
25