Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

vai trò nhà nước trong xã hội hóa y tế ở việt nam (lấy ví dụ trên địa bàn tỉnh nghệ an)”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.22 KB, 126 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Họ và tên : Cao Thị Hà
Sinh ngày : 10/10/1966
Quê quán : Xã Diễn Liên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An
Học viên lớp : Cao học Kinh tế - Khóa 16
Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.
Xin cam đoan: Luận văn “Vai trò Nhà nước trong xã hội hóa
y tế ở Việt Nam (lấy ví dụ trên địa bàn tỉnh Nghệ An)” là do tự
bản thân tôi nghiên cứu, sưu tầm tài liệu và xây dựng.
Tôi xin cam đoan và chịu toàn bộ trách nhiệm về tính trung
thực cũng như sự hợp pháp của vấn đề nghiên cứu.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Cao Thị Hà
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
TÓM TẮT LUẬN VĂN
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN i
1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn i
Với mong nuốn vận dụng kiến thức đã được học vào thực tiễn và có những đóng góp thiết
thực cho địa phương, tôi chọn đề tài "Vai trò Nhà nước trong xã hội hóa y tế ở Việt Nam
(Lấy ví dụ trên địa bàn tỉnh Nghệ An)" ii
Về mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn về vai trò của nhà nước trong công tác XHHYT; khảo sát, đánh giá thực trạng vai trò
của nhà nước trong công tác xã hội hoá y tế trên địa bàn tỉnh Nghệ An và đề xuất phương
hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy, tăng cường vai trò QLNN trong công tác
XHHYT ii
Về cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp
phổ biến của khoa học kinh tế là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp trừu tượng hoá, kết hợp sử


dụng nhiều phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
thống kê so sánh, đồng thời sử dụng phương pháp kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có,
kết hợp với khảo sát thực tế, thu thập thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu làm
sáng tỏ cho chủ đề của luận văn ii
2. Những kết quả đạt được và phương pháp nghiên cứu: ii
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ATVSTP An toàn vệ sinh thực phẩm
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
BHYT BB Bảo hiểm y tế bắt buộc
BHYT TN Bảo hiểm y tế tự nguyện
BS Bác sỹ
CBCC Cán bộ công chức
CSSK Chăm sóc sức khoẻ
CSSKND Chăm sóc sức khoẻ nhân dân
DVYT Dịch vụ y tế
DVKT Dịch vụ kỹ thuật
DS Dược sỹ
DSĐH Dược sỹ đại học
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
ĐKKV Đa khoa khu vực
ĐD Điều dưỡng
ĐDV Điều dưỡng viên
GMP Tiêu chuẩn sản xuất thuốc tốt
GSP Tiêu chuẩn Bảo quản thuốc tốt
GLP Tiêu chuẩn Kiểm nghiệm thuốc tốt
HNĐK Hữu nghị đa khoa
HNYDTN Hành nghề y dược tư nhân
KCB Khám chữa bệnh

KCB BHYT Khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế
KT-XH Kinh tế - Xã hội
QLNN Quản lý Nhà nước
UBND Uỷ ban nhân dân
WHO Tổ chức Y tế Thế giới
XHH Xã hội hoá
XHH YT Xã hội hoá y tế
XHH BHYT Xã hội hoá Bảo hiểm y tế
YTTN Y tế tư nhân
YHCT Y học cổ truyền
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN i
1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn i
Với mong nuốn vận dụng kiến thức đã được học vào thực tiễn và có những đóng góp thiết
thực cho địa phương, tôi chọn đề tài "Vai trò Nhà nước trong xã hội hóa y tế ở Việt Nam
(Lấy ví dụ trên địa bàn tỉnh Nghệ An)" ii
Về mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn về vai trò của nhà nước trong công tác XHHYT; khảo sát, đánh giá thực trạng vai trò
của nhà nước trong công tác xã hội hoá y tế trên địa bàn tỉnh Nghệ An và đề xuất phương
hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy, tăng cường vai trò QLNN trong công tác
XHHYT ii
Về cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp
phổ biến của khoa học kinh tế là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp trừu tượng hoá, kết hợp sử
dụng nhiều phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
thống kê so sánh, đồng thời sử dụng phương pháp kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có,
kết hợp với khảo sát thực tế, thu thập thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu làm
sáng tỏ cho chủ đề của luận văn ii
2. Những kết quả đạt được và phương pháp nghiên cứu: ii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN

1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá sự nghiệp
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, trong nhiều năm qua nước ta nói
chung và tại tỉnh Nghệ An nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
thể hiện bằng việc huy động các nguồn lực cho y tế; đa dạng hoá các loại hình
dịch vụ CSSK; phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương, các
ngành, các đoàn thể xã hội và toàn dân tham gia vào nhiệm vụ chăm lo sức
khoẻ. Mạng lưới y tế ngày càng được củng cố và phát triển, nhiều dịch bệnh
được khống chế và đẩy lùi, các dịch vụ y tế ngày một đa dạng, nhiều công
nghệ mới được nghiên cứu và ứng dụng, việc cung ứng thuốc và trang thiết bị
đã được tăng cường quản lý. Nhân dân ở hầu hết các vùng, miền đã được
chăm sóc sức khoẻ tốt hơn trước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác chăm sóc
và bảo vệ sức khoẻ nhân dân vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và yếu kém: hệ
thống y tế chậm đổi mới chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và sự thay đổi của cơ cấu bệnh tật, chất lượng dịch vụ y tế
chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân dân; điều kiện
chăm sóc y tế cho người nghèo, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn
nhiều khó khăn; năng lực sản xuất và cung ứng thuốc còn yếu; vệ sinh môi
trường, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát đúng mức,…
Nguyên nhân chính của những yếu kém trên là do QLNN về lĩnh vực y
tế còn nhiều bất cập, việc quản lý KCB và hành nghề y dược tư nhân chưa
chặt chẽ; việc phân bổ và sử dụng nguồn lực trong y tế còn chưa hợp lý, kém
hiệu quả. Cán bộ lãnh đạo quản lý ngành y tế chưa năng động sáng tạo, chưa
có giải pháp hữu hiệu để huy động các nguồn lực từ cộng đồng và xã hội cho
công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân,
i
Với mong nuốn vận dụng kiến thức đã được học vào thực tiễn và có
những đóng góp thiết thực cho địa phương, tôi chọn đề tài "Vai trò Nhà nước
trong xã hội hóa y tế ở Việt Nam (Lấy ví dụ trên địa bàn tỉnh Nghệ An)".

Về mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn phân tích, làm rõ cơ sở
lý luận và thực tiễn về vai trò của nhà nước trong công tác XHHYT; khảo sát,
đánh giá thực trạng vai trò của nhà nước trong công tác xã hội hoá y tế trên
địa bàn tỉnh Nghệ An và đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm
phát huy, tăng cường vai trò QLNN trong công tác XHHYT.
Về cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử
dụng phương pháp phổ biến của khoa học kinh tế là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, phương pháp trừu tượng hoá, kết hợp sử dụng nhiều phương pháp cụ
thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh,
đồng thời sử dụng phương pháp kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có, kết
hợp với khảo sát thực tế, thu thập thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên
cứu làm sáng tỏ cho chủ đề của luận văn.
2. Những kết quả đạt được và phương pháp nghiên cứu:
Thứ nhất, luận văn đã nghiên cứu và trình bày cơ sở lý luận vai trò
Nhà nước trong XHHYT ở Việt Nam.
Vấn đề này bắt nguồn từ tình hình đặc điểm của hoạt động XHHYT là
có nhiều tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia
nên rất cần đến vai trò của nhà nước với tư cách là người nhạc trưởng để thực
hiện sự điều tiết và phối hợp chung. Có sự quản lý của Nhà nước để hạn chế
khắc phục những tồn tại, những mặt trái của cơ chế thị trường trong xã hội
hóa việc cung cấp các dịch vụ y tế và tạo được hành lang pháp lý cho các dịch
vụ y tế phát triển thích ứng và phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế.
ii
Từ những cơ sở lý luận chung, luận văn trình bày vai trò Nhà nước
trong xã hội hóa y tế với một số nội dung cơ bản là:
Trước hết, Nhà nước phải xây dựng được chiến lược quốc gia về xã hội
hóa y tế, gắn với đó là xây dựng quy hoạch phát triển mạng lưới y tế quốc gia.
Với mục tiêu phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ ban đầu, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có

chất lượng; mọi người đều được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt
về thể chất và tinh thần; giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ
và phát triển giống nòi. Nhất thiết nhà nước phải xây dựng được chiến lược
quốc gia về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, thực chất là chiến lược xã hội hóa y
tế của đất nước. Trong bối cảnh hội nhập, gia nhập WTO, phải thực hiện
những cam kết với WTO trong lĩnh vực dịch vụ (bao gồm cả dịch vụ y tế) thì
việc xây dựng chiến lược XHHYT càng trở nên cấp bách. Đi đôi với việc xây
dựng chiến lược, việc quy hoạch và xây dựng mạng lưới y tế trên phạm vi cả
nước cũng vô cùng quan trọng. Mạng lưới y tế cần bố trí và phát triển một
cách hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, kết hợp phát triển y tế
cộng đồng với phát triển y tế chuyên sâu, thực hiện đông - tây y kết hợp, gắn
phòng bệnh với chữa bệnh, phục hồi chức năng và rèn luyện thể lực nhằm
phục vụ tốt nhất việc CSSK cho nhân dân, giảm tỉ lệ mắc bệnh, nâng cao thể
lực, tăng tuổi thọ người dân.
Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức
và cá nhân của cộng đồng tham gia cung ứng dịch vụ y tế; liên kết hoạt động
của các tổ chức và cá nhân nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng CS&BVSK
cho nhân dân.
Nhà nước cần xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các thành
phần kinh tế: nhà nước, tư nhân và các tổ chức xã hội trong và ngoài nước gia
cung ứng DVYT. Cơ chế, chính sách ấy bao gồm: vạch rõ những mảng dịch
iii
vụ y tế cần khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài nhà
nước, chính sách hỗ trợ tài chính, chính sách thuế, các điều kiện vật chất, các
chính sách đào tạo, kiểm tra và kiểm soát, Nhà nước cần tạo ra một môi
trường pháp lý chung cho tất cả các đơn vị cung ứng dịch vụ y tế, đảm bảo
một sân chơi bình đẳng cho tất cả các nhà cung ứng dịch vụ y tế.
Đồng thời Nhà nước phải quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các
tổ chức và cá nhân cung ứng DVYT vì Nhà nước là người chịu trách nhiệm
cuối cùng trước xã hội về số lượng cũng như chất lượng DVYT kể cả các dịch

vụ y tế được thực hiện bởi các công ty tư nhân hay các tổ chức KT-XH, nên
Nhà nước phải cân nhắc, tính toán và giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa
lợi ích của Nhà nước, của xã hội với lợi ích của tổ chức và cá nhân tham gia
cung ứng dịch vụ y tế. Do vậy Nhà nước phải thực hiện quản lý, kiểm tra,
giám sát hoạt động của các tổ chức và cá nhân cung ứng DVYT.
Nhà nước vừa với tư cách là một cơ quan quản lý, lại vừa với tư cách
là một chủ thể giữ vai trò nòng cốt trong việc cung ứng DVYT. Nhà nước
chịu trách nhiệm trực tiếp cung ứng DVYT trong các trường hợp mà chỉ có cơ
sở nhà nước với sự tập trung đội ngũ chuyên môn và trang thiết bị hiện đại,
đắt tiền mới có đủ trình độ chuyên môn để làm. Nhà nước với vai trò chủ đạo
của mình, cũng trực tiếp cung ứng các DVYT thuộc các lĩnh vực và địa bàn
không thuận lợi cung ứng (ví dụ vùng sâu, vùng xa) mà thị trường không thể
hoặc không muốn tham gia do chi phí quá lớn hay không có lợi nhuận. Các
đơn vị sự nghiệp do nhà nước thành lập để cung ứng như các bệnh viện và
trung tâm y tế…hoạt động theo cơ chế của đơn vị sự nghiệp công tự chủ tài
chính nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận. Ban đầu, nhà nước đầu tư cho các
đơn vị đó, sau đó họ sẽ tự trang trải và khi cần thiết có thể nhận được sự hỗ
trợ bù đắp của nhà nước.
iv
Thứ hai, luận văn khảo sát thực trạng về vai trò nhà nước trong
XHHYT trên địa bàn tỉnh Nghệ An, là một tỉnh đất rộng người đông (diện
tích đứng thứ nhất, chiếm 5% diện tích tự nhiên cả nước; dân số trên 3 triệu
người, đứng thứ 4, chiếm 3,5% dân số cả nước) và là trung tâm KT-XH của
vùng Bắc Trung bộ.
Với một tỉnh nghèo, dân số đông, địa hình phức tạp như tỉnh Nghệ An
để làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
Trong khi hệ thống khám chữa bệnh phần lớn bị xuống cấp về cơ sở vật chất,
trang thiết bị, đội ngũ cán bộ y tế nhiều nơi chưa đạt chuẩn (thiếu về số lượng
và yếu về chất lượng), một số dịch bệnh, bệnh xã hội vẫn tiềm ẩn Nhưng
công tác XHHYT trên địa bàn Nghệ An được Tỉnh ủy, UBND tỉnh, ngành Y

tế và các ngành chức năng đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện nên có nhiều
bước phát triển mạnh.
Vai trò Nhà nước trong XHHYT ở tỉnh Nghệ An được thể hiện cụ thể
bằng việc chỉ đạo triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về XHHYT. Tỉnh ủy Nghệ An đã ban hành Nghị quyết về nâng cao
chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân tỉnh Nghệ An
đến năm 2010 và những năm tiếp theo; UBND tỉnh Nghệ An đã ra quyết định
ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Ban thường vụ
Tỉnh ủy; đã phê duyệt và triển khai nhiều đề án để củng cố ngành y tế và nâng
cao một bước chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân như các đề án:
Tăng cường nguồn nhân lực ngành y tế; Tăng cường đưa bác sỹ về xã; Nâng
cao y đức tại các cơ sở khám chữa bệnh; Phát triển y- dược học cổ truyền tỉnh
Nghệ An giai đoạn 2009 - 2015; xây dựng quy hoạch mạng lưới khám, chữa
bệnh tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011 - 2020, đưa ra các chương trình hành
động với những mục tiêu cụ thể và phân công trách nhiệm cho các ban ngành
chức năng liên quan để phối hợp triển khai thực hiện.
v
UBND tỉnh Nghệ An đã chủ trương bố trí, ưu tiên đầu tư ở mức cao
nhất cho lĩnh vực y tế trong khả năng ngân sách của tỉnh. Trên cơ sở chính
sách viện phí của Chính phủ, điều chỉnh một số khoản thu một phần viện phí,
điều chỉnh khung giá các dịch vụ kỹ thuật phù hợp với tỷ lệ trượt giá và tình
hình KT-XH của địa phương. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn
thực hiện Luật BHYT và các văn bản quy phạm pháp luật về BHYT.
Đồng thời thực hiện đa dạng hoá các loại hình khám chữa bệnh, tạo
điều kiện cho hệ thống y tế ngoài công lập phát triển nhằm huy động được
một lực lượng cán bộ y tế đáng kể có trình độ, kinh nghiệm tâm huyết tham
gia cung ứng dịch vụ y tế; huy động hàng ngàn tỷ đồng kinh phí xây dựng cơ
sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật cao phục vụ nhân dân.
Sự tham gia của y tế tư nhân vào lĩnh vực y tế tạo cơ chế cạnh tranh
lành mạnh, giúp cho nhân dân có thể lựa chọn cơ sở và dịch vụ khám chữa

bệnh, qua đó thúc đẩy để các bệnh viện công lập phải có chuyển biến mạnh
mẽ hơn nữa cả về chất lượng, tinh thần thái độ phục vụ, thiết bị kỹ thuật để
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người bệnh và phát huy vai trò chủ đạo
của y tế nhà nước.
Tuy nhiên luận văn cũng chỉ ra những tồn tại hạn chế về vai trò Nhà
nước trong xã hội hoá y tế trong thời gian qua. Đó là NSNN đầu tư cho y tế
vẫn còn thấp và chưa được phân bổ hợp lý; Đội ngũ cán bộ chưa đồng bộ về
cơ cấu và chất lượng chưa cao; Nhân lực ở nhiều cơ sở y tế còn thiếu về số
lượng và yếu về chất lượng; Tinh thần và thái độ phục vụ của một bộ phận
cán bộ y tế còn yếu; Diện bao phủ của BHYT còn thấp, người tham gia
BHYT TN chưa nhiều; Các cơ quan chức năng của tỉnh chưa kiểm tra, kiểm
soát được tốt hoạt động hành nghề y- dược tư nhân; Sự phối kết hợp giữa các
ngành, các cấp trong việc triển khai thực hiện XHH y tế chưa đồng bộ, hiệu
quả chưa cao; Công tác quản lý XHHYT còn nhiều bất cập cả trong định
vi
hướng, quy hoạch và chỉ đạo thực hiện; Các cơ sở y tế công lập chưa mạnh
dạn thực hiện cơ chế tự chủ, vẫn còn nặng về cơ chế bao cấp, trông chờ vào
NSNN; Các cơ sở y tế tư nhân còn nhỏ bé, hoạt động còn mang nặng tính
thương mại
Thứ ba, căn cứ Chiến lược quốc gia về y tế và chăm sóc, bảo vệ sức
khoẻ và quan điểm của Nhà nước về xã hội hóa y tế ở Việt Nam, Chiến lược
phát triển KT-XH tỉnh Nghệ An đến năm 2020 và dự báo nhu cầu về các
DVYT ở tỉnh Nghệ An đến năm 2020, qua nghiên cứu thực trạng về XHHYT
của tỉnh Nghệ An và kinh nghiệm của một số tỉnh bạn, luận văn xác định
phương phát huy vai trò Nhà nước trong XHHYT và đề xuất một số giải pháp
chủ yếu nhằm phát huy vai trò Nhà nước trong XHHYT trên địa bàn Nghệ An
như sau:
Một là, hoàn thiện và đồng bộ hoá hệ thống văn bản pháp quy và chính
sách đối với hoạt động y tế cho phù hợp, tạo điều kiện cho các dịch vụ y tế
phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ;

Hai là, hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch tăng cường XHHYT;
Ba là, Duy trì bộ máy triển khai xã hội hoá y tế từ tỉnh đến huyện, xã;
Bốn là, tăng cường sự kết hợp y tế công lập và y tế tư nhân trên địa
bàn, tạo điều kiện để y tế công lập và y tế tư nhân vừa cạnh tranh đồng thời
vừa hỗ trợ nhau để cùng phát triển.
Năm là, xã hội hóa dịch vụ bảo hiểm y tế, đẩy mạnh tăng cường diện
bao phủ BHYT, tiến tới thực hiện BHYT toàn dân vào năm 2014 theo đúng lộ
trình đã định.
Sáu là, giải quyết các quan hệ về tài chính trong việc cung ứng các dịch
vụ y tế;
Bảy là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động dịch
vụ y tế trên địa bàn và một số giải pháp trong lĩnh vực truyền thông.
vii
3. Những điểm mới và hạn chế của luận văn:
Điểm mới của Luận văn là lần đầu tiên đề cập trực diện đến vai trò Nhà
nước trong xã hội hoá y tế, đã rút ra những thành tựu và tồn tại, đã khái quát
hoá một số vấn đề lý luận và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò
Nhà nước trong xã hội hoá y tế, nhất là trên địa bàn Nghệ An.
Tuy nhiên, do điều kiện công tác, tác giả không thể tìm hiểu hết được
tình hình thực tế ở tất cả các tỉnh, các vùng miền khác nhau trên phạm vi cả
nước. Nên việc khảo sát, phân tích, đánh giá, tổng hợp mới chỉ nêu lên được
những nét chung nhất mà chưa thật sâu sắc và đầy đủ, do vậy luận văn vẫn
còn nhiều thiếu sót, phiến diện.
Xã hội hoá y tế là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, bước đầu
đã đi vào cuộc sống, người dân đã có được những cơ hội để lựa chọn cơ sở
khám chữa bệnh phù hợp với từng loại bệnh và khả năng kinh tế của mình.
Tuy nhiên công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động XHHYT chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Nhà nước cần phải tăng cường sự quản lý,
giám sát, thường xuyên thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện, uốn nắn
những sai phạm trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá y tế

một cách đồng bộ từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã. Tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động xã hội hoá y tế phát triển đúng hướng và có những đóng góp
thiết thực trong đời sống nhân dân./.
viii
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Xã hội hoá công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân là một quan
điểm, một chủ trương lớn, cơ bản, lâu dài của Đảng và Nhà nước ta, có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp, huy động
mọi nguồn lực (nhân lực, tài lực, trí tuệ) để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong thời kỳ mới, thời
kỳ đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đưa nước ta từng bước tiến kịp các nước phát triển
trong khu vực và các nước tiên tiến trên thế giới.
Thực hiện chủ trương XHH sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
nhân dân, trong nhiều năm qua nước ta nói chung và tại tỉnh Nghệ An nói
riêng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thể hiện bằng việc huy động
các nguồn lực cho y tế; đa dạng hoá các loại hình dịch vụ CSSK; phát huy
tính chủ động, sáng tạo của các địa phương, các ngành, các đoàn thể xã hội và
toàn dân tham gia vào nhiệm vụ chăm lo sức khoẻ. Mạng lưới y tế ngày càng
được củng cố và phát triển, nhiều dịch bệnh được khống chế và đẩy lùi, các
dịch vụ y tế ngày một đa dạng, nhiều công nghệ mới được nghiên cứu và ứng
dụng, việc cung ứng thuốc và trang thiết bị đã được tăng cường quản lý. Nhân
dân ở hầu hết các vùng, miền đã được CSSK tốt hơn trước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được công tác chăm sóc và
bảo vệ sức khoẻ nhân dân vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và yếu kém. Hệ thống
y tế chậm đổi mới chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và sự thay đổi của cơ cấu bệnh tật, chất lượng dịch vụ y tế chưa
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân dân; điều kiện chăm sóc
y tế cho người nghèo, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó

khăn; năng lực sản xuất và cung ứng thuốc còn yếu; vệ sinh môi trường, an
1
toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ, Nguyên nhân chính của
những yếu kém trên là do quản lý nhà nước về lĩnh vực y tế còn nhiều bất
cập, việc quản lý khám chữa bệnh và hành nghề y dược tư nhân chưa chặt
chẽ; việc phân bổ và sử dụng nguồn lực trong y tế còn chưa hợp lý, kém hiệu
quả. Cán bộ lãnh đạo quản lý ngành y tế chưa năng động sáng tạo, chưa có
giải pháp hữu hiệu để huy động các nguồn lực từ cộng đồng và xã hội cho
công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Đội ngũ cán bộ y tế còn yếu
và thiếu, cơ cấu chưa hợp lý, chế độ đãi ngộ chưa thoả đáng. Vai trò của các
cấp ủy Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đến công tác bảo vệ và nâng cao sức
khoẻ nhân dân nhiều nơi còn trông chờ vào bao cấp nhà nước,
Ngành y tế cần có nhiều chuyển đổi trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa để đáp ứng yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ nhân dân. Từ cơ chế quản lý y tế mang nặng dấu ấn của thời bao cấp
đang được chuyển sang cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích, có đủ quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế
và tài chính. Đẩy mạnh chủ trương XHH nhằm huy động mọi nguồn lực để
đầu tư cho y tế và quản lý tốt các nguồn lực đó để tạo điều kiện cho ngành y
tế phát triển nhanh hơn và chất lượng cao hơn theo định hướng công bằng,
hiệu quả.
Là một cán bộ công tác trong ngành, với mong nuốn vận dụng kiến
thức đã được học vào thực tiễn và có những đóng góp thiết thực cho địa
phương, tôi chọn đề tài "Vai trò Nhà nước trong xã hội hóa y tế ở Việt Nam
(Lấy ví dụ trên địa bàn tỉnh Nghệ An)" để viết luận văn thạc sỹ.
II. Tổng quan về tình hình nghiên cứu:
Trên phạm vi cả nước, đã có một số công trình nghiên cứu , bài báo bàn
luận về chủ trương XHH, song hiện vẫn còn rất ít tài liệu đề cập đến vai trò
của QLNN trong lĩnh vực này về các khía cạnh khác nhau có liên quan đến
QLNN trong công tác XHH nói chung và XHHYT nói riêng.

2
Đặc biệt trên phạm vi địa phương, chưa có một công trình nào bàn luận
một cách có hệ thống, bài bản và đi trực diện vào đề tài "Vai trò Nhà nước
trong xã hội hóa y tế ở Việt Nam (Lấy ví dụ trên địa bàn tỉnh Nghệ An)" .
III. Mục đích, nhiệm vụ khoa học của việc nghiên cứu đề tài luận văn:
1. Mục đích của luận văn:
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của QLNN trong
công tác XHHYT nói chung và qua đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của tỉnh
Nghệ An thông qua khảo sát, đánh giá về thực trạng và đưa ra những đề xuất,
kiến nghị nhằm phát huy vai trò của các cơ quan QLNN các cấp để phát triển
lành mạnh, đúng hướng công tác XHHYT trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
2. Nhiệm vụ khoa học của đề tài luận văn:
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nhà nước
trong công tác xã hội hoá y tế.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng vai trò của nhà nước trong công tác xã
hội hoá y tế trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy, tăng
cường vai trò QLNN trong công tác XHHYT trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
IV. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
1. Về lý luận: Luận văn luận giải những vấn đề lý luận chung về vai trò
của nhà nước trong xã hội hoá y tế.
2. Về thực tiễn: Luận văn lấy địa bàn Nghệ An làm thực tiễn để klhảo
sát về thực trạng và đưa ra những đề xuất, kiến nghị.
3. Về thời gian: Luận văn đề cập tới vai trò của quản lý nhà nước trong
công tác xã hội hoá y tế trong trạng thái vận động kể từ khi có chủ trương của
Đảng và Nhà nước về thực hiện xã hội hoá y tế đến nay.
V. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp phổ biến của khoa học kinh tế là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin
3

và tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp trừu tượng hoá, kết hợp sử dụng
nhiều phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp thống kê so sánh, đồng thời sử dụng phương pháp kế thừa những kết quả
nghiên cứu đã có, kết hợp với khảo sát thực tế, thu thập thông tin, tài liệu
phục vụ cho việc nghiên cứu làm sáng tỏ cho chủ đề của luận văn.
VI. Những đóng góp của luận văn:
- Làm rõ thực trạng xã hội hoá y tế. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận
về vai trò của nhà nước trong công tác xã hội hoá y tế.
- Đánh giá thực trạng vai trò của quản lý nhà nước trong công tác xã
hội hoá y tế trên cả 2 mặt: Thành tựu, tồn tại và nguyên nhân của những thành
tựu, tồn tại đó.
- Đề xuất nhứng kiến nghị về phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm
phát huy vai trò quản lý của nhà nước trong công tác xã hội hoá y tế trên địa
bàn tỉnh Nghệ An.
VII. Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò nhà nước trong xã hội
hoá y tế ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng vai trò nhà nước trong xã hội hoá y tế trên địa
bàn Nghệ An.
Chương 3: Định hướng tăng cường vai trò nhà nước trong xã hội hoá y
tế ở Việt Nam nói chung và giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy vai trò nhà nước trong xã hội hoá y tế trên địa bàn tỉnh
Nghệ An.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ
NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI HOÁ Y TẾ Ở VIỆT NAM
1.1 Những vấn đề cơ bản về xã hội hoá y tế
1.1.1 Quan niệm về xã hội hoá và xã hội hoá y tế.

Ở Việt Nam những năm qua, có một thực tế là thuật ngữ “xã hội hoá”
được đề cập trong nhiều văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước cũng như
trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng cho đến nay chưa có một
khái niệm (định nghĩa) thống nhất về “xã hội hoá”, chính xác hơn là chưa có
sự giải nghĩa đầy đủ về nội hàm của thuật ngữ này. Chính điều này đã gây ra
những khó khăn không nhỏ trong việc quán triệt và thực hiện ở một số lĩnh
vực nằm trong chủ trương xã hội hóa mà nhà nước đề ra, trong đó có lĩnh vực
y tế. Cách hiểu thông thường nhất là dùng nghĩa của từ “xã hội” cộng với
nghĩa của từ “hoá”, như các cách giải thích sau đây: (1) hoạt động sản xuất-
kinh doanh là hoạt động không thể tự một người hay một gia đình làm được,
mà là một hoạt động có tổ chức và có tính tập thể cao; (2) hoạt động do nhà
nước quyết định, điều động và kiểm soát- huy động mọi người làm chung; (3)
hoạt động chung có tính tự nguyện: như là tập thể người bỏ vốn vào công ty,
quyền tuỳ thuộc số tiền bỏ vốn ra; hay là các hợp tác xã mà người lao động
làm chung, quyết định chung mỗi người một phiếu giống nhau; hay (4) xã hội
hoá là mỗi người tự đóng góp, tự lo, nhà nước có xu hướng giảm đi trách
nhiệm của mình Nhìn chung, nhiều cách hiểu về “xã hội hoá” còn ít nhiều
phiến diện, chưa làm rõ được bản chất của “xã hội hoá”.
Đi tìm trong các từ điển tiếng Việt, không tìm thấy cuốn từ điển nào giải
nghĩa đầy đủ cho thuật ngữ “xã hội hoá” trên tư cách là một thuật ngữ độc
lập. Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm thấy những sự giải nghĩa thuật ngữ “xã hội
5
hoá” khi nó được ghép với các thuật ngữ khác như: “xã hội hoá sản xuất”; “xã
hội hoá hình thức”; “xã hội hoá thực tế” Qua nghiên cứu các thuật ngữ trên
có thể suy ra một cách khái quát rằng: “Xã hội hoá” một hoạt động nào đó
chính là sự gia tăng tính chất “xã hội” của hoạt động ấy thông qua sự tham
gia của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội dựa trên những điều kiện và
trong khuôn khổ cơ chế nhất định. Điều kiện và cơ chế cụ thể như thế nào là
phụ thuộc vào bối cảnh của xã hội hoá. Những điều kiện và cơ chế đóng vai
trò then chốt đối với sự thành công của xã hội hoá. Chúng quy định hình thức,

phương thức “tham gia” của các chủ thể khác nhau trong xã hội vào hoạt
động được xã hội hoá. Như vậy, điều kiện và cơ chế gắn với bối cảnh xã hội
hoá sẽ quyết định ý nghĩa của “xã hội hoá” trong bối cảnh ấy.
Hiện nay, trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá của
Đảng và Nhà nước vào thực tiễn; một hiện tượng nổi cộm cần phải khắc phục
đó là do chưa tìm hiểu kỹ nội dung về vấn đề này nên có một số địa phương,
một số người còn có cách nhìn rất lệch lạc cho rằng xã hội hoá đơn thuần chỉ
là quá trình quyên góp tiền bạc của nhân dân hoặc bắt dân phải đóng góp theo
cách hiểu " Nhà nước và nhân dân cùng làm".
Không ít cán bộ lãnh đạo vẫn quan niệm rằng, xã hội hoá là huy động
tiền của trong nhân dân, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Một số
khác lại hiểu xã hội hoá là chuyển gánh nặng từ vai Nhà nước sang vai nhân
dân, chuyển cho cộng đồng tự lo liệu, dẫn đến sự buông lỏng quản lý, thiếu
đầu tư vào các lĩnh vực hoạt động xã hội
Mặt khác trong quá trình thực hiện chủ trương xã hội hoá; một số cán
bộ lại nhấn mạnh quá mức việc đa dạng hoá, đồng nhất khái niệm xã hội với
đa dạng hoá trong khi công tác quản lý còn yếu kém, không theo kịp dẫn đến
tình trạnh "trăm hoa đua nở", đa dạng hoá một cách tuỳ tiện không kiểm soát
được. Không ít cán bộ còn chưa nhận thấy được tầm quan trọng của sự phối
6
hợp liên ngành trong xã hội hoá dẫn đến tình trạng một số ngành còn hoạt
động theo xu hướng khép kín biệt lập; nhất là trong việc triển khai các
chương trình, dự án dẫn đến việc làm chồng chéo, lãng phí về nguồn lực.
Thực hiện xã hội hoá y tế, tức xã hội hóa việc chăm sóc sức khoẻ nhân
dân sẽ làm chuyển biến về cơ bản cách tiếp cận đối với việc phát triển sức
khoẻ toàn dân, trong đó người dân giữ vai trò chủ động, tự giác và tích cực, tự
quyết đinh lấy việc chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khoẻ bản thân, cộng đồng
nơi họ đang sinh sống. Bởi vậy mà tính chất bền vững của những hoạt động
này sẽ đảm bảo hơn. Họ không còn trông chờ ỷ lại vào nhà nước cấp trên,
cũng không còn thực hiện một cách thụ động những quyết định từ trên áp đặt

xuống nhiều khi không sát thực với nhu cầu sức khoẻ trong thực tiễn.
Nhìn chung xã hội hoá y tế, hay xã hội hoá chăm sóc sức khoẻ nhân dân
là một sự chuyển đổi từ cách tiếp cận cũ sang cách tiếp cận mới làm cho sự
nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân thực sự là một sự
nghiệp của dân, do dân, vì dân.
Tuy nhiên, khái niệm xã hội hoá y tế cần phải được hiểu một cách
thống nhất. Trên mỗi cương vị khác nhau, lại có có cách tiếp cận riêng về
khái niệm xã hội hóa y tế.
Về phương diện quản lý nhà nước, thì theo Viện Chiến lược và Chính
sách y tế - Bộ y tế, xã hội hóa y tế được hiểu là quá trình huy động sự tham gia
tự nguyện, có kế hoạch của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, các ban ngành
đoàn thể, cá nhân, cộng đồng vào hoạt động chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Tuy nhiên, xét trên góc độ khoa học Kinh tế chính trị xã hội hóa y tế
thực chất là xã hội hóa việc cung ứng dịch vụ y tế, một loại dịch vụ công.
Trước đây ở Việt Nam, dịch vụ này chủ yếu do nhà nước cung ứng, nay cùng
với xu hướng khách quan của xã hóa sản xuất, dịch vụ y tế cũng cần được
được xã hội hóa để thu hút sự tham gia của nhiều tổ chức, nhiều cá nhân
7
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau vào việc cung ứng dịch vụ này để
cùng với nhà nước thực hiện chương trình chăm sóc và bảo vệ sức khẻ cho
nhân dân.
Vì vậy, từ góc độ khoa học Kinh tế chính trị, có thể hiểu: xã hội hoá y
tế là quá trình liên kết các dịch vụ y tế của nhiều chủ thể, thuộc nhiều thành
phần khác nhau thành một chương trình có tính xã hội đáp ứng nhu cầu chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe đối với mọi tầng lớp dân cư.
Mục tiêu của xã hội hoá y tế là tăng cường huy động nguồn lực cho y
tế, tạo cơ chế cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y tế, bảo đảm tính hiệu quả,
tính công bằng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Trong
quá trình này Bộ y tế giữ vai trò nòng cốt, có trách nhiệm động viên, tuyên
truyền và quản lý việc cung ứng dịch vụ y tế của các tổ chức và cá nhân để

cho xã hội hóa y tế thực sự là một quá trình của xã hội và cũng vì sự phát
triển của xã hội.
1.1.2 Nội dung của xã hội hoá y tế.
Nội dung xã hội hóa công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người là
động viên và tổ chức tốt sự tham gia tích cực chủ động của mọi người với tư
cách cộng đồng và tư cách cá nhân trên cả hai mặt hoạt động và đóng góp; tăng
cường sự phối hợp liên ngành và củng cố vai trò nòng cốt của Ngành Y tế.
- Phát triển mạng lưới y tế với nhiều cấp độ, nhiều hình thức từ trung
ương đến từng địa bàn ở các địa phương:
Thực hiện đa dạng hóa các hình thức cung cấp dịch vụ chăm sóc sức
khỏe (Nhà nước, tập thể, dân lập, tư nhân ) trong đó y tế Nhà nước có vai
trò chủ đạo, cho phép nhiều lực lượng có hiểu biết và kinh nghiệm nghề
nghiệp tham gia các dịch vụ chăm sóc sức khỏe dưới sự quản lý của Nhà
nước nhằm cung ứng dịch vụ ngày càng thuận tiện cho người dân và giảm bớt
sức ép về ngân sách cho Nhà nước. Khuyến khích các tổ chức, các cá nhân
8
trong và ngoài nước thành lập các phòng khám, chữa bệnh nhân đạo. Mở rộng
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà, các nhà thuốc tư nhân, các quầy thuốc,
tủ thuốc tại trạm y tế xã phục vụ sức khỏe cộng đồng.
Ða dạng hóa các loại hình CSSK: Cho phép thành lập các bệnh viện bán
công, bệnh viện tư, bệnh viện liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, các xí
nghiệp dược phẩm tư nhân hoặc cổ phần. Thực hiện tốt công tác quản lý Nhà
nước đối với các nhà thuốc tư nhân, các phòng khám bệnh và chẩn trị tư nhân,
kể cả các cơ sở chữa trị bằng y học cổ truyền.
Nâng cao chất lượng mạng lưới y tế cơ sở, trước hết là đào tạo đủ y tá tại
thôn bản, nữ hộ sinh và dược tá tại xã; có chính sách động viên bác sĩ, y sĩ,
dược sĩ về công tác tại các cơ sở y tế xã.
- Huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế trong việc cung ứng
dịch vụ y tế:
Xã hội hóa y tế để mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về

nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động y tế phát triển nhanh
hơn, có chất lượng cao hơn, là chính sách lâu dài, là phương châm thực hiện
chính sách xã hội của Ðảng và Nhà nước, không phải là biện pháp tạm thời,
chỉ có ý nghĩa tình thế trước mắt do Nhà nước thiếu kinh phí cho các hoạt
động này. Khi nhân dân ta có mức thu nhập cao, ngân sách Nhà nước đã dồi
dào vẫn phải thực hiện xã hội hóa, bởi vì giáo dục, y tế, văn hóa là sự nghiệp
lâu dài của nhân dân, sẽ phát triển không ngừng với nguồn lực to lớn của
toàn dân.
Xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước, giảm
bớt phần ngân sách của Nhà nước, trái lại Nhà nước thường xuyên tìm thêm
các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các hoạt động này, đồng thời
quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó.
9
- Phát triển các quan hệ liên kết về chuyên môn giữa các cơ sở y tế
trong khám, chữa bệnh: Ngoài việc phối hợp chặt chẽ, kịp thời, thường
xuyên giữa các cơ sở y tế các tuyến trong hệ thống công lập, còn liên kết
phối hợp tốt với hệ thống ngoài công lập để không ngừng nâng cao chất
lượng khám, chữa bệnh.
Mặc dù hành nghề y là loại hành nghề đặc biệt và có điều kiện nghiêm
ngặt, nhưng hoạt động trong cơ chế thị trường, các cơ sở y tế tư nhân - do cơ
chế - buộc phải tính toán làm sao cho hiệu quả nhất. Bởi vậy số giường, loại
dịch vụ, các loại xét nghiệm, trang thiết bị đều được tính toán cẩn thận: về số
giường, số nhân viên, nhận những bệnh gì, làm xét nghiệm gì, mua máy nào,
giá xét nghiệm bao nhiêu, bệnh nào gửi đi, DVKT nào nhờ bệnh viện khác,
Bên cạnh đội ngũ nhân viên làm việc thường xuyên, các bệnh viện tư thuê
chuyên gia có trình độ cao (giáo sư, bác sỹ trưởng/phó khoa, các phẫu thuật
viên có kinh nghiệm, kíp mổ gây mê, ) đang làm việc tại các bệnh viện công
đến mổ hoặc chẩn đoán bệnh với hình thức khoán theo từng cas. Sự kết hợp
này khiến cho bộ máy của cơ sở tư nhân bớt cồng kềnh, không phải chi phí

quản lý tốn kém mà vẫn đạt hiệu quả cao trong điều trị cho người bệnh.
Sự phát triển của khu vực tư nhân trong cung cấp dịch vụ và sự đóng góp
của cá nhân vào các nguồn tài chính y tế là không thể phủ định và việc kết
hợp giữa công và tư trong y tế đều cần thiết dể cải thiện chất lượng, hiệu quả
và công bằng trong chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ.
- Đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm y tế.
Sửa đổi chế độ thu viện phí cho phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội
hiện nay trên nguyên tắc giá viện phí được tính gần đủ các chi phí trực tiếp
phục vụ người bệnh, song thực hiện từng bước để nhân dân có thể chấp nhận.
Đồng thời sửa đổi chế độ BHYT cho phù hợp với giá viện phí, xóa bỏ sự
phân biệt về chế độ điều trị giữa người nộp viện phí và người đóng BHYT.
10
Ða dạng hóa các mức đóng góp và quy định được chi từ quỹ BHYT tương
ứng với mức và thời gian đóng góp. Thực hiện cơ chế chi trả thích hợp, tránh
tình trạng lạm dụng thẻ BHYT. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh để thu
hút đông đảo nhân dân tham gia BHYT.
Bảo hiểm y tế - bảo hiểm cho sức khoẻ là vô cùng quan trọng, đang từng
bước bao phủ đến người dân, mở rộng đến cả người ăn theo của đối tượng.
BHYTđang gặp trở ngại và thách thức lớn như: diện bao phủ thấp, đối tượng
đóng chưa phải là toàn dân, nguy cơ bệnh hiểm nghèo gia tăng, ngân quỹ
không đáp ứng đủ. Bởi vậy, phải tiến tới BHYT toàn dân, lấy số đông bù đắp,
san sẻ số ít, xác định mức đóng phù hợp mới có khả năng trợ giúp kịp thời
cho những người không may mắn bị bệnh hiểm nghèo có cơ hội được cứu
chữa. Vấn đề quan trọng là nhận thức của mọi người - phải hướng tới sự tham
gia BHYTtoàn dân - khắc phục tình trạng khi biết bệnh rồi mới tham gia bảo
hiểm y tế.
- Phối hợp giữa cơ sở y tế với tổ chức bảo hiểm và người dân trong giải
quyết các quan hệ về tài chính có liên quan đến việc khám, chữa bệnh.
Phần lớn số người bệnh đi khám, chữa bệnh (nhất là người bệnh có thẻ
BHYT) không hài lòng bởi thủ tục hành chính rườm rà khiến người bệnh phải

chờ đợi lâu; tinh thần phục vụ, ứng xử của cán bộ y tế chưa chu đáo, làm
giảm lòng tin của người dân khi khám và điều trị bằng BHYT. Để giải quyết
vấn đề này các cơ sở khám chữa bệnh phối hợp với cơ quan BHYT phải nâng
cao tinh thần thái độ phục vụ người bệnh; cải cách thủ tục hành chính, giảm
phiền hà trong đón tiếp, khám, chữa bệnh và thanh toán viện phí; nâng cao
chất lượng các dịch vụ y tế, bảo đảm quyền lợi của người bệnh có thẻ BHYT;
chống lạm dụng thuốc, kỹ thuật, xét nghiệm, nhằm tiết kiệm nguồn lực y tế và
chi phí KCB.
11
Đối với người có thẻ BHYT, chi phí cho y tế của họ ngoài việc mua
BHYT họ phải trả tiền cho các dịch vụ y tế nằm ngoài phạm vi thanh toán của
quỹ BHYT như: làm răng giả, thẩm mỹ, thuốc và vật tư y tế tiêu hao nằm
ngoài danh mục của BHYT, ngoài ra còn thực hiện cùng chi trả một phần
chi phí khám chữa bệnh theo quy định.
Các nhóm dân cư có mức sống khác nhau, các vùng miền khác nhau có
khả năng chi trả chi phí các dịch vụ y tế cũng khác nhau và bệnh nhân nghèo
là người gặp khó khăn nhiều nhất khi phải đồng chi trả một phần viện phí. Do
vậy thực hiện phối hợp tốt giữa cơ sở y tế với tổ chức bảo hiểm và người dân
trong giải quyết các quan hệ về tài chính có liên quan đến việc khám, chữa
bệnh là rất quan trọng để đảm bảo an sinh xã hội.
1.1.3 Vai trò của xã hội hoá y tế:
Việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe là nhu cầu thiết yếu của mỗi người
dân và của cả cộng đồng. Ðây không chỉ là nhiệm vụ của riêng Ngành Y tế,
mà còn là trách nhiệm của các cấp uỷ Ðảng và Chính quyền, của các đoàn thể
quần chúng và tổ chức xã hội. Vì vậy thực hiện xã hội hóa công tác chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe nhân dân là cần thiết và phù hợp với xu thế của thời đại.
Thực hiện xã hội hóa y tế là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi
của nhân dân, của toàn xã hội vào sự nghiệp phát triển sự nghiệp chăm sóc
sức khoẻ nhân dân nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về chăm sóc sức
khoẻ và sự phát triển về thể chất, tinh thần của nhân dân, tạo điều kiện giúp

cho mạng lưới y tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, góp phần giảm tải y tế nhà
nước trong hoạt động khám, chữa bệnh.
Nhiều hoạt động, phong trào y tế được củng cố và phát triển, góp phần
tích cực vào công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân như phong trào
xây dựng làng văn hoá sức khoẻ, các mô hình hoạt động từ thiện của hội chữ
thập đỏ, phong trào hiến máu nhân đạo, xe chuyển bệnh nhân cấp cứu,
12
Thực hiện XHHYT là một nội dung trong chủ trương XHH các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa cũng là giải pháp quan trọng để thực hiện chính
sách công bằng xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế của Ðảng và Nhà
nước. Công bằng xã hội không chỉ biểu hiện về mặt hưởng thụ, tức là người
dân được xã hội và Nhà nước chăm lo, mà còn biểu hiện cả về mặt người dân
đóng góp, cống hiến cho xã hội theo khả năng thực tế của từng người, từng
địa phương.
Thực hiện công bằng trong chính sách xã hội phải vận dụng các nguyên
tắc điều chỉnh và ưu tiên, nhất là phải ưu tiên đối với người có công, phải trợ
giúp người nghèo, vùng nghèo; người có công, có cống hiến nhiều hơn, được
xã hội, Nhà nước chăm lo nhiều hơn. Công bằng xã hội trong việc huy động
các nguồn lực của nhân dân vào các hoạt động văn hóa, xã hội không phải là
huy động bình quân mà là vận dụng cách huy động và mức huy động tùy theo
các lớp người có điều kiện thực tế khác nhau, có mức thu nhập khác nhau.
Những người thuộc diện chính sách xã hội của Ðảng và Nhà nước được miễn,
giảm phần đóng góp. Công bằng xã hội còn được thực hiện thông qua việc
phát huy truyền thống "lá lành đùm lá rách", người giàu giúp người nghèo,
vùng giàu giúp vùng nghèo. Thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, y
tế, văn hóa với quan niệm đúng đắn về công bằng xã hội chính là thực hiện
định hướng xã hội chủ nghĩa theo đường lối của Ðảng.
Vận động nhân dân tự giác tham gia các hoạt động chăm sóc sức khỏe:
các phong trào vệ sinh, rèn luyện thân thể, phòng bệnh, phòng dịch, bảo vệ
môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống văn minh,

lành mạnh; tăng cường sử dụng y học cổ truyền dân tộc, nuôi, trồng các
loại cây, con làm thuốc. Nhân dân tham gia đóng góp và chi trả cho các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe thông qua chế độ viện phí, tham gia bảo hiểm y
tế tự nguyện.
13

×