TRƯỜNG ĐH KINH TẾ LUẬT
TP HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: THỊ TRƯỜNG
VỐN QUỐC TẾ
GVHD: Thầy Hoàng Thọ Phú
NHÓM 4
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG VỐN QUỐC TẾ
1. Khái niệm:
Với xu hướng toàn cầu hóa, mối liên kết ngày càng tăng của
các thị trường vốn quốc gia vài hệ thống tài chính quốc tế đã tạo
nên vẻ đa dạng về nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng
lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu, trong đó đóng góp
một phần không nhỏ là thị trường vốn quốc tế
“Thị trường vốn quốc tế là nơi thực hiện chuyển giao hay
mua bán vốn thời hạn trên một năm giữa những người cư trú và
không cư trú, hay nói cách khác thị trường vốn quốc tế là thị
trường có kì hạn từ một năm trở lên, tại đó những người đi vay và những người cho vay
từ nhiều nước gặp nhau để trao đổi vốn cho nhau”.
2. Thành phần:
Tham gia vào thị trường vốn gồm nhiều thành phần, chủ thể trong nền kinh tế-xã
hội như là chính phù của các nước, các công ty đa quốc gia, các ngân hàng thương mại
lớn và các tổ chức quốc tế… với mục đích đầu tư và phát triển dài hạn.
Thị trường vốn quốc tế bao gồm thị trường trái phiếu quốc tế và thị trường cổ
phiếu quốc tế. Các hoạt động của thị trường vốn quốc tế diễn ra tại các trung tâm tài
chính quốc tế lớn trên thế giới được hình thành từ việc quốc tế hoá thị trường vốn của
một số nước có nền tài chính mạnh hoặc một số nước có vị thế kinh tế chính trị đặc biệt
như thị trường ở Luân Đôn, New York, Singapo… Thị trường vốn quốc tế được biểu
hiện bằng sự phát triển của thị trường chứng khoán, dòng vốn đầu tư qua thị trường
chứng khoán của các nước đang phát triền ngày càng mạnh mẽ. Chính phủ các nước huy
động nguồn vốn, tập trung cho phát triển kinh tế, thông qua thị trường vốn quốc tế bằng
việc phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu nội địa, trái phiếu nước ngoài hay trái
phiếu châu Âu.
- Trái phiếu nội địa là trái phiếu được phát hành bằng đồng nội tệ, trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia do ngưởi cư trú phát hành. Những nhà đầu tư trái phiếu nội địa
bao gồm người cư trú và người không cư trú. Ví dụ như trái phiếu kho bạc Việt
nam có mệnh giá bằng đồng nội tệ (VND), phát hành tại Việt Nam do kho bạc nhà
nước Việt Nam phát hành, được bán cho ngưởi Việt Nam và người nước ngoài…
- Trái phiếu nước ngoải là trái phiếu do người không cư trú phát hành, ghi bằng
đồng nội tệ và được phát hành tại nước có đồng tiền ghi trên trái phiếu. Ví dụ như
một công ty Anh phát hành trái phiếu ghi bằng USD tại Mỹ…
- Trái phiếu châu Âu là trái phiếu được phát hành bởi các chính phủ, các tổ chức tài
chính, các công ty bằng đồng tiền khác với đồng tiền tại nước phát hành. Ví dụ
như trái phiếu USD do Vietcombank phát hành tại Việt Nam, trái phiếu DEM phát
hành tại Nhật…
3. Vai trò:
Kể từ những năm 1960, thị trường vốn quốc tế đã phát triển nhanh chóng cả về doanh
số và số lượng thành viên thị trường. Thông qua thị trường vốn quốc tế các chủ thể kinh
tế có thể tiếp cận với các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Vai trò của thị trường vốn quốc
tế ngày càng trở nên quan trọng, đê thấy được điều đó trước hết ta cần thấy được vai trò
của thị trường vốn như thế nào.
Thị trường vốn có một ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi
nước, đây là một kênh bổ sung vốn rất hiệu quả và nhanh chóng cho các nhà đầu tư và
các doanh nghiệp. thông qua việc phát hành và mua bán các loại chứng khoán, các khoản
vốn nhỏ lẻ tồn tại trong dân cư được các tổ chức kinh tế huy động nhằm đáp ứng nhu cầu
về vốn cho công cuộc đầu tư xây dựng của chủ đầu tư. Các doanh nghiệp phát hành trái
phiếu , cổ phiếu để huy động vốn còn chính phủ và các địa phương phát hành trái phiếu
để bù đắp thiếu hụt ngân sách hoặc đầu tư xây dựng các dự án lớn, đảm bảo được tính
hiệu quả và thời gian cho người cần vốn. Thông qua thị trường vốn thì đây là một hình
thức có thể kiềm chế được lạm phát do không phải in thêm tiền vào lưu thông phục vụ
chi tiêu của chính phủ. Thị trường vốn đặc biệt là thị trường vốn quốc tế thì đây là kênh
huy đông theo tín hiệu cơ chế thị trường, là van điều tiết hữu hiệu các khoản vốn từ nới
thừa sang nơi thiếu vốn, từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi sử dụng vốn hiệu quả hơn,
. thông qua thị trường vốn chính phủ, địa phương hay công ty có thể huy động vốn bằng
việc phát hành công cụ nợ như trái phiếu, công trái. Thi trường vốn là công cụ đánh giá,
dự báo chu kì kinh doanh của các doanh nghiệp , của nền kinh tế. Thị trường vốn tác
động đến sự tăng trưởng kinh tế. khi nguồn vốn tăng thì sản lượng tăng từ đó làm tăng
tổng thu nhập quốc dân, làm cho GDP tăng làm cho nền kinh tế tăng trưởng. tuy nhiên
khi nguồn vốn đầu tư tăng đến một mức nào đó thì nền kinh tế không thể tăng thêm được
do nền kinh tế còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Thị trường vốn làm đa dang hóa các cơ
hội đầu tư thông qua thị trường cổ phiếu hay trái phiếu. Thị trường vốn tạo điều kiện để
thực hiện các chính sách kinh tế vi mô. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng
khoán như là một trung tâm thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức tài chính,
doanh nghiệp, của chính phủ và địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền
kinh tế. thị trường vốn hoạt động theo những tín hiệu của thị trường như lãi suất hệ số tín
nhiệm, độ rủi ro.
Thị trường vốn quốc tế cũng có những vai trò của một thị trường vốn, tuy nhiên nó
còn có những đặc điểm riêng nổi bật cho vai trò của thị trường vốn quốc tế. thông qua thị
trường vốn quốc tế chúng ta khai thac các nguốn lực ngoài nước phục vụ sự phát triển
kinh tế xã hội trong nước trong điều kiện kinh tế mang tính toàn cầu hóa cao độ tính liên
phụ thuộc nền kinh tế các nước ngày càng tăng lên, không một quốc gia nào tự mình giải
quyết được mọi vấn đề nếu không mở rộng giao lưu với các nước khác. Đặc biệt là đối
với các nước nghèo và chậm phát triển. việc tiến hành hoạt động để huy động vốn quốc tế
sẽ dẫn đến sự di chuyển các nguổn tài chính từ quốc gia này sang quốc gia khác. Hay nói
các khác thông qua hoạt động này các nguồn tài chính được phân phối lại trên phạm vi
thế giới. sự phân phối này tác động tích cực và tiêu cực đến sự phát triển kinh tế xã hội
của mỗi quốc gia, do vậy đòi hỏi mỗi quốc gia nên cân nhắc trên cả khía cạnh sử dụng
các nguồn lực trong nước tham gia vào hoạt động hợp tác quốc tế, trên cả khía cạnh khai
thác và sử dụng các nguổn lực ngoài nước phục vụ cho sự phát triển của quốc gia mình.
Các nguồn lực có thể di chuyển thông qua các hình thức sau: vay nợ quốc tế, đầu tư trực
tiếp quốc tế, tham gia vào thị trường vốn quốc tế… không chỉ có sự vận động của các
nguồn vốn mà các quốc gia có thể tranh thủ thêm được công nghệ, kĩ thuật cải tiến, giải
quyết được vấn để thị trường, lao động…
Thúc đẩy các nền kinh tế quốc gia nhanh chóng hỏa nhập vào nển kinh tế thế giới
Ngày nay khu vực hóa và quốc tế hóa đời sống kinh tế đã trở thành xu thế mang tính thời
đại. mở rộng đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Việc mở rộng hợp tác quốc tế nhằm mục đích kết hợp các yếu tố trong
nươc và ngoài nước và khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lực ngoài nước phục vụ
sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. việc mở rộng tham gia vào thị trường vốn quốc
tế góp phần thúc đẩy mở rộng và phát triển các hoạt động kinh tế quốc tế, từ đó góp phần
thúc đẩy các nền kinh tế quốc gia nhanh chóng hòa nhập vào nền kinh tế thế giới
Tạo cơ hội nâng cao hiệu quả sử dụng các nguổn lực tài chính. Việc mở rộng và phát
triển các hoạt động tài chính quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển các
nguồn tài chính ra khỏi phạm vi của một quốc gia, với một phạm vi rộng hơn và môi
trường khác hơn đó là trên bình diện quốc tế. Trong môi trường đó các nhà đầu tư có thể
lựa chọn môi trường và lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài có lợi nhuận cao hơn so với đầu tư
trong nước. bên cạnh đó các chủ thể kinh tế xã hội của mỗi quốc gia có thể vay vốn của
các chủ thễ thuộc quốc tế để trang trải các nhu cầu chi tiêu của mình thông qua các hình
thức tham gia thị trường vốn quốc tế.
4. Vai trò của thị trường vốn quốc tế đối với Việt nam:
Việc phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế ngoài mục đích huy động vốn còn
nhằm tạo một hình ảnh việt nam trên thị trường quốc tế. trong bối cảnh chúng ta đang
ngày càng hội nhập về hoạt động thương mại, đầu tư thì hội nhập tài chính không thể
đứng ngoài cuộc. Trái phiếu chính phủ do Việt nam phát hành trên thị trường quốc tế sẽ
là thước đo cho các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào Việt nam.
Thứ trường tài chính Lê Thị Băng Tâm cho biết “ Việc phát hành trái phiếu có một ý
nghĩa rất quan trọng vì đây là một trong những mục tiêu của Việt nam là hội nhập vào thị
trường tài chính quốc tế, đồng thời việc phát hành trái phiếu quốc tế còn là phương thức
vay thương mại trong chiến lược huy động vốn của Việt nam, đảm bảo quyền tự chủ
trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được không bị lệ thuộc vào điều kiện của các
nhà thầu như vay tín dụng xuất khẩu. Đồng thời việc phát hành trái phiếu lần này đã mở
đường cho các doanh nghiệp lớn của Việt Nam trực tiếp huy đống nguổn vốn trung dài
hạn bằng ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế. Theo đánh gia của các
chuyên gia kinh tê trên thế giới thì số lượng các nhà đầu tư quốc tế tham gia mua trái
phiếu đạt mức kỉ lục trên thị trường vốn trong những năm lại đây. Các nhà đầu tư tham
gia mua trái phiếu của chính phủ Việt nam đều là những nhà đầu tư lớn, có uy tín trên thị
trường tài chính quốc tế
II. THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ
1. Tổng quan về thị trường trái phiếu quốc tế:
1.1Khái niệm:
Thị trường trái phiếu quốc tế là thị trường có kì hạn từ một năm trở lên, tại đó những
người đi vay và cho vay từ nhiều nước gặp nhau để trao đổi vốn cho nhau. Thị trường trái
phiếu quốc tế bao gồm:
Thị trường trái phiếu nội địa: trái phiếu nội địa là trái phiếu được phát hành
bằngđồng nội tệ, trong phạm vi lãnh thổ quốc gia do người cư trú phát hành.
Những nhà đầu tư trái phiếu nội địa bao gồm người cư trú và người không cư trú.
Ví dụ: trái phiếu Kho bạc Việt Nam có mệnh giá bằng đồng nội tệ (VND), phát
hành tại Việt Nam, do Kho bạc Nhà nước phát hành được bán cho người Việt Nam
và người nước ngoài.
Thị trường trái phiếu nước ngoài: trái phiếu nước ngoài là trái phiếu do người
không cư trú phát hành, ghi bằng đồng nội tệ, và được phát hành tại nước có đồng
tiền ghi trên trái phiếu.
Ví dụ: chính phủ Việt Nam phát hành trái phiếu được định danh bằng đồng USD
và bán trên thị trường Mỹ.
Thị trường trái phiếu châu Âu – Eurobond market: trái phiếu châu Âu là trái
phiếu được phát hành bởi các chính phủ, các tổ chức tài chính, các công ty bằng
đồng tiền khác với đồng tiền tại nước phát hành.
Ví dụ: một trái phiếu được định danh là đồng USD và được bán trên thị trường
châu Âu thì trái phiếu đó là trái phiếu Euro bởi chính phủ Việt Nam.
1.2Vai trò của thị trường trái phiếu quốc tế:
- Góp phần bổ sung nguồn lực tài chính trung và dài hạn, góp phần thúc đẩy sự tăng
trưởng và ổn định kinh tế của các nước.
- Đáp ứng khả năng thanh toán của các chủ thể khác nhau khi tham gia vào các hoạt
động tài chính quốc tế.
- Góp phần hình thành và phát triển hệ thống thị trường tài chính quốc tế.
1.3Các chủ thể trong thị trường trái phiếu quốc tế:
Các chủ thể phát hành trái phiếu quốc tế:
- Chính phủ các nước: Chính phủ và các cơ quan chức năng được uỷ quyền, Chính
quyền các địa phương hay tiểu bang
- Các tổ chức quốc tế : Ngân hàng thế giới (WB),Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng châu Âu (EIB)
- Các doanh nghiệp lớn :IBM, Deutsche bank, v.v…
Các chủ thể đầu tư:
- Đầu tư trái phiếu quốc tế chủ yếu là khu vực tư nhân : Các cá nhân , Các doanh
nghiệp , Các định chế tài chính, Ngân hàng trung ương hay chính phủ các nước
cũng tham gia đầu tư vào trái phiếu chính phủ của các nước khác.
1.4Tình hình thị trường trái phiếu quốc tế
Trong những năm gần đây, thị trường trái phiếu quốc tế đã đạt được những thành quả
đáng kể, cụ thể như sau:
- Tổng giá trị thị trường của thị trường trái phiếu thế giới lớn hơn 50% so với các thị
trường nợ khác.
- Hầu hết được định danh bởi USD, EUR, và JPY.
Loại ngoại tệ (U.S.$ billions) Phần trăm(%)
U.S.Dollar 22,423.2 43.6%
Euro 13,270.9 25.8%
Yen 8,633,6 16.8%
Other 7,068.1 13.8%
Total 51,395.8 100%
Giá trị của các trái phiếu nội địa và trái phiếu quốc tế
Ngoại tệ Nội địa Quốc tế Tổng
U.S.dollar $ 17,930.7 $ 4,492.5 $ 22,423.2
Euro $ 8,436.4 $ 4,834.5 $ 13, 270.9
Pound $ 1,274.6 $ 778.7 $2,053.3
Yen $ 8,145.0 $ 488.6 $ 8,633.6
Other $ 4,506.6 $ 508.2 $ 5,104.8
Total $ 40,293.3 $ 11,102.5 $ 51,395.8
Nguồn:EUN/RESNICK, the International Financial Management . Mc Graw Hill
Co.,2007
( As of Year-End 2004 in U.S $ Billions)
Nguồn:EUN/RESNICK, the International Financial Management . Mc Graw Hill Co.,2007
Loại ngoại tệ dùng phát hành trái phiếu quốc tế
Currency 2003
U.S.dollar 51%
Euro 32%
Yen 6%
Pound Sterling 7%
Swiss franc 2%
Other 2%
Total 100%
( As of Year-End 2003 in U.S $ Billions)
Nguồn:EUN/RESNICK, the International Financial Management . Mc Graw Hill
Co.,2007
Phân loại trái phiếu quốc tế theo quốc gia
Quốc gia 2003
Australia 162
Canada 276.2
France 700.8
Germany 1,810.3
Italy 510.5
Japan 255.5
Netherlands 532.8
United Kingdom 1,032.1
United States 3,011.8
Total 11,102.5
(U.S $ Billions)
Nguồn:EUN/RESNICK, the International Financial Management . Mc Graw Hill
Co.,2007.
Phân loại người phát hành trái phiếu quốc tế
Người phát hành 2003
Chính Phủ 1,122.3
Các định chế tài chính 8,032.5
Doanh nghiệp 1,446.6
Tổ chức quốc tế 501.1
Tổng 11,102.5
(As of Year-End 2003 in U.S $ Billions)
2. Trái phiếu quốc tế:
2.1Đặc điểm của trái phiếu quốc tế:
Nguồn:EUN/RESNICK, the International Financial Management . Mc Graw Hill Co.,2007.
Nội địa(Domestic) Nước ngoài(Foreign) Euro
Người phát
hành (Issuer)
Khu vực tư nhân hay
nhà nước của đất
nước nơi thị trường
được đặt.
Chính phủ hay những
công ty nước ngoài hay
những định chế quốc
tế.US: SEC-registered
Bất cứ một tổ chức nào
với hệ số tín nhiệm
cao.Hiếm có sự xếp
hạng rõ ràng
Tiền tệ
(Currency)
Tiền nội địa. Tiền nội địa. Bất cứ loại tiền tệ quốc
tế nào được sử dụng
rộng rãi.
Lượng tiền thu
được sau mỗi
lần phát hành.
Chính phủ Nhật và
Mỹ: 5000-25000 triệu
USD. Các chính phủ
khác: tiêu biểu 500-
5000 USD. Những
thành phần khác.
(Other Borrowers ):
tiêu biểu 50-500 triệu
USD
Tiêu biểu 50-500 triệu
USD
Tiêu biểu 50-500 triệu
USD
Loại Thường được đăng
ký, ngoại trừ ở một
vài nước Châu Âu
(chẳng hạn như Đức,
Switzerland và
Netherlands)
Trái phiếu vô danh
ngoại trừ trên thị trường
Bulldogs và Yankee.
Trái phiếu vô danh
Thuế Thuế thu nhập lãi suất
đối với người nước
ngoài mua trái phiếu
nội địa được áp dụng
ở một vài nước (Nhật,
Anh, Ý,Thụy Sỹ)
Không có thuế (ngoại
trừ thị trường trái phiếu
nước ngoài bằng đồng
sterling)
Không thuế
Việc trả lãi Hằng năm ở một vài
thị trường ở Châu Âu;
bán niên ở những nơi
khác.
Như trong thị trường
nội địa tương ứng.
Hằng năm cho những
trái phiếu có lãi suất cố
định. Bán niên hay theo
quý đối với FRNs
Niêm yết
(Listing)
Thị trường chứng
khoán nội địa.
Thị trường chứng khoán
nội địa.
Thường ở London hay
Luxembourg. Đối với
Deutsche Mark, thị
trường chứng khoán nội
địa.
Security/coven
ants
Những trái phiếu của
khu vực tư nhân
thường được bảo đảm
Không đảm bảo. Không đảm bảo, thường
được đi kèm với các
công cụ phái sinh.
Nhà phát hành
(Issuing
houses)
Những ngân hàng nội
địa lớn và những nhà
môi giới chứng khoán
Những ngân hàng nội
địa lớn và những nhà
môi giới chứng khoán.
International syndicate.
Những nhà
đầu tư
Chủ yếu là những
ngân hang nội địa và
những định chế tài
chính khác.
Nội địa và ngoài nước. Đa dạng. Cá nhân đóng
vai trò chính.
Cấu trúc
(Structure)
Trái phiếu Chính Phủ:
phổ biến nhất với kỳ
hạn 5-10 năm.
Trái phiếu công ty:
thường hoán đổi thành
cổ phiếu.
Thường là bullets. Phổ biến là trái phiếu
bullets, nhưng vẫn có đa
dạng các loại cấu trúc
khác. Ví dụ: FRNs
chiếm 13% của thị
trường.
Thủ tục phát
hành
(Issuing
procedures)
Khu vực nhà nước:
thường được bán
thông qua một cuộc
bán đấu giá hay
syndicate.
Khu vực tư nhân:
Placed by a domestic
syndicate
Placed by an
international syndicate
over a period
được phát hành thông
qua một syndicate hay
trực tiếp bởi người đi
vay.
Giao dịch thứ
cấp
(Secondary
trading)
Thường thông qua thị
trường chứng khoán
nội địa, mặc dù việc
giao dịch trên OTC thì
phổ biến trên một số
thị trường (như :
Deutsche Mark và
Japanese yen). Thuế
stamp duty được đánh
trên một số thị trường.
Chủ yếu giao dịch trên
OTC. Stamp duty được
tính phí trên những giao
dịch trong thị trường
bằng đồng yen Nhật và
đồng franc Thụy Sỹ.
Giao dịch trên OTC,
được tổ chức bởi những
ngân hàng phát hành với
sự thanh toán bằng
những công cụ của hệ
thống chuyển đổi book-
entry đang được sử
dụng như một trong
những tiêu chuẩn của hệ
thống thanh toán quốc
tế trên thị trường Euro-
market.
2.2Phân loại trái phiếu quốc tế:
Straight fixed rate bonds (trái phiếu có lãi suất cố định thông thường): là loại trái
phiếu có xác định thời gian đáo hạn và lãi suất được hưởng qua từng thời kì nhất
định. Khi mua loại trái phiếu này, nhà đầu tư được hưởng lãi định kỳ, thường là
hàng năm, theo lãi suất công bố trên mệnh giá trái phiếu và được thu hồi lại vốn
gốc bằng mệnh giá trái phiếu khi đáo hạn.
Partly – paid bonds: loại trái phiếu này giống với straight bonds về mọi phương
diện, ngoại trừ số tiền mà nhà đầu tư trả vào ngày closing date (ngày đóng cửa)
Trái phiếu chiết khấu (zero – coupon bonds): là loại trái phiếu không trả lãi định
kì mà được bán với giá thấp hơn nhiều so với mệnh giá. Thực tế lợi tức nhà đầu tư
nhận được là phần chênh lệch giữa giá mua của trái phiếu với mệnh giá của nó.
Floating rate notes (FRNs): kì phiếu có lãi suất thả nổi là loại kì phiếu trung hạn,
khác với straight bonds về cơ sở lãi suất và sự tính toán lãi suất. Mức lãi suất được
điều chỉnh định kì 3 hay 6 tháng một lần trên cơ sở thay đổi mức lãi suất cơ bản, ví
dụ như lãi suất LIBOR. Các ngân hàng thường ưu tiên đầu tư phần vốn nhàn rỗi
vào FRN, do tài sản nợ của ngân hàng có đặc trưng kì hạn ngắn, cho nên đầu tư
vào FRNs có thể tránh được hầu hết rủi ro từ sự biến động lãi suất. Những người
phát hành thích FRNS vì chúng kết hợp giữa chi phí thấp hơn so với việc đi vay
ngân hàng và kỳ hạn thanh toán dài hơn so với trái phiếu có lãi suất cố định
(straight bond). Những nhà đầu tư ưa thích FRNs hơn bởi vì việc thiết lập lại lãi
suất theo định kỳ mang đến sự bảo vệ cao hơn cho vốn gốc.
Convertible bonds (trái phiếu chuyển đổi): loại trái phiếu này cho phép người nắm
giữ trái phiếu quyền chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát
hành hoặc tài sản khác (other assets), theo mức lãi suất hoán đổi cố định được xác
định vào thời điểm phát hành.
Bonds with warrants (trái phiếu với quyền mua cổ phiếu): loại trái phiếu này còn
được gọi là trái phiếu kèm chứng quyền, đối với loại trái phiếu này, nhà phát hành
chỉ trả lãi thấp hơn mức bình thường.
Dual – currency bonds (trái phiếu lưỡng tệ): là trái phiếu trả lãi cố định, với tiền
lãi hoặc vốn gốc đươc thanh toán bằng hai đồng tiền khác nhau.
Trái phiếu toàn cầu (global bonds): là trái phiếu được phát hành và giao dịch bên
ngoài đất nước của đồng tiền mà trái phiếu được định danh, được phát hành ở
nhiều nước cùng một lúc, thường được trả lãi bán niên.
Ecu-bonds: là trái phiếu được định danh bằng một đơn vị không phải là đơn vị tiền
tệ thật sự. Ví dụ như trái phiếu được định danh bằng đồng SDRs.
2.3 Xếp hạng tín dụng của trái phiếu quốc tế:
Những dịch vụ đánh giá có thể thực hiện việc thực hiện các nghiên cứu cần thiết
về thị trường và trái phiếu, các công ty dịch vụ nổi tiếng nhất là Standard and Poor's và
Moody's Investor Service, Inc. Những công ty này điều tra về tình hình tài chính của
công ty phát hành trái phiếu hơn là điều tra về tính hấp dẫn trên thị trường của trái phiếu
đó.
Xếp hạng về độ tin cậy ảnh hưởng đến lãi trái phiếu mà công ty phát hành phải
nêu ra để thu hút các nhà đầu tư. Khi so sánh các trái phiếu có cùng ngày đáo hạn, rõ ràng
là trái phiếu được xếp hạng càng cao, lãi trái phiếu đó càng thấp và lợi suất của nó cũng
thấp.
Tương tự, những trái phiếu bị đánh giá thấp hơn rõ ràng là sẽ phải đưa ra một mức
lãi suất coupon cao hơn, để có thể lôi kéo sự chú ý của các nhà đầu tư quan tâm đến việc
lợi tức và khoản đầu tư gốc của họ có được hoàn lại đúng thời hạn không.
Một mối nguy hiểm mà những người sở hữu trái phiếu thường phải đối mặt là khi
một công ty cung cấp dịch vụ đánh giá có thể đánh giá thấp xếp hạng của một công ty
hay chính quyền trong suốt thời hạn của một trái phiếu. Điều này sẽ xảy ra nếu tình hình
tài chính của công ty phát hành trái phiếu bị xấu đi, hoặc nếu công ty đánh giá nhận thấy
một quyết định kinh doanh nào đó có thể tạo ra một hậu quả xấu. Nếu xuất hiện những
đánh giá thấp như vậy, các nhà đầu tư lập tức sẽ đòi hỏi phải có một lợi suất cao hơn cho
các trái phiếu hiện đang có trên thị trường. Có nghĩa là trái phiếu đó sẽ bị rớt giá trên thị
trường thứ cấp. Cũng có nghĩa là nếu công ty phát hành muốn lưu hành một trái phiếu
mới, trái phiếu đó phải được chào bán với lãi suất coupon cao hơn thị trường để thu hút
người mua.
Hệ thống đánh giá của hai công ty cung cấp dịch vụ đánh giá lớn là khá tương tự
nhau, nhưng không hoàn toàn giống nhau về cách họ gán mã cho chất lượng trái phiếu.
Cả hai công ty đều phân biệt thành cấp Aa/AA và cấp thấp hơn. Hệ thống của Moody's
sử dụng hệ thống chữ số (1,2,3, ) còn công ty Standard & Poor's sử dụng kí hiệu + hoặc
–.
ĐÁNH GIÁ MỘT TRÁI PHIẾU:
Moody's Standard & Poor's Ý nghĩa
Aaa AAA Khả năng trả lãi trái phiếu cao nhất với ít rủi ro nhất.
Công ty phát hành hoạt động rất ổn định và độc lập
Aa AA Khả năng trả lãi trái phiếu cao với mức độ rủi ro dài
hạn hơi cao
A A Khả năng trả lãi trái phiếu cao trung bình, nhưng
khá nguy hiểm, có thể làm thay đổi các điều kiện
kinh tế
Baa BBB Chất lượng trung bình, hoạt động hiện này vừa phải
nhưng có lẽ không đáng tin cậy trong dài hạn
Ba BB Có một số yếu tố đầu cơ, độ an toàn vừa phải nhưng
không hoàn toàn được đảm bảo
B B Hiện nay có thể trả lãi trái phiếu nhưng có những
rủi ro không trả được trong tương lai
Caa CCC Chất lượng tồi, có nguy cơ rõ ràng không trả được
lãi trái phiếu
Ca CC Khả năng đầu cơ cao, thường trong tình trạng không
thanh toán lãi trái phiếu được
C C Bị đánh giá thấp nhất, khả năng thanh toán là cực kỳ
hạn hữu mặc dù vẫn có thể trả được lãi
3. Thị trường Eurobonds:
3.1Sự hình thành và phát triển của thị trường Eurbonds:
Trái phiếu châu Âu đầu tiên được phát hành vào tháng 6 năm 1963, trong năm này
việc phát hành trái phiếu Eurobonds mới đã thu về tổng cộng là 145 triệu USD. Sau đó thị
trường này phát triển một cách nhanh chóng, đặc biệt trong những năm 1980s và 1990s
Nó có một thị trường (marketplace) ở London.
Những nhà chức trách Anh cho phép thị trường phát triển mà không có những quy
định hay hạn chế nào. London đã trở thành, và vẫn tồn tại đến ngày nay, là trung tâm
chính cho việc phát hành trái phiếu mới và giao dịch của những trái phiếu dollar
Eurobonds.
Tốc độ và sự giản đơn đã làm cho việc phát hành trên thị trường Eurobond trở nên
thuận lợi hơn so với việc phát hành trên thị trường trái phiếus nước ngoài, chủ yếu là
thị trường Yankee của Mỹ.
Việc thành lập Hiệp hội của những người mua bán trái phiếu quốc tế (Association of
International Bond Dealers) ( AIBD) vào năm 1969 đã cung cấp một diễn đàn nhằm
hoàn thiện thị trường.
Việc thành lập clearing system, EuroClear và Cedel vào năm 1969 và 1970, đã giải
quyết vấn đề phân phối và tạm giữ.
3.2 Đặc điểm của Eurobonds:
Trái phiếu châu Âu ghi bằng USD là hình thức phát hành phổ biến. Trong năm 1996 trái
phiếu châu Âu ghi bằng USD chiếm 43,78% trên tổng số phát hành, tuy nhiên tỉ lệ này là
thấp hơn nhiều so với thị trường Eurocurrency
Hầu hết các Eurobond phát hành bởi các tổ chức có hệ số tín nhiệm cao, ví dụ, hệ số
AAA và AA chiếm tới gần 80% tổng số các đợt phát hành. Những nhà phát hành
Eurobond tích cực nhất là các chính phủ, các tổ chức quốc tế như World Bank, European
Investment Bank và các công ty đa quốc gia. Một số nhà phát hành Eurobonds ghi bằng
đồng tiền không được sử dụng vào mục đích cuối cùng, mà họ chuyển đổi sang đồng tiền
cần thiết khác thông qua nghiệp vụ Swap. Mức lãi suất của Eurobond phụ thuộc và điều
kiện thị trường và hệ số tín nhiệm của nhà phát hành. Tuy nhiên, nếu cùng hệ số tín
nhiệm, thì các chính phủ phát hành Eurobonds có lãi suất thấp hơn so với các công ty.
Eurobonds được phát hành dưới nhiều dạng khác nhau, bao gồm:
Dạng phổ thông nhất là trái phiếu có lãi suất cố định (gọi là trái phiếu straights).
Dạng thứ hai là trái phiếu có lãi suất thả nổi (floating rate notes)
Dạng trái phiếu chuyển đổi (convertible bond). Thông thường những trái phiếu
loại này có mức lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường , bù vào đó những người đầu
tư kì vọng rằng giá của trái phiếu này sẽ tăng khi chuyển đổi sang cổ phiếu. Một
số trái phiếu có đính kèm giấy bảo lãnh quyền mua cổ phiếu của công ty phát hành
tại một mức giá đã định trước; và giấy bảo lãnh có thể được cắt rời khỏi trái phiếu
để chuyển nhượng mua bán một cách độc lập với trái phiếu.
Thị trường trái phiếu châu Âu chủ yếu là thị trường cho vay và đi vay vốn trung hạn;
hầu hết đợt phát hành chính (chiếm đến 80%) có kì hạn dưới 10 năm, mà chủ yếu là từ 5
– 7 năm; điều này ngược với thị trường trái phiếu nội địa, bởi vì đặc trưng của thị trường
nội địa là thị trường vốn dài hạn, mà hầu hết các trái phiếu có kì hạn tư 10 – 30 năm.
Nhiều trái phiếu châu Âu được phát hành với lãi suất cố định, số khác với lãi suất thả nổi,
hay có liên quan đến việc chuyển đổi thành cổ phiếu. Nhiều đợt phát hành được thông
báo với thời gian rất ngắn nhằm tận dụng những điều kiện thuận lợi đang có sẵn trên thị
trường.
Trái phiếu vô danh là loại phổ biến nhất, nó đặc biệt hấp dẫn những nhà đầu tư
quốc tế, bởi vì họ thường không muốn bộc lộ bản thân mình. Một đặc điểm nữa mà
Eurobonds hấp dẫn người đầu tư là họ không phải trả thuế thu nhập từ lãi suất. Những
nhà đầu tư tiêu biểu trên thị trường Eurobonds có đặc trưng là họ không thật mạo hiểm
trong đầu tư, nghĩa là họ chỉ đầu tư vào những trái phiếu thật an toàn, có hệ số tín nhiệm
cao, miễn sao kết quả đầu tư thu được cao hơn một chút so với trái phiếu kho bạc.
Số lượng $ 100 – 1 000 triệu
Người phát hànhs Các chính phủ; các tổ chức quốc tế, ví dụ: Ngân hàng Thế
giới, ngân hàng đầu tư châu Âu; các ngân hàng, các tổ
chức tài chính có hệ số tín nhiệm AAA và AA
Kỳ hạn 10 năm hay thấp hơn; hầu hết là từ 4 – 7 năm.
Vốn gốc Thông thường được hoàn trả một lần khi đến hạn (bullet
form). Ngoài ra, cũng có một số đợt phát hành khoản gôc
được hoàn trả thành nhiều lần trong thời hạn của trái phiếu.
Coupon Trả hàng năm. Hầu hết các trái phiếu thuộc loại “straights”,
tức có lãi suất cố định và gốc được hoàn trả một lần tại thời
điểm đến hạn. Chỉ cần ¼ số lượng phát hành có coupon với
lãi suất thả nổi dựa theo lãi suất cơ bản, ví dụ như LIBOR.
Mức lãi suất So với lãi suất kho bạc Mỹ, các Eurobonds có mức lãi suất
cao hơn và phụ thuộc vào độ tín nhiệm và điều kiện của thị
trường, như sau:
AAA chính phủ trong khoảng 10 – 20 điểm
AAA công ty trong khoảng 30 – 40 điểm
AA chính phủ trong khoảng 30 – 50 điểm
AA công ty trong khoảng 50 – 80 điểm
A chính phủ trong khoảng 60 – 100 điểm
A công ty trong khoảng 90 – 110 điểm
BBB từ 1120 điểm trở lên
Biện pháp
bảo đảm
Thông thường, đây là khoản vay chất lượng cao không có
bảo đảm. Trong một vài trường hợp, trái phiếu được đảm
bảo bằng thư tín dụng hay bằng tài sản thế chấp cảu công ty.
Hình thức Trái phiếu vô danh. Người nắm giữ trái phiếu là người sở
hữu. Sự giấu tên là một trong những đặc điểm hấp dẫn nhà
đầu tư.
Thuế Người nắm giữ trái phiếu được miễn thuế thu nhập.
Đăng kí London và Luxembourg
Mệnh giá $ 1000, $ 5000, $ 10000
Đặc điểm
đặc biệt
Nhiều trái phiếu quy định sẽ được mua lại sau thời hạn
thường là 5 năm; một số có phiếu bảo lãnh mua cổ phiếu;
số khác thuộc loại trái phiếu chuyển đổi sang cổ phiếu có
giá cố định từ trước.
3.3 Kiểm soát và điều chỉnh thị trường Eurobond:
Các chính phủ thường kiểm soát thị trường vốn nội địa bởi nhiều lý do khác nhau:
Chính phủ là người đi vay trên thị trường này nhiều hơn ai hết.
Chính phủ luôn khuyến khích phát huy nội lực thông qua đầu tư nguồn vốn nội địa
khan hiếm vào các trái phiếu nội địa.
Chính phủ quan tâm đến khả năng trốn thuế.
Chính phủ cũng quan tâm đến ảnh hưởng của các luồn vốn chạy ra (để mua
Eurobonds) đến giá trị đồng bản tệ (tức sự biến động của tỉ giá).
Các chính phủ luôn có sẵn trong tay những công cụ để kiểm soát phát hành
Eurobonds bằng đồng tiền của nước mình. Thứ nhất, NHTW có thể cấm phát hành
Eurobonds bằng đồng tiền của minh nếu muốn. Thứ hai, các chính phủ có thể gây áp lực
lên các ngân hàng đầu tư nội địa và các ngân hàng đầu tư nước ngoài không tham dự các
đợt phát hành Eurobonds bằng cách ngầm hăm dọa rằng chính phủ sẽ chấm dứt sử dụng
dịch vụ của các ngân hàng này, thậm chí rút giấy phép hoạt động trên thị trường này
3.4 Thủ tục phát hành Eurobond:
3.4.1 Việc tổ chức một syndicate Eurobond:
Eurobond được phát hành và bán thông qua những hội đồng bảo lãnh
(underwriting syndicates). Những người tham gia trong nhóm này là những ngân hàng
đầu tư, merchant banks và merchant banking subsidiaries của ngân hàng thương mại.
Thông thường, để phát hành Eurobond đòi hỏi phải hình thành 3 nhóm: (i) nhóm
quản lý,(ii)nhóm bao tiêu, (iii)nhóm bán trái phiếu
Một người đi vay tiềm năng - một công ty, một ngân hàng, một tổ chức quốc tế
hay một chính phủ - sẽ nhận những đề án tự nguyện. Người đi vay sẽ lựa chọn trong số
những issuing houses này người phù hợp nhất với những yêu cầu của họ, ví dụ như về
thời gian, chi phí ….
Dựa trên những đề xuất, người đi vay sẽ lựa chọn một ngân hàng đầu tư và mời
nó trở thành lead manager của việc phát hành trái phiếu và đại diện cho người đi vay.
Đóng góp chủ yếu của lead manager hay issuing house nằm ở sự chuyên nghiệp của nó
trong việc lựa chọn các cố vấn pháp lý liên quan đến: nhà bao tiêu, ngân hàng đại lý,
nhà kiểm toán, nhà in, công ty quảng bá công cộng …; trong việc tổ chức “nhóm quản
lý” và “nhóm bao tiêu”, việc tiến hành chuẩn bị các tư liệu, quyết định thời điểm phát
hành đúng lúc; sự chịu trách nhiệm với vai trò là người tạo thị trường cũng như duy trì
tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp sau khi đã phát hành trái phiếu.
Trong trường hợp với số lượng đặc biệt lớn sẽ có thêm một số một số người đồng
quản lý (co-managers) do lead-manager mời thêm. Người quản lý chính cùng với những
người đồng quản lý này tạo nên “nhóm quản lý” (managing group). Lead manager trong
việc lựa chọn thêm các ngân hàng để thành lập nên nhóm quản lý sẽ có được hai thuận
lợi: (1) chia sẻ rủi ro phát hành và (2) hỗ trợ việc phát hành. Ngoài ra, hai nhóm khác –
nhóm bao tiêu (underwriters) và nhóm bán (selling group) cũng sẽ được mời để tham gia
vào quá trình đưa trái phiếu ra thị trường. Thông thường, nhóm bao tiêu gồm từ 10 đến
200 ngân hàng và công ty chứng khoán đứng ra bao tiêu đợt phát hành, do đó người phát
hành sẽ được đảm bảo rằng sẽ bán hết được trái phiếu. Nhiệm vụ của nhóm bán là bán
trái phiếu cho nhà đầu tư.
Người đi vay sẽ bán trái phiếu đến nhóm quản lý. Đến lượt nhóm quản lý bán trái
phiếu trực tiếp cho cả nhóm bao tiêu và nhóm bán hay bán trái phiếu cho nhóm bán,
những người mà đến lượt họ sẽ bán trái phiếu cho nhóm bán . Những thành viên của
nhóm bán sẽ bán trái phiếu cho những nhà đầu tư cuối cùng. Những người bao tiêu khác
với người bán thuần ở chỗ những người bao tiêu cam kết mua trái phiếu trước thời gian
phát hành ở mức giá thấp nhất do những managers đưa ra thậm chí nếu trái phiếu không
thể được bán cho người bán hay những nhà đầu tư cuối cùng ở mức giá cao hơn mức giá
thấp nhất đã thỏa thuận trước này. Những vai trò đó có thể được lồng vào nhau: nhà quản
lý cũng là người bao tiêu và người bán; và những người bao tiêu cũng thường là người
bán.
The principal paying agent trong việc phát hành Eurobond là ngân hàng có trách
nhiệm cho việc trả lãi và vốn gốc từ những người đi vay và chi cho những nhà đầu tư
cuối cùng. Khi một đại lý tài chính (fiscal agent) được sử dụng trong việc phát hành mới,
fiscal agent và principal agent là giống nhau. Một fiscal agent là một ngân hàng được bổ
nhiệm để hành động như người đại diện cuả người đi vay, phân phối cho nhà đầu tư
cũng như hành động như một principal agent. Một tổ chức thay thế cho fiscal agent là
một trustee. Một trustee hành động như một đại diện của tất cả trái chủ trong bất cứ hành
động pháp lý nào bắt nguồn từ việc không trả nợ đúng kỳ hạn theo điều khoản của trái
phiếu. Nếu một trustee được sử dụng cho việc phát hành Eurobond mới, thì một paying
agent riêng biệt sẽ được bổ nhiệm để hành động như người đại diện của người phát hành
trái phiếu.
Biểu đồ sau thể hiện tóm tắt về vai trò của những người tham gia trong việc phát hành
trái phiếu Eurobond mới:
3.4.2 Lựa chọn một Lead-manager (quản lí chính)
Một vài issuers thường xuyên phát hành thường chọn một lead manager dựa trên
duy nhất một tiêu chuẩn: chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, việc lựa chọn thường không chỉ
dựa trên chi phí, những nhà phát hành (issuers) tiềm năng thường tìm kiếm sự đảm bảo từ
những tiêu chuẩn khác như:
Nhà phát hành trái phiếu
( Issuer of bonds)
Banking syndicate
Nhóm quản lý (managing group)
Nhóm bao tiêu (underrwriters)
Nhóm bán (selling group)
Nhà đầu tư (Investors)Fiscal Agent; hoặc
Trustee và principal agent
Sự điều phối của syndicate: lead mangers thảo luận về sự sắp xếp cho placement
phù hợp và phối hợp với nhau của việc phát hành dựa trên những điều khoản đã đề
xuất.
Cam kết vốn của lead-manager: khả năng cung cấp một sự bảo lãnh đầy đủ
(subdmit a fully underwritten offer) và sự đảm bảo có thể chống đỡ được cho việc
phát hành (support the issue) trong trường hợp xảy ra những biến động bất lợi về
lãi suất.
Hoạch định thị trường hiệu quả (Effective market making): khả năng của lead-
manager đối với việc cải thiện tính thanh khoản (liquidity) của việc phát hành .
Khả năng phân phối một lượng lớn sản phẩm phái sinh có thể đưa vào cấu trúc của
trái phiếu.
Market standing: khả năng của lead manager để chứng minh những mối quan hệ
tốt với những người khác tham gia trên thị trường.
Top Lead Managers of Eurobond (all currencies) Issues (1998)
Nguồn: IFR New Issue League Tables
3.4.3 Kế hoạch theo thời gian (Traditional Time Schedule) đối với một đợt phát
hành mới :
Firm Issues Amount (USD bn) Percentage
Merrill Lynch 351 81.34 8.70
Morgan Stanley Dean Witter297 75.41 8.07
JP Morgan 204 62.33 6.67
Goldman Sachs 154 60.52 6.47
Deutsche Bank 345 57.08 6.11
Warburg DR 224 56.53 6.05
CSFB 193 49.23 5.27
Goldman Sachs 173 48.69 5.21
Lehman Brothers 163 47.21 5.05
ABN AMRO 208 43.92 4.07
Total 3173 934.88
Không giống với thị trường trong nước, thị trường Eurobond không có những thủ
tục đăng ký cũng như waiting queues. Một đợt phát hành mới thường diễn ra trong vòng
3 tuần.
Thông thường, 2 tuần trước ngày thông báo (announcement day), lead manager
và người đi vay (borrower) sẽ họp lại trong những cuộc họp sơ bộ (preliminary
discussions). Họ sẽ thảo luận về những điều khoản (coupon, amount, offering price) của
một trái phiếu, ngoại trừ trường hợp của một thỏa thuận đã mua (bought deal), những
điều khoản này vẫn sẽ được giữ lại tạm thời cho đến ngày phát hành chính thức (formal
offering day). Một đại lý tài chính (fiscal agent) hay trustee và principal paying agent sẽ
được lựa chọn, và nếu trái phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán (thường ở
Luxembourg hay London) thì sẽ cần thêm một listing agent. Một vài tuần trước khi phát
hành trái phiếu trên thị trường, một bản cáo bạch sẽ được công bố. Bản cáo bạch sẽ miêu
tả về người đi vay và lịch sử của nó. Đối với người đi vay là công ty (corporate
borrower), báo cáo tài chính kế toán cũng sẽ được đưa thêm vào bản cáo bạch, trong khi
đối với người đi vay là chính phủ sẽ có những dữ liệu về ngân hàng trung ương và GNP
có liên quan.
Vào ngày thông báo, sẽ có một thông cáo báo chí thông báo về việc phát hành
mới, và những tờ faxes thư mời sẽ được gửi để mời các ngân hàng khác tham gia vào
syndicate. Những người tham gia tiềm năng (vào syndicate) sẽ có một tuần đến 10 ngày
để trả lời (gọi là “offering period” hay “subscription period”). Nếu người đi vay không
nổi tiếng, người đi vay ở thời điểm này bắt đầu một tour hay “ road show”, ở những
trung tâm tài chính lớn.
Lead manager, trong khi đó, sẽ giữ một syndicate book trong đó ghi lại toàn bộ
nhu cầu (total demand) đối với đợt phát hành trái phiếu này. Khi lãi suất của trái phiếu
được công khai, lead-manager sẽ bắt đầu thực hiện việc phân chia sơ bộ trái phiếu cho
những thành viên của syndicate, trong khi chờ nhận hợp đồng đã được ký của nhóm bán
và nhóm bao tiêu.
Vào cuối thời gia đăng ký (sudscription), những điều khoản định giá trái phiếu
cuối cùng được quyết định giữa những ngân hàng quản lý (tức nhóm quản lý) (managing
banks) và người đi vay. Sau đó, underwriters có một ngày để chấp nhận hay bác bỏ các
điều khoản này. Cuối cùng, những trái phiếu được phát hành chính thức (vào ngày phát
hành) khi người đi vay và managing banks ký bản hợp đồng subscription mà thiết lập
những điều khoản cuối cùng của trái phiếu. Vào thời điểm này syndycate đã có hiệu lực
mua trái phiếu từ người đi vay với giá đã thỏa thuận trước.
Vào cuối khoảng thời gian ổn định (stabilization period) (ngày đóng cửa), những
thành viên syndicate trả tiền cho những trái phiếu mà họ đã mua bằng tiền gửi vào tài
khoản ngân hàng được mở bởi lead manager. Những nhà đầu tư cuối cùng vào thời điểm
đó nhận book-entry credit cho những trái phiếu họ đã mua. Một mẩu quảng cáo của trái
phiếu sau đó sẽ được in trên các tờ báo hay tạp chí tài chính.
Những trái phiếu vô danh thuộc về các nhà đầu tư cá nhân có thể được lấy từ một
văn phòng của paying agent sau 90 ngày.
Sơ đồ dưới đây thể hiện một bản thời gian biểu điển hình:
Traditional Timetable of New Eurobond Offering
Thông báo phát hành Eurobond
( Announcement of Eurobond Issue)
Đăng kí những điều khoản cuối cùng
( Signing of final terms; Offering Day
Ngày đóng cửa ( Closing day)
Các thành viên nhóm bán trả tiền
mua trái phiếu (Selling group
members pay for bonds)
Người đi vay nhận được tiền
(Borrower receives funds)
Syndicate stabilization ( Ổn định Syndicate)
Khoảng thời gian đăng kí 7-10 ngày
(7-10 day subscription period) (Gray market period)
3.4.4 Sự đa dạng trong thủ tục phát hành
Một số những biến thể trong thủ tục truyền thống trong việc phát hành trái phiếu
Eurobond mới vẫn tồn tại. Những biến thể này là nhằm đáp ứng cho áp lực cạnh tranh và
rủi ro lãi suất.
Bought deal là một ví dụ điển hình. Trong bought deal, lead manager mua toàn bộ
trái phiếu phát hành từ người đi vay theo các điều khoản đã được thiết lập - lượng, lãi
suất, giá phát hành - trước ngày thông báo phát hành (announcement date). Việc thiết lập
giá trước này là do sự cạnh tranh giữa những ngân hàng đầu tư để có thể giành được sự
ủy quyền. Họ cạnh tranh với nhau bằng cách đưa ra một hợp đồng trọn gói trước . Những
issuing houses sẽ phải chịu rủi ro bảo lãnh (underwriting risk). Độ lớn của rủi ro và
những cam kết vốn có liên quan làm cho bought deal market trở thành một thị trường hạn
chế. Chỉ có ít hơn 30 issuing houses trên khắp thế giới có đủ nguồn lực để cạnh tranh trên
thị trường này.
Ví dụ: tháng 4 1980, CSFB mua toàn bộ trái phiếu qua đêm trị giá 100 triệu USD
từ General Motirs Aceptance Corporations. Chỉ ngay sau khi CSHB sắp xếp syndication.
Buoght deal thì rất phổ biến với những người đi vay vì 2 lý do (1) tổng thời gian
hao tốn để mang trái phiếu ra thị trường thì được rút ngắn và (2) nó loại trừ đi rủi ro về
sự những thay đổi về giá trước khi phát hành trái phiếu – ví dụ như trong thời gian gray
market.
Một điển hình khác là auction issue (tender system) (phát hành thông qua hệ
thống đấu thầu), trong đó người đi vay thông báo kỳ hạn và lãi suất của trái phiếu mới và
mời những nhà đầu tư đưa ra giá đấu thầu. Những nhà đầu tư quốc tế đưa ra mức giá
trên một tỉ lệ phần trăm của mệnh giá (ví dụ 98.9), cùng với sự tuyên bố số lượng trái
phiếu họ sẵn sàng mua ở giá đó. Người đi vay sau đó sẽ bán trái phiếu, bắt đầu với người
trả giá cao nhất và hạ xuống từ từ cho đến khi tất cả trái phiếu đều đã được chia phần.
Việc phát hành thông qua hệ thống đấu thầu sẽ giúp loại bỏ đi phí quản lý và chi phí
syndication .
Ví dụ: Peruvian Central Bank thông báo phát hành 100,000 trái phiếu Treasury
Bills với đơn giá là 1000 USD thời hạn 1 năm. Lãi suất đấu thầu cao nhất là 95.3 % , với
lượng đưa ra là 30.000.000 USD, được nhận phần đầy đủ( đó là, 30,000 T-bills). Lãi
suất đấu thầu cao thứ 2 là 95.1% , với lượng đưa ra là 40000000 USD, được nhận phần
đầy đủ(40,000 T-bills). Lãi suất đấu thầu cao thứ 3 của 95.0% , với lượng đưa ra là
60,000,000 USD, được nhận 50% lượng đề xuất ( 30,000 T-bills). Do đó, tất cả những
đề nghị trên 95% được chấp nhận.
3.5 Thị trường thứ cấp Eurobond:
Phần lớn những giao dịch trên thị trường thứ cấp của Eurobonds diễn ra trên thị
trường không chính thức (OTC).
3.5.1 Market-makers:
Cốt lõi của thị trường thứ cấp Eurobond được tạo thành bởi những ngân hàng mà
hành động như một reporting dealers và một nhóm nhỏ của những nhà môi giới trung
gian (IDBs( Inter-dealer brokers)). IDBs, lần đầu tiên được giới thiệu trên thị trường vào
năm 1978, và đã trở thành một phần quan trọng trong thị trường thứ cấp. Người môi giới
sẽ nhận lệnh mua hoặc bán với người kinh doanh và sẽ nhận thu nhập hoa hồng cho mỗi
giao dịch thành công.
Reporting dealers bị bắt buộc phải nộp một danh sách những chứng khoán mà họ
giao dịch vào cuối mỗi ngày hành chính cùng với giá mà họ chuẩn bị mua hoặc bán
chúng. Thông tin này được xử lý bởi AIBD (*) và sẽ được in trong những danh sách giá
tạo thành một nguồn thông tin công khai về giá cả của Eurobonds.
3.5.2 Liquidity
Mặc dù vậy, phần lớn trái phiếu Eurobonds thường thiếu tính thanh khoản. Tuy
nhiên, sự thiếu tính thanh khoản này không có gì là đáng ngạc nhiên , mà được biểu hiện
trong bảng sau. Lượng outstanding trung bình của một đợt phát hành trái phiếu quốc tế,
vào khoảng $100 triệu, trong đó thị trường trái phiếu chính phủ chỉ chiếm một phần nhỏ,
và hơn nữa, thời gian nắm giữ trung bình dài hơn đến 4 đến 10 lần. Hầu hết doanh thu
trong thị trường trái phiếu quốc tế tập trung trong một vài đợt phát hành lớn, mà phần lớn
được phát hành bởi những người đi vay quốc tế hay có uy tín cao.
Để tăng tính thanh khoản trên thị trường Eurobond, hai hệ thống thanh toán quốc
tế chính đã ra đời:
Euro-clear
1
được thành lập năm 1969 ở Brussels hoạt động dưới sự bảo
lãnh của Morgan.
CEDEL được thành lập năm 1970 ở Luxembourg bởi một nhóm ngân hàng
ở châu Âu và được mua lại bởi Deutsche Borse năm 2002, hiện tại được
biết đến như là Clearstream
2
Hai hệ thống thanh toán này đã làm cho việc giao dịch trên thị trường thứ cấp trở
nên dễ dàng hơn. Tất cả những giao dịch đều diễn ra trên cơ sở ẩn danh; người đi vay và
người cho vay không biết danh tính của nhau. Rủi ro của người cho vay cũng sẽ được
đảm bảo ở mức thấp nhất bởi vì những hệ thống thanh toán này sẽ đảm bảo việc hoàn trả
lại những chứng khoán mà người cho vay đã mua (hay tiền tương đương) nếu người đi va
không thể trả chúng.
Vào năm 1989, trung bình 2.4 tỷ $ những khoản cho vay bằng chứng khoán được
tổng kết vào cuối mỗi ngày hành chính trong hệ thống Euroclear; con số tương ứng cho
CEDEL là 0.7 tỷ $. So với tổng số Eurobonds thì con số này là khá nhỏ, và điều này đã
chỉ ra rằng việc short-selling chỉ đóng một vai trò thứ yếu trên thị trường. Có một vài lý
do giải thích điều này:
Hệ thống thanh toán quốc tế đặt ra những hạn định khó khăn trên lượng
chứng khoán có thể đi vay. Trong trường hợp phát hành trái phiếu
Straight bond, tối đa 10% trong tổng số có thể được đi vay; con số
tương ứng cho trái phiếu hoán đổi là 5%.
Nhân tố thứ hai hạn chế việc short-selling là chi phí cao - được tính trên
chứng khoán của người đi vay.
3.5.3 Trade matching and reporting requirements:
Những nhu cầu Trade matching and reporting trên thị trường Eurobond được gặp
nhau bởi hai hệ thống, Trax và ACE.
Trax được phát triển bởi AIBD để cung cấp cho những nhà kinh doanh những bản
tường trình về những giao dịch được cập nhật mới nhất - một giao dịch sẽ được tường
trình đến hệ thống trong vòng 30 phút sau khi ký hợp đồng – cho phép những mâu thuẫn
được giải quyết nhanh chóng như có thể. Theo những luật lệ của AIBD, tất cả những
reporting dealers (những nhà kinh doanh), những nhà môi giới và tất cả những công ty
mà kinh doanh trên lĩnh vực đầu tư ở nước Anh phải sử dụng Trax. Hệ thống ACE được
thành lập bởi AIBD, Euroclear và CEDEL để thỏa mãn những matching requirement
thanh toán trước của hai hệ thống thanh toán quốc tế và được đề nghị đến tất cả người
tham gia Euroclear và CEDEL.
3.5.4 Lợi tức và mức giá (Yields and prices) trong thị trường trái phiếu nội địa và
thị trường trái phiếu quốc tế:
Mức độ hợp nhất giữa thị trường trái phiếu quốc tế và thị trường trái phiếu nội địa
được thể hiện trong bảng bên dưới. Mức chênh lệch (Spreads) giữa lợi tức (yields) trên
những trái phiếu quốc tế (có độ tín nhiệm cao, có tính thanh khoản) và những trái phiếu
nội địa (trái phiếu chính phủ) được biểu thị trong biểu đồ và những số liệu tổng hợp được
ghi trong bảng dưới đây. Kích cỡ và độ ổn định của spread thay đổi theo các khu vực tiền
tệ . Spread rõ ràng là ổn định trong trường hợp khu vực đồng dollar và đồng franc Thụy
Sỹ, và trong cả hai trường hợp này, spread trung bình khoảng ½% (0.5%) . Những sự
phát triển về withholding tax giải thích cho những thay đổi chính trong spread đối với
khu vực trái phiếu bằng đồng Mác Đức, với spread thấp trong khoảng thời gian từ tháng
10-1987 đến tháng tư 1989, khi chính phủ Đức đưa ra mức thuế withholding tax là 10%.
Sự tồn tại của thuế thu nhập (withholding tax) trên trái phiếu nội địa được định danh
bằng đồng yên giúp giải thích tại sao độ mở lợi tức (yield spread) giữa trái phiếu nội địa
và trái phiếu quốc tế trong khu vực đồng yên tương đối thấp , vào khoảng 0.3%.
Số lượng giao dịch trong thị trường Eurobond đã tăng lên một cách nhanh chóng.
Năm 1979, tổng doanh thu được ước tính là 156 tỷ USD, trong khi năm 1990, tổng doanh
thu là 6.5 nghìn tỷ USD. Trong khi doanh thu tổng hợp tăng ở một tốc độ mạnh mẽ vào
giai đoạn 1979-1990, doanh thu bằng đồng dollar yếu đi. Theo giá trị, chỉ c38% của
doanh thu 1990 được định danh bằng USD, một sự giảm mạnh từ trên 90% năm 1979
Số lượng lớn giao dịch có thể sinh ra lợi nhuận thật cho dealers. Năm 1990 lợi
nhuận ước tính được từ Eurobond dealers là giữa 4 đến 8 tỷ USD.
4. Thị trường trái phiếu nước ngoài
4.1 Trái phiếu Yankee:
Trái phiếu Yankee phải được đăng kí theo Securities Act năm 1993, liên quan đến
việc đáp ứng những yêu cầu của tổ chức S.E.C của Mỹ (US Securities and Exchange
Commission). Nếu những trái phiếu được niêm yết (listed) (thường là NYSE, New York
Stock Exchange), chúng phải được đăng kí theo Securities Exchange Act năm 1934.
Thời hạn đăng kí thông thường kéo dài bốn tuần lễ có thể rút ngắn lại bởi shelf
registration. Trong shelf registration, bên vay đệ trình một bản cáo bạch bao gồm tất cả
những khoản vay dự kiến trong năm tới. Sau đó, tại thời điểm mới phát hành, bên vay chỉ
cần bổ sung thêm một bản cáo bạch, chỉ mất một tuần để clear.
Trái phiếu Yankee thường được đánh giá bởi một tổ chức đánh giá trái phiếu như
tập đoàn Standard and Poor’s hoặc Moody's Investors Services. Sự đánh giá là cần thiết
nếu trái phiếu được phát hành tại Mỹ (A rating is necessary if the bonds are to be sold to
certain U.S institutional investors). Những nhà phát hành có hệ số tín nhiệm AAA
thường có xu hướng bị hạn chế trên thị trường trái phiếu Yankee. (Use of the Yankee
bond market has tended to be restricted to borrowers with AAA credit ratings).
Không có thuế thu nhập trên lợi tức được trả đối với những người nước ngoài mua
trái phiếu Yankee. Lợi tức thường được trả bán niên.
4.2 Trái phiếu DEM Eurobonds và trái phiếu nước ngoài DEM:
Ở Đức không có sự tách biệt giữa ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại,
giống như ở Mỹ, và thị trường trái phiếu quốc tế DEM bị chi phối bởi các ngân hàng
thường mại lớn ở Đức.
Bundesbank yêu cầu việc phát hành trái phiếu bởi những người đi vay nước ngoài
cần phải được quản lí chính (lead-managed) ở Đức, đó là một quy định làm giảm sự khác
biệt giữa trái phiếu DEM eurobond và trái phiếu nước ngoài DEM. Nếu banking
syndicate mà bán trái phiếu quốc tế DEM chỉ bao gồm các ngân hàng Đức, những trái
phiếu này được xem như là trái phiếu nước ngoài DEM, trong khi đó, nếu các banking