Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

thực trạng lao động tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.77 KB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện kinh tế thị trường, thất nghiệp là vấn đề mang tính toàn cầu,
nó không loại trừ một quốc gia nào, cho dù quốc gia đó là nước đang phát triển hay
nước có nền công nghiệp phát triển. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các mặt
kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia. Những hậu quả mà nó gây ra không
dễ gì khắc phục được trong một thời gian ngắn. Do vậy, giảm tỷ lệ thất nghiệp, bảo
đảm việc làm, ổn định đời sống cho người lao động trở thành mục tiêu quan trọng
của mỗi quốc gia.
Việt Nam hiện nay đã có những biện pháp để giải quyết vấn đề như quy
hoạch phát triển vùng kinh tế, ngành kinh tế, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính
sách về lao động - việc làm, chính sách tiền lương tối thiểu, hội nhập kinh tế quốc
tế, định hướng và tư vấn nghề nghiệp… trong đó chú trọng đào tạo phát, triển
nguồn nhân lực là mục tiêu hàng đầu. Vậy câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có nên
tăng số lượng sinh viên theo học và tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học để giảm
thất nghiệp không? Đó chính là vấn đề mà nhóm 7 chúng tôi sẽ đem ra cùng thảo
luận với cô và các bạn.
1
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ THẤT NGHIỆP VÀ LAO ĐỘNG
1.Lý thuyết về thất nghiệp
1.1.Thất nghiệp là gì?
- Thất nghiệp: là hiện tượng những người nằm trong độ tuổi lao động quy định có
khả năng lao động đang tìm kiếm việc làm nhưng chưa tìm được việc làm.
- Tỷ lệ thất nghiệp: là tỷ lệ phần trăm giữa số người thất nghiệp(E) trong tổng số
lực lượng lao động(L)của nền kinh tế.
%100
×=
L
E
u
1.2.Phân loại thất nghiệp
a.Theo loại hình:


- Thất nghiệp theo giới tính: nam, nữ.
- Thất nghiệp theo vùng lãnh thổ.
- Thất nghiệp theo dân tộc, chủng tộc.
- Thất nghiệp theo lứa tuổi.
b.Theo lý do
- Mất việc: người lao động không có việc làm do các đơn vị sản xuất kinh doanh
cho thôi việc vì 1 lí do nào đó.
- Bỏ việc: người lao động tự ý xin thôi việc vì những lý do chủ quan (tiền công
không đảm bảo, không hợp không gian làm việc ).
- Nhập mới: những người lần đầu tiên được bổ sung vào lực lượng lao động,
nhưng chưa tìm được việc làm, đang ích cực tìm việc.
2
- Tái nhập: những người rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay trở lại làm
việc nhưng chưa tìm được việc.
c.Theo nguồn gốc thất nghiệp
- Thất nghiệp tạm thời: bao gồm những người bỏ việc làm cũ đang tìm việc làm
mới hoặc những thành phần mới ra nhập hay tái ra nhập lực lượng lao động.
- Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự thay đổi cơ cấu kinh tế làm mất cân bằng
cung cầu cục bộ trên thị trường lao động.
- Thất nghiệp do thiếu cầu: xảy ra khi cầu chung về lao động giảm xuống.
- Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: xảy ra khi tiền công bị ấn định cao hơn
mức tiền công cân bằng do không bởi các lực của thị trường.
d.Theo lý thuyết cung cầu :
- Thất nghiệp tự nguyện: những người không muốn đi làm ở mức lương hiện hành
mà muốn đi làm ở mức lương cao hơn.
- Thất nghiệp không tự nguyện: những người muốn đi làm ở mức lương hiện
hành nhưng không được thuê.
- Thất nghiệp tự nhiên: Thất nghiệp ở mức sản lượng tiềm năng.
- Thất nghiệp trá hình: những người có đi làm thực sự nhưngthu nhập không đáng
kể.

1.3. Tác động của thất nghiệp
a.Tác động tiêu cực của thất nghiệp
- Đối với hiệu quả kinh tế:
Thất nghiệp cao làm kinh tế hoạt động kém hiệu quả, các nguồn lực bị lãng phí.
3
-Đối với xã hội:
Các nước có tỷ lệ thất nghiệp cao thì phải đương đầu với các tệ nạn xã hội như
trộm cắp, cờ bạc, rượu chè Thậm chí còn phải mất chi phi cho việc chống tội
phạm, làm xói mòn nếp sống lành mạnh
-Đối với cá nhân và gia đình người bị thất nghiệp:
Thu nhập bình quân đầu người thấp, đời sống khó khăn hơn, kỹ năng nghề nghiệp
chuyên môn bị mai một, nguy cơ bệnh tật gia tăng, hạnh phúc gia đình bị đe dọa,
b.Tác động tích cực
- Thất nghiệp ở quy mô hợp lý sẽ tạo nên 1 đội quân dự trữ cung cấp lao động cho
tổ hợp vốn là lao động mới để điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
- Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên phản ánh tình trạng cuộc sống của người lao động đã
thay đổi, bởi vì người lao động một khi cuộc sống khấm khá lên thường hay thay
đổi công việc, số người này tạo nên cho thị trường lao động luôn tồn tai 1 tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên.
- Tổng số thất nghiệp thay đổi theo chu kì do vốn cố định thay đổi theo chu kì.Vì
vậy tồn tại 1 số lượng thất nghiệp sẽ làm cho việc sử dụng tiền vốn và nguồn nhân
lực có hiệu quả hơn.
2.Lao động ở Việt Nam
2.1. Bối cảnh thất nghiệp và việc làm ở Việt Nam
Hiện nay thế giới đang lâm vào tình trạng khủng hoảng dẫn đến tình trạng thất
nghiệp gia tăng, trong đó khủng hoảng việc làm thanh niên diễn ra trên quy mô
chưa từng có. Trên thế giới tỉ lệ thanh niên không có việc làm cao hơn 3 lần so với
lao động lớn tuổi và cứ 10 người thất nghiệp thì 4 trong số đó là thanh niên. Tại
4
Việt Nam, thanh niên độ tuổi từ 15 đến 24 là nhóm đông nhất, chiếm 50,4%

trong tổng số người thất nghiệp. Nữ thanh niên gặp khó khăn nhiều hơn khi tìm
việc làm so với nam thanh niên. Năm 2010, tỉ lệ thất nghiệp của nữ thanh niên ở
Việt Nam là 8,3%, so với 5,9% ở nam thanh niên. Nhưng thất nghiệp trong thanh
niên chỉ là phần nổi của tảng băng vì những người có việc làm thì chất lượng việc
làm còn là vấn đề. Một số lượng đáng kể thanh niên phải thực hiện các công việc
có năng suất thấp, dễ bị tổn thương và những công việc phi chính thức được trả
công.
Theo công bố hồi tháng 5 vừa qua của Bảo hiểm thất nghiệp TP HCM, trong năm
2011 thành phố này đã có gần 90.000 lao động thất nghiệp. Riêng những tháng gần
đây, lượng người lao động đến đăng ký bảo hiểm thất nghiệp tăng kỷ lục – lên đến
17.000 người/tháng. Trong đó, phần lớn số lao động thất nghiệp đang trong độ tuổi
còn trẻ và sung sức nhất khi có trên 20% người thất nghiệp dưới 24 tuổi và nếu
tính số lao động từ 40 tuổi trở xuống thì số lao động thất nghiệp trong độ tuổi
trưởng thành chiếm gần 65% tổng số người thất nghiệp.Tuy nhiên, họ thất nghiệp
không phải chỉ vì không có việc làm mà là thiếu cơ hội việc làm phù hợp với trình
độ học vấn hoặc thiếu kinh nghiệm làm việc so với lao động trưởng thành.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là do các doanh nghiệp đang lao đao trong
bối cảnh nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn.Từ đầu năm 2012 đến nay đã có
hơn 3.100 doanh nghiệp xin giải thể, ngừng kinh doanh hoặc tạm ngừng kinh
doanh. Các doanh nghiệp đang gặp nhiều trở ngại trong việc tiếp cận nguồn vốn thị
trường, dẫn đến co hẹp hoạt động hoặc tạm ngừng sản xuất. Điều này khiến doanh
nghiệp buộc phải cắt giảm nhân công dẫn đến người lao động mất việc làm cũng
tăng thêm gấp bội và chính các lao động trẻ phải gánh chịu ảnh hưởng trực tiếp từ
tình trạng này. Các doanh nghiệp tư nhân cũng chững lại việc tiếp nhận những lao
động trẻ khiến thanh niên phải đối mặt nhiều hơn với thất nghiệp.
5
Có một thực tế hiện nay là nguồn lao động trẻ đang làm những công việc ngắn hạn
và khó có cơ hội ở những việc dài hạn hơn. Nhiều thanh niên có kỹ năng đang phải
làm các công việc bán thời gian, hoặc những công việc không đòi hỏi kỹ năng cao,
bởi họ không thể tìm được công việc trong lĩnh vực được đào tạo. Điều này có thể

giải thích vì sao ở 1 số thành phố tuy quy mô đầu tư lớn, tốc độ tăng trưởng cao
nhưng tỉ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động, đặc biệt là lao động ở độ tuổi 18-24
vẫn cao.
Một lý do cũng khiến nhiều lao động trẻ chưa có việc làm đó là khó đáp ứng hết
các yêu cầu doanh nghiệp đề ra, đặc biệt là các sinh viên mới ra trường. Nhiều
công ty yêu cầu lao động có kinh nghiệm trong khi sinh viên mới tốt nghiệp lại
thiếu kinh nghiệm. Có doanh nghiệp vẫn còn phân biệt bất bình đẳng giới, chỉ ưu
tiên tuyển dụng nam giới, thậm chí còn có sự phân biệt đối xử, gây mất công bằng
giữa tấm bằng tốt nghiệp.Thông thường sinh viên tốt nghiệp trường dân lập khó
xin việc hơn những sinh viên trường công lập. Nhiều chuyên gia cho rằng việc lao
động trẻ gặp khó khăn khi xin việc đôi khi không phải do nhà tuyển dụng quá khắt
khe, mà vấn đề là từ phía nguồn lao động trẻ. Phần lớn sinh viên khi ra trường
thiếu kiến thức chuyên môn cũng như kĩ năng mềm như ngoại ngữ, vi tính…cần
thiết mà nhà tuyển dụng yêu cầu.
Bảng số người thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên chia theo giới tính, thành thị, nông
thôn và trình độ chuyên môn kĩ thuật trong 6 tháng đầu năm 2011
(Đơn vị: nghìn người)
Trình độ chuyên môn Quý 1 (tính từ 1/4/2011 ) Quý 2 ( tính từ 1/7/2011)
Chung Nam Nữ Chung Nam Nữ
Tổng 1183,2 512,2 671,1 945,3 397,4 547,9
6
Không có trình độ CMKT 906,4 374,5 532,0 724,3 284,9 439,4
Dạy nghề 73,4 50,7 22,6 55,3 43,1 12,3
Trung cấp chuyên nghiệp 75,0 27,8 47,2 56,0 0,7 35,3
Cao đẳng 45,6 22,1 23,5 35,8 13,0 22,7
Đại học trở lên 82,4 37,0 45,4 73,6 35,5 38,0
Không xác định 0,4 0,0 0,4 0,4 0,2 0,2
Thành thị 543,8 245,8 298,0 451,2 193,6 257,6
Không có trình độ CMKT 391,2 245,8 217,7 324,6 135,3 189,3
Dạy nghề 37,6 173,5 14,2 25,6 18,8 6,8

Trung cấp chuyên nghiệp 35,0 23,3 20,5 33,9 10,8 23,1
Cao đẳng 26,2 11,9 14,3 21,1 6,7 14,3
Đại học trở lên 53,5 22,7 30,8 45,6 21,7 23,9
Không xác định 0,4 0,0 0,4 0,4 0,2 0,2
Nông thôn 639,4 266,4 373,1 494,1 203,8 290,3
Không có trình độ CMKT 515,3 201,0 314,3 399,7 149,6 250,1
Dạy nghề 35,8 27,4 8,4 29,7 24,3 5,4
Trung cấp chuyên nghiệp 40,0 13,4 26,7 22,0 9,8 12,2
Cao đẳng 19,4 10,2 9,2 14,7 6,3 8,4
Đại học trở lên 28,9 14,4 14,6 27,9 13,8 14,1
Không xác định 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0
Số người thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên chia theo giới tính, thành thị/nông thôn và
nhóm tuổi, 6 tháng đầu năm 2011
(Đơn vị: nghìn người)
Nhóm tuổi Quý 1 ( tính từ 1/4/2011 ) Quý 2 ( tính từ 1/7/2011)
Chung Nam Nữ Chung Nam Nữ
Tổng số 1183,2 512,2 671,1 945,3 397,4 547,9
15-19 179,6 96,6 82,9 128,0 60,7 67,4
20-24 341,9 150,1 191,8 259,4 116,5 142,9
25-29 204,7 86,6 118,1 169,4 68,5 100,8
30-34 119,4 36,4 83,0 79,8 21,0 58,8
35-39 81,5 29,2 52,4 55,7 16,6 39,1
7
40-44 66,6 23,3 43,3 62,1 22,1 40,0
45-49 71,6 27,3 44,3 64,1 21,8 42,3
50-54 80,0 29,4 50,6 78,6 27,7 50,9
55-59 35,7 31,9 3,8 41,2 38,9 2,3
60-64 1,8 1,4 0,5 4,0 3,0 1,0
65 trở lên 0,4 0,0 0,4 2,9 0,6 2,4
Thành thị 543,8 245,8 298,0 451,2 193,6 257,6

15-19 56,8 32,1 24,7 44,7 21,4 23,3
20-24 137,5 63,6 74,0 109,8 51,6 58,2
25-29 97,5 44,8 52,7 83,4 33,4 49,9
30-34 60,9 20,8 40,1 44,8 15,9 28,9
35-39 42,0 15,1 6,9 33,0 8,9 24,2
40-44 38,7 14,4 24,2 32,4 10,5 22,0
45-49 35,8 16,6 19, 35,4 13,0 22,4
50-54 52,5 19,8 32,7 43,9 17,4 26,5
55-59 20,9 17,9 3,0 21,4 20,3 1,0
60-64 0,8 0,8 0,0 1,7 0,9 0,8
65 trở lên 0,4 0,0 0,4 0,8 0,3 0,4
Nông thôn 639,4 266,4 373,1 494,1 203,8 290,3
15-19 122,7 64,5 58,2 83,4 39,3 44,1
20-24 204,4 86,6 117,8 149,6 64,9 84,7
25-29 107,2 41,8 65,4 86,0 35,1 50,9
30-34 58,5 15,6 42,9 35,0 5,1 29,9
35-39 39,5 14,1 25,4 22,7 7,7 15,0
40-44 28,0 8,9 19,1 29,7 11,7 18,0
45-49 35,8 10,7 25,1 8,8 8,8 19,9
50-54 27,6 9,6 17,9 34,7 10,3 24,4
55-59 14,7 14,0 0,7 19,8 18,6 1,3
60-64 1,0 0,6 0,5 2,3 2,1 0,2
65 trở lên 0,0 0,0 0,0 2,1 0,2 1,9
2.2.Mức độ đáp ứng với khu vực công và khu vực
8
Bảng số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động chia theo giới thính, thành
thị /nông thôn, loại hình kinh tếtrong 6 tháng đầu năm 2011 (Đơn vị: nghìn người)
STT Loại hình kinh tế Quý 1 ( tính từ 1/4/2011 ) Quý 2 ( tính từ 1/7/2011)
Chung Nam Nữ Chung Nam Nữ
Tổng số 1744,2 959,9 784,3 1285,8 698,3 587,4

1 Nhà nước 32,7 17,6 15,2 18,6 12,6 6,0
2 Ngoài nhà nước 1702,8 937,4 765,5 1256,4 679,7 576,6
3 Có vốn đầu tư NN 2,8 0,9 1,9 3,6 1,4 2,2
4 Không xác định 5,8 4,0 1,8 7,2 4,6 2,6
Thành thị 274,2 149,7 124,5 206,6 109,7 96,9
1 Nhà nước 10,7 4,1 6,6 8,5 4,6 3,9
2 Ngoài nhà nước 262,8 145,4 117,5 196,3 104,4 91,9
3 Có vốn đầu tư NN 0,3 0,0 0,3 1,5 0,8 0,7
4 Không xác định 0,3 0,2 0,1 0,4 0,0 0,4
Nông thôn 1470,0 810,2 659,8 1079,2 588,6 490,6
1;L;
’Ơ
Nhà nước 2,0 13,5 8,5 10,2 8,1 2,1
2 Ngoài nhà nước 1440,0 792,0 648,0 1060,1 575,3 484,8
3 Có vốn đầu tư NN 2,5 0,9 1,6 2,1 0,6 1,5
4 Không xác định 5,5 3,8 1,7 6,8 4,6 2,2
Mức độ cung ứng của lao động trẻ Việt Nam.
Với 2/3 dân số dưới 35 tuổi và tỉ lệ người biết chữ là 90-95% , Việt Nam có 1 lực
lượng lao động trẻ mà nhiều quốc gia vẫn mơ ước. Lao động nước ta có sự khéo
léo đặc biệt, có tinh thần làm việc chăm chỉ, khả năng sáng tạo tốt, sức khỏe tốt
cũng như khả năng chịu áp lực cao. Có thể nói nguồn lao động trẻ của Việt Nam
9
khá dồi dào và tiềm năng.Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của người lao
động đã được nâng lên qua các năm, tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu lao
động, là chìa khóa để tiếp thu, thích ứng với khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến, là yếu tố quan trọng nâng cao năng suất lao động.
Tuy nhiên lao động nước ta còn chưa phân bố đồng đều, trong các khu vực có sự
chênh lệch lớn: khu vực nhà nước số lao động có khoảng 4 triệu người, khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài 1,67 triệu người nhưng khu vực kinh tế ngoài nước có gần
40 triệu người (tỉ lệ khu vực nhà nước – kinh tế ngoài nhà nước – khu vực có vốn

đầu tư nước ngoài: 9,1% - 87,2% - 3,7%). Chiếm tỉ lệ lao động lớn nhất nhưng
kinh tế ngoài nhà nước chỉ đóng góp vào 47% trong GDP và 35% giá trị sản lượng
công nghiệp. Trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng lao động ít
nhưng lại đóng góp gần 19% cho GDP và gần 45% giá trị sản lượng công nghiệp.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay chất lượng nguồn nhân lực rất thấp, đào tạo chưa theo
sát thực tế, không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp.Trên thị trường lao
động hiện tại, nguồn nhân lực cao cấp và công nhân tay nghề cao vẫn đang là mối
quan tâm của nhà tuyển dụng. Thị trường đang rất cần các chuyên gia về quản trị
kinh doanh, lập trình viên, kỹ thuật viên, các nhà quản lý trung gian hiểu biết về tài
chính và tiếp thị với yêu cầu cơ bản về tiếng Anh, những công nhân có tay nghề
cao, ham học hỏi. Tuy nhiên, nguồn cung ứng lao động có chất lượng trên thị
trường còn hạn chế.
Bên cạnh đó, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác để hoàn thành công việc
của lao động Việt Nam quá yếu kém. Nhiều nhà quản lý nước ngoài đã nhận xét
rằng: "Lao động Việt Nam làm việc rất tốt khi tự mình giải quyết công việc, nhưng
nếu đặt họ trong một nhóm thì hiệu quả kém đi nhiều". Chính điều này đã khiến
cho nhiều doanh nghiệp không thể thành đạt được, cho dù họ đã tập hợp được đội
ngũ nhân công có đẳng cấp cao.,
10
Theo kết quả tổng hợp năm 2011 của Viện Nghiên cứu Thanh niên, có tới 88,6%
doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng công nhân kĩ thuật, nhưng số người đáp ứng
các tiêu chuẩn lại thấp, nơi tuyển được cao nhất cũng chỉ đạt 56,7% nhu cầu. Qua
khảo sát 50 doanh nghiệp tại Hà Nội với 33.115 lao động thì 7 doanh nghiệp cho
biết số thanh niên được đào tạo từ các trường nghề về chất lượng kém nhiều so với
yêu cầu thực tế; 43 doanh nghiệp cho biết họ phải đào tạo lại từ 3 tháng đến 1 năm.
Với chất lượng nguồn nhân lực thấp như vậy, khó có thể cạnh tranh trong thị
trường lao động trong nước chưa nói đến sự hội nhập quốc tế. Đây chính là một
trong những khó khăn lớn của thị trường lao động Việt Nam.
Ở 1 số ngành nghề nhà tuyển dụng cố gắng tìm kiếm nhưng cũng không đủ ứng
viên trong khi có những lĩnh vực thì hồ sơ xin việc chất chồng nhưng không được

ngó ngàng đến. Những ngành như nhân sự, hành chính, thư kí, kế toán, xuất - nhập
khẩu luôn có mức cạnh tranh cao nhất trong tất cả các nghề. Điều này cho thấy
nguồn cung cho thị trường nhân lực trực tuyến trong những ngành này luôn phong
phú.Còn thiếu hụt lao động trong các nhóm ngành nghề: (1) nhóm ngành nghiên
cứu thị trường, tiếp thị: chủ yếu ở các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ
yêu cầu trình độ chuyên môn từ sơ cấp đến đại học, (2) nhóm ngành kỹ thuật điện
– công nghiệp chế biến: đòi hỏi người lao động lành nghề, có chuyên môn, kỹ
thuật đáp ứng và tiếp thu tốt công nghệ sản xuất công nghiệp hiện đại; (3) nhóm
ngành dịch vụ và phục vụ: đầu bếp, phục vụ ở khu vui chơi giải trí, tiêu thụ sản
phẩm, sửa chữa và các dịch vụ cá nhân,…
Đồng thời, thông qua các kênh giao dịch việc làm cũng phản ánh sự mất cân đối về
trình độ đào tạo, ngành nghề đào tạo như: lao động có trình độ đại học đăng ký dự
tuyển bằng 80-90% nhu cầu các doanh nghiệp, số đạt yêu cầu sơ tuyển bằng 43-
45% nhu cầu các doanh nghiệp (những ngành như cơ khí, điện, xây dựng, giao
thông, tự động hóa khả năng đáp ứng khoảng 25% nhu cầu); lao động có trình độ
11
trung cấp, cao đẳng đăng ký dự tuyển bằng 140% nhu cầu nhưng số đạt yêu cầu sơ
tuyển chỉ bằng 50% (2001 - 2007) và 34,3% (2008-2009) nhu cầu; lao động công
nhân kỹ thuật đăng ký dự tuyển chỉ bằng 27% nhu cầu các doanh nghiệp, số đạt
yêu cầu của các doanh nghiệp bằng 15% nhu cầu; lao động phổ thông đăng ký dự
tuyển chỉ đạt 27% nhu cầu các doanh nghiệp, số qua sơ tuyển chỉ đạt 15% nhu cầu
doanh nghiệp.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRẺ Ở VIỆT NAM – KHẲNG
ĐỊNH HIỆU QUẢ GIẢI PHÁP GIẢM THẤT NGHIỆP
1. Lợi ích và chi phí cho việc học đại học
12
Khi tính lợi ích của một hoạt động đầu tư theo thời gian ta phải chiết khấu giá trị
của những khoản thu nhập, chi phí tại các thời điểm khác nhau về cùng một thời
điểm.
Khi chúng ta đi học, chúng ta trả mức phí trước mắt và thu lợi từ các dòng thu

nhập cao hơn trong tương lai.
- Chúng ta có những luồng thu nhập khác nhau ở những mốc thời gian khác nhau.
Làm thế nào để có thể so sánh được chúng với nhau?
- Chìa khóa cho việc này là nhận ra được rằng giá trị của một đô la thu được trong
tương lai ít hơn so với giá trị của một đô la nhận được ngày hôm nay.
- Để thấy được điều này, trước hết hãy xét trường hợp ngược lại.
- Giả định rằng chúng ta đang đi từ tiền kiếm được trong hiện tại đến tiền kiếm
được trong tương lai.
- Hiện tại, chúng ta đang cho vay hay gửi một khoản tiền trong ngân hàng là P và
nhận một mức lãi suất r nào đó.
- Giá trị tương lai của khỏan tiền này trong một năm sẽ là:
Giá trị trong một
năm
=P
Gốc
+ Pr
Trả lãi
= P(1+r)
- Một cách chung chung hơn, thì sau n năm, giá trị này sẽ là:
V = P(1+r)
n
- Và chúng ta thường thích tiêu dùng các lợi ích càng sớm càng tốt.
Lưu ý: là lãi kép (là số tiền lãi không chỉ tính trên số tiền gốc mà còn tính trên số
tiền lãi do số tiền gốc sinh ra hay chính là lãi tính trên lãi) đóng vai trò rất quan
trọng ở đây.
13
- Bây giờ chúng ta có thể thấy được giá trị của khoản tiền hiện tại trong tương lai ở
mức lãi suất hiện tại.
Ví dụ: Nếu n = 5 và r = 5% (0.05) thì 100$ sau 5 năm sẽ thành 127.63$.
Điều mà chúng ta quan tâm là trường hợp trái ngược. Khoản tiền 127.63$ chúng ta

nhận được sau 5 năm có giá trị hiện tại là bao nhiêu?
- Vì những đồng đô la được chiết khấu về giá trị hiện tại (hay giá trị hiện hành).
n
r
V
PV
)1( +
=
Trong đó: PV : là giá trị hiện hành
V : là giá trị tương lai
r : là mức lãi suất
n : là số năm
=> Giá trị Hiện hành trong ví dụ của chúng ta sẽ là:
5
)05.01(
63.127
+
=PV
- Rõ ràng, nó sẽ chỉ có giá trị là 100$ nếu tỷ lệ lãi suất là 5%. Điều này ngầm thể
hiện một thực tế là mức lãi suất r chính là chi phí cơ hội của khoản đầu tư.
Với một người đi học bốn năm để lấy được một tấm bằng, có chi phí cho bốn năm
đi học, với mức thu nhập dự kiến trong tương lai và số năm làm việc trước khi về
hưu (n) thì chúng ta có thể tính được giá trị hiện tại (PV) của tấm bằng:
n
n
O
r
W
r
W

r
C
r
C
r
C
CPV
)1(

)1()1()1(1
4
4
3
3
2
21
+

++
+

+
+

+
+

+
+


+−=
Trong đó: C là chi phí bỏ ra
14
W∆
là thu nhập dự kiến trong tương lai
Chỉ nên đi học lấy tấm bằng này khi giá trị hiện tại PV > 0 (bỏ qua bất kể một thu
nhập phi tiền nào từ việc đi học trong thời điểm hiện tại).
Vì thế, cho dù người đó có quyết định sử dụng lợi ích thu được từ hoạt động đấu
tư cho việc đi học đại học như thế nào thì cũng phải chiết khấu các khoản lợi ích
nhận được trong tương lai về hiện tại để ra quyết định đầu tư ở thời điểm hiện tại.
Chi phí của việc đi học đại học thường xảy ra trong một thời gian tương đối ngắn.
Các chi phí này bao gồm chi phí trực tiếp là các khoản học phí, lệ phí và chi phí về
tinh thần…
Việc lựa chọn có đi học đại học hay không là sự lựa chọn rất quan trọng quyết
định về thu nhập trong suốt cuộc đời của mình.
Ta có thể minh họa bằng đồ thị nhưng để đơn giản hóa ta giả định:
- Bắt đầu đi học đại học ở tuổi 18 và học xong khi 22 tuổi. Trong khi học ĐH thì
không đi làm thêm.
- Đường màu đỏ thể hiện dòng thu nhập khi tốt nghiệp ĐH.
Đường màu xanh thể hiện dòng thu nhập khi tốt nghiệp cấp III.
- Vùng 1 là chi phí phải bỏ ra để chi cho sách vở và đồ dùng học tập, học phí cũng
như các khoản chi khác nhưng không phải là các khoản phí sinh hoạt vì dù quyết
định thế nào ta vẫn phải thỏa mãn nhu cầu này.
- Vùng 2 là phần thu nhập bị mất nhìn thấy (do không đi làm để dành thời gian cho
việc học tập), bằng với chi phí cơ hội của thời gian bỏ ra cho việc học đại học.
- Vùng 3 là thu nhập có được với tấm bằng ĐH hay chinh là tổng lợi ích.
ĐỒ THỊ
Tuổi lao động
15
Thu nhập, chi tiêu

0
1
2
18
22
3
$
Nếu đi học đại học thì thu nhập âm trong 4 năm đầu, tiếp đó là thu nhập thấp hơn
so với những nười tốt nghiệp cấp III do thực tế là kinh nghiệm của những sinh viên
mới ra trường không thể bằng những người tốt nghiệp phổ thông được. Nhưng sau
đó thu nhập tăng lên và cao hơn nhiều.
Đây cũng là lý do khiến nhiều người quyết định đầu tư để học đại học.Để có được
lợi ích lớn nhất từ việc đi học thì cần có hiệu giá trị hiện tại của tổng lợi ích và chi
phí cho việc đi học là lớn hơn không.
16
2. Một số yếu tố chi phối quyết định đầu tư cho việc học đại học
2.1. Lý thuyết
Các yếu tố chi phối đến quyết định đầu tư cho việc học đại học như: sức khỏe, tuổi
tác, chi phí, thời gian thu hồi chi phí đào tạo, sự khác biệt về thu nhập. Tuy
nhiên để phục vụ cho bài thảo luận xin làm rõ về: chi phí, thời gian thu hồi
chi phí đào tạo và sự khác biệt về thu nhập.
a.Chi phí:
Đầu tư vốn con người sẽ tăng nếu chi phí đầu tư thấp. Chi phí bằng tiền để học Đại
học là các khoản thu nhập bị bỏ qua và các khoản chi phí trực tiếp như tiền học
phí, tiền mua sách vở, và các khoản lệ phí khác. Vì thế, nếu giá trị của các khoản
thu nhập bị bỏ qua hoặc học phí giảm, các yếu tố khác không đổi, thì số người
tham gia học Đại học sẽ tăng. Tương tự, nếu các khoản tài trợ cho người đi học
tăng, các yếu tố khác không đổi, số người học Đại học cũng sẽ tăng.
Chi phí của việc học Đại học sẽ là yếu tố giải thích tại sao chúng ta quan sát thấy
rằng những người lớn tuổi sẽ học Đại học ít hơn những người trẻ tuổi. Cũng giống

như tuổi của người công nhân, để có thể trả mức lương cao, những người sử dụng
lao động yêu cầu người lao động phải đạt một kinh nghiệm và mức độ chín chắn
trong công việc. Những người công nhân lớn tuổi sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn so
với những người trẻ tuổi và vì vậy họ thường yêu cầu mức lương cao hơn( tính
trung bình), chi phí cơ hội của việc học Đại học vì thế sẽ lớn hơn những người trẻ
tuổi. Những người lớn tuổi vì thế không muốn học Đại học; khoản thu nhập bị bỏ
qua do việc học Đại học là khá lớn và khoảng thời gian để họ thu hồi lại các khoản
đầu tư học Đại học lại ngắn, do đó lợi ích của việc học Đại học thấp.
17
Các chi phí về tinh thần của việc học Đại học cũng là yếu tố cần tính đến. Các
khoản chi phí này thường không dễ nhận biết, vì chúng thường liên quan đến các
hoạt động. Những người có thể học dễ dàng và học tốt ở trường phổ thông thì có
thể dễ dàng và thích học Đại học hơn.
Trong bất kì hệ thống giao dịch thị trường nào cũng có những người ở vị trí đường
biên, nghĩa là họ ở vị trí rất gần với điểm mà tại đó không có giao dịch. Ví dụ, xem
xét đường cầu về giáo dục dốc xuống, số người tham gia học Đại học là một hàm
của chi phí và sẽ giảm khi chi phí tăng. Ai sẽ là những người gần với đường giới
hạn trong việc ra quyết định học Đại học? Một phần họ là những người mà đối với
học các khoản chi phí tinh thần của việc học và nghiên cứu là rất cao, những người
không thích học ở bậc trung học phổ thông. Đối với nhóm này thường là nhóm có
sự thay đổi nhiều nhất khi chi phí của việc học đại học thay đổi. Ngoài ra, vị trí của
trường học cũng có tác động đến việc tham gia học của học viên.
b.Thời gian thu hồi chi phí đào tạo:
Hiệu quả nền kinh tế của đào tạo được phản ánh thông qua thời gian thu hồi chi
phí đào tạo. Giả định với chất lượng đào tạo và thời gian đào tạo như nhau, hình
thức đào tạo nào có thời gian thu hồi chi phí đào tạo càng ngắn thì hình thức đó có
hiệu quả kinh tế càng cao. Thời gian thu hồi chi phí đào tạo có thể được tính bằng
công thức:
T = Cd/ M
Trong đó:

T : thời gian thu hồi chi phí đào tạo tính theo năm
Cd : chi phí đào tạo
18
M: thu nhập thuần túy của lao động trong một năm sau khi đã được đào tạo
c.Sự khác biệt về thu nhập :
Cầu về đào tạo có tương quan dương với thu nhập, khi người lao động được đào
tạo ở bậc đại học thì có thể thu nhập hoặc lợi ích tinh thần của họ sẽ tăng. Trên
thực tế, dự báo này có thể được kiểm định với thu nhập bằng tiền, bởi vì các khoản
thu nhập về tinh thần thì không quan sát được.
Khi phân tích về những tác động tiềm năng của những người tốt nghiệp đại học đối
với việc tham gia đại học, thì không bỏ qua một thực tế rằng mô hình của chúng ta
nhấn mạnh vào những lợi ích không thể đếm được trong suốt cuộc đời của họ,
trong khi dữ liệu chỉ đề cập tới một viễn cảnh nghề nghiệp/ công việc ngay sau khi
một người đã tốt nghiệp Đại học.
Tuy vậy, có hai lý do để cho rằng viễn cảnh công việc ngay sau khi tốt nghiệp là rất
quan trọng trong việc lựa chọn học Đại học. Thứ nhất, các khoản thu nhập ngay
sau khi tốt nghiệp thì có thể dễ nhận thấy và đo lường hơn so với những khoản thu
nhập sau đó. Thứ hai, khi thiếu bất kỳ thông tin tốt hơn nào, mọi người có thể sử
dụng xu hướng công việc hiện tại đối với những người tốt nghiệp đại học để dự
báo về viễn cảnh tương lai xa hơn. Nếu hiện tại đang có tình trạng dư thừa lao
động, người ta có thể giả định rằng đặc điểm này sẽ kéo dài để gây ra những tác
động về giảm nhu cầu với việc học đại học.
Cầu về đào tạo bị tác động bởi rất nhiều sự khác biệt về thu nhập. Tuy nhiên, bản
thân cầu về đào tạo cũng bị tác động bởi số lượng những người tham gia học ở
trung học phổ thông. Để có được một bức tranh toàn cảnh về việc giữa tham gia
học đại học và các khoản thu nhập tác động lẫn nhau như thế nào chúng ta sẽ cần
đưa ra một mô hình đơn giản về thị trường lao động.
S
19
1

D
0
D
1
W
0
W
Tiền lương
Số lao động tốt nghiệp đại học
0
N
1
N
0
Nếu những người học đại học chỉ có được mức lương thấp thì số người muốn học
đại học sẽ giảm. Ngược lại nếu thu nhập của những người học đại học tăng lên khi
đó sẽ có nhiều người muốn học đại học hơn. Nếu mức lương cứ tiếp tục tăng thì số
người học đại học cũng sẽ tăng theo.
Nếu đường cầu về lao động của những người tốt nghiệp đại học dịch sang phải dẫn
đến sự gia tăng của mức lương sẽ khuyến khích nhiều người học đại học hơn và vì
thế số người tốt nghiệp đại học cũng sẽ tăng.
Nếu đường cung lao động của những người tốt nghiệp đại học dịch sang phải điều
này có thể xảy ra khi chính phủ trợ cấp cho những sinh viên khi học hoặc miễn
nghĩa vụ quân sự cho họ thì lương sẽ giảm.
20
Ta có đồ thị minh họa:
0
S
1
S

D
Tiền lương
0
W
1
W
Số lao động tốt nghiệp đại học
0
N
1
N
0
Tuy nhiên sựđiều chỉnh về việc tham gia học đại học đối với sự thay đổi về số
người học Đại học thì không luôn luôn diễn ra một cách dễ dàng và nhanh chóng,
đặc biệt là trong một số lĩnh vực như chế tạo máy, luật sư, những lĩnh vực này có
tính kỹ thuật rất cao. Vấn đề là nếu mức lương của những người chế tạo máy đột
ngột tăng mạnh trong năm 1990, thì mức cung về những người tốt nghiệp đại học
chuyên ngành này cũng không thể bị tác động trong vòng 3- 4 năm tiếp theo.
Tương tự như vậy, nếu mức lương giảm, thì những người học chuyên ngành này
cũng rơi vào hoàn cảnh bất đắc dĩ phải chuyển sang một lĩnh vực khác. Trong khi
21
họ đã đầu tư rất nhiều thời gian và công sức và có thể tiếp tục theo đuổi công việc
thợ máy là lại dành thêm tiền và thời gian để học một chuyên ngành mới.
Vậy qua phân tích ta thấy rằng: quan điểm “ để giảm tình trạng thất nghiệp trong
thời gian tới nên tăng số lượng sinh viên theo học và tốt nghiệp bậc đại học và sau
đại học” là không đúng.
2.2.Thực tiễn
Thứ nhất :là về chi phí của việc học đại học.Không phải cá nhân nào cũng có điều
kiện để theo học đại học vì chi phí phải bỏ ra là khá lớn.Theo ông Ngũ Duy Anh -
Vụ trưởng Vụ công tác học, sinh viên, Bộ GD-ĐT, cho biết theo báo cáo của 180

trường ĐH, CĐ trên cả nước, đã có 1.163 sinh viên (556 hệ ĐH, 607 hệ CĐ) phải
nghỉ học do không có khả năng đóng học phí.
Riêng trong năm học 2010-2011, đã có 46 học sinh của 20 tỉnh, thành thi đỗ ĐH
nhưng phải nghỉ học vì khó khăn, cụ thể, Đắk Lắk (10 học sinh), Vĩnh Phúc (9 học
sinh), Hà Giang (8 học sinh), KonTum (4 học sinh), Hậu Giang (4 học sinh)…
Thống kê của Bộ GD-ĐT cho thấy số sinh viên phải bỏ học tập trung ở một số
trường tại các tỉnh khó khăn và một số thành phố lớn, cụ thể các tỉnh miền Trung
(424 sinh viên), khu vực phía Bắc (170 sinh viên), khu vực Tây Nam bộ (103 sinh
viên), Hà Nội (199 sinh viên), TPHCM (221 sinh viên). Mười tỉnh có lượng sinh
viên bỏ học lớn là Bình Thuận (68 sinh viên), Quảng Trị (62 sinh viên), Hà Nội (61
sinh viên), Bình Định (59 sinh viên), Thừa Thiên – Huế (53 sinh viên), Thanh Hóa
(39 sinh viên), Nam Định (38 sinh viên), Bắc Giang (36 sinh viên), Kiên Giang (36
sinh viên), Hà Tĩnh (28 sinh viên). Phần lớn sinh viên bỏ học khi đang học năm thứ
1 hoặc năm thứ 2 (1.029 sinh viên, tương đương 88% tổng số sinh viên bỏ học).
22
Cùng viễn cảnh đó ở Anh, khi học phí của 1 số trường năm nay tăng tới 3 lần
khiến cho nhu cầu học đại học, cao đẳng giảm 7% so với năm trước (từ 692.358
xuống còn 642.654 học viên), 7 trên 24 trường đại học ở nước này đang dư thừa
ghế ở giảng đường.
Thứ hai :là thực trạng các trường đại học ở Việt Nam còn nhiều vấn đề bất cập.
So với năm 1987 nước ta chỉ có 101 trường đại học và cao đẳng thì đến năm 2009
số lượng các trường đại học và cao đẳng đã là 376, tăng gấp 3,7 lần.Việc mở rộng
quy mô không chỉ bó hẹp trong các trường công lập mà cả loại hình dân lập. Với
101 trường đại học và cao đẳng năm 1987 chúng ta chưa có trường ngoài công lập,
đến năm 1997 cả nước đã có 15 trường đại học ngoài công lập và đến tháng 9 năm
2009 có 81 trường đại học, cao đẳng ngoài công lập, chiếm 21,5% (44 trường đại
học và 37 trường cao đẳng). Cùng với việc mở rộng quy mô của các trường đại học
cung như gia tăng số lượng các trường để nâng cao chất lượng giáo dục thì hiện
nay có không ít trường được mở ra chỉ với mục đích lợi nhuận, chất lượng đào tạo
23

yếu kém, dễ dãi trong quá trình tuyển sinh. Như ta thấy trong các đợt tuyển sinh
đại học các năm vừa qua nhiều trường đại học đã lấy điểm chuẩn dưới mức sàn của
bộ giáo dục quy định nhằm lôi kéo học sinh, đánh vào tâm lý cầu đại học của học
sinh và phụ huynh.
Số lượng các trường Đại học
Đại học Năm 2007 – 2008 Năm 2008 – 2009
Công lập 100 trường 101 trường
Ngoài công lập 40 trường 45 trường
Tỉ lệ sinh viên
Năm 2007 – 2008 Năm 2008 – 2009
Số lượng SV 1,180,547 1,242,778
SV nữ 571,523 602,676
Công lập 1,037,115 1,091,426
Ngoài công lập 143,432 151,352
Chính Quy 688,288 773,923
Cử tuyển 5,765 5,562
Vừa học vừa làm 486,494 463,293
SV tốt nghiệp 152,272 143,466
Bên cạnh đó cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình học tập còn thiếu thốn, tỉ lệ các
trường đáp ứng được yêu cầu đó mới ở mức rất thấp. Hệ thống trang thiết bị đào
tạo, phòng thí nghiệm mới chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu đào tạo; hệ thống CSVC
đáp ứng được 50% nhu cầu; hệ thống thư viện, CSVC thông tin còn yếu, nhiều
trường chưa có quy hoạch… các trường đại học, cao đẳng Việt Nam còn tồn tại
một khoảng cách khá lớn, khả năng tụt hậu lâu dài so với các trường trong khu vực
và trên thế giới.
24
Việc phát triển ồ ạt về số lượng mà không chú trọng đến chất lượng dẫn đến tình
trạng lực lượng giảng viên ở mỗi trường ngày càng mỏng và yếu. Hiện nay có 23
trường có tỷ lệ 50- 60 sv/giảng viên. Phần lớn các trường này thuộc khối kinh tế,
tài chính, ngân hàng. Có 18 trường có từ 40- 50 sv/giảng viên. Những trường này

gồm một số trường thuộc khối tài chính, ngân hàng và một số trường ngoài công
lập, trường cao đẳng. Có 40 trường (13,7%) có từ 30- dưới 40 sv/giảng viên; 85
trường (29,3%) có từ 20- 30 sv/giảng viên.Chỉ có tổng cộng 43% số trường bảo
đảm được tỷ lệ sinh viên/giảng viên ở mức từ 20sv/giảng viên trở xuống.
Như vậy Việt Nam đang mở rộng quy mô đào tạo giáo dục tuy nhiên mới chỉ nâng
cao về số lượng còn chất lượng thì vẫn không khả quan hơn.
Thứ 3: là hầu hết các sinh viên hiện nay coi cầu về giáo dục như 1 sự tiêu dùng
thông minh – nghĩa là đến trường trước hết là nhằm thỏa mãn với những thứ mà
trường học mang lại trong giai đoạn họ tham gia học. Tâm lý chung của nhiều học
sinh hiện nay là thay vì chọn thi vào ngành học mình yêu thích, có khả năng phát
triển sau này thì lại chọn thi vào những ngành, trường có điểm số phù hợp với sức
học. Đối với họ thì chỉ cần đậu đại học là đủ đáp ứng nhu cầu của bản thân và gia
đình. Chính từ việc chưa xác định đúng đắn ngành học phù hợp mà khi ra trường
họ phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp. Theo đánh giá khảo sát của Trung tâm
nghiên cứu và phân tích chính sách thuộc trường ĐH KHXH&NV, có tới 27% sinh
viên được hỏi nói rằng không xin được việc vì ngành học của mình không phù hợp
với thị trường. Số sinh viên gặp cảnh nhà tuyển dụng không hiểu ngành học của
mình đào tạo cái gì cũng chiếm đến 18%. Và trong số những sinh viên đã có việc
thì 70,8% không thoả mãn với công việc của mình và đang có ý định thay đổi chỗ
làm trong thời gian sắp tới.
Bên cạnh đó sinh viên Việt Nam chưa có phương pháp học tập đúng đắn.Vẫn có
những cá nhân say mê tìm tòi, nhưng rất nhiều bạn vẫn còn hời hợt, học vì thành
25

×