BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------------------------
HOÀNG THỊ THU GIANG
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM 1945 – 1975
NHƯ MỘT TRƯỜNG DIỄN NGƠN
Chun ngành: Lí luận văn học
Mã số
: 62.22.01.20
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Hà Nội - 2014
LUẬN ÁN ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Ngêi híng dÉn khoa häc: PGS.TS. Phùng Ngọc Kiếm
Ph¶n biƯn 1: PGS.TS. Đồn Đức Phương
Trường Đại học KHXH & NV – ĐHQG Hà Nội
Ph¶n biƯn 2: PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Ph¶n biƯn 3: PGS.TS. Trần Mạnh Tiến
Trường Đại học Sư phạm Hà Ni
Luận án đợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận ¸n cÊp Trường.
Häp t¹i: Thư viện Trường Đại học Sư phm H Ni
Vào hồi:
giờ
ngày tháng năm 2014
Có thể tìm đọc luận án tại:
- Th viện Quc gia H Ni
- Th viÖn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong những năm 1945 – 1975, cả dân tộc Việt Nam huy động
mọi sức mạnh vật chất và tinh thần có thể vào sự nghiệp chống xâm lược,
bảo vệ và dựng xây đất nước. Trên mặt trận văn hoá nghệ thuật, truyện ngắn
là thể loại xung kích, có nhiều đóng góp, phát triển đều, ở chặng nào cũng
có những truyện hay. Chính vì vậy, từ lâu, truyện ngắn Việt Nam 1945 –
1975 đã trở thành đối tượng khảo sát của nhiều cơng trình phê bình, nghiên
cứu văn học. Tuy nhiên, có thể thấy, cho đến nay, thể loại văn học nói
chung, truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 nói riêng thường chủ
yếu được nghiên cứu trong phạm vi lời nói nghệ thuật, và phần nhiều dựa
vào lí thuyết phản ánh. Đó là cách nghiên cứu theo hướng thi pháp lí thuyết,
tách thể loại ra khỏi ngữ cảnh văn học cực kì phức tạp làm nên đời sống
đích thực của chúng, hướng tới khái quát những đặc điểm chính yếu, tiêu
biểu. Các thành tựu nghiên cứu, phê bình mấy chục năm qua về truyện ngắn
nói riêng cũng như về văn học 1945 – 1975 nói chung thường tập trung
khẳng định tính thống nhất, ít chú ý mơ tả, phân tích, lý giải các phạm vi,
yếu tố khác biệt tồn tại, vận động trong chỉnh thể văn học giai đoạn này.
Tiếp cận đối tượng theo hướng như vậy tưởng như là đã nghiên cứu triệt để,
khó có thể phát hiện thêm điều gì mới về truyện ngắn Việt Nam 30 năm
kháng chiến chống xâm lược. Chúng tơi cho rằng nếu vận dụng lí thuyết
diễn ngôn, xem xét đối tượng trong sự tồn tại và vận động chỉnh thể, đa
chiều, ta có thể nhận thức đầy đủ, đánh giá toàn diện hơn về truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
1.2. Hướng sự quan tâm đến phương thức ngôn ngữ tạo tác nên hiện
thực, ngôn ngữ luận là khuynh hướng lý thuyết ngày càng phát triển mạnh
mẽ và có nhiều ảnh hưởng trong khoa học xã hội hiện đại. Trong ngơn ngữ
luận, lí thuyết diễn ngôn là khu vực rất nổi trội.
Khác với các hướng nghiên cứu văn học theo phản ánh luận, bản thể
luận, nghiên cứu văn học từ góc độ lí thuyết diễn ngơn xác định đối tượng
tìm hiểu khơng chỉ là “thế giới nghệ thuật” mà cịn là mục đích, cách thức
của việc kiến tạo nên thế giới nghệ thuật đó. Tiếp cận văn học từ góc nhìn
diễn ngơn khơng chỉ hướng tới giải đoán ý nghĩa của văn bản được nghiên
cứu, mà cịn xác định, tái tạo, mơ tả những nguyên nhân, điều kiện, quy tắc
để tạo ra văn bản và ý nghĩa ấy. Nghiên cứu thể loại văn học như một hình
thức diễn ngơn và trong thực tiễn diễn ngơn của nó, khảo sát lời nghệ thuật
trên cùng một dãy với các thể loại lời nói ngồi nghệ thuật, nghiên cứu đối
tượng trong môi trường đa ngữ theo tinh thần lí thuyết của M. Bakhtin, có
thể đem lại cách nhìn và nhận thức mới về những vấn đề tưởng như đã
xong xuôi của đời sống văn học, đặc biệt là về thời đại văn học và đặc
trưng của thể loại trong tương tác diễn ngôn của thời đại.
1.3. Nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 như một trường
diễn ngơn là hướng tìm hiểu đặc trưng của thể loại truyện ngắn dưới góc nhìn
mới, ngõ hầu có thể mang lại sự nhìn nhận và đánh giá tồn diện, khách quan
hơn về truyện ngắn dân tộc giai đoạn này. Cùng với điều đó, luận án góp
phần làm sáng rõ hơn bản chất của diễn ngôn và diễn ngôn văn học – những
vấn đề ngày càng được quan tâm thảo luận, vận dụng trong nghiên cứu văn
học tại Việt Nam. Với những ý nghĩa ấy, nghiên cứu đề tài có thể góp thêm
một tài liệu tham khảo thiết thực với những người quan tâm đến lý luận, phê
bình văn học, những người dạy – học văn học trong nhà trường các cấp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là trường diễn ngôn truyện
ngắn 1945 – 1975 với các bộ phận tâm và biên của nó, từ đó xác lập
quan niệm và nhận thức về diễn ngôn, trường diễn ngôn văn học,
trường diễn ngôn thể loại gắn với lịch sử xã hội.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đối tượng nghiên cứu được xác định như trên, phạm vi nghiên
cứu của luận án bao gồm: cơ sở lí thuyết diễn ngơn đối với nghiên cứu văn
học nói chung, truyện ngắn nói riêng; trường diễn ngôn truyện ngắn 1945 –
1975 với các bộ phận cấu thành của nó; các thẩm quyền và chiến lược thực
thi thẩm quyền của diễn ngôn trung tâm và diễn ngơn ngoại biên trong truyện
ngắn 1945 – 1975.
Trong hồn cảnh lịch sử đặc thù của dân tộc, văn học Việt Nam giai
đoạn 1945 – 1975 gồm nhiều bộ phận. Làm nên diện mạo chính yếu của văn
học dân tộc giai đoạn này là bộ phận văn học cách mạng (văn học kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ ở cả hai miền Nam, Bắc; văn học thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 1954 - 1964). Ngoài ra, cịn
có các bộ phận văn học trong vùng tạm chiếm những năm 1946 – 1954, văn
học đô thị miền Nam 1954 - 1975 và văn học của người Việt ở nước ngồi.
Trong khn khổ luận án, ứng với đối tượng và phạm vi nghiên cứu được
xác định như trên, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát những truyện ngắn thuộc
bộ phận văn học cách mạng giai đoạn 1945 – 1975 bởi chúng cùng nằm
trong một trường diễn ngơn (có chung hoàn cảnh lịch sử, xã hội, cùng chịu
sự chi phối của một cơ chế quyền lực, có chung mơi trường sáng tác, chung
đối tượng tiếp nhận, chung điều kiện lưu hành…). Những tác phẩm thuộc bộ
phận này có thể khác nhau về quan điểm nghệ thuật, phương pháp sáng tác
nhưng chúng có giao tiếp, có quan hệ với nhau. Những truyện ngắn thuộc
các bộ phận khác tuy thuộc giai đoạn 1945 – 1975 nhưng không cùng nằm
trong một trường diễn ngơn được đặt ra ngồi phạm vi khảo sát của luận án
này.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình thực hiện đề tài, ngồi việc kết hợp sử dụng các thao
tác chung của nghiên cứu văn học như: phân tích, tổng hợp, thống kê, phân
loại; chúng tơi chú ý sử dụng các phương pháp: Phương pháp nghiên cứu
liên ngành, phương pháp loại hình và phương pháp so sánh.
4. Nhiệm vụ và ý nghĩa của luận án
4.1. Từ thực tế nghiên cứu truyện ngắn 1945 – 1975 như một trường
diễn ngôn, luận án xác lập và làm rõ khái niệm trường diễn ngôn văn học,
cụ thể ở đây là một trường diễn ngơn thể loại.
4.2. Chỉ ra tính chất phức tạp trong cấu trúc chỉnh thể của hiện thực
truyện ngắn giai đoạn 1945 – 1975, những tác động của trường tri thức và
quyền lực tới sự hình thành các thành phần tạo nên cấu trúc đó cũng như
tác động trở lại của các thành phần đó tới đời sống văn hóa, xã hội, chính
trị giai đoạn này.
4.3. Phân tích tổng thể các thẩm quyền, chiến lược thực thi các thẩm
quyền của diễn ngôn khu vực trung tâm và khu vực ngoại biên trong
trường diễn ngôn truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975, từ đó có cái nhìn
tồn diện về truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975.
5. Bố cục của luận án
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các cơng trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài luận án, Thư mục tham khảo và Phụ lục, phần Nội
dung chính của luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan
Chương 2. Truyện ngắn như một trường diễn ngôn
Chương 3. Diễn ngôn trung tâm trong truyện ngắn Việt Nam 1945 - 1975
Chương 4. Diễn ngôn ngoại biên trong truyện ngắn Việt Nam 1945 - 1975
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
Trong chương tổng quan, chúng tôi điểm lại những cơng trình nghiên
cứu về truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 và vấn đề diễn ngôn trong
nghiên cứu văn học.
1.1. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975
Trong các thể loại văn học thuộc giai đoạn 1945 – 1975, truyện ngắn,
cùng với thơ là đối tượng nhận được sự quan tâm, bình giá nhiều hơn cả,
trong thời gian 30 năm chiến tranh cũng như ở giai đoạn sau 1975. Mười
năm đầu sau cách mạng tháng Tám, dù số tác phẩm truyện ngắn chưa nhiều,
đã xuất hiện những bài viết đánh giá, bàn luận về truyện ngắn cách mạng
đương thời. Càng về sau, số lượng bài viết cũng như vấn đề nêu ra về truyện
ngắn 1945 – 1975 càng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, những cơng trình
chun sâu về truyện ngắn giai đoạn này chỉ xuất hiện từ sau năm 1975,
chẳng hạn: Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 (Phùng
Ngọc Kiếm), Phong cách thời đại – nhìn từ một thể loại văn học (Nguyễn
Khắc Sính), Truyện ngắn Việt Nam (Phan Cự Đệ, Lý Hoài Thu chủ biên),
Truyện ngắn Việt Nam – diện mạo lịch sử của thể loại (Hỏa Thị Thúy),
Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 (nhìn từ góc độ thi pháp thể
loại) (Nguyễn Thị Bích Thu)… Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu
chun sâu, cịn có khơng ít những bài báo nhận xét, thẩm bình, đánh giá,
khái quát về cả truyện ngắn 1945 – 1975 nói chung hoặc về các tác giả, tác
phẩm truyện ngắn riêng lẻ thuộc giai đoạn này, trong đó các bài viết Về sự
lựa chọn chủ đề và phát triển tính cách trong truyện ngắn 1945 – 1975 của
Vương Trí Nhàn, và Thử tìm hiểu loại hình các mơ-tip chủ đề trong văn học
Việt Nam hiện đại của Lại Nguyên Ân là những gợi ý đáng lưu tâm cho
hướng nghiên cứu truyện ngắn 1945 – 1975 từ góc độ lí thuyết diễn ngơn.
Có thể nói, số lượng các cơng trình, bài viết về truyện ngắn 1945 –
1975 là rất lớn. Các vấn đề được nêu ra về truyện ngắn 1945 – 1975 phong
phú và đa dạng như chính đối tượng mà nó hướng tới. Tuy nhiên, có thể
thấy, cho đến nay, các cơng trình, bài báo về truyện ngắn Việt Nam giai
đoạn 1945 – 1975 hầu như mới chỉ tập trung nói về những tác phẩm thể
hiện đường lối văn nghệ của Đảng, những sáng tác “được thừa nhận” của
nền văn học này. Những truyện ngắn chệch ra ngoài những quán triệt của
đường lối văn nghệ chính thống, từng bị phê phán thường rất ít được nhắc
đến. Nếu chúng ta dành sự chú ý cho cả những tác phẩm từng bị xem là
“lệch chuẩn” của truyện ngắn 1945 - 1975, chắc chắn cái nhìn, đánh giá về
diện mạo, đặc điểm thể loại truyện ngắn giai đoạn này sẽ tồn diện và
chính xác hơn. Bên cạnh đó, truyện ngắn 1945 – 1975 (cũng như văn học
nói chung), trong hầu hết các cơng trình đã có thường chủ yếu được xem
xét trong phạm vi lời nói nghệ thuật, được nghiên cứu như một đơn vị nghệ
thuật, ít/chưa được nghiên cứu như một đơn vị của giao tiếp – một loại
diễn ngơn, một thể loại lời nói. Nếu coi văn học là một diễn ngơn, nghiên
cứu nó như một đơn vị của giao tiếp, chúng ta sẽ có cái nhìn đa chiều, tồn
diện hơn về các sinh thể lời nói, từ mục đích tạo lời tới chiến lược kiến tạo
lời để đạt mục đích giao tiếp nhất định. Xem xét truyện ngắn 1945 – 1975
như một trường diễn ngôn theo tinh thần lí thuyết của M.Bakhtin, ta sẽ
nhìn thấy rõ hơn những tiếng nói phong phú, đa dạng, khơng thuần nhất
trong thể loại này; lí giải được nguyên nhân sinh thành, tồn tại của chúng
trong thời đại 30 năm chiến tranh đó.
1.2. Tình hình nghiên cứu diễn ngơn
1.2.1. Nghiên cứu diễn ngôn trên thế giới
Từ thập kỉ thứ 3, thứ 4 của thế kỉ XX, M. Bakhtin, trong nhiều cơng
trình, đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với các thể loại lời nói (về bản
chất chính là diễn ngơn).
Từ giữa thế kỉ XX trở đi, khái niệm diễn ngôn (discourse) với tư cách
là một thuật ngữ - xuất hiện và dần trở thành khái niệm trung tâm, được
bàn thảo, vận dụng rộng rãi trong khoa học xã hội nhân văn.
Đến nay, nghiên cứu diễn ngôn đã trải qua quá trình tương đối dài.
Với những cơng trình của M.Bakhtin, L.Wittgenstein, M.Heidegger,
G.Gadamer, P.Ricoeur, M.Foucalt, J.Derrida, R.Barthes, T.Todorov,
V.I.Chiupa, N.D.Tamarchenko…, cách hiểu, nội hàm khái niệm diễn ngôn
ngày càng trở nên bề bộn, gắn với sự xuất hiện ngày càng nhiều những
cơng trình giới thuyết, tổng thuật về nghiên cứu diễn ngôn. Trong đó, Từ
điển bách khoa thư về lí luận văn học hiện đại - mục từ Diễn ngôn của M.
Christine (1993), Diễn ngơn của S. Mills (1997), Các lí thuyết diễn ngôn
hiện đại: kinh nghiệm phân loại của O. F. Rusakova (2006)… là những
cơng trình đáng chú ý.
1.2.2. Nghiên cứu diễn ngôn ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề diễn ngôn được giới thiệu sớm nhất trong lĩnh
vực ngôn ngữ học, ở các cơng trình nghiên cứu Việt ngữ của Trần Ngọc
Thêm, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Hồ,
Nguyễn Thái Hồ… Bên cạnh đó, một số cơng trình nghiên cứu về diễn
ngơn của các tác giả nước ngồi được dịch sang tiếng Việt cũng góp phần
mang lại hiểu biết phong phú hơn về khái niệm này.
Trong nghiên cứu văn học, các nhà lí luận phê bình Việt Nam tiếp
xúc với lí thuyết diễn ngơn trước hết qua cơng trình của các học giả như
M.Bakhtin, L.Wittgenstein, M.Heidegger, G.Gadamer, P.Ricoeur,
R.Barthes, I.P.Lin, Tz.Todorov, A. Compagnon Foucaul, Fillingham,
M.Susser, R.Jakobson, G.Gennete, V.I.Chiupa, N.D.Tamarchenko…
Thơng qua việc dịch, giới thiệu, những cơng trình bàn về diễn ngôn của các
tác giả này, các nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam đã có những trao đổi, bàn
luận, từ đó vận dụng lí thuyết diễn ngơn vào phân tích, lý giải các hiện tượng
văn học.
Có thể khẳng định, diễn ngôn đang là vấn đề được quan tâm nghiêm
túc trong nghiên cứu văn học ở nước ta. Tuy nhiên, qua tìm hiểu những
cơng trình nghiên cứu có vận dụng lí thuyết diễn ngơn, có thể thấy hiện
nay vẫn chưa có sự thống nhất về quan niệm diễn ngôn, đồng thời các
nghiên cứu phần nhiều vẫn đi theo ngữ học và văn hóa học. Trong khi đó
khái niệm diễn ngơn văn học vẫn ít được nhắc đến. Ở cơng trình này, với
mục đích làm rõ Truyện ngắn 1945 – 1975 như một trường diễn ngôn,
chúng tôi hi vọng sẽ góp phần làm rõ hơn vấn đề cịn bỏ ngỏ đó.
CHƯƠNG 2. TRUYỆN NGẮN NHƯ MỘT TRƯỜNG DIỄN NGÔN
Trong chương này, chúng tôi tập trung làm rõ các vấn đề lí thuyết:
diễn ngơn, các thẩm quyền diễn ngơn, trường diễn ngơn; từ đó bước đầu
khái qt diện mạo trường diễn ngôn truyện ngắn Việt Nam 1945-1975.
2.1. Diễn ngôn và các thẩm quyền diễn ngôn
Đến nay, khái niệm diễn ngôn đã có lịch sử phát triển tương đối dài,
được nghiên cứu theo nhiều hướng nên nội hàm rất phức tạp, có nhiều nét
nghĩa đan bện, chồng chéo. Dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, nội
hàm khái niệm diễn ngôn lại có sự biến đổi.
Kế thừa những lí thuyết diễn ngơn tiêu biểu trên thế giới, chúng tôi
quan niệm diễn ngôn là một phát ngơn hồn chỉnh – một “chỉnh thể ngôn
ngữ” (M.Bakhtin), một “thực tại ngôn từ chứa đựng tư tưởng” (M.
Foucault), một “sự kiện giao tiếp” (T.A.Vandijk) diễn ra giữa người phát
và người nhận. Như vậy, nói tới diễn ngơn là nói tới tương quan liên chủ
thể giữa bộ ba: cái tham chiếu, cái sáng tạo và cái tiếp nhận. Vì vậy, mỗi
khi xem xét diễn ngơn như là tổng thể của các thẩm quyền, người ta tập
trung nói tới: thẩm quyền sáng tạo, thẩm quyền của cái được biểu đạt, và
thẩm quyền tiếp nhận (V.I.Chiupa). Những luận điểm lí thuyết mấu chốt
này là nền tảng để chúng tơi triển khai phân tích thực tiễn diễn ngơn truyện
ngắn Việt Nam 1945-1975 ở hai chương tiếp theo.
2.2. Trường diễn ngôn
Trong bài viết Bàn về ký hiệu quyển, Iu. Lotman cho rằng kí hiệu chỉ
có thể là ký hiệu khi nó ở trong “quyển” của nó. Tiếp thu ánh sáng lí thuyết
ký hiệu học, cụ thể là quan niệm về kí hiệu quyển của Iu. Lotman, chúng
tôi cho rằng cần nghiên cứu các phạm vi chỉnh thể diễn ngôn như các
trường diễn ngôn. Các phạm vi chỉnh thể diễn ngôn chỉ có thể được giải
mã, thấu hiểu khi ta đặt nó trong tương quan với các phạm vi chỉnh thể
diễn ngôn khác thuộc một trường, trong bầu khí quyển chi phối sự tồn tại,
vận động của trường diễn ngơn đó. Để diễn giải thấu đáo diễn ngơn, nhất
thiết phải đặt nó trong trường diễn ngôn – trong không gian tồn tại của nó.
Cũng trên cơ sở tiếp thu khái niệm ký hiệu quyển của Iu.Lotman,
chúng tôi xác định: Thể loại văn học nào, từ trong bản chất cũng là một
trường diễn ngôn – hiểu như một chỉnh thể không gian diễn ngơn. Mỗi
trường diễn ngơn có những đặc trưng cơ bản sau: (1) tính phân giới; (2)
tính đa dạng nội tại và sự phát triển không đồng đều của các tiểu cấu trúc
trong cấu trúc trường diễn ngơn; (3) có cấu trúc đối xứng phi đẳng cấu,
trong đó cặp đối xứng khái quát nhất là trung tâm – ngoại biên.
2.3. Trường diễn ngôn truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975
2.3.1. Những yếu tố chi phối sự hình thành, vận động của trường
diễn ngôn truyện ngắn giai đoạn 1945 – 1975
Là hoạt động giao tiếp xã hội nên mọi diễn ngôn luôn chịu sự chi
phối của trường tri thức và quyền lực (cả M. Foucalt và M. Bakhtin đều có
chung quan điểm này). V.I.Chiupa quan niệm: Tác phẩm văn học ở mọi
quy mơ đều có thể xem là một đơn vị phát ngôn duy nhất, tức là một diễn
ngôn, là sự kiện của sự kiện (giao tiếp), hiện thực hố một chiến lược giao
tiếp nào đó trong khn khổ của một hình thái diễn ngơn nhất định. Như
vậy, diễn ngơn văn học nói riêng, truyện ngắn nói chung đều khơng nằm
ngồi sự chi phối của trường tri thức và quyền lực thời đại.
Có thể khẳng định: ý thức hệ và đường lối văn nghệ của Đảng là
những yếu tố cơ bản thuộc quyền lực thời đại đã chi phối mạnh mẽ tới sáng
tác văn học, trong đó có truyện ngắn giai đoạn 1945-1975, tạo nên tính
chất riêng biệt cho trường diễn ngôn truyện ngắn giai đoạn này so với các
trường diễn ngôn truyện ngắn thuộc giai đoạn trước và sau nó. Bên cạnh
đó, hai yếu tố thuộc trường tri thức: tri thức đời sống và tri thức nghệ thuật
cũng có sự chi phối khác nhau đến sự hình thành các bộ phận tâm – biên và
chất lượng nghệ thuật của các bộ phận này trong trường diễn ngôn truyện
ngắn 1945–1975.
2.3.2. Các bộ phận tâm và biên trong trường diễn ngơn truyện
ngắn Việt Nam 1945 – 1975
Nhìn vào trường diễn ngơn truyện ngắn giai đoạn 1945–1975, có thể
thấy cấu trúc đối xứng phi đẳng cấu của nó, mà cặp đối xứng khái quát
nhất là bộ phận diễn ngôn trung tâm và diễn ngôn ngoại biên.
Tư tưởng hệ cách mạng, chủ trương đường lối văn nghệ của Đảng,
hoàn cảnh thời đại đất nước có chiến tranh, thực tiễn chiến đấu… là những
yếu tố thuộc trường tri thức và quyền lực thời đại tác động tới sự hình
thành và phát triển mạnh mẽ của diễn ngôn trung tâm trong truyện ngắn
cách mạng giai đoạn 1945–1975. Mạch tư tưởng mà diễn ngôn trung tâm
trong truyện ngắn giai đoạn này tập trung thể hiện chính là: đặt vấn đề, lợi
ích của dân tộc, giai cấp, của Tổ quốc, nhân dân lên hàng đầu, “nước mất
nhà tan”, “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”, tất cả vì sự
tồn tại, phát triển của đất nước và chủ nghĩa xã hội .v.v.
Ý thức phản tư, tinh thần dân chủ có nguồn cội từ lịch sử văn hóa
dân tộc, tri thức, bản lĩnh thể hiện tác phẩm vươn tới những đặc trưng nghệ
thuật của tác giả là những yếu tố đã tác động đến một bộ phận sáng tác,
hình thành khu vực diễn ngôn ngoại biên trong truyện ngắn giai đoạn
1945–1975. Mạch tư tưởng mà bộ phận diễn ngôn này quan tâm thể hiện
là: đề cao con người cá nhân, đời thường, quan tâm tới các quan hệ đời tư
theo tinh thần nhân bản.
Cả hai bộ phận diễn ngôn trung tâm và ngoại biên đều có những giá
trị và hạn chế của nó, dù không đều nhau ở từng bộ phận, từng tác phẩm cụ
thể. Phần diễn ngôn trung tâm với ý thức trực tiếp đề cao dân tộc, giai cấp
trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh là tiếng nói phù hợp với thời đại,
với những yêu cầu chung, cấp thiết của dân tộc, giai cấp, được đông đảo
công chúng tiếp nhận quan tâm cổ vũ, dù chưa nói được nhiều về các
phương diện thế sự, đời tư của con người. Phần diễn ngôn ngoại biên với
tinh thần hướng về đời thường, đời tư là tiếng nói đáng trân trọng nhưng ra
đời ở thời điểm đất nước có giặc xâm lăng, nó đã bị xem là lạc điệu trong
dàn đồng ca thời đại, nên chỉ tồn tại ở vùng ngoại biên.
CHƯƠNG 3. DIỄN NGÔN TRUNG TÂM
TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM 1945 – 1975
Theo chủ trương đường lối của Đảng, văn học Việt Nam giai đoạn
1945–1975 được định hướng trở thành “một mặt trận” của cách mạng. Phù
hợp với định hướng ấy, những tác phẩm viết để cổ vũ, tuyên truyền cho cách
mạng, kháng chiến, thể hiện tinh thần yêu nước, bảo vệ chủ nghĩa xã hội…
phát triển với số lượng lớn, tập hợp ở khu vực trung tâm của trường diễn
ngơn văn học, được Đảng và giới phê bình cách mạng quan tâm khuyến
khích, được cơng chúng đơng đảo tiếp nhận. Trong chương này, chúng tôi tập
trung làm rõ bộ ba thẩm quyền cơ bản: thẩm quyền sáng tạo, thẩm quyền của
cái được biểu đạt, thẩm quyền tiếp nhận và chiến lược thể hiện các thẩm
quyền đó ở bộ phận diễn ngôn trung tâm trong truyện ngắn 1945–1975.
3.1. Thẩm quyền sáng tạo
3.1.1. Nguyên tắc truyền bá, nêu gương
Trong thư gửi các hoạ sĩ ngày 10.12.1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu yêu cầu: “Văn hoá văn nghệ cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến
sĩ trên mặt trận ấy”. Về cơ bản, các nhà văn của giai đoạn lịch sử này đã hồ
hởi, nhiệt huyết đón nhận, thực hiện nhiệm vụ ấy.
Thơng qua thế giới hình tượng, qua lớp văn bản ngơn từ, qua tiếng
nói của chủ thể diễn ngơn – tiếng nói phát ra từ tồn bộ chỉnh thể tác phẩm,
các nhà văn cách mạng cho thấy họ đã quán triệt những nguyên tắc truyền
bá, nêu gương: toàn tâm toàn ý hướng về sự nghiệp kháng chiến kiến quốc
của dân tộc; ca ngợi, nêu gương, xây dựng con người mới, cuộc sống mới
xã hội chủ nghĩa … Sự quán triệt này đã tạo nên dòng văn học, tạo ra
những truyện ngắn mang tính chất tuyên truyền chính trị, cổ vũ, kêu gọi
các tầng lớp nhân dân cống hiến hết mình trong cơng cuộc bảo vệ và dựng
xây đất nước ở giai đoạn lịch sử đầy cam go.
3.1.2. Theo khung truyện định sẵn
Ở giai đoạn 1945 - 1975, các văn kiện cũng như các ý kiến chỉ đạo
của lãnh đạo Đảng, Nhà nước về cơng tác văn hóa văn nghệ đều xem
phương pháp sáng tác tốt nhất là phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa,
có khả năng phản ánh chân thực cuộc sống trong quá trình phát triển cách
mạng của nó, trong hồn cảnh và điều kiện lịch sử - cụ thể, làm cho người
ta thấy được hướng đi tới của xã hội. Quán triệt sử dụng phương pháp hiện
thực xã hội chủ nghĩa trong sáng tác văn nghệ như là chiến lược diễn ngôn
đồng nghĩa với việc các nhà văn đã sáng tạo theo khung truyện định sẵn:
nhân vật trung tâm là đội ngũ công – nông – binh với những phẩm chất tốt
đẹp (phẩm chất mà chỉ cần dựa vào thành phần xuất thân là có thể đốn
trước, biết trước): có tinh thần đấu tranh cách mạng, sẵn sàng cống hiến hi
sinh cho đất nước và chủ nghĩa xã hội, tràn đầy lạc quan … Những con
người mới này đã góp sức theo Đảng xây dựng nên xã hội mới tươi đẹp:
đồn kết, u thương, bình đẳng, phát triển… Truyện ln kết thúc có hậu,
mạch truyện ln có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ tới
hạnh phúc, sướng vui … Với cuộc sống mới tươi đẹp và những con người
mới như vậy, cuộc đấu tranh vì chính nghĩa và lí tưởng có thể cam go
nhưng nhất định tiến tới kết cục khải hoàn.
3.2. Thẩm quyền của cái được biểu đạt
V.I.Chiupa cho rằng: thẩm quyền của cái được biểu đạt là “topos bên
ngoài” (topos: điểm chung) một diễn ngơn nào đó – nó là nguồn dự trữ
“bức tranh tu từ thế giới” trong giao tiếp, được giả định là phát ngơn chung
của người nói và người tiếp nhận. Nguồn dự trữ “bức tranh tu từ thế giới”
trong giao tiếp này quy định nội dung bức tranh thế giới trong diễn ngôn.
Theo V.I.Chiupa, bức tranh thế giới trong văn học có thể quy về 3 loại cơ
bản: bức trang trạng thái, bức tranh của sự kiện đột biến và bức tranh của cái
phi đột biến (bức tranh của sự lặp lại). Xem xét thế giới trong truyện ngắn
thuộc khu vực trung tâm giai đoạn 1945–1975, không thấy bức tranh của cái
đột biến, cũng khơng có bức tranh của trạng thái. Có thể nói bức tranh của
truyện ngắn 1945–1975 là bức tranh của cái phi đột biến, bức tranh của sự
lặp lại (ta thắng, địch thua), là bức tranh khơng có sự kiện - hiểu theo nghĩa
là khơng có kết thúc bất ngờ, khơng thể đốn trước. Trong khung truyện
định sẵn theo yêu cầu của quyền lực thời đại, bức tranh thế giới hiện lên
trong tình trạng được phân cực rõ ràng; hình tượng hiện lên trong vai trị của
những chức phận, được xây dựng theo nguyên tắc huyền thoại hóa, tồn tại
trong khơng gian cộng đồng và thời gian lịch sử.
3.2.1. Thế giới được lưỡng cực hoá
Theo yêu cầu của Đảng, một trong những nhiệm vụ quan trọng mà
văn học 1945–1975, trong đó có truyện ngắn cần thực hiện là củng cố,
khắc sâu những tình cảm và ý chí cách mạng trong đơng đảo độc giả - quần
chúng nhân dân, mà trước hết là lực lượng công – nơng – binh, thơng qua
kiến tạo thế giới hình tượng sinh động. Nhiệm vụ này chi phối cách kết cấu
bức tranh thế giới của truyện ngắn. Mỗi truyện là một thế giới mà ở đó
ln có hai lực lượng đối lập, hai chiến tuyến: phe ta – cách mạng – xã hội
chủ nghĩa, với phe địch – phản cách mạng – phản xã hội chủ nghĩa.
Thế giới trong truyện ngắn cách mạng là thế giới trắng đen rõ ràng
mà ở đó, các nhân vật là ta, hoặc là địch; là người cách mạng hoặc kẻ phản
động; tiến bộ hoặc lạc hậu, mới hoặc cũ, khơng có kẻ trung dung đứng
giữa. Trong hệ thống truyện ngắn giai đoạn 1945–1975, truyện được triển
khai chủ yếu dựa trên kết cấu đối lập như vậy. Bức tranh thế giới luôn
được xây dựng trong những tương phản: sự tàn phá - sức vươn dậy, mất
mát - hồi sinh, đổ vỡ - xây dựng, tàn bạo - nhân ái, cái chết - sự sống, đau
thương - hi vọng. Đây là cách xử lí nghệ thuật mang tính phổ biến trong
truyện ngắn cách mạng 1945–1975.
3.2.2. Bức tranh của những chức phận
3.2.2.1. Con người mới xã hội chủ nghĩa
Một trong những mục đích quan trọng của diễn ngơn văn học cách
mạng 1945–1975 nói chung, trong đó có truyện ngắn, là nêu gương. Để
những con người trong văn học trở thành những tấm gương soi cho con
người của cuộc đời, để con người của cuộc đời học tập và noi theo con
người trong văn học, các nhà văn đã chú ý khắc hoạ nhân vật nêu gương
theo nguyên tắc huyền thoại hố - tạo nên những huyền tích cho hình
tượng: những con người trong chiến đấu thì gan dạ, dũng cảm, dám xơng
vào nơi nguy hiểm, khó khăn, dám hi sinh; trong lao động thì sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước công việc được giao;
trong đời thường cũng vẫn luôn sống với ý thức cơng dân, đặt ý thức cá
nhân ra ngồi đời sống tư tưởng, tình cảm. Với những trang truyện như
vậy, diễn ngôn truyện ngắn 1945–1975 đã nêu cao tinh thần lao động,
chiến đấu, truyền cho người đọc những rung động về quốc gia, dân tộc,
cách mạng và niềm tin tưởng ở sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
3.2.2.2. Người cán bộ cách mạng
Có thể nói, truyện ngắn (cũng như văn học cách mạng) 1945 – 1975
là nền văn học được định hướng, như “thuyền bơi có lái”. Và những bánh
lái tư tưởng từ đời sống thực đã chuyển hố thành những hình tượng văn
học, đi vào văn học để thực hiện chức năng tuyên truyền, mở lối soi đường
và để khẳng định vị trí khơng thể thiếu của lực lượng này trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
Trong văn học nói chung, đặc biệt ở truyện ngắn khu vực trung tâm
giai đoạn 1945–1975 luôn xuất hiện những nhân vật chỉ đường, hướng đạo
cách mạng. Đây là loại nhân vật có chức năng dẫn đường, định hướng hoặc
duy trì niềm tin cho quần chúng. Họ là người đại diện cho Đảng, nói tiếng
nói của Đảng với nhiệm vụ đi “gieo mầm” chân lí cho người đọc.
3.2.2.3. Kẻ thù
Diễn ngôn trung tâm trong truyện ngắn Việt Nam 1945–1975, thông qua
những số phận cá nhân và tập thể, đã cho độc giả thấy rằng chiến đấu tiêu diệt
kẻ thù là hành động không thể khác, bởi kẻ thù đồng nghĩa với tàn bạo, phi
nhân tính và là kẻ tiêu diệt sự sống. Mọi chi tiết miêu tả nhân vật kẻ thù đều
nhằm làm nổi bật đặc điểm của loại nhân vật này: vật cản trở, kẻ hủy diệt cuộc
sống. Để tô đậm bản chất hung hãn, tàn bạo của kẻ thù, trong các diễn ngôn
văn học, ít thấy việc mơ tả hình dáng của bọn này, riêng bộ mặt lại được tập
trung mô tả theo hướng thú vật hố. Có thể nói việc phi nhân hóa một cách
tuyệt đối các nhân vật phe địch đã khiến những nhân vật này bị trừu tượng hóa,
cắt đứt cội rễ với thực tại sống động, trở thành những biểu tượng mang đậm
tính huyền thoại. Đây cũng chính là yếu tố thể hiện lập trường giai cấp, dân tộc
của truyện ngắn cách mạng Việt Nam 1945–1975. Bằng cách tô đậm tội ác của
kẻ thù, đẩy nó đến mức tột cùng của tội ác, các diễn ngôn truyện ngắn trung
tâm 1945–1975 đã thực hiện được chức năng tuyên truyền và khơi gợi ở chủ
thể tiếp nhận lòng căm thù giặc cao độ. Và nhận thức về tội ác giặc thù là tiền
đề để con người đứng lên cầm súng giết giặc cứu nước.
3.2.2.4. Thiên nhiên
Thiên nhiên trong truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 vừa đóng vai trị
là phơng nền – khơng gian tồn tại của con người, vừa là yếu tố trong bối
cảnh của sự kiện, vừa là một biểu tượng đa nghĩa: là chứng nhân của tội ác
do giặc thù gây ra, là biểu tượng cho sức sống và khí phách của con người
Việt Nam, và là biểu tượng cho đất mẹ thiêng liêng che chở con người. Có
thể thấy, với ngun tắc huyền thoại hóa, hình tượng thiên nhiên trong
truyện ngắn giai đoạn 30 năm sau cách mạng tháng Tám đã khơi gợi trong
mỗi người Việt Nam sự gắn bó, tình u, ý thức chiến đấu, cống hiến và hi
sinh cho non sông Tổ quốc thiêng liêng.
3.2.3. Không gian cộng đồng và thời gian lịch sử
Lịch sử Việt Nam 1945–1975 là lịch sử của những thử thách lớn, đòi
hỏi những cống hiến và hi sinh lớn. Tồn tại trong toạ độ không gian cộng
đồng và thời gian lịch sử cũng là một yêu cầu của thời đại đối với con người
để vượt qua những thử thách lớn đó. Thời gian lịch sử và khơng gian cộng
đồng chính là toạ độ tồn tại của nhân vật truyện ngắn trung tâm giai đoạn
1945–1975. Đây là một đặc điểm đặc thù thuộc thế giới hình tượng của bộ
phận truyện ngắn này (khác với tọa độ không – thời gian nghệ thuật trong
truyện ngắn trước 1945 và sau 1975). Truyện ngắn nào cũng có nhiều nhân
vật và các nhân vật ln tồn tại với ý thức tập thể, trong sự gắn kết thành một
khối, thống nhất về một hướng. Không gian nghệ thuật đó vẫy gọi con người
hồ nhập và sống cùng thời đại sử thi “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
3.3. Thẩm quyền tiếp nhận
3.3.1. Ngôn từ, lời văn được đại chúng hố, chính trị - qn sự hố
3.3.1.1. Đại chúng hố ngơn từ, lời văn thẩm mĩ
Đối tượng tun truyền của văn học cách mạng được xác định trước
hết là lực lượng công - nông - binh. Viết cho công – nông - binh, viết về
đời sống của công – nông – binh là định hướng mà Đảng đặt ra cho văn
học. Vì vậy, viết sao cho dễ hiểu là yêu cầu trước hết đối với người sáng
tác, đặc biệt là ở thời kì 9 năm kháng chiến.
Có thể thấy, để phù hợp với đối tượng tiếp nhận (cũng là đối tượng
nghệ thuật) chủ thể sáng tạo diễn ngôn trung tâm truyện ngắn 1945-1975 đã
rất chú ý đưa lời nói của đời sống vào mỗi trang truyện, để cuộc sống từ trang
truyện quay trở lại góp tiếng với đời, góp phần tạo nên tiếng nói “chân thật”,
“hùng hồn” về thời đại.
3.3.1.2. Chính trị - qn sự hố ngơn từ, lời văn thẩm mĩ
Là diễn ngơn của thời kì mà đất nước phải kinh qua hai cuộc chiến
tranh, chịu sự chi phối của tư tưởng cách mạng, văn học nói chung, truyện
ngắn nói riêng hấp thu vào nó nhiều ngơn từ, cách hành ngơn mang dấu ấn
chính trị - chiến trận là điều dễ hiểu. Đồng thời, việc sử dụng lớp từ, cách nói
ấy cịn phục vụ việc kiến tạo cho “chân thật”, “hùng hồn” con người và thời
đại mới. Chính chủ ý nghệ thuật này đã chi phối diện mạo văn bản của diễn
ngôn trung tâm truyện ngắn 1945 – 1975.
Đọc truyện ngắn giai đoạn 30 năm này, thấy lớp từ ngữ quân sự - chính
trị phát triển mạnh mẽ, đồng thời, những kiểu câu khẩu hiệu ngắn, kết cấu
chặt xuất hiện với tần suất lớn. Ngày nay, có khơng ít người chê cười những
câu văn khẩu hiệu ấy. Nhưng đặt vào bầu khí quyển đất nước có chiến tranh
giai đoạn 1945 – 1975, chính những câu văn khẩu hiệu ngắn gọn, thúc giục,
quyết đốn ấy có tác dụng thúc giục, động viên con người mạnh mẽ.
3.3.2. Giọng điệu thể hiện lập trường cách mạng
Chịu sự chi phối của ý thức hệ, mỗi truyện ngắn cách mạng giai đoạn
này luôn là một thế giới được phân cực ta - địch; và tính chất của các bên
luôn được xác định rõ ràng, nghĩa là chủ ngữ thì khả biến nhưng vị ngữ thì
bất biến. Tính chất này chi phối giọng điệu diễn ngôn: giọng điệu thể hiện rõ
lập trường cách mạng, kháng chiến, dân tộc, giai cấp. Khi nói về Tổ quốc,
lãnh tụ, nhân dân, về cuộc kháng chiến vĩ đại, giọng điệu luôn trang trọng,
ngợi ca; khi nói về giặc thù, ln là giọng điệu căm thù, phẫn nộ. Trong luận
án, chúng tôi đã làm rõ cách thức tạo lập các kiểu giọng điệu này.
CHƯƠNG 4. DIỄN NGÔN NGOẠI BIÊN
TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM 1945 – 1975
Như đã khẳng định ở chương 2, mục 2.3. Trường diễn ngôn, trung
tâm và ngoại biên là một cặp khái niệm để mô tả cấu trúc của mọi trường
diễn ngôn. Coi văn học là một trường diễn ngôn thì bất kì nền văn học
nào, ở mọi yếu tố, cấp độ cũng có phần trung tâm và ngoại biên. Với
truyện ngắn Việt Nam 1945–1975 cũng vậy. Nếu những tác phẩm viết
theo chủ trương đường lối của Đảng, cổ vũ, tuyên truyền cho cách mạng,
bảo vệ chủ nghĩa xã hội là văn học trung tâm, được quyền lực chính thống
quan tâm cổ vũ thì những tác phẩm viết khác/khơng theo tinh thần đó
hoặc khơng qn triệt tinh thần đó một cách triệt để đều trở thành diễn
ngôn ngoại biên. Về phần văn học ngoại biên này, chúng tơi đồng tình với
quan điểm của một số nhà nghiên cứu: Chúng ta có thể khơng thích nó,
thậm chí ghét bỏ nó, nhưng nó vẫn là một phần, dù là rất bé nhỏ, rất phụ,
đã lui vào quá khứ của quá trình văn học. Hiểu như thế mọi hiện tượng
văn học ngoại biên đều đáng được xem xét, đều có ý nghĩa để soi sáng
lịch sử văn học từ chỗ này hay chỗ khác. Theo quan điểm như vậy, ở cơng
trình này, chúng tôi xem xét cả truyện ngắn khu vực ngoại biên để có cái
nhìn tồn diện hơn về truyện ngắn (cũng như nền văn học chiến tranh)
1945–1975. Ở chương này, chúng tôi tập trung làm rõ các thẩm quyền của
diễn ngôn truyện ngắn ngoại biên.
4.1. Thẩm quyền sáng tạo
4.1.1. Nguyên tắc phản tư với sáng tác tuyên truyền
Trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, nếu ở diễn ngôn
thuộc khu vực trung tâm, tuân thủ chủ trương, đường lối văn nghệ của
Đảng, chủ thể diễn ngơn thể hiện mình là người đi tiên phong trên mặt trận
tuyên truyền cách mạng, sáng tác theo nguyên tắc truyền bá, nêu gương,
theo khung truyện định sẵn, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ
nghĩa được sử dụng như là chiến lược diễn ngơn; thì trong diễn ngơn thuộc
khu vực ngoại biên, nguyên tắc tư tưởng hệ hoàn toàn khác biệt: chủ thể
diễn ngơn thể hiện mình là con người nỗ lực suy nghĩ độc lập, hướng tới tự
do, dân chủ trong sáng tạo nghệ thuật, thể hiện tiếng nói và quan điểm của
mình về cuộc sống, con người. Nói cách khác, các cây bút của diễn ngôn
truyện ngắn ngoại biên đã xác lập cho mình một thẩm quyền sáng tạo theo
nguyên tắc phản tư (nghĩ khác/ngược lại) với sáng tác tuyên truyền.
Ý thức sáng tạo và tinh thần đối thoại là đặc điểm bao trùm, được
xác định như là thẩm quyền sáng tạo của truyện ngắn khu vực ngoại biên,
tiêu biểu là sáng tác của các cây bút thuộc nhóm Nhân văn - Giai phẩm.
Điều này được khẳng định trong cả lời nguyên sinh (phát biểu trực tiếp) và
lời thứ sinh (lời nghệ thuật).
4.1.2. Vượt khung truyện định sẵn
Những sáng tác văn học bị đẩy ra ngoại biên trước hết vì nó khơng
tn thủ/vi phạm những nguyên tắc của phương pháp sáng tác hiện thực xã
hội chủ nghĩa mà Đảng đã định hướng cho văn hố, văn nghệ. Đó là những
truyện ngắn nói thẳng, nói thật về mọi biểu hiện, diện mạo cuộc sống hiện
tại và những vấn đề trong cuộc sống đang vận động phức tạp, đa dạng;
cảnh báo, phê phán các biểu hiện quan liêu, cửa quyền, bảo thủ, lối làm
việc công thức, máy móc, rập khn... của một bộ phận cán bộ trong các
cơ quan Nhà nước lúc ấy; những quan niệm đơn giản, ấu trĩ tàn phá các giá
trị văn hố cổ truyền, dân gian…; những thói tật, những mâu thuẫn, băn
khoăn của con người trên bước đường đi đến tương lai, đi đến chân thiện,
trung thực… Để thể hiện được tiếng nói đó, chủ thể diễn ngơn khơng thể
tn theo duy nhất nguyên tắc phản ánh của phương pháp hiện thực xã hội
chủ nghĩa. Trong những truyện ngắn khu vực ngoại biên hiện diện màu sắc
của chủ nghĩa hiện thực phê phán, có cả trào phúng giễu nhại, có biểu hiện
của chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo… và điều này, theo
các nhà lãnh đạo, phê bình văn nghệ cách mạng đương thời là khơng thể
chấp nhận. Lãnh đạo văn nghệ, các nhà phê bình văn học của Đảng đã phê
phán, quy chụp những diễn ngôn này là "xun tạc", "bơi đen" chế độ, có
tư tưởng “độc hại”… Tuy nhiên, tinh thần phê phán của những truyện ngắn
khu vực diễn ngôn ngoại biên này khác biệt với tinh thần của những tác
phẩm viết theo phương pháp hiện thực phê phán giai đoạn 1930–1945. Căn
cốt tinh thần của những diễn ngôn bị xếp vào vùng ngoại biên của truyện
ngắn giai đoạn 1945–1975 là phê phán mang tính xây dựng. Thái độ và
quan điểm của người viết với cuộc sống mới, với Đảng và cách mạng là
thái độ gắn bó, hi vọng. Do đó, nguyên tắc sáng tạo của những diễn ngôn
truyện ngắn thuộc khu vực ngoại biên là sự vượt khung của nguyên tắc
phản ánh hiện thực xã hội chủ nghĩa, chứ không phải là sự quay về với tinh
thần của những kiểu phương pháp sáng tác trước cách mạng hay của một
kiểu sáng tác nào khác. Với độ lùi thời gian, với cái nhìn “đổi mới” từ sau
1986, khơng ít trong số tác phẩm văn học (trong đó có truyện ngắn) trước
đây bị gạt ra ngoại biên nay đã được đón nhận, được lắng nghe và được
đánh giá lại.
4.2. Thẩm quyền của cái được biểu đạt
Đọc truyện ngắn ngoại biên giai đoạn 1945–1975 thấy toàn bộ chỉnh
thể diễn ngôn, từ bức tranh thế giới tới văn bản ngôn từ đã được kiến tạo
như một sự cố ý đi chệch với cấu trúc trung tâm chính thống, với tinh thần ý
chí luận của văn học tuyên truyền. Nếu như bức tranh thế giới trong truyện
ngắn trung tâm 1945-1975 tự giới hạn biểu hiện theo tư tưởng hệ cách mạng
thì thẩm quyền của cái được biểu đạt ở diễn ngôn ngoại biên được mở rộng
theo nguyên tắc đa diện hóa với bức tranh cuộc đời mn mặt.
4.2.1. Thế giới được đa diện hóa
Trong bức tranh thế giới của truyện ngắn ngoại biên, thế giới không
phân cực và con người, sự kiện vận động, bộc lộ mình khơng theo “quy
luật” như văn học trung tâm đã thể hiện. Ở thế giới không phân cực, người
ta không dễ dàng đánh giá và thấu hiểu con người, bởi ở đây, con người
không nguyên phiến như con người trong truyện ngắn khu vực trung tâm.
Trong thế giới này, con người phức tạp, đa diện, “thiên hình vạn trạng, lúc
trắng lúc đen, lúc mặc áo cà sa, lúc mặc áo giấy” (Những người khổng lồ Trần Duy). Có thể nói, bức tranh trong diễn ngôn ngoại biên là bức tranh
của cái đột biến, của những bất ngờ, nhiều ngả rẽ và có kết thúc mở.
4.2.2. Bức tranh cuộc đời muôn mặt
4.2.2.1. Con người bé nhỏ suy tư
Bức tranh hiện thực trong diễn ngôn truyện ngắn ngoại biên nhìn
chung khơng phải cuộc sống màu hồng với những niềm vui phơi phới, mà
là bức tranh của những mảng màu sáng tối đan xen. Ở đó, con người của
cuộc sống đời thường hiện lên khiêm nhường với những niềm vui bé nhỏ
và với cả những băn khoăn, trăn trở về đời, về người và về chính bản thân
mình. Trong truyện ngắn ngoại biên, nhân vật khơng được tập trung khắc
hoạ ở phương diện con người "mới" trong tính tích cực cách mạng, mà là
con người trong tồn bộ tâm lí phức tạp, trái tim họ đập theo nhịp của đời
thường, hướng về đời thường với nhiều suy tư, lo lắng... Ở đây, giá trị của
con người được xác định như một sự tự ý thức về cuộc sống và bản thân
mình. Qua tâm trạng của những con người bé nhỏ ấy, các nhà văn muốn
nói rằng: cuộc đời mới, bên cạnh sự sinh thành những niềm vui lớn lao,
bên cạnh những cái tốt đẹp đang “xé vỏ trổ mầm”, vẫn còn nhiều điều cần
lo nghĩ, cần quan tâm, chia sẻ.
Qua những nhân vật đời thường, bé nhỏ với những quan hệ đời tư
mang tính chất cá nhân, được đặt trong dòng chảy bộn bề tự nhiên của
cuộc sống, được nhìn từ góc nhìn sinh hoạt thế sự, qua những trăn trở suy
tư của họ về muôn mặt cuộc đời, các tác giả truyện ngắn khu vực ngoại
biên muốn thể hiện sự sẻ chia, thông cảm với con người của một thời anh
dũng mà vất vả gian lao. Nhưng ở thời kì 1945-1975, trong quan niệm
chính thống, chỉ cái hùng được phép cất tiếng, còn cái sầu bi – cái buồn ở
mọi cung bậc của con người không được phép “diễn ngơn”. Điều này lí
giải tại sao các truyện ngắn hàm chứa tinh thần nhân bản như vậy lại bị gạt
sang bên lề của đời sống văn hoá, văn học. Tuy nhiên, thời gian đã chứng
minh, loại nghệ thuật bao chứa cả niềm vui và nỗi buồn, cả hào hùng và bi
thương ln có giá trị và có sức sống dài lâu, hay nói như Iu.Lơtman,
“Trên các giai đoạn khác nhau của lịch sử từng la liệt những luận điệu có
tính chu kỳ về tính vơ bổ, thậm chí về tính có hại của nghệ thuật… Tuy
nhiên, nghệ thuật vẫn tái sinh như bất biến, thách thức những kẻ xua đuổi
nó” (Cấu trúc văn bản nghệ thuật).
4.2.2.2. Kẻ tha hoá
Trong truyện ngắn ngoại biên, bên cạnh những hình tượng con người
bé nhỏ suy tư, hình tượng kẻ tha hoá hiện lên như là sự đối nghịch. Tuy số
lượng khơng nhiều nhưng loại hình tượng này đã mang đến cho người đọc
cái nhìn thực tế hơn về cuộc sống, từ đó có thái độ tranh đấu với cái nguỵ,
cái ác tinh tế, mạnh mẽ cho một tương lai tốt đẹp hơn.
Đọc truyện ngắn ngoại biên, dễ nhận thấy các tác giả có phần thăng
hoa khi xây dựng hình ảnh những kẻ tha hố. Với bút pháp đặc tả chân
dung đan xen phẩm bình có vẻ khách quan nhưng đầy ẩn ý, bóng gió, các
tác giả đã chạm đến những con người tha hoá trong đời thực. Trong truyện,
những con người ấy có thể được gọi là anh, là chị, là ông, là bà hoặc là
thằng, là hắn (tuỳ vị thế và mối quan hệ với nhân vật bé nhỏ), nhưng đều
được nói đến bằng giọng điệu giễu nhại. Dường như, những ẩn ức từ đời
thực đã ngấm qua ngòi bút để lan vào mỗi dòng chữ và chuyển hố thành
những hình tượng sinh động như những gương mặt của đời. Nhân vật tha
hố là hình ảnh đại diện cho một bộ phận những con người trong đời thực,
không “hồng” cũng chẳng “chuyên”, nhưng bằng thủ đoạn, nịnh hót, hay
nguyên nhân ngẫu nhiên nào đó, đã len lỏi được vào hàng ngũ cán bộ cách
mạng. Truyện ngắn ngoại biên, qua tạo dựng hình tượng những kẻ như vậy
đã cảnh báo những tệ nạn, nguy cơ đang hình thành trong xã hội mới mà
con người cần tỉnh táo nhận diện và đấu tranh để loại bỏ.
4.2.3. Không gian cá thể và thời gian thế tục
Với ý đồ để thế giới nhân vật cũng như đối tượng tiếp nhận sống
trong tâm thế của cái Tôi cá nhân thức nhận về đời sống xã hội đương thời,
truyện ngắn ngoại biên chủ yếu tạo dựng tọa độ không - thời gian cá thể,
thế tục gắn với đời sống, tâm trạng riêng tư. Có thể khẳng định, khơng –
thời gian của truyện ngắn ngoại biên đã được chọn lựa và xây dựng trên cơ
sở ý thức sáng tạo đầy tinh thần phản tư. Trên nền không - thời gian ấy,
nhà văn để nhân vật được sống thật sự với chính mình và nhờ đó, độc giả
cảm nhận được những tâm tư sâu kín của con người.
4.3. Thẩm quyền tiếp nhận
4.3.1. Ngôn từ, lời văn ẩn ý, đa nghĩa
Xuất phát từ ý tưởng đề cao những giá trị nhân bản, sự thật và sáng
tạo, truyện ngắn ngoại biên thể hiện cách ứng xử với chất liệu ngôn từ rất
khác biệt với cách sử dụng ngôn từ của diễn ngôn truyện ngắn khu vực
trung tâm. Truyện ngắn ngoại biên rất chú ý trau chuốt ngôn từ, lời văn,
đặc biệt là ý thức sử dụng lớp ngôn từ ẩn ý, đa nghĩa. Đọc truyện ngắn của
vùng ngoại biên, thấy ngôn từ lời văn thể hiện rõ nỗ lực tìm tịi, sáng tạo
nghệ thuật.
Trong truyện ngắn ngoại biên, bức tranh ngôn từ, lời văn rất trau
chuốt. Cùng với công phu chọn lọc, gọt giũa từ ngữ, lời văn, các tác giả
truyện ngắn ngoại biên còn rất ý thức sử dụng các phương thức tu từ
nhằm đạt mục đích diễn ngôn. Những phương thức tu từ được sử dụng
khá nhiều trong các truyện đó là so sánh, ẩn dụ, tạo cho diễn ngơn ngoại
biên tính dụ ngơn, đa nghĩa, gây nên những nghi kị trong tiếp nhận của
các nhà quản lí, các nhà phê bình văn nghệ chính thống đương thời. Cái
khiến họ cảm thấy bất ổn, cần phải phê phán cực lực chính là tính “có ẩn
ý” nằm ở lớp văn bản ngơn từ. Như vậy, có thể thấy, truyện ngắn ngoại
biên không chỉ chú ý tới vấn đề con người mà còn chú ý cả tới bản thể
nghệ thuật, lớp văn bản ngôn từ.
4.3.2. Giọng điệu thể hiện ý thức phê phán và tinh thần nhân bản
4.3.2.1. Giọng giễu nhại
Giễu nhại là một cách để người ta cảm nhận ra và tỏ thái độ với
những hiện tượng phi chuẩn của đời sống. Đọc truyện ngắn ngoại biên,
thấy các cây bút rất có khiếu tạo dựng giọng giễu nhại. Với khát vọng nói
lên những vấn đề bức bối của đời sống một cách nghệ thuật và tạo sức
mạnh diễn ngôn, truyện ngắn khu vực ngoại biên thường dùng cách nói
phúng dụ - cách nói bóng gió hoặc ám chỉ, từ đó mà giễu nhại bật ra, tạo
nên ấn tượng về cái gọi là “biểu tượng hai mặt”. Đây chính là điều cấm kị
trong văn học trung tâm.
4.3.2.2. Giọng cảm thương
Viết về những tiêu cực, những mặt trái của xã hội, giọng điệu của
truyện ngắn ngoại biên là giễu nhại, còn khi viết về những mảnh đời bé
nhỏ, giọng điệu bao trùm là giọng cảm thương. Có thể thấy giọng điệu cảm
thương của truyện ngắn ngoại biên chứa đựng những triết lí nhân sinh và
những cảm thức sâu sắc về tồn tại, mang lại cho độc giả những ấn tượng
xúc cảm lâu dài. Chính giọng điệu đầy nhân bản này là một trong những
yếu tố chính giúp các truyện ngắn loại này có khả năng “chống lại sự lãng
quên của con người” - như cách nói của M. Kundera.
KẾT LUẬN
1. Suốt mấy chục năm nay, truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 đã
được nghiên cứu nhiều. Vì được “lật xới” ở nhiều phương diện nên khơng ít
người cho rằng đây là đối tượng đã “cạn kiệt”, khơng cịn gì để nghiên cứu,
bàn thảo. Tuy nhiên, nhìn tổng quan các cơng trình nghiên cứu đã có về
truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975, có thể thấy truyện ngắn Việt Nam 1945
– 1975 thường chủ yếu được nghiên cứu trong phạm vi đặc trưng văn học –
nghệ thuật, trong hệ thống lời nghệ thuật thuộc phạm vi văn học, ít được
nghiên cứu như những loại hình phát ngơn cụ thể (lời nghệ thuật được đặt
vào một dãy với các thể loại lời nói ngồi nghệ thuật và trong mơi trường đa
ngữ để được xem xét như một đơn vị của thực tiễn giao tiếp sống động, có
mục đích và chiến lược giao tiếp cụ thể). Mặt khác, tuy các công trình bàn
về truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 phong phú và đa dạng như chính đối
tượng mà nó hướng tới nhưng có thể thấy, cho đến nay, các cơng trình, bài
báo về truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 chủ yếu tập trung vào
những bộ phận, hiện tượng tiêu biểu từng được ghi nhận là có đóng góp trực
tiếp, tích cực cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, cho công
cuộc xây dựng cuộc sống xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc những năm 1954 –
1964, mà chưa quan tâm đầy đủ đến toàn bộ diện mạo thể loại như một
chỉnh thể vốn có. Nói cách khác, trong nghiên cứu trước đây, truyện ngắn
cũng như văn học Việt Nam 1945 – 1975 chủ yếu được khẳng định ở tính
thống nhất, cịn các phạm vi, yếu tố khác biệt cùng tồn tại, vận động trong
tiến trình 30 năm văn học thời chiến tranh chưa được quan tâm làm rõ. Cũng
đã có một số cơng trình nghiên cứu, phê phán những tác phẩm, tác giả chệch
đường lối văn nghệ của Đảng, nhưng những cơng trình đó chủ yếu đánh giá
tác phẩm từ góc nhìn chức năng xã hội của văn học mà chưa khám phá đặc
thù của tác phẩm văn học, thể loại văn học trong chỉnh thể một trường diễn
ngôn đang vận động. Nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 như
một trường diễn ngôn, một mặt, ta sẽ có cơ hội khảo sát cụ thể, toàn diện
hơn truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975; mặt khác, trên cơ sở so sánh loại
hình các bộ phận cấu thành trường diễn ngôn truyện ngắn 1945 – 1975, có
thể đánh giá khách quan hơn đặc điểm, thành tựu cũng như hạn chế của các
bộ phận cấu thành.
2. Diễn ngôn đã được nhiều nhà nghiên cứu xem xét dưới góc độ
ngơn ngữ học, xã hội học nhưng với người nghiên cứu văn học, quan niệm
diễn ngôn theo hướng tu từ học – thi pháp học của V.I.Chiupa đặc biệt đáng
chú ý. Trên cơ sở kế thừa quan niệm về “chỉnh thể lời nói” của M.Bakhtin,
V.I.Chiupa định nghĩa diễn ngơn là phát ngơn hồn chỉnh được hiểu như
một sự kiện giao tiếp, là tổng thể của các thẩm quyền diễn ngôn: thẩm
quyền sáng tạo, thẩm quyền của cái được biểu đạt (được phản ánh) và thẩm
quyền tiếp nhận. Ba thẩm quyền ấy gắn bó chặt chẽ tạo nên chỉnh thể phát
ngơn và bị những đặc điểm của một phạm vi, ngữ cảnh giao tiếp cụ thể chế
định, trong đó trường tri thức và quyền lực thời đại là những yếu tố có
xung lực mạnh mẽ chi phối các thẩm quyền diễn ngôn. Làm rõ những thẩm
quyền này của diễn ngôn, ta sẽ nắm được ba bình diện cơ bản của phát
ngơn, gồm nội dung chủ đề, phong cách và tổ chức kết cấu. Và đó là con
đường chiếm lĩnh diễn ngơn.
Tiếp thu ánh sáng lí thuyết ký hiệu học, cụ thể là khái niệm kí hiệu
quyển của Iu.Lotman, chúng tơi đề xuất sử dụng khái niệm trường diễn ngơn
để nói về các phạm vi không gian diễn ngôn. Mỗi trường diễn ngôn - không
gian diễn ngôn mang những đặc điểm cơ bản sau: (1) tính phân giới, (2) tính
đa dạng nội tại và sự phát triển không đồng đều của các tiểu cấu trúc trong
cấu trúc trường diễn ngơn, (3) có cấu trúc đối xứng phi đẳng cấu, trong đó
cặp đối xứng khái quát nhất là “trung tâm” - “ngoại biên”. Đây là những đặc
điểm mang tính phổ quát ở mọi trường diễn ngôn.
Quan niệm diễn ngôn và trường diễn ngôn như vậy, có thể thấy bản
thân truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 là một trường diễn ngôn,
chứa đựng trong nó nhiều loại diễn ngơn: có diễn ngơn dân tộc – lịch sử,
diễn ngôn truyện cổ, diễn ngôn đời tư, diễn ngôn giai thoại… Các loại diễn
ngôn này lại có sự phân cực thành hai vùng tâm – biên rõ rệt: những tác
phẩm viết theo chủ trương đường lối của Đảng, trực tiếp cổ vũ, tuyên truyền
cho cách mạng, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, mà chủ
yếu là diễn ngôn dân tộc – lịch sử, là văn học trung tâm, phù hợp với địi
hỏi, u cầu của quyền lực chính thống, được quyền lực chính thống quan
tâm cổ vũ; những tác phẩm không trực tiếp đáp ứng phục vụ chủ trương
đường lối của Đảng như diễn ngôn đời tư, diễn ngôn giai thoại… bị quyền
lực và phê bình chính thống đẩy ra ngoại biên. Nhìn truyện ngắn trong
trường diễn ngơn như vậy, có thể thấy cấu trúc khơng thuần nhất của nền
truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975, điều mà nhiều công trình trước đây khi
nghiên cứu về đối tượng này chưa quan tâm chỉ ra. Đồng thời, nhìn từ góc
độ lí thuyết diễn ngơn, có thể thấy ý thức hệ và trường tri thức là những yếu
tố chi phối sự hình thành cấu trúc tâm – biên của trường diễn ngôn truyện
ngắn giai đoạn 1945 – 1975. Ý thức hệ vô sản, chủ trương đường lối văn
nghệ của Đảng như những yếu tố quyền lực thời đại tác động tới người cầm
bút, được đội ngũ tác giả thấm nhuần ở những mức độ khác nhau, từ đó hình
thành nên các vùng diễn ngôn trung tâm – ngoại biên. Diễn ngôn trung tâm
thể hiện sự tuân thủ ý thức hệ vô sản, chủ trương đường lối văn nghệ của
Đảng. Những diễn ngôn bị đánh giá là không tuân thủ ý thức hệ vô sản, chủ
trương đường lối văn nghệ của Đảng bị coi là diễn ngôn “lệch chuẩn” và bị
đẩy ra vùng ngoại biên của trường diễn ngôn văn học 1945 – 1975. Bên
cạnh đó, như mọi sáng tạo nghệ thuật, diễn ngôn truyện ngắn chịu sự chi
phối mạnh của hai yếu tố chủ yếu thuộc trường tri thức: tri thức đời sống và
tri thức nghệ thuật. Nhìn chung, các nhà văn giai đoạn 1945 – 1975, do
khoảng cách lịch sử với ý thức hệ và nghệ thuật thế giới, do mức độ trải
nghiệm, cảm hiểu đời sống con người trong hoàn cảnh đân tộc chống xâm
lược, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, bộc lộ không đều vốn liếng và sự tác
động của trường tri thức đối với diễn ngơn văn học của mình. Tình trạng ấy
cùng với những khác biệt trong tiếp thu, chịu ảnh hưởng của yếu tố ý thức
hệ tạo nên sự khác biệt về tính chất, chất lượng nghệ thuật, mức độ hấp dẫn,
sức sống… của diễn ngơn văn học nói chung, diễn ngơn truyện ngắn nói
riêng những năm 1945-1975.
3. Ở bộ phận/khu vực diễn ngôn trung tâm trong truyện ngắn Việt
Nam giai đoạn 1945 – 1975, thẩm quyền sáng tạo của nó là nguyên tắc
truyền bá, nêu gương theo khung truyện định sẵn: miêu tả đời sống theo
mạch vận động từ “thung lũng đau thương tới cánh đồng vui” theo kiểu kết
thúc có hậu, nhân vật có tinh thần lạc quan, có ý chí đấu tranh kiên cường,
có tư tưởng tiến bộ… Tất cả hướng đến mục đích động viên, cổ vũ các tầng
lớp quần chúng nhân dân cống hiến hết mình cho công cuộc bảo vệ và dựng
xây đất nước ở giai đoạn lịch sử đầy cam go. Có thể nói, hầu hết các truyện
ngắn của giai đoạn 30 năm chiến tranh là những câu chuyện, câu chữ đã
được ước định nhằm mục đích tuyên truyền cách mạng.
Ứng với thẩm quyền sáng tạo như vậy, thẩm quyền của cái được biểu
đạt – bức tranh thế giới trong diễn ngôn trung tâm là thế giới được lưỡng
cực hóa, bức tranh của những chức phận, mà nổi bật là hình ảnh, tấm gương
những con người mới xã hội chủ nghĩa, trước hết và trên hết là cơng – nơng
– binh, những con người bình thường, giản dị nhưng cao quý, ngày ngày lao
động quên mình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Được xây dựng theo
nguyên tắc huyền thoại hoá – mỗi con người là một huyền tích, tồn tại trong
khơng gian cộng đồng và thời gian lịch sử, bức tranh thế giới trong diễn
ngôn trung tâm đã truyền cho người đọc những tình cảm thiêng liêng, niềm
tin tưởng và tinh thần cống hiến, hy sinh vì non sơng đất nước.
Là diễn ngơn của thời kì mà đất nước liên tiếp trải qua hai cuộc chiến
tranh, đội ngũ sáng tác chủ yếu là nhà văn – chiến sĩ, nhà văn – người lính,
đội ngũ tiếp nhận được xác định trước hết và trên hết là công – nông – binh,
là giai cấp vô sản cách mạng, do đó thẩm quyền tiếp nhận của diễn ngôn
trung tâm được chế định ở lớp ngôn từ, lời văn mang đậm tính chất của văn
chương tuyên truyền – ngơn từ, lời văn được đại chúng hóa, chính trị, quân
sự hóa và giọng điệu thể hiện lập trường cách mạng, kháng chiến, vì Tổ
quốc, dân tộc. Việc sử dụng lớp từ và cách nói mang đặc trưng phong cách
thời đại ấy được đánh giá là phù hợp với khơng khí và tâm lí tiếp nhận của
người đọc một thời binh lửa.
4. Trong trường diễn ngôn truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 –
1975, có một bộ phận truyện ngắn thuộc khu vực diễn ngơn ngoại biên, có
nội dung chủ đề, phong cách và tổ chức kết cấu khác với và đối xứng phi
đẳng cấu với diễn ngôn trung tâm. Các cây bút của khu vực diễn ngôn ngoại
biên, mà tiêu biểu là các tác giả thuộc nhóm Nhân văn Giai phẩm, thừa nhận
Đảng đã giải phóng cho họ, chỉ cho họ hướng đi, thừa nhận sự lãnh đạo của
Đảng, sáng tác để phục vụ sự nghiệp của Đảng, nhưng bày tỏ khát vọng tự
do sáng tạo, mong muốn văn học nghệ thuật được tự do khám phá và biểu
hiện sự thật, mong muốn mỗi sáng tạo là một khác biệt, độc đáo.
Ở diễn ngôn ngoại biên, thẩm quyền sáng tạo được mở rộng theo
nguyên tắc phản tư (nghĩ khác, nghĩ ngược) với sáng tác tuyên truyền, vượt
khung truyện định sẵn. Thẩm quyền của cái được biểu đạt được mở rộng
theo nguyên tắc đa diện hóa, thể hiện bức tranh cuộc đời muôn mặt, mà
nhân vật trung tâm là những con người bé nhỏ suy tư; là những kẻ tha hóa;
tồn tại trong khơng gian cá thể và thời gian thế tục. Hướng tới đối tượng tiếp
nhận rộng rãi, nhất là tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, thẩm quyền tiếp nhận
của diễn ngôn ngoại biên là lớp văn bản ngôn từ được kiến tạo theo nguyên
tắc đa nghĩa, đầy ẩn ý, thể hiện tinh thần “vị nghệ thuật”. Trong diễn ngơn
ngoại biên, có cả giọng điệu giễu nhại những kẻ tha hóa, có cả giọng điệu
cảm thương những con người bé nhỏ, oan sai, thất thế, tần tảo đời thường.
Giọng điệu ấy xét đến cùng là giọng điệu của tinh thần nhân văn, nhân bản.
Vì vậy, dù từng bị đánh giá là văn học “lệch chuẩn”, bị coi là diễn ngôn
ngoại biên nhưng thiết nghĩ đây vẫn là một bộ phận của nền văn học dân
tộc, có khơng ít tác phẩm cần được trân trọng bởi những khía cạnh giá trị
tư tưởng và nghệ thuật đáng quý của nó.
5. Nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 từ góc độ lí thuyết
diễn ngơn giúp ta có được cách nhìn và những kết quả mới về một đối
tượng từng được nhiều người, nhiều lần quan tâm xem xét. Những kết quả
nghiên cứu này cho phép hy vọng lí thuyết diễn ngơn sẽ tiếp tục được tìm
hiểu, vận dụng, mang lại những khám phá mới trong nghiên cứu văn học.
Mặt khác, chúng tơi ý thức rằng, vận dụng lí thuyết diễn ngôn cũng chỉ là
một cách tiếp cận, không chỉ lí thuyết diễn ngơn có khả năng mang lại cái
nhìn mới về truyện ngắn Việt Nam 1945 - 1975. Bên cạnh lí thuyết diễn
ngơn, việc nghiên cứu đối tượng này trên cơ sở các lí thuyết khác – chẳng
hạn lí thuyết kí hiệu học, lí thuyết liên văn bản… - cũng có thể mang lại
những góc nhìn, những phát hiện khoa học bổ ích. Truyện ngắn Việt Nam
1945 – 1975 vẫn là đối tượng đang vẫy gọi các nỗ lực tìm tịi, vận dụng các
hướng nghiên cứu mới để khám phá, thẩm định.