Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

quan hệ sách phong, triều cống minh – đại việt (1368 – 1644) tóm tắt tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.26 KB, 28 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ sách phong, triều cống là một hình thức đặc biệt của quan
hệ bang giao giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ở thời phong kiến.
Trong đó, các vương triều Trung Quốc với ưu thế về kinh tế, chính trị, quân
sự, văn hóa, tự cho mình là “thiên triều, thượng quốc”, có quyền phong tước
cho vua các nước nhỏ. Ngược lại, để được phong vương, để thiết lập và duy
trì quan hệ với Trung Quốc, để được yên ổn, vua các nước này phải cầu
phong và phải thực thi các nghĩa vụ với “thiên triều”, mà nghĩa vụ quan
trọng nhất là phải triều cống định kì. Sách phong, triều cống dần dần trở
thành mô thức chủ yếu trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng
giềng ở thời trung đại. Mô thức này xuất hiện từ thời Tây Hán, không
ngừng được mở rộng thành hệ thống và tới thời Minh (1368 – 1644) thì đạt
tới đỉnh điểm của sự phát triển.
Do vị thế địa – chính trị, do sự tương đồng về văn hóa, do những hệ lụy
của hơn một nghìn năm Bắc thuộc và nhiều lí do khác mà quan hệ sách
phong, triều cống giữa Trung Quốc và Đại Việt trong lịch sử nói chung, ở
thời Minh nói riêng được duy trì chặt chẽ, bền vững, trở thành một trong
những mối quan hệ sách phong, triều cống có tính chất điển hình và là cơ
sở, nền tảng của quan hệ bang giao giữa hai nước.
Nghiên cứu về quan hệ Trung - Việt, Việt - Trung trong lịch sử, từ lâu đã
được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm và đã có những đóng góp
khoa học quan trọng. Tuy nhiên, quan hệ sách phong, triều cống Trung – Việt
ở thời phong kiến hoặc giữa các triều đại cụ thể, mới chỉ được trình bày một
cách khái quát trong các bộ thông sử Việt Nam, thông sử Trung Quốc, hoặc
còn là một phần khiêm tốn trong một số công trình nghiên cứu về quan hệ
tổng thể giữa hai nước. Với đề tài “Quan hệ sách phong, triều cống Minh –
Đại Việt (1368 – 1644)”, luận án muốn nghiên cứu một cách hệ thống,
chuyên biệt về quan hệ sách phong, triều cống Trung Quốc – Đại Việt dưới
chế độ phong kiến ở một thời kì lịch sử cụ thể có nhiều yếu tố tác động sâu


sắc đến mối quan hệ này. Đây cũng là thời kì quan hệ sách phong, triều cống
giữa hai nước có những giai đoạn ổn định lâu dài và có những lúc căng thẳng,
thậm chí gián đoạn, nhưng cuối cùng cũng đều đã được hai phía hóa giải.
1
2
Về những vấn đề khoa học cụ thể, luận án hướng tới việc làm sáng tỏ
cơ sở tư tưởng, cơ sở lợi ích, cơ sở lịch sử của quan hệ sách phong, triều
cống Minh – Đại Việt; quá trình phát triển thăng trầm của mối quan hệ này
và nguyên nhân của nó; vị trí, đặc điểm của quan hệ sách phong, triều cống
Minh – Đại Việt, thực chất thái độ của các vương triều Đại Việt trong quan
hệ với nhà Minh. Luận án cũng muốn góp phần lý giải vì sao quan hệ sách
phong, triều cống Minh – Đại Việt lại tương đối ổn định, bền vững và được
duy trì chặt chẽ, khác với nhiều mối quan hệ triều cống giữa các nước Đông
Nam Á khác với nhà Minh…Trong một chừng mực nào đó, có thể nói đó
cũng là những vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu về quan hệ sách
phong, triều cống giữa Trung Quốc và Đại Việt từ khi hình thành (thế kỉ X)
đến khi kết thúc (thế kỉ XIX).
Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, ứng xử với các vương triều phong kiến
Trung Quốc như thế nào để vừa có thể sống hòa mục với một nước láng
giềng lớn, tránh được những căng thẳng, xung đột, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vừa có thể đoàn kết được toàn dân, giữ
vững ổn định chính trị, xã hội, không phải là một vấn đề đơn giản và luôn là
một thách thức lớn đối với các vương triều Đại Việt, nhất là trước một triều
Minh cường thịnh và luôn có tham vọng bành trướng, khống chế, kiềm tỏa
Đại Việt. Những kinh nghiệm, bài học lịch sử mà cha ông chúng ta để lại
trong việc giải quyết vấn đề này, qua quan hệ sách phong, triều cống, dưới
bất cứ góc độ nào, chắc chắn mãi còn hữu ích.
Nghiên cứu quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt vì thế
không chỉ cần thiết cho việc nhận thức lịch sử một cách thuần túy mà còn
có ý nghĩa thời sự sâu sắc. Sự hấp dẫn của các vấn đề khoa học và thực tiễn

nêu trên là lý do để tôi chọn đề tài “Quan hệ sách phong, triều cống Minh
– Đại Việt (1368 – 1644)” làm luận án tiến sĩ, dù tôi hiểu sâu sắc rằng việc
giải quyết một cách thấu đáo những vấn đề này không thể là công việc của
một cá nhân trong khuôn khổ của một luận án.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ sách phong, triều cống giữa Trung Quốc với các nước trong
đó có Đại Việt ở thời phong kiến là vấn đề đã được các học giả trên thế
giới, các học giả Trung Quốc và Việt Nam quan tâm nghiên cứu.
2
3
Trước tiên là một số công trình nghiên cứu tổng quát của các học giả
trên thế giới về hệ thống triều cống và quan hệ của nhà Minh với Đông Nam
Á như: “On the Ch’ing tributary system” (1941) của hai nhà nghiên cứu
J.K.Fairbank và S.Y.Teng; “Tributary trade and China’s relations with the
West” (1942) của J.K.Fairbank; “Historical notes on the Chinese World
Order” (1968) của Lien-sheng Yang; “Early Ming relations with Southeast
Asia: A background essay” (1968) của Wang Gungwu; “The Ch’ing tribute
system: An interpretive essay” (1968) của Mark Mancall; “The Chinese
perception of world order, past and present” (1968) của Benjamin
I.Schwartz; “China and the Chinese Overseas” (1991) của Wang Gunggu;
“A short history of China and Southeast Asia: Tribute, Trade and
Influence”(2003) của Martin Stuart – Fox
Những nghiên cứu này đã góp phần vào việc lí giải mô hình bang giao
giữa Trung Quốc với các nước láng giềng ở thời trung đại; quan niệm của
các vương triều Trung Quốc về trật tự thế giới; nguồn gốc, chức năng, vai
trò của hệ thống triều cống; mối quan hệ giữa triều cống và thương mại;
mối quan tâm đặc biệt của nhà Minh với Đông Nam Á và quan hệ giữa
Trung Quốc với Đông Nam Á thời Minh…Đây là những vấn đề cần thiết và
hữu ích đối với việc nghiên cứu các mối quan hệ sách phong, triều cống cụ
thể.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu tổng quát về hệ thống triều
cống và quan hệ giữa nhà Minh với Đông Nam Á, đã có một số sách chuyên
khảo và bài viết đề cập đến mối quan hệ giữa nhà Minh và Đại Việt:
“Vietnam, Ho Quy Ly and the Ming (1371 – 1421)” (1981) của John
Whitmore; “Early Ming expansionism (1406-1427): China’s abortive
conquest of Vietnam” (1963) của A.B.Woodside; “Beyond the Bronze
Pillars: Envoy Poetry and the Sino – Vietnamese Relationship” (2005) của
Liam C.Kelley; “Chinese gunpowder technology and Dai Viet: c.1390 –
1497” (2006) của Sun Laichen, “Asymmetry and China’s tributary system”
(2012) của Brantly Womack
3
4
Những công trình nghiên cứu tiêu biểu của các học giả Trung Quốc về
mối quan hệ giữa nhà Minh và Đại Việt là: “Chinh chiến và từ bỏ - Nghiên
cứu mối quan hệ Trung Việt thời Minh” (1998) của Trịnh Vĩnh Thường;
“Triều cống và bang giao – Nghiên cứu mối quan hệ Trung - Việt giai đoạn
cuối Minh đầu Thanh” (2003) của Ngưu Quân Khải; “Sử luận về lịch sử
chế độ triều cống – Nghiên cứu thể chế quan hệ đối ngoại của Trung Quốc
cổ đại” (2004) của Lý Vân Tuyền; “Nghiên cứu mối quan hệ giữa triều
Minh và An Nam” (2005) của Trần Văn Nguyên
Lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc từ lâu cũng đã được các học
giả Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Những công trình nghiên cứu gần đây
về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc có: “Quan hệ giữa Việt Nam và
Trung Quốc thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI” (1995) của Tạ Ngọc Liễn;“Ngoại
giao Đại Việt” (2000) của Lưu Văn Lợi; hai tập sách “Bang giao Đại Việt
triều Trần – Hồ” và “Bang giao Đại Việt triều Lê, Mạc, Lê Trung Hưng”
trong bộ sách “Bang giao Đại Việt” (2005) của Nguyễn Thế Long; “Cuộc
đấu tranh ngoại giao với nhà Minh đầu thế kỉ XV và những chứng tích còn
lại” (2002) của Nguyễn Văn Nguyên; “Đặc điểm quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam với Trung Quốc thời trung đại nhìn từ quan hệ văn hóa – chính

trị mang tính vùng” (2008) của Đinh Thị Dung; “Đại Việt trong bối cảnh
lịch sử, chính trị Đông Á thế kỉ XV” (2009) của Nguyễn Văn Kim; “Chính
sách ngoại giao thời Mạc: Bài học lịch sử giá trị” (2010) của Ngô Đăng
Lợi; “Quan niệm “vô tốn Trung Hoa” ở Việt Nam thời trung đại” (2011)
của Nguyễn Văn Hiệu; “Văn hóa ứng xử của Việt Nam trong quan hệ với
Trung Hoa thời kì trung đại nhìn từ vấn đề “sách phong, triều cống” (2011)
của Trần Nam Tiến …
Có thể tổng kết lại một số thành tựu mà các học giả Việt Nam và
nước ngoài đạt được từ quá trình nghiên cứu lịch sử mối quan hệ giữa
Trung Quốc thời Minh với các nước Đông Nam Á nói chung, với Đại Việt
nói riêng, như sau:
- Những vấn đề lý luận về sự hình thành chính sách đối ngoại của
Trung Hoa thời trung đại.
- Các khái niệm gắn liền với chính sách đối ngoại của Trung Hoa
thời trung đại: Hệ thống triều cống (Tributary system), trật tự thế giới Trung
4
5
Hoa (Chinese world order), hệ thống lễ trị thiên triều, trật tự Hoa Di, sách
phong, triều cống…
- Một số vấn đề về quan hệ giữa Trung Quốc thời Minh với khu
vực Đông Nam Á, trong đó có Đại Việt, trên các lĩnh vực: chính trị, ngoại
giao, quân sự, thương mại, văn hóa.
- Quan hệ sách phong, triều cống giữa Trung Quốc với Đại Việt ở thời
Minh cũng đã được đề cập tới ở mức khái lược trong một vài công trình nêu
trên.
Tuy nhiên, có thể nói, đến nay chưa có một công trình chuyên biệt
nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về quan hệ sách phong, triều
cống giữa Trung Quốc và Đại Việt ở thời Minh (1368 – 1644). Những vấn
đề còn chưa được nghiên cứu hệ thống và chuyên sâu là:
- Những cơ sở của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại

Việt.
- Bối cảnh của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt
trong các giai đoạn lịch sử cụ thể.
- Diễn tiến toàn diện của mối quan hệ sách phong, triều cống Minh
– Đại Việt với những thăng, trầm và nguyên nhân của nó.
- Vị trí của quan hệ sách phong, triều cống trong quan hệ giữa hai
nước ở thời Minh và đặc điểm của mối quan hệ này
Trên cơ sở khai thác các nguồn sử liệu Trung Quốc, sử liệu Việt
Nam, kế thừa kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước, luận
án sẽ đi sâu nghiên cứu và giải quyết những vấn đề còn tồn tại trên.
3. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận án nghiên cứu quan hệ sách phong, triều cống giữa
Trung Quốc và Đại Việt trong thời kì nhà Minh cai trị Trung Quốc từ năm
1368 đến năm 1644. Tuy nhiên, luận án cũng đề cập tới những quan hệ
chính trị, quân sự và các quan hệ bang giao khác có liên quan trực tiếp tới
quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước trong thời kì này.
Về thời gian, phạm vi thời gian luận án bao quát là từ năm 1368 khi
nhà Minh được thành lập, đến năm 1644 khi nhà Minh bị lật đổ. Sau năm
1644 mặc dù tàn dư của triều Minh vẫn tồn tại lay lắt ở miền nam Trung
Quốc một thời gian ngắn nữa và vẫn có quan hệ với nhà Lê, nhưng lúc này
lịch sử Trung Quốc và quan hệ Trung Quốc – Đại Việt đã bước sang một
5
6
thời kì mới.
Trong thời gian nhà Minh cai trị Trung Quốc, ở Đại Việt đã có 4 triều
đại kế tiếp nhau (riêng triều Lê lại bị chia cắt thành hai thời kì), vì vậy, luận
án phân chia các giai đoạn nhỏ trong quan hệ sách phong, triều cống Minh –
Đại Việt theo thời gian tồn tại của các vương triều ở Đại Việt.
Về việc sử dụng danh xưng “Minh”: Minh là tên gọi một triều đại
phong kiến Trung Quốc, đồng thời cũng là quốc hiệu của nước này từ năm

1368 đến năm 1644. Trong luận án, danh xưng này tùy theo bối cảnh, có lúc
được sử dụng với nghĩa quốc hiệu, có lúc với nghĩa vương triều.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
4.1. Mục đích
Mục đích của luận án là khôi phục lại một cách hệ thống, toàn diện
quan hệ sách phong, triều cống giữa Trung Quốc và Đại Việt ở thời Minh
với những thăng trầm của nó qua các giai đoạn lịch sử cụ thể, lí giải nguyên
nhân dẫn đến sự tồn tại bền vững của hình thức quan hệ này, làm sáng tỏ
những đặc trưng cơ bản của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại
Việt. Qua đó, tác giả luận án hi vọng có thể bổ sung tư liệu, nhận định, góp
phần vào việc thúc đẩy nghiên cứu toàn diện lịch sử quan hệ sách phong,
triều cống giữa hai nước cũng như làm rõ một mô hình bang giao độc đáo
của các vương triều phong kiến Trung Quốc với các nước láng giềng.
4.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu dưới đây:
- Phân tích các cơ sở của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại
Việt (cơ sở tư tưởng, lợi ích và truyền thống).
- Phân tích toàn diện bối cảnh lịch sử Trung Quốc, Đại Việt và chính
sách của các vương triều tác động đến quan hệ sách phong, triều cống giữa
hai nước qua các giai đoạn cụ thể.
- Khôi phục lại tiến trình quan hệ sách phong, triều cống Minh - Đại
Việt từ năm 1368 đến năm 1644.
- Đánh giá vị trí và phân tích các đặc điểm của mối quan hệ sách
phong, triều cống Minh – Đại Việt.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
6
7
5.1. Nguồn tư liệu
* Tư liệu gốc

Nguồn sử liệu Trung Quốc quan trọng nhất được luận án tập trung khai
thác là Minh thực lục (明實錄). Đây là bộ biên niên sử đồ sộ của nhà Minh.
Minh thực lục cung cấp nhiều sử liệu quan trọng và chi tiết về việc cầu
phong, sách phong, triều cống, thông hiếu trong quan hệ bang giao giữa hai
nước Trung Quốc, Đại Việt ở thời Minh. Tuy nhiên, những ghi chép trong
Minh thực lục cũng có không ít sai sót, hạn chế. Vì vậy cần dựa vào các
nguồn sử liệu Việt để khảo sát, đối chứng những ghi chép của Minh thực lục
để cải chính những lầm lẫn của Minh thực lục về tên người, tên đất Việt và cả
những quan điểm, nhận định không phù hợp của các sử gia Minh khi viết về
mối quan hệ giữa hai nước.
Nguồn sử liệu Việt Nam quan trọng nhất đối với luận án là Đại Việt sử
kí toàn thư (viết tắt là Toàn thư). Toàn thư là một nguồn sử liệu phong
phú, có giá trị cao để nghiên cứu về quan hệ sách phong, triều cống Minh –
Đại Việt và để đối chiếu, so sánh, kiểm chứng các nguồn sử liệu Trung
Quốc về vấn đề này. Tuy nhiên, đôi khi các sự kiện cầu phong; sách phong
được ghi chép trong Toàn thư còn bị nhầm lẫn về thời gian; chủng loại và
số lượng cống phẩm, quà tặng lại của nhà Minh cũng ít được ghi chép cụ
thể. Để khắc phục điều này, luận án dựa vào sử liệu Trung Quốc và các
nguồn sử liệu Việt khác.
Ngoài Minh thực lục và Toàn thư, luận án còn tập trung khai thác
nhiều nguồn sử liệu có giá trị khác như: Minh sử (明史), Lịch triều hiến
chương loại chí, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, Lê triều
hình luật, Đại Việt thông sử (còn gọi là Lê triều thông sử), An Nam chí
lược, Vân đài loại ngữ, Tưởng Lê an Mạc tập, Mai Lĩnh sứ hoa thi
tập…
* Tài liệu tham khảo: Các công trình nghiên cứu đã được công bố của
các học giả trong và ngoài nước xung quanh những vấn đề có liên quan đến
luận án, gồm các sách chuyên khảo, các tuyển tập báo cáo khoa học, các bài
viết trên tạp chí chuyên ngành, các luận án, luận văn, các báo cáo trong các
hội thảo khoa học…

5.2. Phương pháp nghiên cứu
7
8
Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài là
phương pháp nghiên cứu lịch sử và phương pháp logic. Trong đó, phương
pháp tiếp cận tư liệu; phân loại tư liệu; xử lý, phê phán tư liệu; khai thác triệt
để các tư liệu gốc theo hướng tiếp cận lịch đại, đồng đại, hệ thống là sự lựa
chọn ưu tiên của luận án.
Luận án cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp cụ thể
(Case study), phương pháp nghiên cứu liên ngành và các phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu mà
đề tài đặt ra.
6. Đóng góp của luận án
Giải quyết được các nhiệm vụ đặt ra, luận án có thể có những đóng góp
như sau:
- Tái hiện một cách khách quan, sinh động quá trình xác lập, duy trì, củng cố
quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt qua các cặp quan hệ: Minh
- Trần, Minh - Hồ, Minh – Lê sơ, Minh – Mạc, Minh – Lê trung hưng, với
những nét đặc thù dưới tác động của bối cảnh lịch sử cụ thể.
- Làm sáng tỏ các cơ sở của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt;
đánh giá vị trí, xác định đặc điểm của mối quan hệ này và phân tích thực
chất thái độ của các vương triều Đại Việt trong quan hệ với nhà Minh. Trên
cơ sở đó, luận án hy vọng cung cấp một ví dụ cụ thể, điển hình để kiểm
chứng và đánh giá các lý thuyết triều cống mà một số học giả đã nêu ra.
- Bổ sung tư liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy về quan hệ bang giao giữa
hai nước Trung Quốc, Đại Việt ở thời phong kiến.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt

Chương 2: Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt giai đoạn 1368 –
1527
Chương 3: Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt giai đoạn 1527 –
1644
Chương 4: Một số nhận xét về quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại
Việt
8
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ CỦA QUAN HỆ SÁCH PHONG,
TRIỀU CỐNG MINH - ĐẠI VIỆT
1.1. Sự phát triển cao độ của tư tưởng ”thiên triều – chư hầu” dưới
triều Minh
Cơ sở tư tưởng của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt nói
riêng, giữa các vương triều phong kiến Trung Quốc với các nước xung
quanh nói chung, là tư tưởng ”thiên triều – chư hầu”. Tư tưởng này chi phối
cách hành xử của các vương triều phong kiến Trung Quốc trong quan hệ với
các nước nhỏ yếu xung quanh và cả cách ứng xử của các nước xung quanh
với Trung Quốc.
Tư tưởng thiên triều – chư hầu được củng cố bởi quan niệm về vai trò
của hoàng đế Trung Quốc thời phong kiến. Hoàng đế Trung Hoa được coi
là người thay trời thống trị toàn bộ thiên hạ. Trong thiên hạ (dưới gầm trời
này), Trung Quốc là nước ở giữa, là trung tâm, còn các quốc gia, bộ tộc
xung quanh là phên giậu; triều đình Trung Quốc là “thiên triều”, còn các
quốc gia, bộ tộc xung quanh là “chư hầu” lệ thuộc. Quan hệ giữa “thiên
triều” với “chư hầu” là quan hệ “tông phiên” (tông chủ – phiên thuộc).
Quan hệ này được định vị và duy trì bằng các nghi thức cầu phong, sách
phong, triều cống.
Tư tưởng “thiên triều - chư hầu” cũng được củng cố, bảo vệ bởi Nho giáo
– hệ tư tưởng chính thống của xã hội phong kiến Trung Quốc. Nho giáo với

thuyết chính danh và thuyết tam cương bảo vệ trật tự quan hệ trên, dưới.
Theo các thuyết này kẻ dưới phải tuyệt đối phục tùng bề trên, bề tôi phải tuyệt
đối phục tùng vua, chư hầu phải tuyệt đối phục tùng hoàng đế. Nho giáo cũng
đề cao tư tưởng nước lớn, đề cao Hoa Hạ. Đặc biệt, Nho giáo sử dụng thuyết
“thiên mệnh” (mệnh trời) để bảo vệ trật tự quan hệ nước lớn, nước nhỏ.
Ở thời Minh, với sự cường thịnh của Trung Quốc, sự phát triển đến
đỉnh điểm của chế độ chuyên chế tập quyền, tư tưởng “thiên triều - chư
hầu” có điều kiện mới để phát triển cao độ. Điều này thể hiện rất rõ trong
quan niệm của các hoàng đế nhà Minh về địa vị của cá nhân mình, cũng
như của Trung Quốc trong thế giới.
Các hoàng đế Minh, cũng như các hoàng đế của các vương triều trước đó
9
10
luôn tự cho mình là người thực hiện thiên mệnh để cai trị vạn phương, không
chỉ cai trị Trung Quốc mà còn “thống ngự vạn quốc trong bốn biển” và tất cả
các nước này đều là “Di Địch”, là chư hầu của ”thiên triều”. Những quan
niệm bá quyền, nước lớn, mang đậm tính kì thị chủng tộc này chính là cơ sở
tư tưởng của quan hệ sách phong – triều cống giữa Minh – Đại Việt nói riêng
và giữa Minh với các nước khác nói chung.
1.2. Những lợi ích của nhà Minh trong việc xác lập, duy trì, phát
triển quan hệ sách phong, triều cống
Việc xác lập, phát triển quan hệ sách phong, triều cống của triều
Minh cũng như của tất cả các vương triều phong kiến Trung Quốc với Đại
Việt và các nước xung quanh xuất phát từ các lợi ích cốt lõi của Trung
Quốc. Thực tiễn lịch sử cho thấy có thể xếp các lợi ích đa dạng của triều
đình nhà Minh khi xác lập, phát triển quan hệ sách phong, triều cống với
Đại Việt và các nước xung quanh thành hai nhóm: nhóm lợi ích chính trị và
nhóm lợi ích kinh tế.
1.3.
Sự phát triển cường thịnh của Trung Quốc dưới triều Minh

và tham vọng bành trướng, mở rộng ảnh hưởng chính trị xuống
phương nam
Sau gần một thế kỉ trì trệ, thậm chí có những lĩnh vực thụt lùi dưới
sự thống trị của người Mông Cổ (1271 – 1368), Trung Quốc dưới triều
Minh (1368 – 1644) đã hồi sinh và bước vào một thời kì phát triển
cường thịnh. Điều này tạo ra thế và lực mới cho nhà Minh trong việc mở
rộng ảnh hưởng chính trị và quan hệ đối ngoại, mà trước hết là khôi
phục và phát triển hệ thống triều cống.
Sự phát triển cường thịnh của Trung Quốc thời Minh thể hiện tập
trung ở hai lĩnh vực: chính trị và kinh tế.
Chính quyền nhà Minh là một chính quyền tập trung cao độ trong lịch
sử chế độ phong kiến Trung Quốc. Dựa vào bộ máy nhà nước được tổ chức
chặt chẽ từ trung ương xuống địa phương, lại có một lực lượng quân đội
đông đảo, hoàng đế Minh có thể cai trị được cả nước, tỏ rõ quyền lực với
thần dân và trở nên “chí cao vô thượng”. Sự vững mạnh của chế độ chuyên
chế tập quyền và sự ổn định trong nước cũng là một cơ sở quan trọng để
10
11
nhà Minh triển khai các chính sách đối ngoại, đặc biệt là khôi phục và phát
triển mối quan hệ sách phong, triều cống với các nước láng giềng.
Biểu hiện rõ nét nhất cho sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc thời
Minh là sự phát triển mạnh mẽ của thủ công nghiệp và sự tiến bộ vượt bậc
của kĩ thuật đóng thuyền đi biển.
Sự cường thịnh của Trung Quốc dưới triều Minh, nhất là ở giai
đoạn đầu của vương triều này vừa gây lo ngại nhưng cũng vừa hấp dẫn đối
với các nước láng giềng. Nhiều nước láng giềng nhỏ yếu muốn có quan hệ
hữu hảo với Trung Quốc vì những mục đích chính trị khác nhau và cũng là
để chờ đón những cơ hội buôn bán với Trung Quốc.
Sự vững mạnh của nền chính trị tập quyền, sự phát triển vượt bậc của
nền kinh tế Trung Quốc, nhu cầu quan hệ hữu hảo với Trung Quốc của các

nước xung quanh đã tạo cho nhà Minh thực lực và cơ hội để mở rộng ảnh
hưởng chính trị, thực hiện tham vọng bành trướng.
1.4.
Nhu cầu của các vương triều Đại Việt trong việc xây dựng
quan hệ sách phong, triều cống và quan hệ hòa hiếu với nhà Minh
Trong thời kỳ nhà Minh cai trị Trung Quốc (1368 – 1644), ở Đại Việt
đã diễn ra nhiều biến đổi lớn về chính trị với nhiều triều đại kế tiếp nhau
(Trần, Hồ, Lê, Mạc, Lê trung hưng). Tuy nhiên triều đại nào ở Đại Việt
cũng đều rất quan tâm tới việc xây dựng, củng cố quan hệ sách phong, triều
cống, quan hệ hòa hiếu với nhà Minh. Đây là một cơ sở quan trọng cho sự
tồn tại bền vững của quan hệ sách phong, triều cống Minh - Đại Việt trong
gần ba thế kỷ.
Không phải các vương triều Trần, Hồ, Lê, Mạc, Lê trung hưng, cũng
như các vương triều phong kiến Đại Việt trước đó, vốn là những vương
triều luôn có ý thức tự chủ rất cao, không nhận thấy sự bất bình đẳng của
hình thức bang giao này. Tuy vậy, sự lựa chọn là giống nhau: chấp nhận cầu
phong và triều cống để giữ gìn quan hệ hòa hiếu. Sự lựa chọn này xuất phát
từ những lý do khách quan và chủ quan sau:
Thứ nhất: Các vương triều Đại Việt nhận thức rất rõ rằng: chấp nhận
11
12
cầu phong và triều cống nhà Minh là một cách để giữ gìn độc lập, hòa bình,
bảo đảm an ninh quốc gia và chủ quyền dân tộc.
Thứ hai: Sắc phong của nhà Minh là cơ sở để các vương triều Trần,
Hồ, Lê, Mạc, Lê trung hưng hợp thức hóa chính quyền và khẳng định địa vị
chính thống của mình ở trong nước, đặc biệt là khi có các thế lực đối lập.
Thứ ba: Các vương triều Đại Việt chấp nhận cầu phong và triều cống
Trung Quốc còn do chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Nho giáo.
1.5. Quan hệ sách phong, triều cống Trung - Việt trước thời Minh
Quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam đã có từ lâu đời, nhưng

quan hệ sách phong, triều cống chỉ bắt đầu từ thế kỉ X sau khi nhân dân ta
giành lại được độc lập dân tộc, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc kéo dài trên
1.000 năm. Từ đó cho tới khi triều Minh thành lập (năm 1368), quan hệ
sách phong, triều cống giữa các vương triều phong kiến Trung Quốc và Đại
Việt đã trải qua hơn bốn thế kỷ với nhiều thăng trầm. Quá trình đó đã tạo ra
những nghi thức, nghi lễ, những hành vi ứng xử đối ngoại có tính “truyền
thống”, tạo cơ sở cho quan hệ sách phong, triều cống giữa triều Minh với
các vương triều phong kiến Đại Việt trong gần ba thế kỉ tiếp theo.
Tiểu kết chương 1
Từ những vấn đề đã được trình bày ở trên, có thể thấy quan hệ sách
phong, triều cống Minh – Đại Việt trong các thế kỉ XIV – XVII được xây dựng,
duy trì và củng cố dựa trên ba cơ sở chủ yếu, đó là: cơ sở tư tưởng, cơ sở lợi ích
và cơ sở lịch sử.
Về tư tưởng, đối với nhà Minh, tư tưởng “thiên triều” - chư hầu” là
tư tưởng cơ bản chi phối mọi quan hệ đối ngoại của vương triều này.
Trong quan hệ đối ngoại, lợi ích luôn là vấn đề hàng đầu chi phối
đường lối chính sách của mỗi nước. Đối với nhà Minh, việc xác lập duy trì
và củng cố quan hệ sách phong, triều cống với các vương triều Đại Việt
giúp họ củng cố được vị trí chiến lược ở phía nam, trên cơ sở đó phát triển
hệ thống triều cống ở Đông Nam Á, Nam Á, củng cố địa vị “thiên triều”,
thỏa mãn tham vọng “thống ngự thiên hạ”, “vạn quốc triều cống”. Việc mở
rộng hệ thống triều cống còn giúp nhà Minh giải quyết những vấn đề đối
12
13
nội phức tạp và thu được những lợi ích kinh tế không nhỏ.
Các vương triều Đại Việt cũng luôn nhận thức sâu sắc rằng: giữ
quan hệ hòa hảo với Trung Quốc – một nước láng giềng lớn đang độ cường
thịnh dưới triều Minh và luôn có tham vọng thôn tính Đại Việt là nhiệm vụ
đối ngoại quan trọng hàng đầu. Trong bối cảnh lịch sử thời đó, việc duy trì
quan hệ sách phong, triều cống là một phương sách hữu hiệu giúp Đại Việt

giữ được độc lập, hòa bình, ngăn chặn sự xâm lược của nhà Minh. Quan hệ
này còn giúp các vương triều Đại Việt khẳng định được vị chính thống của
mình ở trong nước và trong khu vực. Có thể nói, những nhu cầu và lợi ích

đa
dạng của các vương triều phong kiến hai nước trong quan hệ sách phong,
triều cống là động lực để cả hai phía duy trì và củng cố quan hệ này.
Quan hệ sách phong, triều cống giữa các triều đại phong kiến Trung
Quốc và các vương triều Đại Việt đã có lịch sử lâu đời và chính quá trình đó đã
tạo ra cơ sở lịch sử cho quan hệ sách phong, triều cống Minh - Đại Việt trong
các thế kỉ XIV – XVII.
Chương 2
QUAN HỆ SÁCH PHONG, TRIỀU CỐNG MINH - ĐẠI VIỆT
GIAI ĐOẠN 1368 - 1527
2.1. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Trần (1368 – 1400)
2.1.1. Sự xác lập quan hệ sách phong, triều cống Minh – Trần
Khi triều Minh được thành lập thì Trung Quốc và Đại Việt ở trong
những hoàn cảnh lịch sử rất khác nhau. Nếu như với Trung Quốc là sự bắt
đầu của một triều đại mới, thì nhà Trần ở Đại Việt lại đã đi qua thời kì phát
triển đỉnh cao và đang ở giai đoạn khủng hoảng, suy thoái.
Trong số các nước ở phương nam, Đại Việt có vị trí hết sức quan
trọng đối với nhà Minh, vì thế Chu Nguyên Chương muốn sớm xây dựng
quan hệ thân thiện, hữu hảo. Chính vì vậy, Đại Việt là một trong những
nước đầu tiên mà sau khi lên ngôi Chu Nguyên Chương đã sai sứ sang báo
tin về chiến thắng của mình đối với người Mông Cổ cũng như sự thành lập
của triều Minh.
Cũng giống như nhà Minh, sau một thời gian dài gián đoạn trong
mối quan hệ với Trung Quốc ở cuối triều Nguyên, Đại Việt trong những
13
14

năm cuối triều Trần có nhu cầu phục hồi mối quan hệ sách phong, triều
cống truyền thống trước đây. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thay
đổi này xuất phát từ việc vương triều Trần vừa rất cảnh giác trước nhà Minh
vừa muốn xây dựng quan hệ hòa hảo với nhà Minh để giải quyết những khó
khăn nội tại của mình. Chính vì thế, sau khi nhận được thông báo của
Chu Nguyên Chương về việc nhà Minh – một vương triều mới của
người Hán đã được thành lập thay thế triều Nguyên, năm 1369, nhà Trần
đã nhanh chóng cử sứ giả sang cầu phong. Là phái đoàn sứ giả nước ngoài
đầu tiên đến triều cống kể từ sau khi triều Minh được thành lập, do đó sứ đoàn
đã được Minh Thái Tổ cho tiếp đón hết sức trọng thị. Đáp lại, nhà Minh đã
quyết định cử sứ giả mang chiếu sắc sang để phong vua Trần Dụ Tông làm
Quốc vương An Nam, ban ấn bạc mạ vàng khắc hình lạc đà.
Sự kiện này được coi là mốc đánh dấu sự xác lập quan hệ sách
phong, triều cống giữa nhà Minh với nhà Trần.
2.1.2. Các nghi lễ sách phong và triều cống
Ngay sau khi lên nắm quyền, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương
đã thể hiện quyết tâm khôi phục lại các mối bang giao truyền thống từng bị
đứt đoạn ở thời Nguyên, củng cố và “qui phạm hóa” mối quan hệ với các
nước láng giềng.
Vì thế, ở những năm đầu trị vì của mình, Chu Nguyên Chương đã
đặt ra nhiều qui định, nghi lễ để thực thi quan hệ sách phong, triều cống.
2.1.3. Lệ cống và cống phẩm
Về lệ cống, nhà Minh qui định các nước phiên thuộc cứ 3 năm triều
cống một lần. Lệ cống này không phải là một qui định mới nhưng được Chu
Nguyên Chương nhiều lần nhắc lại như là một qui chế mà các nước triều
cống cần phải tuân theo.
Nhà Minh cũng đặt ra qui định cụ thể về cống phẩm mà các phiên
quốc phải mang đến triều cống. Theo Cương mục, lệ cống đặt ra từ năm
Hồng Vũ thứ 3 và được ghi lại trong sách Hội điển nhà Minh.
Tuy nhiên, trong thực tế thì ở thời kì trị vì của Chu Nguyên Chương,

những qui định trên không được thực hiện chặt chẽ.
2.1.4. Những căng thẳng, phức tạp trong quan hệ sách phong, triều cống Minh –
Trần
Mối quan hệ sách phong, triều cống êm thấm giữa nhà Minh và
14
15
nhà Trần chỉ được duy trì trong một thời gian ngắn rồi chuyển sang trạng
thái phức tạp và có những thời điểm khá căng thẳng. Nguyên nhân cơ bản
dẫn đến sự biến chuyển này là do sự xung đột, mâu thuẫn về quan điểm,
chính sách đối ngoại của hai quốc gia. Rất nhiều vấn đề như sự tranh chấp ở
vùng biên giới hai nước, vấn đề Chămpa, thậm chí cả những vấn đề rối ren
của nền chính trị Đại Việt cũng đã tác động rất lớn đến quan hệ sách phong,
triều cống Minh – Trần thời kì này. Những vấn đề này đã làm cho mối quan
hệ giữa nhà Minh và nhà Trần bắt đầu mâu thuẫn, rạn nứt và có lúc rất căng
thẳng.
2.2. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Hồ (1400-1406)
2.2.1. Bối cảnh lịch sử Đại Việt và Trung Quốc những năm đầu thế kỉ
XV
Bước sang thế kỉ XV, ở cả Đại Việt và Trung Quốc đều xảy ra
những biến động chính trị lớn có tác động tức thì và sâu sắc đến quan hệ
giữa hai nước.
Ở Đại Việt, sau một thời gian dài củng cố quyền lực, tháng 2 năm
Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, tự lập làm vua, đặt niên
hiệu là Thánh Nguyên, đổi tên nước là Đại Ngu. Nhà Hồ được thành lập.
Năm 1398, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương mất. Vì người con
cả chết sớm nên cháu đích tôn của ông là Chu Doãn Văn lên nối ngôi, đặt
niên hiệu là Kiến Văn, đó là Minh Huệ Đế. Năm 1399, người con thứ tư đầy
tham vọng của Hồng Vũ là Chu Đệ (vốn được phong là Yên Vương và
được giao nhiệm vụ trấn giữ miền bắc) đã khởi binh chống lại. Năm 1402,
Chu Đệ chiếm được kinh đô (Nam Kinh) rồi lên ngôi hoàng đế, đặt niên

hiệu là Vĩnh Lạc. Đó là vua Thành Tổ (1402-1424), một ông vua nổi tiếng
của triều Minh. Giai đoạn Chu Đệ cầm quyền là một giai đoạn đặc biệt
trong quan hệ giữa nhà Minh với các nước Đông Nam Á nói chung, với Đại
Việt nói riêng.
2.2.2. Sự xác lập quan hệ sách phong, triều cống Minh – Hồ và những
căng thẳng giữa hai nước ngay sau khi thiết lập quan hệ
Tháng 12 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly đã nhường ngôi cho
con thứ là Hồ Hán Thương, còn mình tự xưng là Thượng hoàng.
Sau khi được tin Chu Đệ đã tiêu diệt hoàng đế Kiến Văn, lên ngôi
hoàng đế, Hồ Hán Thương liền cử sứ giả sang chúc mừng và nhân đó xin
15
16
phong vương.
Sau khi nhận được bản tấu của triều Hồ và các kỳ lão Đại Việt,
Chu Đệ đã quyết định cử sứ giả sang để “đặc cách” sách phong cho Hồ Hán
Thương làm An Nam quốc vương.
Việc nhà Minh sách phong cho Hồ Hán Thương làm An Nam
quốc vương là một thành công của nhà Hồ, vì nhờ đó sự cướp ngôi của họ
Hồ dường như đã được “hợp thức hóa”. Như vậy, có thể thấy, việc xác lập
quan hệ sách phong, triều cống giữa nhà Minh và nhà Hồ diễn ra tương
đối thuận lợi, nhanh chóng vì nó đã đáp ứng được nhu cầu và lợi ích của
cả hai phía ở thời điểm đó.
Quan hệ bang giao giữa nhà Minh và nhà Hồ trong năm 1403 và
nửa đầu năm 1404, về mặt hình thức diễn ra khá êm ả.
Tuy nhiên, mối quan hệ có phần “hữu nghị” này không kéo dài.
Ngay trong năm 1404, giữa hai bên đã bắt đầu bùng phát mâu thuẫn xoay
quanh các vấn đề tranh chấp biên giới, cuộc đụng độ giữa Đại Việt và
Chămpa và “sự kiện Trần Thiêm Bình”.
Lấy cớ “phạt tội Hồ Quý Ly” và “phù Trần”, tháng 7 năm 1406
nhà Minh phát 80 vạn quân theo hai đường Quảng Tây và Vân Nam tấn

công xâm lược Đại Việt. Cuộc chiến tranh xâm lược và sự đô hộ của nhà
Minh đã thủ tiêu nền độc lập của dân tộc ta và làm đứt đoạn quan hệ giữa
hai nước trong hơn 20 năm (1406-1427).
2.3. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê sơ (1428 – 1527)
2.3.1. Quá trình khôi phục quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước
ở đầu thời Lê sơ (1428 – 1437)
Quá trình khôi phục quan hệ giữa nhà Minh và Đại Việt, mà nền tảng
là quan hệ sách phong, triều cống, sau khi quân Minh bị nghĩa quân Lam Sơn
đánh bại buộc phải rút về nước, có thể xem như là một chiến dịch ngoại giao
lớn, lâu dài và phức tạp của cả hai phía.
Cuối cùng nhà Minh buộc phải thừa nhận chính quyền của Lê Lợi và
khôi phục quan hệ với Đại Việt vì những lợi ích chính trị, kinh tế của chính
mình. Ngày 7 tháng 6 năm Tuyên Đức thứ 6 (15-7-1431), Minh Tuyên Tông sai
Lễ bộ Hữu thị lang Chương Xưởng, Hữu Thông chính Từ Kỳ mang ấn, sắc
sang trao cho Lê Lợi chức danh “Quyền trông coi quốc sự An Nam”.
Với sự kiện này, quan hệ sách phong, triều cống Minh - Đại Việt đã
16
17
được khôi phục sau một thời gian dài bị gián đoạn. Mặc dù nhà Minh mới chỉ
trao cho Lê Thái Tổ chức danh “Quyền trông coi quốc sự An Nam” chứ chưa
phong làm “An Nam quốc vương”, nhưng thực tế nhà Minh đã phải công
nhận hoàn toàn chính quyền của nhà Lê, quan hệ sách phong, triều cống giữa
hai nước được nối lại. Hơn 5 năm sau, nhà Minh mới chịu phong cho vua Lê
Thái Tông (1433-1442) là “An Nam quốc vương”.Với nhà Lê, đây là một
thắng lợi ngoại giao quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập của
đất nước.
2.3.2. Sự ổn định lâu dài của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê
sơ trong thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI và nguyên nhân của hiện tượng này
Trong lịch sử quan hệ sách phong, triều cống Trung Quốc – Đại
Việt nói chung, Minh – Đại Việt nói riêng, quan hệ sách phong, triều cống

giữa nhà Minh và nhà Lê sơ (1428-1527) diễn ra rất ổn định. Trong khoảng
100 năm này, việc cầu phong, sách phong, triều cống cũng như các quan hệ
thông hiếu khác diễn ra đều đặn, hữu hảo, theo đúng thông lệ và không xảy
ra một biến động lớn nào như ở thời Trần, Hồ trước đây hay thời Mạc sau
đó.
Tổng hợp lại, có 10 sứ đoàn của 8 vua Lê sơ đã tới Yên Kinh để
cầu phong, trong đó thời Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông cầu phong 2 lần và
nhà Minh đã 9 lần sách phong cho 8 vua Lê sơ.
Những ghi chép từ các nguồn sử liệu Trung Quốc và Việt Nam
cũng cho thấy trong khoảng thời gian gần một trăm năm (từ năm 1431 đến
năm 1527), triều Lê sơ thực hiện đúng lệ cống ba năm một lần được đặt ra
từ thời Hồng Vũ. Thống kê từ Toàn thư và Minh thực lục cho thấy từ năm
1431 đến năm 1518, trong vòng 87 năm, triều Lê sơ đã cử 29 sứ đoàn sang
Trung Quốc triều cống. Cống phẩm cũng theo lệ cũ. Quà tặng của vua Minh
thường là tiền giấy, y phục bằng lụa, lụa các loại.
Có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau khiến cho mối quan hệ
này đươc duy trì ổn định và hòa bình. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy nổi
lên hai nguyên nhân chính đó là: sự bất ổn của tình hình chính trị Trung
Quốc cũng như áp lực của việc phòng thủ biên giới ở phía bắc, phía tây
nam, phía đông của nhà Minh và sự phát triển cường thịnh của Đại Việt
dưới thời Lê sơ. Nói một cách khác, bối cảnh lịch sử từ những năm 30 của
thế kỉ XV trở đi đã khiến cho triều Minh và triều Lê sơ có cùng một mối
17
18
quan tâm là giữ cho biên giới hai nước được yên ổn, quan hệ giữa hai nước
được yên bình để tập trung giải quyết những vấn đề đối nội và đối ngoại
khác. Đây chính là cơ sở để cho quan hệ sách phong, triều cống giữa hai
nước bước vào giai đoạn rất ổn định.
Tiểu kết chương 2
Trong khoảng một thế kỉ rưỡi, từ khi nhà Minh thành lập cho tới

đầu thế kỉ XVI, mối quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt đã trải
qua nhiều cung bậc khác nhau.
Nhìn lại quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt từ năm
1368 đến đầu thế kỉ XVI có thể thấy rằng, quan hệ sách phong, triều cống
luôn là nền tảng cho quan hệ bang giao giữa hai nước. Mọi mối quan hệ
khác đều tồn tại và phát triển dựa trên sự thừa nhận lẫn nhau của hai vương
triều thông qua các hoạt động sách phong, triều cống.
Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt được duy trì và
vận hành dựa trên nhiều cơ sở, nhưng cơ sở cốt lõi là lợi ích. Thông qua
mối quan hệ này, nhà Minh đã đạt được không ít lợi ích về chính trị và kinh
tế, trong khi đó, việc “thần phục” nhà Minh lại giúp các vương triều ở Đại
Việt, đặc biệt là triều Lê sơ củng cố quyền lực ở trong nước cũng như mở
rộng ảnh hưởng đối với các nước láng giềng. Vào thế kỉ XV, Đại Việt được
hồi phục và nổi lên như một thế lực hùng mạnh ở Đông Nam Á trong khi
vẫn duy trì chặt chẽ quan hệ triều cống với Trung Quốc hơn bất cứ quốc gia
phương nam nào khác. Vì thế, không thể phủ nhận rằng lợi ích chính là “giá
trị chung” quyết định sự ổn định và bền vững của mối quan hệ sách phong,
triều cống giữa hai quốc gia ở giai đoạn này
Chương 3
QUAN HỆ SÁCH PHONG, TRIỀU CỐNG MINH - ĐẠI VIỆT
GIAI ĐOẠN 1527 – 1644
3.1. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Mạc (1527 – 1592)
3.1.1. Sự gián đoạn của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt
ở nửa đầu thế kỷ XVI và chủ trương xâm lược Đại Việt của nhà Minh
Trong nửa đầu thế kỷ XVI ở Đại Việt đã diễn ra một cuộc khủng
hoảng chính trị trầm trọng, kéo dài, bắt đầu với sự thoái hóa đến tột độ của
triều đình nhà Lê. Tiếp đó, việc cướp ngôi nhà Lê của Mạc Đăng Dung và
18
19
sự khôi phục triều Lê (Lê trung hưng) đã phá vỡ sự thống nhất đất nước và

làm bùng nổ cuộc nội chiến Nam – Bắc triều. Cuộc khủng hoảng chính trị
kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XVI ở Đại Việt là nguyên nhân khiến cho
quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước bị gián đoạn trong một thời
gian dài.
Từ năm 1515 trở đi quan hệ sách phong, triều cống Minh- Lê bị
gián đoạn, việc đi lại của các sứ đoàn hai nước cũng bị tắc nghẽn do những
biến động chính trị ở Đại Việt. Tình hình này kéo dài hơn 20 năm khiến
triều Minh cho rằng An Nam “phản nghịch” không chịu cầu phong và
không làm tròn trách nhiệm triều cống nên đã quyết định xuất quân “thảo
phạt” với cớ buộc An Nam phải thực hiện đúng nghĩa vụ của một “chư
hầu”. Tuy nhiên, sau đúng một năm kể từ khi quyết định xuất quân “chinh
thảo” Đại Việt, Minh Thế Tông đã phải hoãn việc này. Nguyên nhân là do
nhiều quan lại không tán thành chủ trương này, nhất là quan lại ở biên giới.
Mặt khác chắc chắn Minh Thế Tông cũng nhận thấy rằng, cuộc chiến chứa
dựng nhiều rủi ro, vì thực lực của nhà Minh đã suy giảm rất nhiều so với
trước. Mặc dù vậy, để đe dọa nhà Mạc, buộc nhà Mạc phải qui thuận theo
những điều kiện ngặt nghèo, vua Minh vẫn ra lệnh tập trung hai đạo binh
lớn ở Quảng Tây và Vân Nam, ép sát biên giới Đại Việt để “sẵn sàng chinh
thảo”.
3.1.2. Sự ứng phó của nhà Mạc trước nguy cơ xâm lược của nhà Minh và
hình thức mới của quan hệ sách phong, triều cống Minh - Mạc
Trước nguy cơ bị tấn công, Mạc Đăng Dung không còn cách nào
khác là phải chấp nhận quy thuận nhà Minh. Từ đây, quan hệ sách phong,
triều cống Minh - Mạc về hình thức đã có sự thay đổi lớn so với trước:
- Nhà Minh hạ tước phong cho vua Mạc (lẽ ra là An Nam quốc
vương) xuống Đô thống sứ với hàm tòng Nhị phẩm (thấp hơn chánh Nhị
phẩm). Với chức vụ và phẩm hàm này, Mạc Đăng Dung được coi như là
một viên quan của Trung Quốc. Đây là điều chưa hề xảy ra trong quan hệ
sách phong giữa Trung Quốc và Đại Việt tính từ thế kỷ thứ X (khi nhà Tống
phong cho Đinh Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương).

- Từ đây quan lại Quảng Tây được giao thay mặt triều đình cấp
lịch Đại Thống (biểu tượng cho địa vị tông chủ của “thiên triều”), cũng tức
là sẽ thay triều đình thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến vấn đề sách
19
20
phong cho vua Mạc.
Tuy đã hạ thấp tước phong nhưng nhà Minh vẫn yêu cầu nhà Mạc
theo lệ cống cũ “ba năm một lần”. Trong vòng 48 năm, tính từ năm 1542
(năm nhà Mạc cử sứ giả sang cống lần thứ nhất) đến năm 1590 (năm cuối
cùng sứ giả nhà Mạc sang cống),nhà Mạc đã 8 lần cử sứ giả sang triều Minh
triều cống vào các năm (tính năm sứ đoàn tới triều đình nhà Minh): 1543,
1545, 1565, 1575, 1576, 1581, 1585 và 1590, để nộp 16 kỳ cống. Với 16 kỳ
cống trong 48 năm, nhà Mạc đã thực hiện đúng lệ cống 3 năm 1 lần.
3.2. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê trung hưng (1592 – 1644)
3.2.1. Sự phục hưng của nhà Lê và quá trình khôi phục quan hệ sách
phong, triều cống Minh – Lê trung hưng
Năm 1592, nhà Mạc bị nhà Lê trung hưng đánh đổ. Từ đây, quan
hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt lại chuyển sang một giai đoạn
mới.
Sau khi biết rõ nhà Lê đã lật đổ nhà Mạc, thâu tóm được hầu hết
lãnh thổ, nhà Mạc chỉ còn tàn quân ở vùng biên giới phía Bắc, nhà Minh đã
lựa chọn phương án thừa nhận nhà Lê, nhưng cũng không từ bỏ nhà Mạc.
Nhà Minh yêu cầu nhà Lê phải đáp ứng đầy đủ 4 điều kiện thì mới
được sang cầu phong và triều cống: thứ nhất, Lê Duy Đàm (Lê Thế Tông)
phải đích thân tới ải Trấn Nam (Trấn Nam Quan) xin xá tội, khám nghiệm.
Thứ hai, giao trả ấn vàng. Thứ ba, dâng người vàng thay thế. Thứ tư, thu xếp
cho nhà Mạc được an trí tại Cao Bằng.
Tháng 12 năm Mậu Tuất 1598, nhà Minh sai viên quan ủy nhiệm
Vương Kiến Lập mang sắc thư sang trao cho Lê Thế Tông chức An Nam
Đô thống sứ. Đến đây quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê trung

hưng được thiết lập.
3.2.2. Việc triều cống của nhà Lê trung hưng
Từ năm 1597 đến năm 1637, nhà Lê trung hưng đã 8 lần cử sứ giả
sang triều cống nhà Minh và nộp tổng cộng 14 kỳ cống. Như thế, nhà Lê đã
thực hiện đúng lệ 3 năm có 1 kỳ cống, nhưng hầu hết đều gộp 2 kỳ cống
làm một. Cống phẩm vẫn như thời nhà Mạc.
Tiểu kết chương 3
Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt trong giai đoạn từ
năm 1527 đến năm 1644 đã có một số sự thay đổi, mà thay đổi lớn nhất là
20
21
việc triều Minh hạ tước phong cho các vua Mạc, vua Lê trung hưng từ tước
Vương xuống chức Đô thống sứ, nhằm kiềm chế các vương triều này.
Trong lịch sử quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước tính từ thời
Đinh Tiên Hoàng (TK X) đến thời Nguyễn (TK XIX), đây là giai đoạn duy
nhất các vua Đại Việt không được triều đình Trung Quốc phong tước
Vương. Với việc hạ tước phong này, vị thế của Đại Việt trong quan hệ với
nhà Minh, về hình thức, đã suy giảm. Cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài
suốt thế kỉ XVI ở Đại Việt và cuộc nội chiến Nam – Bắc triều đã làm cho
đất nước bị suy yếu toàn diện, tạo cho nhà Minh cơ hội áp đặt hình thức
quan hệ giữa hai nước. Thực tiễn quan hệ Đại Việt – Trung Quốc qua các
thời Lê sơ, Mạc và Lê trung hưng đã cho thấy sự vững mạnh về kinh tế,
chính trị, sự thống nhất đất nước là cơ sở cho việc thực thi một chính sách
đối ngoại tích cực, độc lập.
Tuy nhiên, về cơ bản sự thay đổi này chỉ là hình thức. Các vua
Mạc, Lê trung hưng tuy chỉ được phong Đô thống sứ, nhưng trong nước
vẫn xưng hoàng đế và có toàn quyền cai trị đất nước. Các vua Mạc, Lê
trung hưng chỉ sau khi lên ngôi hoàng đế mới cử sứ giả đi cầu phong, thậm
chí có vua lên ngôi rất lâu rồi mới cầu phong. Nhà Minh hoàn toàn không
có quyền can thiệp vào các công việc đối nội và đối ngoại của Đại Việt.

Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ SÁCH PHONG,
TRIỀU CỐNG MINH - ĐẠI VIỆT
4.1. Quan hệ sách phong, triều cống – nền tảng của quan hệ bang giao
Minh – Đại Việt
Quan hệ bang giao giữa nhà Minh với các vương triều Đại Việt
trong các thế kỉ XIV – XVII có nội dung rất phong phú chứ không chỉ là
quan hệ sách phong, triều cống đơn thuần. Tuy nhiên, sách phong, triều
cống là quan hệ quan trọng nhất, là cơ sở, nền tảng để tạo dựng cũng như
chi phối các quan hệ khác giữa hai nước. Điều đó thể hiện rõ nét nhất ở
21
22
những điểm sau đây:
Thứ nhất, nếu không có quan hệ sách phong, triều
cống hoặc quan hệ sách phong, triều cống bị gián đoạn
thì không có các quan hệ bang giao khác giữa hai nước.
Thứ hai, nếu việc triều cống không được thực hiện đầy đủ sẽ ngay
lập tức gây căng thẳng cao độ trong quan hệ Minh – Đại Việt.
4.2. Sự thăng trầm của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt
phụ thuộc chặt chẽ vào tương quan lực lượng giữa hai nước và diễn
biến chính trị trong mỗi nước
Tương quan lực lượng giữa hai nước và diễn biến chính trị ở mỗi
nước là hai nhân tố chủ yếu chi phối và tạo nên những thăng trầm trong mối
quan hệ sách phong, triều cống kéo dài gần 300 năm giữa nhà Minh và Đại
Việt. Sự thay đổi tương quan lực lượng cũng như những biến động chính trị
trong mỗi nước ở những thời điểm khác nhau đã khiến cả nhà Minh và các
vương triều ở Đại Việt phải có những đối sách phù hợp, do đó đã tác động
rất lớn đến mối quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước. Có thể nói,
mối quan hệ này chính là tấm gương phản ánh thế và lực của mỗi quốc gia
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

4.3. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt nhìn chung ổn
định, hòa mục, những lần căng thẳng, gián đoạn đều được hóa giải
bằng sự thỏa hiệp của cả hai phía
Nhìn lại lịch sử quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt
trong gần 3 thế kỉ, có thể thấy mối quan hệ này đã trải qua nhiều cung bậc
khác nhau, có những giai đoạn diễn ra yên bình, thuận hòa, có giai đoạn
căng thẳng, thậm chí gián đoạn. Tuy vậy, nhìn chung quan hệ sách phong,
triều cống Minh – Đại Việt từ 1368 đến 1644 là ổn định, hòa mục, những
lần căng thẳng, gián đoạn đều được hóa giải bằng sự thỏa hiệp lẫn nhau.
Khác với các nước khác ở Đông Nam Á, quan hệ sách phong, triều
cống Minh – Đại Việt chịu sự tác động đồng thời của cả ba yếu tố: lợi ích,
văn hóa, địa lý. Các yếu tố này gắn bó hữu cơ với nhau, ảnh hưởng lẫn
nhau, chi phối thái độ và cách hành xử của cả hai phía. Điều này khiến cho
quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt ổn định lâu dài và hòa mục
một cách có ý thức.
4.4. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt được qui phạm
22
23
hóa về thể thức, thể lệ, nghi lễ một cách chặt chẽ
Quan hệ sách phong, triều cống giữa các vương triều Trung Quốc và
các vương triều Đại Việt đã được xác lập từ thế kỉ X và ngày càng được củng
cố, nhưng chỉ đến thời Minh, các thể thức, thể lệ, nghi lễ liên quan đến quan hệ
sách phong, triều cống giữa hai nước mới được qui định một cách chặt chẽ và
áp dụng thống nhất, thể hiện cụ thể ở những việc: qui phạm hóa về thể thức
cầu phong và sách phong, qui phạm hóa về thể lệ triều cống, qui phạm hóa
về nghi lễ sứ thần Đại Việt sang triều cống và nghi lễ sứ thần nhà Minh
sang sách phong, qui định về đường đi sứ.
4.5. Hoạt động thương mại trong quan hệ sách phong, triều cống Minh
– Đại Việt (thương mại triều cống) còn hạn chế
Trong quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước ở thời Minh

đã hình thành một kênh “thương mại triều cống” giữa Trung Quốc và Đại
Việt. Tính chất thương mại trong quan hệ sách phong, triều cống giữa hai
nước thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, cống phẩm, lễ vật của Đại Việt, quà tặng lại của nhà
Minh, thực chất là một dạng thương phẩm.
Thứ hai, sứ đoàn hai nước thường mang theo nhiều hàng hoá riêng
để buôn bán kiếm lời.
Tuy nhiên, so sánh với quan hệ thương mại triều cống giữa Trung
Quốc và một số nước khác ở Đông Nam Á, ví dụ với Ayuthaya, thì quan hệ
thương mại triều cống giữa Trung Quốc và Đại Việt có quy mô nhỏ bé hơn
nhiều.
4.6. Các vương triều Đại Việt duy trì quan hệ sách phong, triều cống
với nhà Minh nhưng hoàn toàn độc lập, tự chủ trong đối nội, đối ngoại
Quan hệ giữa các vương triều Đại Việt với triều Minh có hai mặt: hình
thức và thực chất. Về hình thức, các vương triều Đại Việt chấp nhận sách phong
và triều cống, tức là chấp nhận trật tự lớn – nhỏ, trên – dưới trong quan hệ với
triều Minh, thể hiện sự “thần phục” triều Minh một cách hình thức, danh nghĩa
(và cũng chỉ giới hạn trong các nghi thức ngoại giao với triều Minh). Còn về
thực chất, các vương triều Đại Việt không thần phục triều Minh, không phụ
thuộc gì vào triều Minh mà hoàn toàn độc lập, tự chủ trong việc giải quyết mọi
vấn đề đối nội, đối ngoại và luôn kiên quyết giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ cũng như thể diện quốc gia trước triều Minh. Điều này thể hiện tập trung ở
23
24
những vấn đề chủ yếu dưới đây:
* Các vương triều Đại Việt hoàn toàn độc lập trong việc lựa chọn,
quyết định ngôi vị hoàng đế.
* Các vương triều Đại Việt không sử dụng niên hiệu của vua Minh
và ấn do triều Minh cấp mà đặt niên hiệu riêng, đúc ấn riêng.
* Hầu hết các vua Đại Việt đều sử dụng tên giả trong các văn bản

giao thiệp với nhà Minh.
* Triều đình Đại Việt không chấp nhận một số nghi lễ đón tiếp sứ
giả nhà Minh và nhận chiếu sắc do triều Minh đề ra.
* Các vương triều Đại Việt hoàn toàn độc lập trong các chính sách
đối nội và đối ngoại.
* Các vương triều Đại Việt kiên quyết bảo vệ vững chắc an ninh
biên giới và toàn vẹn lãnh thổ.
KẾT LUẬN
Khái niệm “Hệ thống triều cống” (Tributary system) là cách gọi
của người phương Tây và được dịch trở lại tiếng Trung Quốc là 朝贡体系
(Triều cống thể hệ) để diễn tả một hình thức đặc biệt của mối quan hệ đối
ngoại giữa Trung Quốc với các quốc gia láng giềng ở thời phong kiến, trong
đó sách phong và triều cống là hai nội dung cơ bản, cốt lõi để tạo nên cũng
như duy trì sự tồn tại của hệ thống này.
Mối quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt (1368 –
1644) đã cung cấp cho chúng ta một ví dụ điển hình về kiểu quan hệ ngoại
giao này. Tính chất điển hình của quan hệ sách phong, triều cống Minh –
Đại Việt thể hiện rõ nét ở chỗ nó tồn tại bền vững và được cả hai phía duy
trì, củng cố vì lợi ích và những toan tính chính trị trước mắt cũng như lâu
dài. Không những thế, sách phong, triều cống còn là cơ sở cho sự vận hành
của các quan hệ khác giữa hai nước. Nếu không có quan hệ sách phong,
triều cống hoặc khi mối quan hệ này bị gián đoạn thì các quan hệ khác cũng
lập tức bị ngưng trệ.
Trong gần ba thế kỉ, mối quan hệ sách phong, triều cống Minh –
Đại Việt đã trải qua nhiều thăng trầm, có những giai đoạn hòa mục lâu dài,
nhưng cũng có những lúc căng thẳng, thậm chí gián đoạn bởi cuộc chiến
tranh xâm lược Đại Việt của nhà Minh (đầu thế kỉ XV) hoặc do cuộc khủng
hoảng chính trị kéo dài ở Đại Việt (nửa đầu thế kỉ XVI). Có thể phân chia
24
25

lịch sử quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt thành hai giai đoạn
chính: giai đoạn thứ nhất từ năm 1368 đến năm 1527, giai đoạn thứ hai từ
năm 1527 đến năm 1644.
Ở giai đoạn thứ nhất (1368 – 1527), quan hệ sách phong, triều
cống giữa hai nước đã có một sự khởi đầu tốt đẹp khi nhà Trần là một trong
những vương triều đầu tiên mà Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương cử sứ
giả sang báo tin về thắng lợi của mình và sự thành lập triều Minh. Đáp lại,
nhà Trần cũng là vương triều đầu tiên cử sứ giả sang chúc mừng và thiết lập
quan hệ với nhà Minh. Cũng trong những năm cầm quyền của mình, với
tham vọng phát triển rộng khắp hệ thống các nước triều cống, Chu Nguyên
Chương đã cho chế định một loạt thể thức, thể lệ, nghi lễ sách phong, triều
cống, đưa mối quan hệ này giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, trong
đó có Đại Việt từ chỗ chưa có qui củ chặt chẽ đến chỗ được qui phạm hóa,
điển chế hóa. Tuy vậy, quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt
cũng chỉ thực sự êm ả trong những năm đầu cầm quyền của Chu Nguyên
Chương. Ngay sau đó, quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước đã bị
trục trặc do việc thay đổi ngôi vua ở triều Trần, do tranh chấp biên giới
Trung – Việt, do xung đột Đại Việt – Chămpa và thái độ nước lớn của nhà
Minh trước những vấn đề này.
Năm 1406, lấy cớ “phù Trần diệt Hồ”, Minh Thành Tổ Chu Đệ đã
phát đại binh tấn công xâm lược Đại Việt, thực hiện tham vọng bành
trướng, mở rộng lãnh thổ. Cuộc chiến tranh xâm lược này đã hạ bức rèm
“chung hưởng thái bình” (MTL, t1, tr.122) mà Chu Nguyên Chương đã cố
công tạo ra trước đó và làm cho quan hệ hai nước bị đứt đoạn trong hơn 20
năm. Mãi tới năm 1431, quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê sơ mới
được khôi phục lại với sự thỏa hiệp của cả hai phía sau khi chiến tranh kết
thúc. Trong gần một thế kỉ dưới thời Lê sơ, quan hệ sách phong, triều cống
giữa hai nước diễn ra ổn định, không có xáo động gì lớn, dù những vấn đề
đã từng gây căng thẳng, thậm chí chiến tranh giữa hai nước trước đó (việc
thay đổi ngôi vua ở Đại Việt, tranh chấp biên giới, xung đột Đại Việt –

Chămpa) vẫn tồn tại và có lúc gay cấn hơn. Sự vững mạnh của Đại Việt ở
thời Lê sơ, dư âm của cuộc kháng chiến đánh bại quân Minh đã tạo ra thế và
lực để vương triều Lê sơ duy trì được mối quan hệ cân bằng, ổn định lâu dài
với nhà Minh.
25

×