DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ cái
viết tắt
Tiếng Anh Tiếng Việt
1 ASEAN Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
2 ASEAN +1 Association of Southeast
Asian Nations +1
Quan hệ song phương giữa
ASEAN và một đối tác khác
như Nhật Bản, EU, Canada…
3 ASEAN +3 Association of Southeast
Asian Nations +3
Cơ chế hợp tác giữa ASEAN và
ba quốc gia Đông Bắc Á gồm
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc
4 ASABA Association of South
African Black Actuarial
Professionals
Hiệp hội và nghề tính toán bảo
hiểm trong cộng đồng da đen.
5 ASDP The American Society of
Dermatopathology
Hội Mỹ của Dermatopathology
( bệnh lý da liễu và phẫu thuật)
6 ASEM Asia-European Meeting Diễn đàn hợp tác Á – Âu
7 APEC Asia-Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương
8 CARBI Reserve carbon and
Biodiversity
Conservation Forests
Dự trữ Các-bon và Bảo tồn Đa
dạng sinh học Rừng
9 CHDCND Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
10 CHXHCN Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
11 COXANO Công ty cổ phần Cơ khí Xây
dựng Công trình Thừa Thiên -
Huế
12 ĐCSVN Đảng Cộng Sản Việt Nam
13 EU European Union Liên minh Châu Âu
14 EWEC East-West Economic
Corridor
Hành lang kinh tế Đông – Tây
15 GMS Great Mekong Subregion Khu vực Tiểu vùng sông
Mêkông mở rộng
16 HĐND Hội đồng Nhân dân
17 ICAO International Civil
Aviation
Tổ chức hàng không quốc tế
18 IFAD International Fund for
Agricultural Development
Quỹ phát triển nông nghiệp
quốc tế
19 JICA Japan International
Cooperation Agency
Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật
Bản
20 KOICA The Korea International
Cooperation Agency
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn
Quốc
21 NAFTA Nouth America Free
Trade Agreement
Hiệp định thương mại Bắc Mỹ
22 PEMSEA Partnerships in
Environmental
Management for the Seas
of East Asia
Quan hệ đối tác trong quản lý
môi trường cho các biển Đông
Á
23 UNDP United Nations
Development Programme
Chương trình phát triển Liên
Hiệp Quốc
24 UNFPA United Nations Population
Fund
Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc
25 UBND Ủy ban Nhân dân
26 UVTW Ủy viên Trung Ương
27 UPU Universal Postal Union’s Liên minh bưu chính thế giới
28 WTO Worl Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
29 WTC World Trade Centrer Trung tâm thương mại thế giới
30 WWF World Wide Fund For
Nature
Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên
A – MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước hết cần khẳng định, mối quan hệ đoàn kết Việt - Lào không phải là
hiện tượng ngẫu nhiên và không phải là quan hệ nhất thời mà có cội nguồn tự
nhiên xã hội và lịch sử. Cùng với thời gian, mối quan hệ này được hai đảng và
hai nhà nước hết sức chăm lo, dày công vun đắp, người đặt nền móng cho mối
quan hệ tốt đẹp này chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-
vi-hẳn, để giờ đây nó trở thành mối quan hệ truyền thống hữu nghị đặc biệt, gắn
bó, thủy chung son sắt và là tài sản vô giá của hai dân tộc trên con đường phát
triển đất nước phồn vinh, ấm no, hạnh phúc.
Trên cơ sở mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước,
thì ở từng địa phương của hai đất nước cũng xây dựng mối quan hệ hữu nghị tốt
đẹp ấy. Đặc biệt ở các tỉnh vùng biên giới của hai nước, quan hệ hữu nghị được
biểu hiện rõ nét nhất. Theo số liệu đã được công bố, độ dài của biên giới Việt
Nam - Lào là 2.067km. Đường biên giới này kéo dài qua hầu hết các tỉnh miền
núi phía đông của Lào và dọc theo 2/3 đường biên giới phía tây của đất nước
Việt Nam. Điều này cho thấy hai nước và nhất là các tỉnh dọc biên giới phải dựa
lưng vào nhau mà sống, cùng tồn tại, phát triển và cùng nhau hướng tới mục
tiêu hòa bình, ổn định, phát triển để cùng bước chân vào “ngôi làng toàn cầu”.
Vì vậy, lãnh đạo hai nước đã nhìn lại và đưa ra những chính sách đối ngoại phù
hợp với tình hình hiện nay. Một trong những chính sách đối ngoại mà hai nước
đẩy mạnh là hợp tác toàn diện với các nước láng giềng, nên ngày càng đẩy
mạnh hơn nữa hợp tác toàn diện giữa các tỉnh biên giới hai nước. Với chính
sách đó, tỉnh Thừa Thiên Huế (Việt Nam) và tỉnh Sa-la-vẳn (Lào), là một trong
những tỉnh có chung biên giới, đã đang và sẽ đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ
hữu nghị được hai Đảng, hai nhà nước dày công vun đắp.
Thừa Thiên Huế (Việt Nam) và Sa-la-vẳn (Lào) là hai tỉnh có chung biên
giới, hai bên đã có quan hệ với nhau từ những thế hệ đi trước, và mối quan hệ
đó ngày càng được thế hệ trẻ phát huy. Sau hơn 13 năm sáp nhập vào tỉnh Bình
Trị Thiên (20/09/1975), thực hiện nghị quyết Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 5
về việc phân chia địa giới hành chính mới (30/06/1989), vào ngày 1/7/1989,
tỉnh Thừa Thiên Huế tách ra thành tỉnh độc lập. Hai bên tăng cường cho các
huyện, các bản dọc biên giới và các đoàn thể kết nghĩa với nhau. Mối quan hệ
kết nghĩa giữa hai tỉnh có cùng biên giới ngày càng được đẩy mạnh. Mối quan
hệ hợp tác Thừa Thiên Huế - Sa-la-vẳn đã không ngừng phát triển toàn diện trên
cả quy mô và hình thức, mở ra nhiều nội dung phong phú, giải quyết kịp thời
được nhiều vấn đề thiết thực, tạo nên bầu không khí hữu nghị, hiểu biết lẫn
nhau, đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ giữa hai tỉnh. Sự hợp tác
này đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần vào sự phát triển không
ngừng của từng nước và tình hữu nghị của hai nước ngày càng được thắt chặt
hơn. Tuy nhiên những thành tựu đó chưa tương xứng với tiềm năng của hai tỉnh.
Trong những năm gần đây, hai tỉnh đã và đang thực hiện theo đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước đưa ra, đồng thời nhìn lại những con đường mình
đã đi và vạch vạch ra những kế hoạch hợp tác toàn diện giữa hai tỉnh để cùng
nhau góp phần đưa hai đất nước đi lên tiến kịp với sự phát triển của nhân loại.
Đồng thời, thập niên đầu thế kỷ XXI được coi là những năm thành công
nhất của tỉnh Thừa Thừa Huế trên lĩnh vực hợp tác, đối ngoại quốc tế, trong đó
đặc biệt là hợp tác với các với các địa phương của CHDCND (Cộng hòa dân
chủ nhân dân) Lào. Một trong những tỉnh được chú trọng hợp tác nhất là tỉnh
Salavan (CHDCND Lào). Đây còn được coi là giai đoạn phát triển vượt bậc
trong quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh.
Với những lý do trên, cùng với sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn, sự
giúp đỡ của thầy cô, bạn bè và các cán bộ tỉnh Thừa Thiên Huế, tôi mạnh dạn
chọn đề tài “Quan hệ Thừa Thiên Huế - Sa-la-vẳn trong thập niên đầu thế kỷ
XXI” làm báo cáo tốt nghiệp ngành Lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay đề tài mối quan hệ quốc tế là đề tài hấp dẫn, thu hút sự chú
ý, quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Có rất nhiều công
trình nghiên cứu về quan hệ quốc tế, song những công trình đó thường đi khái
quát, hay cụ thể về mối quan hệ giữa các chủ thể lớn là các nước. Còn trên
phương diện mối quan hệ giữa từng tỉnh của các chủ thể lớn đó thì những bài
nghiên cứu này không nhiều. Và cũng có rất ít các tài liệu đã được công bố.
“Quan hệ Thừa Thiên Huế - Sa-la-vẳn trong thập niên đầu thế kỷ XXI”
là một đề tài hoàn toàn mới, tài liệu chi tiết không nhiều. Tuy nhiên để hiểu
được mối quan hệ của hai tỉnh thì phải đi tìm hiểu những công trình nghiên cứu
chung của hai nước và những tài liệu chuyên sâu mà hai tỉnh đã tiến hành hợp
tác. Vì vậy, có thể kể ra một số công trình nghiên cứu đã được công bố:
Các công trình nghiên cứu chung về quan hệ Việt Nam - Lào được đề cập
đến, tiêu biểu là “Việt - Lào hai nước chúng ta” do Vũ Văn Khoan sưu tầm và
biên soạn năm 2008, hay bản “đề cương lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào” do Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào… Tại
các hội thảo khoa học về quan hệ Việt Nam - Lào cũng có các bài tham luận
như “Quan hệ Việt Nam - Lào: Hiện trạng và triển vọng”. Ngoài ra, đề cập đến
quan hệ Việt Nam - Lào phải nói đến các viết đăng trên các báo, các tạp chí
nghiên cứu, các bài bình luận trên các web… Đặc biệt, trên tạp chí Đông Nam
Á tập trung nhiều bài viết đề cập đến mối quan hệ hai nước của các tác giả như
“Hợp tác đầu tư Việt Nam và Lào - Thực trạng và giải pháp” của tác giả
Nguyễn Đình Bá (4/2002), “Phối hợp ngoại giao giữa Việt Nam và Lào từ 1975
đến nay” của Trương Duy Hòa (7/2007), “Những nhân tố thuận lợi trong quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào” (3/2004), và “Tình đoàn kết truyền thống Việt
Nam Lào” (9/2008) của Nguyễn Hào Hùng, “Quan hệ hợp tác kinh tế Việt
Nam - Lào từ 1991 - 2005” của Nguyễn Thị Phương Nam (08/2007)… Những
bài viết đó chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ hay khái quát một vấn đề trong
quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam - Lào.
Tuy nhiên, đó chỉ là những bài viết nói về mối quan hệ của hai nước Việt
Nam - Lào nói chung, còn đối với quan hệ Thừa Thiên Huế - nói riêng chưa có
nhiều tài liệu hay tài liệu hay bài viết đề cập tới. Có chăng chúng ta chỉ thấy
được một vài bài liên quan đến mối quan hệ giữa hai tỉnh như “Một số thành
tựu trong quan hệ Thừa Thiên Huế - Sa-la-vẳn (Lào) trong những năm đầu thế
kỷ XXI” của Nguyễn Hoàng Huế (2010) trong kỷ yếu hội nghị cán bộ lần 1 của
trường Đại học Phú Xuân, chỉ đề cập đến những thành tựu, những vấn đề rất
khái quát trong quan hệ giữa hai tỉnh, hay một số bài trên các trang web của tỉnh
Thừa Thiên Huế… Nó cũng chỉ là đề cập tới những những phần rất nhỏ của mối
quan hệ này.
Những tài liệu chuyên khảo đề cập đến mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa
hai tỉnh đó là các biên bản hội thảo, những nghị định, quyết định, kế hoạch thư
mời… mà tác giả thu thập được như: “Báo cáo kết quả trao đổi, hội đàm với
Ban Chỉ đạo cắm mốc tỉnh Salavan từ ngày 21/04/2009 đến 23/042009”, Ban
Chỉ đạo Phân giới và Cắm mốc 04/2009”; Kế hoạch hoạt động hè và Chiến
dịch Thanh niên tình nguyện năm 2011” Ban Chấp hành tỉnh Thừa Thiên Huế
(3/2011); “Quyết định về việc tiếp nhận LHS Lào vào học năm thứ nhất hệ
chính quy hợp đồng theo ngân sách tỉnh Thừa Thiên Huế” Đại học Huế
(7/2011); “Biên bản hội đàm giữa tỉnh Thừa Thiên Huế nước CHXHCN Việt
Nam và tỉnh Saravan” Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên Huế (10/2002); “Biên bản
thỏa thuận viện trợ giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và tỉnh Salavan” Sở Ngoại vụ
tỉnh Thừa Thiên Huế (06/2007); “Bài tham luận tại Hội nghị tuyên truyền biển
đảo và phân giới cắm mốc, quý IV năm 2009” Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên
Huế (10/2009); “Báo cáo tình hình hợp tác giữa tỉnh Thừa Thiên Huế với các
địa phương của Lào và Campuchia” Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên Huế
(11/2011), … Tất cả những bài viết, những tài liệu đó phản ánh quan hệ giữa
tỉnh Thừa Thiên Huế - Sa-la-vẳn.
Mặc dù vậy, trong quá trình thực hiện đề tài và dựa trên cơ sở những tài
liệu đó, chúng tôi đã kế thừa và chọn lọc để đưa ra những kết luận xác thực,
khách quan và có hệ thống về mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai tỉnh Thừa
Thiên Huế - Sa-la-vẳn trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của báo cáo tập trung trình bày một cách có hệ thống về quan hệ
giữa hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Sa-la-vẳn (Lào) trong thập niên đầu của thế kỷ
XXI.
Thông qua đó báo cáo còn điểm qua một số nét chính về mối quan hệ
Việt Nam - Lào trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
Vì vậy, để thực hiện được mục tiêu trên, tác giả của báo cáo sẽ tập trung
giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phân tích bối cảnh tác động đến quan hệ của hai nước Việt Nam -
Lào nói chung và Thừa Thiên Huế - Sa-la-vẳn nói riêng trong thập
niên đầu thế kỷ XXI.
- Trình bày và phân tích về chính sách đối ngoại của hai tỉnh trong
thập niên thế kỷ XXI.
- Trình bày khái quát về mối quan hệ Việt Nam - Lào trong thập niên
thế kỷ XXI.
- Phân tích, đánh giá về mối quan hệ giữa hai tỉnh Thừa Thiên Huế và
Sa-la-vẳn (Lào) trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
- Nhận xét và dự báo những thách thức và triển vọng của mối quan hệ
giữa hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Sa-la-vẳn (Lào).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của báo cáo là quá trình diễn biến của mối quan hệ
giữa hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Salavan (Lào) trong những năm đầu thế kỷ
XXI.
Về phạm vi nghiên cứu, khóa luận chỉ trọng tâm trình bày những vấn đề
liên quan đến mối quan hệ giữa hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Sa-la-vẳn (Lào)
trong những năm đầu thế kỷ XXI.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, để thực hiện đề tài này, tác giả báo cáo luôn tuân
thủ phương pháp luận sử học Mácxít, đảm bảo tính khoa học khách quan, cụ
thể, biện chứng khi xem xét các sự kiện lịch sử trong mối quan hệ này. Tác giả
báo cáo cũng luôn quán triệt những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, về
đường lối, chính sách đối ngoại được trình bày trong các kỳ Đại hội của Đảng,
đặc biệt là Đại hội IX, Đại hội X. Đồng thời cũng quán triệt những nội dung cụ
thể trong chính sách đối ngoại cụ thể của tỉnh Thừa Thiên Huế, đặc biệt là đối
với các tỉnh biên giới của Lào.
Về phương pháp nghiên cứu, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đã
tích cực đi thu thập tài liệu tại nhiều địa điểm, nhiều cơ quan hữu quan trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đồng thời tác giả đã sử dụng hai phương pháp nghiên cứu cơ bản là
phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Ngoài ra còn kết hợp với nhiều phương pháp nghiên cứu khác như:
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh,tổng hợp, đánh giá… để giải quyết những yêu cầu mà đề tài đề ra.
6. Nguồn tư liệu và đóng góp của đề tài
6.1. Nguồn tư liệu
Tư liệu mà tác giả sử dụng trong báo cáo này bao gồm:
- Những tư liệu về quan hệ giữa các nước nước trong tiểu vùng sông
Mêkong và Hành lang kinh tế Đông - Tây.
- Những công trình viết về mối quan hệ Việt Nam – Lào.
- Các văn bản ghi nhớ của tỉnh Thừa Thiên Huế trong mối quan hệ
với các tỉnh của Lào, đặc biệt các tài liệu của sở Ngoại vụ UBND Thừa
Thiên Huế về mối quan hệ giữa hai tỉnh Thừa Thiên Huế - Sa-la-vẳn
trên các lĩnh vực.
- Những bài viết, những bài phát biểu và những bài chúc mừng của
các vị lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế và tỉnh Sa-la-vẳn
- Các bài báo, tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á…hay những trang
web chính thức của tỉnh cũng là những tư liệu quan trọng.
6.2. Đóng góp của đề tài
- Báo cáo cung cấp thêm nguồn tư liệu đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa
hai tỉnh Thừa Thiên Huế - Sa-la-vẳn trong giai đoạn 2000 -2011.
- Báo cáo là công trình nghiên cứu có hệ thống về quan hệ giữa hai tỉnh
Thừa Thiên Huế - Sa-la-vẳn trong giai đoạn 2000 -2011. Khóa luận sẽ làm rõ
những cơ sở, những nhân tố tác động, chính sách đối ngoại, những thành tựu,
khó khăn hạn chế và thành tựu trong quan hệ giữa hai tỉnh.
- Báo cáo góp phần quan trọng vào việc giáo dục trong nhân dân hai
nước, đặc biệt là hai tỉnh, truyền thống đoàn kết, hợp tác hữu nghị giữa hai dân
tộc trong công cuộc xây dựng đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, xu
thế hội nhập kinh tế và hợp tác khu vực ngày càng phát triển, việc hợp tác toàn
diện với các nước láng giềng truyền thống, mà trực tiếp là giữa các tỉnh có
chung biên giới có ý nghĩa rất quan trọng.
- Hơn thế, đề tài còn giúp cho nhân dân hiểu sâu và giúp ích cho các nhà
quản lý của tỉnh Thừa Thiên Huế trong việc hoạch định các chủ trương, biện
pháp để nâng cao hiệu quả hợp tác toàn diện giữa hai tỉnh.
7. Bố cục của báo cáo tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của đề
tài được cấu tạo bởi 2 chương:
Chương 1. Cơ sở của mối quan hệ Thừa Thiên huế - Sa-la-vẳn
Chương 2. Quan hệ Thừa Thiên Huế - Sa-la-vẳn trong thập niên đầu thế kỷ
XXI.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ CỦA MỐI QUAN HỆ THỪA THIÊN HUẾ - SALAVAN
1.1. Sự gần gũi về địa lý và nét tương đồng về văn hóa
1.1.1. Sự gần gũi về mặt địa lý
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng có sự gần gũi nhau về mặt địa lý,
núi liền núi, sông liền sông, cùng chung sống trên bán đảo Đông Dương cùng
uống chung một dòng nước Mê Kông, cùng chung sống trong một mái nhà
Trường Sơn. Trường Sơn ở phía Đông Lào dài 1900 km, là biên giới tự nhiên
với Việt Nam. Hai nước có khoảng 2.067 km đường biên giới, có nhiều sông,
suối. Các con sông lớn của Lào như Xêcông, Xêxan, Xê Bănghiêng, Nậm
Thơm… là chi lưu của dòng sông Mêkông chảy xuống đồng bằng Nam Bộ của
Việt Nam. Đầu nguồn của các con sông này là các cánh rừng thuộc miền núi
Việt Nam như Gia Lai, Kontum (sông Xêxan), Quảng Trị (sông Xê Bănghiêng),
và Thừa Thiên Huế (sông Xêcông). Ngược lại, một số dòng số dòng sông lớn
của Việt Nam như sông Chu, sông cả, sông Mã có nhiều cánh rừng đầu nguồn
thuộc lãnh thổ Lào.
Theo địa giới hành chính, tuyến biên giới Việt Nam có 10 tỉnh tiếp giáp
với các tỉnh của Lào, kéo dài từ Tây Bắc Bộ xuống Bắc Trung Bộ và cả Tây
Nguyên, gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Gia Lai, Kon
Tum. Dọc tuyến biên giới Việt Nam - Lào đã được phân định và cắm mốc.
Cả Việt Nam và Lào đều nằm trên bán đảo Đông Dương, vị trí trung
tâm của khu vực Đông Nam Á, nơi có vị trí địa lý thuận lợi, là cửa ngõ của
tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây. Mặt khác, bán đảo Đông Dương còn là nơi
tiếp giáp với các trung tâm văn minh của nhân loại (Ấn Độ, Trung Quốc). Ngày
nay, bán đảo Đông Dương còn tiếp giáp với các nền kinh tế phát triển và năngg
động của thế giới như Trung Quốc, Nhật Bản, NICs Đông Á… Đó là một vị trí
địa lý thuận lợi cho hai nước Việt Nam và Lào tăng cường quan hệ hợp tác với
các nước trong và ngoài khu vực và hợp tác toàn diện với nhau để cùng nhau
phát triển.
Lào lại là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không có biển, nhưng
“đường ra biển Đông đi qua miền Trung Việt Nam. Chính yếu tố địa lý này rất
quan trọng với Lào nói riêng và quan hệ Việt Nam - Lào nói chung trong sự hội
nhập khu vực và thế giới, bởi ngoài đường hàng không và xa lộ thông tin,
đường hàng hải và các cảng Việt Nam trên biển Đông đều là điều kiện để Lào
vươn ra thế giới” [86;6].
Trong đó, tỉnh Thừa Thiên Huế là một là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ
Việt Nam, ở vị trí trung độ trục giao lưu Bắc - Nam và trên Hành lang kinh tế
xuyên Á (Đông - Tây), là một trong 10 tỉnh biên giới của tuyến biên giới Việt
Nam - Lào. Tuyến biên giới tỉnh phụ trách quản lý là 84km đường biên giới, 10
cột mốc quốc giới, từ cột mốc S2 đến S11, gồm 12 xã biên giới thuộc huyên A
Lưới. Phía Bắc tỉnh Thừa Thiên Huế giáp với huyện Đakrông (tỉnh Quảng Trị),
phía Nam giáp với huyện Hiên (tỉnh Quảng Nam), phía tây giáp với 2 xã A Túc
(huyện Xá Muội, tỉnh Sa-la-vẳn) và xã A Ling (huyện Kà Lừm, tỉnh Sêkông,
CHDCND Lào), phía Đông giáp biển Đông. Thừa Thiên Huế, Thừa Thiên Huế
có điều kiện thuận lợi để mở rộng giao lưu, liên kết kinh tế với nhiều tỉnh, thành
phố trong nước và thế giới. Sát biên giới của hai tỉnh đều có cửa khẩu, là Hồng
Vân (Thừa Thiên Huế) và Cu Tai (hay Cô - tài, Sa-la-vẳn). Đó là điều kiện rất
thuận lợi cho việc hợp tác với các nước trong khu vực và đặc biệt với Lào.
Tỉnh Sa-la-vẳn (Salavan hay Saravane ) là một tỉnh thuộc Nam Lào, nằm
trên Cao nguyên Bolaven, nằm trên tuyến hành lang Đông - Tây (3) và Bắc -
Nam (1 và 2); có quốc lộ 13, quốc lộ 20 là trục giao thông chính của tỉnh nối
liền giữa 2 vùng kinh tế trọng điểm là tỉnh Sa-vẳn-na-khẹt ở phía Bắc và tỉnh
Chăm-pa-sắc phía Tây Nam, phía đông Nam giáp tỉnh Sêkông. Đường 15B nối
Sa-la-vẳn với biên giới Lào - Việt Nam có chiều dài 174 km.
Nhân dân hai tỉnh vùng biên có nhiều mối quan hệ lâu đời, có quan hệ
thân tộc, có sự tiếp xúc giao lưu văn hóa, thương mại và đấu tranh chống kẻ thù
chung.
1.1.2. Nét tương đồng về văn hóa
Việt Nam và lào cũng giống như nhiều quốc gia Đông Nam Á khác, đều
chịu ảnh hưởng của nền văn hóa từ Trung Quốc và Ấn Độ du nhập vào, cho nên
nền văn hóa của hai nước đều mang đậm bản sắc văn hóa phương Đông với
những đặc trưng riêng. Tuy nhiên, giữa hai nước ảnh hưởng của hai nền văn hóa
này không giống nhau, ở Việt Nam dấu ấn văn hóa trung Hoa sâu sắc hơn, trong
khi ở Lào văn hóa Ấn Độ có ảnh hưởng sâu rộng hơn. Mặc dù có sự khác biệt
như vậy, nhưng giữa văn hóa Việt Nam và Lào lại có những nét tương đồng
nhất định. Trước hết, nền văn hóa Việt Nam và văn hóa Lào đều được xây dựng
trên nền tảng dân chủ phụ quyền và đều coi trọng những mối quan hệ gia đình,
cộng đồng, xã hội… Về mặt tôn giáo, Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống của người dân cả Việt Nam và Lào. Có thể thấy cho đến nay, Phật giáo
vẫn là một tôn giáo có nhiều tín đồ nhất ở hai quốc gia này và nó giữ một vai trò
quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân hai nước.
Không những thế, còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến văn hóa truyền
thống của Việt Nam và Lào, đặc biệt là các tỉnh biên giới hai nước. Đó chính là
các tỉnh biên giới hai nước có nhiều nét tương đồng về văn hóa, về trang phục,
về nhà ở, về phong tục hay cả ngôn ngữ… Nó có nhiều nét đan xen nhau, giao
thoa nhau, hòa quyện nhau nhưng cũng giữ được những nét riêng, nét độc đáo
của từng nước.
Thừa Thiên Huế và Sa-la-vẳn cũng vậy, là hai tỉnh có chung đường biên
giới, đặc biệt là từ có chung nền văn hóa Champa, nên có nhiều nét tương đồng
về văn hóa. Trải qua thời gian, nền văn hóa hai tỉnh dù có phát triển theo hai
hướng khác nhau theo định hướng của mỗi nước, nhưng cái gốc vẫn luôn được
những người bản địa bảo tồn.
Những điều đó cho chúng ta thấy rằng quá trình trình phát sinh và phát
triển của nền văn hóa hai tỉnh có những đặc điểm chung. Điều đó thể hiện sinh
động và phong phú trên các mặt tôn giáo, ngôn ngữ và nhiều lĩnh vực khác,
Chính sự tương đồng đó đã không ngừng tác động qua lại đến cuộc sống của cư
dân ven biên giới hai tỉnh, tạo nên một tiềm năng to lớn và cơ sở vững chắc và
lâu bền trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa Thừa Thiên Huế và Sa-la-vẳn
1.2. Bối cảnh quốc tế và khu vực
1.2.1. Bối cảnh quốc tế
Trong những thập niên cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, bối cảnh thế
giới đã có những biến đổi to lớn và sâu sắc, ảnh hưởng toàn diện và mạnh mẽ
đến mọi mặt đời sống xã hội của các quốc gia. Thế giới đang từng bước thực
hiện sự chuyển mình mới. Những biến đổi to lớn trong đời sống chính trị thế
giới đã làm thay đổi cục diện thế giới theo hướng tích cực hơn.
Trước hết là, vào cuối thế kỷ XX cuộc chiến tranh lạnh giữa hai phe đối
đầu mà đứng đầu là Liên Xô và Mỹ, kéo dài hơn 4 thập kỷ đã đến hồi kết thúc.
Đây là dấu hiệu báo hiệu cho một trật tự thế giới mới hình thành, các nước đã
nhận thấy được theo đuổi trật tự thế giới hai cực này không hề có lợi cho lợi ích
quốc gia mà mất dần vai trò và vị trí cả về kinh tế - chính trị trên trường quốc tế,
thấy được trong giai đoạn mới đối đầu không phải là cách tốt nhất. Để thế gới
tồn tại được tất cả các nước phải vận động theo quy luật nhất định. Guồng quay
của trật tự thế giới mới đã đưa các nước xích lại gần nhau hơn và điều tất yếu
xảy ra là xu thế hòa bình, hòa dịu và hợp tác đã mở ra nhưng cạnh tranh cùng
phát triển. Song hành với sự biến đổi đó là xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa
diễn ra ngày càng mạnh mẽ, làm cho sự tùy thuộc vào các nước ngày càng lớn.
Đồng thời, sự đi lên của những xu hướng đó là sự phát triển như vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm cho ranh giới quốc gia mất dần ý
nghĩa và tạo cơ sở cho sự ra đời của một “ngôi làng toàn cầu”, trong đó khu
vực đống vai trò là “ngôi nhà lớn” trong ngôi làng ấy. Những điện ấy làm cho
đời sống kinh tế - chính trị và xã hội quốc tế mang những sắc thái mới.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Yalta bị xóa bỏ, thế giới
không còn bị chi phối bởi cực nào nữa, thay vào đó là một trật tự thế giới mới
được xác lập. Thời kỳ quá độ này được nhiều nhà nghiên cứu gọi là trạng thái
“nhất siêu cường, đa siêu quốc”. Trong trật tự thế giới mới này, Mỹ nổi lên như
một siêuu cường mạnh nhất so với các cường quốc khác. “Mỹ chiếm ưu thế trên
một loạt lĩnh vực và do tương quan lực lượng giữa các nước lớn hiện nay đang
nghiêng về Mỹ và nhất là nhờ thắng lợi của quân sự ở Afgakixtan và Iraq, cho
nên Mỹ chủ trương xây dựng một thế giới đơn cực do Mỹ chi phối” [86;29].
Tuy nhiên, không phải Mỹ muốn thực hiện là được mà ý đồ đó bị cạnh tranh bởi
các nước lớn khác như Nhật Bản, EU, Nga và Trung Quốc.
Trong đó, hiện nay đáng chú ý nhất không những với Mỹ mà với cả các
cường quốc khác là sự trỗi dậy của “con rồng” Trung Quốc. Theo lời của Giáo
sư Stephen Walt, Giáo sư Quan hệ Quốc tế, trường Hành Chính Kennedy, Đại
học Harvard phát biểu tại tại Hà Nội do Học viện Ngoại giao tổ chức sáng ngày
17/1/2011 với chủ đề: “Sự trỗi dậy của Trung Quốc và tương lai của các đồng
minh Mỹ tại châu Á” thì “hiện nay đang có sự thảo luận sôi nổi về các tác động
chiến lược do Trung Quốc trỗi dậy như một siêu cường quốc. Những người lạc
quan cho rằng sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc không phải là không thể
tránh khỏi và quan hệ đối tác mang tính xây dựng giữa hai nước có thể được
xây dựng dựa trên các hoạt động ngoại giao thận trọng và sự phụ thuộc lẫn
nhau về kinh tế. Những người bi quan - hoặc có thể nói là “thực tế” hơn - thì
nghĩ rằng sự cạnh tranh gay gắt rất khó tránh khỏi, mặc dù chúng ta không
nghĩ rằng chiến tranh sẽ xảy ra. Diễn biến tình hình thế nào sẽ phụ thuộc vào
hành xử của Trung Quốc, phản ứng của Mỹ và đặc biệt phản ứng của các quốc
gia Châu Á khác” [87]. Thực tế cho thấy, Trung Quốc làm cho nhiều nước và
kể cả Mỹ nghi ngại về sự đe dọa tình hình an ninh, chính trị và cả vị thế nước
lớn trên trường quốc tế. Nếu như Mỹ luôn cho rằng mình là số 1 trên tất cả các
lĩnh vưc đời sống xã hội, luôn can thiệp bằng quân sự vào công việc nội bộ các
nước khác, thì Trung Quốc đã không chọn con đường đó để khẳng định vị thế
của mình mà chọn con đường đi lên từ kinh tế. Một khi kinh tế đã phát triển
mạnh thì việc Trung Quốc sẽ dễ dàng hơn trong việc kiểm soát các mục đích
khác như chính trị và cả quốc phòng. Đối với Trung Quốc tất cả các quốc gia
đều là “đối tác”. Đó là một đường lối ngoại giao cực kỳ khôn khéo và thực tế đã
chứng minh đường lối ngoại giao ấy đã mang lại cho Trung Quốc một vị thế
xứng đáng trên bàn cờ chính trị quốc tế và khu vực. Chẳng hạn như việc Trung
Quốc là thành viên thường trực trong Hôi đồng Bảo An Liên Hợp Quốc, hay là
nhân vật không thể thiếu trong việc giải quyết vấn đề vũ khí hạt nhân trên bán
đảo Triều Tiên và khu vực Biển Đông mà trực tiếp là hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa của Việt Nam. Tuy nhiên dù thế nào thì chiến tranh thế giới không
thể xảy ra lần thứ 3 mà hợp tác trên cơ sở cạnh tranh là quy luật khách quan.
Hay như trường hợp của Nhật Bản, “đất nước mặt trời mọc” này được
mệnh danh là “anh chàng khổng lồ về kinh tế” nhưng lại là “chú lùn về chính
trị”. Nhật Bản cũng muốn thoát ra khỏi hình ảnh của một chú lùn để trở thành
chàng khổng lồ về chính trị. Vì vậy, xứ sở hoa anh đào đã, đang và sẽ ra sức xóa
mờ hình ảnh đó. Chính sách ngoại giao kinh tế đang được Nhật Bản thực hiện
từng bước rất có hiệu quả, nó sẽ giúp cho Nhật Bản thực hiện mục tiêu đó một
cách dễ dàng hơn.
Ngay cả đối với Tây Âu, là khu vực có nền kinh tế phát triển cũng tăng
cường hợp tác trong khu vực để có sức mạnh cạnh tranh với Mỹ và các cường
quốc khác, để khẳng định vị trí vốn có của mình. Các nước khác cũng đang cố
gắng tìm lấy cho mình một chỗ đứng trong đời sống kinh tế - chính trị quốc tế.
Điều đó cho thấy rằng, xu thế phát triển của một trật tự thế giới trong tương lai
là sẽ tiến tới một hệ thống đa cực. bởi vì nhìn trên phương diện toàn cầu một
quốc gia dù có là siêu cường chăng nữa cũng không thể kiểm soát hết được mọi
mặt của đời sống quốc tế. Trong khi đó, cùng với sự tác động của quá trình toàn
cầu hóa bất kỳ một nước nào, cho dù là Mỹ cũng không đủ khả năng để thiết lập
trật tự thế giới đơn cực.
Ngoài những tác động tích cực của quá trình toàn cầu hóa, trong những
năm đầu thế kỷ XXI những mâu thuẫn về sắc tộc, mâu thuẫn về thương mại…
hay các vụ khủng bố mang tầm quốc tế đã diễn ra tại nhiều khu vực. Chẳng hạn
như vấn đề Trung Đông, vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, Iran, vấn đề
xung đột sắc tộc tại châu Phi, vấn đề Biển Đông… Tất cả làm cho tình hình thế
giới trở nên bất ổn định bao giờ hết. Tuy nhiên tất cả các nước không thể
khoanh tay đứng nhìn thế giới đứng trên bờ vực mà đã cùng nhau đưa những
vấn đề đó lên bàn ngồi đàm phán với nhau và tìm kiếm giải pháp thích hợp nhất.
Đặc biệt, sự kiện ngày 11/9/2001 hay còn được gọi là sự kiện 911 (theo
lối viết tắt ngày tháng tại Mỹ), lực lượng khủng bố quốc tế tấn công vào Trung
tâm thương mại quốc tế (WTC), Lầu Năm Góc và Tòa nhà Quốc Hội của Mỹ.
Cuộc tấn công này đã làm chấn động địa cầu - một kẻ thù nguy hiểm không chỉ
của nước Mỹ mà của nền hòa bình thế giới xuất hiện. Ngay sau đó, Mỹ bắt đầu
phát động cuộc chiến chống khủng bố trên khắp các châu lục nhằm lật đổ chế
độ Al-Qaeda và chế độ hà khắc Taliban. Mỹ nhận được sự ủng hộ của nhiều
nước trên thế giới, quyền lực của Mỹ nhờ vậy mà tăng lên rất mạnh. Mỹ đã lấy
cớ này để lôi kéo, tập hợp đồng minh tham gia tấn công vào một số nước như
Afghanistan (2001), Iraq (2003). Thực chất đây là cơ hội để Mỹ hợp lý hóa việc
có mặt của mình ở khu vực giàu tài nguyên vàng đen này, cũng như có ý nghĩa
về vị trí chiến lược.
Trước tình hình an ninh - chính trị quốc tế như vậy, đời sống kinh tế thế
giới trong những năm đầu thế kỷ XXI cũng có những biến chuyển rõ rệt. Trong
thập niên đầu này nền kinh tế thế giới thực sự bước vào nền kinh tế tri thức. Nó
là hình thức hoàn toàn mới so với các nền kinh tế trước đây, nó đòi hỏi các nước
tham gia phải có thực lực thực sự và những con người sống trong nền kinh tế
này phải có năng lực và trình độ chuyên môn cao. Kinh tế tri thức đẩy nhanh
quá trình toàn cầu hóa. Song song với quá trình toàn cầu hóa là sự phát triển
như vũ bão của khoa học công nghệ. Những nước phát triển như Mỹ, Nhật,
Trung, Nga, EU…có trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại và ngày càng phát
triển. Bên cạnh đó, còn có những nước nghèo như ở Châu Phi, một số nước
châu Á…trình độ khoa học kỹ còn rất lạc hậu. Các nước phát triển đã bỏ rơi
các nước đang phát triển với một khoảng cách khá xa. Với trình độ khoa học kỹ
thuật chênh lệch như vậy, muốn tiến tới một “ngôi làng toàn cầu” không còn
cách nào khác là các nước cùng hợp tác để cùng phát triển. Trong thập niên đầu
này, sức mạnh về quân sự không còn được coi trọng mà thay vào đó là quan hệ
hợp tác, lấy sức mạnh kinh tế làm trọng tâm.
Bên cạnh đó, làn sóng hợp tác trong khu vực diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Đây là một xu thế tất yếu trong tương lai cùng với quá trình toàn cầu hóa mà
trong đó kinh tế là hạt nhâm chi phối trực tiếp đến quan hệ quốc tế. Như sự hoạt
động năng động của các tổ chức kinh tế khu vực ASEAN, NAFTA, APEC,
WTO… góp phần không nhỏ đến sự phát triển kinh tế toàn cầu. Đặc biệt, trong
giai đoạn hiện nay Châu Á- Thái Bình Dương là khu vực đang được nhiều
nước quan tâm nhất, kể cả Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản… Khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương được coi là “lục địa của tương lai”. Khu vực được coi là mô
hình lý tưởng cho các khu vực khác trên thế giới học tập là Liên minh Châu ÂU
(EU). Đây là tổ chức liên kết khu vực rộng lớn và có hiệu quả nhất, nó không
chỉ là liên minh về kinh tế mà còn là liên minh về chính trị, văn hóa… giữa
những quốc gia có cùng trình độ phát triển, mặc dù hiện nay có chút bất cập.
Quan hệ quốc tế phát triển theo xu hướng hòa dịu nhưng năng động và
phức tạp hơn. Trước những biến đổi của tình hình thế giới thì tất cả các quốc gia
lớn nhỏ đều phải điều chỉnh đường lối đối nội và đối ngoại của mình cho phù
hợp với tình hình thế giới. Trong khi xu thế hòa bình hợp tác là xu thế chủ đạo
thì buộc các quốc gia phải trở nên linh hoạt, mềm dẻo và năng động hơn trong
“hợp tác đối đầu, tránh chiến tranh, tránh xung đột và giải quyết mọi vấn đề
bằng con đường hòa bình” [86;31]. Mặc dù tình hình thế giới hiện nay có nhiều
bất ổn đang diễn ra.
Tóm lại, bối cảnh quốc tế những năm đầu thế kỷ XXI đã đi theo một xu
hướng tích cực hơn. Xu thế đối thoại thay cho đối đầu mở ra cho nhân loại một
thời kỳ mới – thời kỳ hòa bình hợp tác và cạnh tranh trên cơ sở các bên cùng có
lợi. Đó là một xu thế khách quan hợp quy luật. Với bối cảnh quốc tế như vậy,
không một nước nào dù lớn hay nhỏ tránh khỏi được sự tác động của nó. Nó chi
phối và tác động mạnh mẽ đến tình hình khu vực cũng như mối quan hệ hhai
nước Việt Nam - Lào mà trực tiếp nhất là giữa các tỉnh cùng biên giới.
1.2.3. Bối cảnh khu vực.
Kết thúc cuộc chiến tranh lạnh cục diện thế giới thay đổi, đặc biệt ở khu
vực Đông Nam Á, nơi bị ảnh hưởng trực tiếp của cuộc chiến tranh lạnh ấy.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Đông Nam Á bị đặt dưới mối đe dọa về nguy cơ
đối đầu cả về chiến tranh thông thường và chiến tranh hạt nhân giữa hai cường
quốc đối đầu là Liên Xô và Mỹ. Chiến tranh lạnh kết thúc đã làm cho cục diện
thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Các quốc gia Đông Nam Á thoát khỏi
mối đe dọa chiến tranh và bắt tay vào khôi phục hậu quả chiến tranh, xây dựng
lại đất nước. Có thời gian chính các quốc gia trong khu vực cũng nằm ở hai cực
đối đầu với nhau. Song bước sang thế kỷ XXI, các nước khép lại quá khứ để
cùng nhau hợp tác xây dựng đất nước và khu vực phát triển phồn thịnh hơn, hội
nhập nhanh hơn với quá trình toàn cầu hóa.
Đông Nam Á là khu vực nằm ở vị trí án ngữ trên con đường hàng hải nối
liền giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Đông Nam Á từ lâu được coi là
cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải. Thậm
chí đến gần đây, một số nhà nghiên cứu vẫn gọi khu vực này là "ống thông gió"
hay "ngã tư đường”. Với vị trí đó, Đông Nam Á có điều kiện để hợp tác cùng
nhau phát triển và hợp tác với các nước trên thế giới. Với ý nghĩa như vậy, vào
cuối thế kỷ XX các nước Đông Nam Á đã cùng nhau xây dựng lên một “ngôi
nhà lớn” mang tên ASEAN. Ngôi nhà lớn này là nơi hội tụ của các nước trong
khu vực cùng hợp tác, đối thoại và hòa bình để tạo dựng một Đông Nam Á hòa
bình, ổn định và phát triển, nâng vị thế khu vực lên tầm cao mới. Trong thập
niên đầu thế kỷ XXI, ASEAN hướng tới mục tiêu hài hòa các dân tộc ở khu
vực, sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng, gắn kết chặt chẽ với nhau
trong mối quan hệ đối tác năng động, láng giềng hữu nghị đùm bọc lẫn nhau.
Với sự năng động và vị trí của mình như vậy, khu vực Đông Nam Á ngày
càng thu hút được sự chú ý, quan tâm của nhiều cường quốc trên thế giới đặc
biệt là Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Nga, EU… Thông qua hàng loạt các hội nghị,
các nước lớn đã tìm mọi cách để lôi kéo ASEAN nhằm tăng cường dính líu,
củng cố, mở rộng và xây dựng cơ chế hợp tác ở khu vực này, song ASEAN vẫn
cân bằng được giữa các nước lớn. Được sự chú ý của các nước lớn, các nước
ASEAN đã tận dụng được lợi thế này để thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với các
nước lớn. Vì vậy, hiện nay các nước ASEAN đang trên đà phát triển mạnh về
kinh tế, vững mạnh về chính trị, ổn định môi trường khu vực.
Các nước ASEAN còn tăng cường mở rộng chương trình hợp tác Đông
Á, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, là những nước có tiềm lực
kinh tế, chính trị trên thế giới. Chương trình hợp tác này sẽ giúp cho các nước
Đông Nam Á dễ dàng giải quyết các vấn đề nhạy cảm liên quan đến lãnh thổ
biên giới, hải đảo. Chương trình hợp tác này được biểu hiện qua cơ chế hợp tác
ASEAN + 3. Tiến trình ASEAN+3 ngày càng chứng tỏ là một trong những cơ
chế năng động và hiệu quả nhất trong việc thúc đẩy hợp tác Đông Á; khẳng
định được vai trò là khuôn khổ chính hướng tới mục tiêu lâu dài là xây dựng
một cộng đồng ở Đông Á. Cùng với xu hướng hợp tác đa phương ASEAN+3,
ASEAN còn tăng cường hợp tác song phương với nhiều nước trên thế giới
(ASEAN+1) như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New
Zealand. Sự thành công của những cộng đồng hợp tác song phương và đa
phương này đã tạo ra cho ASEAN một cơ hội phát triển xứng tầm quốc tế. Và là
tiền đề để ASEAN mở rộng hơn nữa ảnh hưởng của mình ra thế giới . Chẳng
hạn như tham gia vào các tổ chức khu vực và quốc tế là ARF, APEC, ASEM…
Nó thực sự đã làm cho sự hợp tác kinh tế, an ninh - chính trị ở khu vực được
thúc đẩy mạnh mẽ. Xu thế đối thoại, hợp tác phát triển tăng lên làm cho quan hệ
giữa ASEAN với các nước và các khu vực ngày càng trở nên quan trọng hơn.
Vị trí của ASEAN đang từng bước được khẳng định và có ảnh hưởng lớn trong
đời sống kinh tế, chính trị quốc tế.
Cho dù đời sống kinh tế ngày càng phát triển nhưng tình hình an ninh,
chính trị lun căng thẳng và không tránh khỏi được các vụ xung đột về sắc tộc,
tôn giáo, các vụ đảo chính, hay các vụ khủng bố ở Indonesia, Thái Lan,
Philippines, đặc biệt là vấn đề biên giới, vấn đề Biển Đông… “Việc gia tăng
quan hệ với các nước lớn và phát triển vào khu vực này cũng sẽ tạo nên những
bất đồng về lợi ích kinh tế, kéo theo những vấn đề phức tạp về an ninh, chính trị
và xã hội” [2;26]. Tình hình an ninh, chính trị như vậy là một trong những điều
kiện bất lợi cho các quốc gia Đông Nam Á, dễ bị các nước lớn lợi dụng lôi kéo
vào mục đích chính trị.
Cùng với xu hướng liên kết khu vực thì xu hướng liên kết tiểu vùng trong
ASEAN cũng đã được quan tâm và đẩy mạnh với sự phát triển mạnh của khu
vực tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (GMS). Nhất là đối với các nước láng
giềng hay những nước có vị trí đặc biệt giống nhau đã hợp lại thành các tam
giác, tứ giác phát triển và các hành lang kinh tế Đông - Tây, Bắc - Nam… giữa
các nước trong khu vực ASEAN với nhau.
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực mới đa dạng nhưng không kém phần
phức tạp vào thập niên đầu thế kỷ XXI, một nước không thể cô lập tự phát triển
mà phải hợp tác với các nước khác để cùng nhau phát triển, cùng nhau hướng
đến mục tiêu chung hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển cho một “ngôi nhà
lớn”. Xu hướng hợp tác nhưng cạnh tranh công bằng có thể là điều kiện thuân
lợi, cũng có thể là thách thức lớn cho sự hợp tác giữa các quốc gia trong khu
vực và trên thế giới. Xu thế này tác động sâu sắc đến tất cả các nước trong khu
vực, đặc biệt là các nước láng giềng. Vì vậy, các nước không thể khoanh tay
đứng ngoài quy luật đó mà phải cùng nhau nhìn lại mình và điều chỉnh lại
những đường lối đối ngoại của mình cho phù hợp với tình hình thực tế. Quan hệ
Việt Nam - Lào cũng không thể nằm ngoài xu thế đó. Nhưng với sự cố gắng nỗ
lực và thiện chí thực tâm giữa hai nước, những thách thức, khó khăn sẽ vượt
qua, tạo cơ hội hợp tác toàn diện giữa hai nước trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
1.3. Quan hệ Việt Nam - Lào trong thập niên đầu thế kỷ XXI
Quan hệ Việt Nam - Lào vốn có truyền thống từ lâu đời, từ trước đến nay
luôn được hai Đảng, hai Nhà nước quan tâm, coi là quan hệ có tính sống còn
của mỗi quốc gia, là quy luật tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc, là một trong
những nhân tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng mỗi nước. Nó được coi là mối
quan hệ hữu nghị đặc biệt, thủy chung son sắc giữa hai dân tộc cùng có mái nhà
chung. Mối quan hệ này được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội
của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước.
Cả Việt Nam và Lào đều có những tiền đề thuận lợi cho sự hợp tác toàn
diện với nhau. Trước hết, hai nước Việt Nam và Lào vẫn kiên quyết thực hiện
chế độ một Đảng lãnh đạo, đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai nước đều đang trong
quá trình thực hiện “đổi mới”, phát triển kinh tế nhiều thành phần và đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Hơn nữa trong quan hệ hợp tác quốc tế, cả
Việt Nam và Lào đều đang thi hành chính sách đối ngoại mở cửa, chủ động hội
nhập quốc tế có nguyên tắc, có định hướng trọng tâm Việt Nam vừa là bạn vừa
là đối tác tin cậy, còn Lào: Hợp tác phù hợp với điều kiện và khả năng [43;9].
Đặc biệt, mục tiêu chung mà hai nước đều phấn đấu là đến năm 2020 thoát khỏi
tình trạng kém phát triển để cơ bản trở thành “nước công nghiệp” đối với Việt
Nam và “nông nghiệp và công nghiệp phát triển có mặt hiện đại” đối với Lào.
Đó là những nền tảng quan trọng trong quan hệ giữa hai nước. Tuy vậy ngày
nay trước sự đòi hỏi để phát triển, trước sự gia tăng ảnh hưởng của các nước
lớn, nước phát triển trong khu vực nói chung và Lào nói riêng. Lào có mong
muốn gia tăng quan hệ, đa phương hóa quan hệ với các nước trên thế giới để có
thể có những điều kiện điều kiện thuận lợi hơn. Ngoài hợp tác toàn diện với
Việt Nam, Lào còn tham gia vào tứ giác phát triển Myanma - Thái Lan - Lào -
Campuchia do Thái Lan chủ trì.
Tuy nhiên, “Việt Nam một mặt muốn đặt quan hệ hai nước trong khuôn
khổ hợp tác giữa các nước trong khu vực theo thông lệ quốc tế, đôi bên cùng có
lợi, nhưng mặt khác Viêt Nam vẫn cần phải đặt mối quan hệ Việt - Lào trong
khuôn khổ quan hệ đặc biệt theo quan niệm truyền thống. Tuy nói rằng quan hệ
hai nước là bình đẳng cùng có lợi nhưng phải nói thêm “trên tinh thần quan hệ
đặc biệt” [47;9-10]. Trên tinh thần ấy, hai nước tăng cường đẩy mạnh quan hệ
hợp tác toàn diện.
Quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào chủ yếu trên lĩnh vực chính trị ngoại
giao. Bước vào thế kỷ XXI, trước những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới
và khu vực, sự hợp tác về chính trị ngoại giao giữa hai nước không những được
tiếp tục giữ vững mà còn có những bước phát triển mới cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu trên cơ sở kế thừa và phát huy tích cực mối quan hệ hữu nghị, tình
đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước. Để thực hiện duy trì mối
quan hệ hữu nghị đặc biệt đó, hai bên tăng cường duy trì và đẩy mạnh các cuộc
gặp gỡ định kỳ giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước để có thể nhất trí
các vấn đề, mục tiêu, đường lối, chính sách và biện pháp lớn cho sự nghiệp “đổi
mới” của mỗi nước, và thống nhất những quan điểm cũng như đối sách về quan
hệ quốc tế. Nổi bật trong quan hệ chính trị ngoại giao là sự nhất trí cao giữa hai
Đảng trên tất cả các lĩnh vực của hai quốc gia. Biểu hiện của mối tình đoàn kết
này được đánh dấu bằng các cuộc viếng thăm và làm việc giữa lãnh đạo cấp
cao, các bộ, ban ngành, đoàn thể nhân dân, tổ chức hữu nghị từ trung ương đến
địa phương, đặc biệt là giữa các tỉnh có chung biên giới giữa hai nước thường
xuyên gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, phát triển hợp tác hữu nghị. Gần đây các
cuộc viếng thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước ngày càng được tăng cường hơn
nữa. Mối quan hệ này được thể hiện qua các văn bản được ký kết giữa hai bên
như các Hiệp định, các thỏa thuận hợp tác giữa hai Bộ Ngoại Giao.
Về an ninh quốc phòng, hai nước có đường biên giới chung rất dài nên
việc hợp tác về an ninh quốc phòng được hai Đảng, hai Nhà nước chú trọng.
Hai nước cố gắng nỗ lực cùng nhau để giải quyết một số vấn đề còn tồn tại
trong quan hệ hai nước như vấn đề hoạch định và cắm mốc biên giới, đối phó
với các vấn đề an ninh phi truyền thống… Biên giới là vấn đề thiêng liêng và
nhạy cảm đối với mỗi quốc gia. An ninh biên giới là rất quan trọng, muốn giữ
hòa bình ổn định trong đất nước thì an ninh biên giới phải được đảm bảo, tránh
để mâu thuẫn kéo dài dễ bị kẻ xấu lợi dụng. Vì vậy, hợp tác để giải quyết vấn đề
biên giới Việt Nam và Lào là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có thiện chí,
tôn trọng lợi ích lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế. Với ý nghĩa như vậy,
trong bối cảnh những năm đầu thế kỷ XXI hai nước Việt Nam và Lào đã tăng
cường hợp tác về an ninh quốc phòng, thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Chẳng
hạn ngoài những cột mốc đã được đặt trước đó, hai bên đã phối hợp xây dựng
và khánh thành cột mốc đôi số 605 tại cửa khẩu quốc tế Lao Bảo - Đenxavẳn
(05/09/2008) và cột mốc đại số 528 tại cửa khẩu quốc tế Cha Lo - NaPhàu
(18/07/2009),… gần đây nhất là khánh thành cột mốc đại số 666 tại cửa khẩu
quốc tế A Đớt - Tà Vàng (18/05/2010). Cho đến hết 2011, hai bên đã “xác định
được 622 vị trí cắm mốc và đã xây dựng được 489 cột mốc quốc giới trên toàn
tuyến biên giới Việt Nam - Lào. Hai bên khẳng định đến hết năm 2012 sẽ xác
định xong tất cả các cột mốc còn lại [87]. Cơ sở pháp lý cho việc hợp tác về an
ninh quốc phòng giữa hai nước chính là các văn bản được ký kết như Hiệp ước
bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia (16/07/2007). Hai bên đã phối
hợp cùng Campuchia hoàn thành cắm mốc tại ngã ba biên giới Việt Nam - Lào -
Campuchia (18/01/2008) và đã ký kết Hiệp ước xác định đường giao điểm
đường biên giới ba nước (26/08/2008). [109]. Ngoài ra, hai nước mà nhất là các
tỉnh sát biên giới thường xuyên phối hợp để ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực
tại vùng biên giới. Đây là vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa chiến lược đối với
quan hệ hợp tác giữa hai nước. Nó đáp ứng yêu cầu giữ vững ổn định chính trị
và an ninh quốc gia, tạo điều kiện hòa bình thuận lợi để phát triển kinh tế, góp
phần giữ vững hòa bình, ổn định, hợp tác của mỗi nước và của cả khu vực.
Vấn đề hợp tác được hai Đảng, hai Nhà nước quan tâm đặc biệt là trên
lĩnh vực kinh tế, luôn là mục tiêu cao nhất đang hướng tới trong quan hệ hai
nước. Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Lào đã
có bước phát triển nhảy vọt chưa từng thấy, hai bên dần trở thành đối tác bình
đẳng của nhau. Hai bên đã tổ chức các cuộc gặp gỡ cấp cao nhằm đưa ra những
chính sách phù hợp cho phát triển kinh tế, và hợp tác đầu tư giữa hai nước. Điển
hình trong những năm đầu này là hai bên đã ký kết các văn bản như Hiệp định
hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa hai chính phủ Việt - Nam
Lào trong 10 năm, 5 năm và hàng năm; Thỏa thuận về ưu đãi thuế xuất nhập
khẩu đối với các mặt hàng của hai nước; Thỏa thuận sử dụng các cảng biển;
Hiệp định tránh đánh thuế trùng…đã tạo điều kiện pháp lý cho quan hệ kinh tế
giữa hai nước phát triển. Hợp tác về kinh tế rõ nhất được thể hiện trên lĩnh vực
đầu tư và thương mại. Trong thập niên đầu thế kỷ này hai nước đã tăng cường
hơn nữa trong việc xúc tiến đầu tư và tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp
hai bên đầu tư. Các dự án, chi phí đầu tư cũng tăng lên và thực hiện đầu tư trên
nhiều mặt của đời sống kinh tế. Bên cạnh lĩnh vực đầu tư, hai bên tăng cường
hợp tác thương mại. Hai bên tăng cường xuất nhập khẩu, trao đổi buôn bán các
loại hàng hóa, cùng nhau rà soát lại các mặt hàng là thế mạnh của mỗi bên và
tìm ra những ưu đãi nhất cho nhau. Tổng kim ngạch thương mại hai nước đang
trên đà tăng trưởng nhanh mặc dù có chiều hướng không liên tục. Tuy nhiên,
tình hình hợp tác thương mại giữa hai nước còn một số vấn đề bất cập do hoàn
cảnh lịch sử tạo nên. Những hạn chế đó làm cho quan hệ thương mại nói riêng
và quan hệ kinh tế nói chung của hai nước chưa thực sự tương xứng với quan hệ
chính trị có truyền thống đặc biệt lâu dài. Việt Nam thường xuyên hỗ trợ Lào
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước bằng các chương trình như
viện trợ không hoàn lại cho bạn Lào và đào tạo cán bộ giúp bạn Lào để đưa đất
nước Lào phát triển lên tầm mới. Ngày nay hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân
hai nước đang cố gắng nỗ lực, ra sức phấn đấu cùng nhau đưa quan hệ kinh tế
sánh ngang tầm với quan hệ chính trị tốt đẹp vốn có, đồng thời sớm đạt mục
tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để có thể hội nhập, phát triển cùng
khu vực và quốc tế.
Bên cạnh hợp tác chính trị, kinh tế, thì hai nước còn tăng cường hợp tác
trên các lĩnh vực khác như văn hoá, du lịch, thể thao, giáo dục, y tế, giao thông
vận tải…nhất là giữa các tỉnh vùng biên giới. Trên tất cả các lĩnh vực hợp tác
này hai nước đều đạt được những thành tựu quan trọng. Đó là những dấu hiệu
đáng mừng trong quan hệ giữa hai nước, là tiền đề cho hợp tác toàn diện giữa
hai nước trong những giai đoạn tiếp theo. Những kết quả đạt được trong quan hệ
hợp tác hai nước trong thời gian qua có ý nghĩa rất to lớn và được hai nước trân
trọng. Nó góp phần vào sự phát triển của mỗi nước cũng như khu vực, tạo cơ
sở thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển thành đối tác chiến lược của nhau.