Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây VN đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế của
thế giới. Vị thế của VN ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế, chúng ta đã là
thành viên của các tổ chức hợp tác quốc tế như ASEAN, APEC, đặc biệt năm 2007 chúng
ta chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới ( WTO) cánh
cửa hội nhập đã thực sự mở ra đối với VN. Trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế
thực hiện nhiệm vụ thiên niên kỷ xây dựng đất nước công bằng, văn minh.
Với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp thì vai
trò của nghành công nghiệp đặc biệt là ngành công nghiệp khai khoáng là vô cùng quan
trọng. Khai khoáng là ngành tạo ra những sẩn phẩm là nguyên liệu, năng lượng cho toàn
bộ ngành sản xuất công nghiệp Việt Nam. Chính vì thế trong chiến lược phát triển kinh tế
Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách thúc đẩy ngành khai khoáng nhằm đáp ứng
yêu cầu về nhiên liệu, năng lượng cho những ngành khác và đảm bảo được an ninh năng
lượng quốc gia.
Xuất phát từ thực trạng, vai trò quan trọng của ngành khai khoáng, với những kiến
thức của mình trong thời gian học tại khoa thống kê trường ĐHKTQD và hiểu biết trong
thời gian thực tập tại vụ công nghiệp- tổng cục thống kê, em chọn đề tài:”Nghiên cứu
thống kê kết quả sản xuất kinh doanh của ngành khai khoáng Việt Nam thời kỳ
2000- 2010” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình. Do đặc điểm của nguồn số liệu
nên em chỉ nghiên cứu trong khu vực doanh nghiệp của ngành khai khoáng.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nêu lên thực trạng của ngành khai khoáng Việt
Nam trong thời kỳ 2000- 2010. Qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm thúc đẩy ngành
khai khoáng phát triển mạnh hơn nữa trong tương lai.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề thực tập gồm 3 chương :
Chương 1: Những lý luận chung về kết quả sản xuất của ngành khai khoáng
Việt Nam
Chương 2: Hệ thống chỉ tiêu và phương pháp thống kê phân tích kết quả
sản xuất kinh doanh của ngành khai khoáng
Chương 3: Phân tích kết quả sản xuất kinh doanh ngành khai khoáng Việt
Nam thời kỳ 2000- 2010
Em xin chân thành cảm ơn các bác,anh chị ở vụ công nghiệp-tổng cục thống kê
tạo điều kiện cho em về nguồn số liệu cũng như những tiếp xúc thực tế trong thời gian
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
thực tập. Em xin chân thành cảm ơn Th.s Đỗ Văn Huân đã tậ tình hướng dẫn để em hoàn
thành chuyên đề của mình.
Sinh viên thực hiện
Dương Văn Lưu
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH CỦA
NGÀNH KHAI KHOÁNG VIỆT NAM
1.1Đặc điểm của ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của ngành công nghiệp khai khoáng
Khai khoáng là hoạt động khai thác khoáng sản hoặc các vật liệu địa chất từ lòng
đất, thường là các thân quặng, mạch hoặc vỉa than. Các vật liệu được khai thác từ mỏ như
kim loại cơ bản, kim loại quý, sắt, urani, than, kim cương, đá vôi, đá phiến dầu, đá muối
và kali cacbonat. Bất kỳ vật liệu nào không phải từ trồng trọt hoặc được tạo ra trong
phòng thí nghiệm hoặc nhà máy đều được khai thác từ mỏ khoáng sản. Khai khoáng ở
nghĩa rộng hơn bao gồm việc khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo (như dầu mỏ,
khí thiên nhiên, hoặc thậm chí là nước).
Đặc điểm chung của ngành khai khoáng :
-Hoạt động của ngành gắn liền tại những nơi có chứa các mỏ, quặng khoáng sản.
Để có thể khai thác được các mỏ khoáng sản này thì các doanh nghiệp khai thác phụ
thuộc rất nhiều vào dây truyền công nghệ hiện đại, độ đảm bảo an toàn lao động cho
người lao động cao. Bởi công nhân làm việc trong các mỏ khoáng sản thường làm việc
trong môi trường độc hại với mật độ cao.
- Ngành khai khoáng là trực tiếp khai thác tài nguyên quốc gia cho nên chịu sự
giám sát chặt chẽ của Nhà nước để đảm bảo chương trình an ninh năng lượng của quốc
gia. Đa số các doanh nghiệp trong ngành phải đóng mức thuế nộp vào ngân sách nhà
nước là rất lớn.
- Sản phẩm của ngành là các nhiên, vật liệu cho các ngành công nghiệp khác. Vì
vậy sự phát triển của ngành là yếu tố quyết định ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành
công nghiệp nói chung của Việt Nam.
1.1.2 Phân loại trong ngành
Trong bảng phân ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam, theo quyết định số
10/2007/QĐ-TTg ngày 23/1/2007 thì hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam được chia
thành 5 cấp : có 21 ngành cấp1 ( được mã hóa theo bảng chữ cái từ A đến U), 88 ngành
cấp 2, 242 ngành cấp 3, 437 ngành cấp 4 và 642 ngành cấp 5.
Ngành khai khoáng có hai hình thức phân tổ:
- Phân tổ theo các thành phần kinh tế.
+ Kinh tế nhà nước: Là những doanh nghiệp mà nhà nước chiếm trên 50% vốn
điều lệ, gồm có:
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
→ Doanh nghiệp nhà nước trung ương: Là những doanh nghiệp chịu sự quản lý
trực tiếp từ các bộ, ban nghành trực thuộc của chính phủ. VD: tập đoàn than khoáng sản
Việt Nam, tập đoàn dầu khí Việt Nam
→ Doanh nghiệp nhà nước địa phương: Là những doanh nghiệp chịu sự quản lý
trực tiếp của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thành lập dựa trên nguồn tài
nguyên vốn có của địa phương mình.
+ Kinh tế ngoài quốc doanh: Gồm các doanh nghiệp vốn trong nước, mà nguồn
vốn thuộc sở hữu tập thể, tư nhân một người hoặc nhóm người hoặc có sở hữu Nhà nước
nhưng chiếm từ 50% vốn điều lệ trở xuống. Hoạt động dựa trên cơ sở pháp lý mà nhà
nước ban hành theo từng loại doanh nghiệp. Cụ thể gồm có:
→ Doanh nghiệp tập thể ( hợp tác xã ): Là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân,
hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự
nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể
của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt
động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
→ Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chủ sở
hữu duy nhất của doanh nghiệp tư nhân là một cá nhân. Doanh nghiệp tư nhân không có
tư cách pháp nhân.
→ Doanh nghiệp hỗn hợp: Doanh nghiệp hỗn hợp ngoài quốc doanh là các đơn vị
kinh tế được thành lập trên cơ sở liên doanh giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các thành
phần kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể
→ Kinh tế cá thể: Là cơ sở kinh tế nơi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh
thường xuyên, có địa điểm xác định và có ít nhất là 1 lao động chuyên nghiệp thực hiện
hoạt động kinh tế tại điểm đó.
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài : gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp của nước ngoài, không phân biệt tỷ lệ vốn của bên nước ngoài góp là bao nhiêu.
Khu vực này có hai loại hình chủ yếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh
nghiệp liên doanh giữa nước ngoài với các đối tác trong nước.
- Phân tổ theo ngành cấp 2
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
Ngành khai khoáng là ngành cấp 1 thứ 2 ( được mã hóa bằng chữ cái B) gồm có 5
ngành cấp 2 ( từ mã số 05 đến 09), cụ thể:
+ 05. Khai thác than cứng và than non
+ 06. Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên
+ 07. Khai thác quặng kim loại
+ 08. Khai khoáng khác
+ 09. Hoạt động dịch vụ khai thác mỏ và quặng
1.1.3 Phạm vi ngành
Ngành khai khoáng gồm: Khai thác khoáng tự nhiên ở dạng cứng (than và quặng), chất
lỏng (dầu thô) hoặc khí (khí gas tự nhiên). Khai thác có thể được thực hiện theo nhiều
phương pháp khác nhau như dưới lòng đất hoặc trên bề mặt, khai thác dưới đáy biển ;
Ngành này cũng gồm:
- Các hoạt động phụ trợ như chuẩn bị các nguyên liệu thô cho kinh doanh ví dụ
nghiền, cắt, rửa sạch, phân loại, nung quặng, hoá lỏng gas và các nhiên liệu rắn. Các hoạt
động này thường được thực hiện bởi các đơn vị khai thác mỏ và / hoặc các đơn vị khác gần
đó;
- Các hoạt động khai thác mỏ được phân vào các nhóm cấp 2, cấp 3, cấp 4 trên cơ sở
các khoáng chất chủ yếu được sản xuất. Ngành 05, 06 liên quan đến khai thác các nhiên liệu
hoá thạch (than đá, than bùn, dầu mỏ, gas); ngành 07, 08 đề cập đến quặng kim loại, sản xuất
các sản phẩm quặng và khoáng khác;
Một số hoạt động kỹ thuật của ngành này, cụ thể là liên quan đến khai thác
hydrocacbon, cũng có thể được thực hiện cho bên thứ 3 bởi các đơn vị chuyên môn như là
một đơn vị dịch vụ công nghiệp được phân vào ngành 09 (Hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai thác
mỏ và quặng).
Loại trừ:
- Chế biến các loại nguyên liệu đã khai thác được phân vào ngành C (Công nghiệp chế
biến, chế tạo);
- Sử dụng các quặng được khai thác mà không có sự chuyển đổi nào thêm cho mục
đích xây dựng được phân vào ngành F (Xây dựng);
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
- Đóng chai các loại nước khoáng thiên nhiên tại các suối và giếng được phân vào
nhóm 1104 (Sản xuất đồ uống không cồn, nước khoáng);
- Nghiền, ép hoặc các xử lý khác đối với đất, đá và chất khác không liên quan đến khai
thác mỏ, quặng được phân vào nhóm 23990 (Sản xuất sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại
khác chưa được phân vào đâu);
- Thu thập, làm sạch và phân phối nước được phân vào nhóm 36000 (Khai thác, xử lý
và cung cấp nước);
- Chuẩn bị mặt bằng cho khai thác mỏ được phân vào nhóm 43120 (Chuẩn bị mặt
bằng);
- Điều tra địa vật lý, địa chấn được phân vào nhóm 7110 (Hoạt động kiến trúc và tư
vấn kỹ thuật có liên quan).
1.1.4 Ý nghĩa kinh tế - xã hội của ngành
Vai trò của ngành khai khoáng có thể được biểu diễn như mô hình dưới đây:
Qua mô hình trên ta có thể thấy ngành khai khoáng có vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế. Đối với Nhà nước thì đó là phần thuế được nộp vào ngân sách, theo Luật
sửa đổi được thông qua tháng 12/2010 và bắt đầu có hiệu lực ngày 1/7/2011 thì thuế khai
thác các khoáng sản đều đồng loạt tăng lên so với trước. Điều này cho thấy mức đóng
góp của ngành khai khoáng trong nền kinh tế được nâng lên. Đối với người dân thì đó là
tạo ra nhiều việc làm hơn với mức thu nhập cao, đặc biệt là những vùng có các mỏ
khoáng sản khai thác. Không những thế khi khai thác khoáng sản thì đồng thời cũng thúc
đẩy sự phát triển cả những khác của địa phương đó. Bởi vì sản phẩm của ngành khai
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 6
Nhà nước: đóng góp thuế
tài nguyên, thuế xuất khẩu
vào ngân sách nhà nước.
Nhà nước: đóng góp thuế
tài nguyên, thuế xuất khẩu
vào ngân sách nhà nước.
Người dân: tạo việc làm thúc
đẩy phát triển kinh tế các tỉnh
vùng sâu
Người dân: tạo việc làm thúc
đẩy phát triển kinh tế các tỉnh
vùng sâu
CN chế
tạo
CN chế
tạo
CN điện
tử
CN điện
tử
CN xây
dựng
CN xây
dựng
Công
nghiệp
luyện
kim
Công
nghiệp
luyện
kim
Ngành khai
khoáng
Ngành khai
khoáng
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
khoáng là những nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp như: công nghiệp luyện
kim, công nghiệp chế tạo, công nghiệp xây dựng
1.2 Một số khái niệm cơ bản về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành
khai khoáng Việt Nam.
1.2.1 Khái niệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một quá trình vận động, biến
đổi các yếu tố đầu vào là các chi phí và kết quả đầu ra là các sản phẩm nhằm đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của xã hội.
Doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh với hai mục tiêu:
- Tạo ra và cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, qua đó đạt doanh số
tối đa.
- Tạo ra giá trị thặng dư và phấn đấu đạt mức lợi nhuận tối đa.
Đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh:
- Mục đích của các doanh nghiệp là thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh để
tạo ra của cải vật chất và dịch vụ nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã hội bằng việc
bán ra những sản phẩm của mình trên thị trường.
- Hoạt dộng sản xuất kinh doanh phải hạch toán được đầy đủ chi phí bỏ ra và kết
quả thu được đồng thời đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh của mình các doanh nghiệp cần phải tính toán đầy đủ các loại
chi phí phát sinh trong quá trình tạo ra sản phẩm gồm cả chi phí vật chất và chi phí dịch
vụ. Trên cơ sở đó hạch toán lỗ lãi và đánh giá hiệu quả của quá trình hoạt động sản xuất,
kinh doanh.
- Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp các doanh nghiệp luôn luôn phải
đồng hành với người tiêu dùng, phải luôn nắm được các thông tin về sản phẩm của doanh
nghiệp trên thị trường cũng như nhu cầu của người tiêu dùng để từ đó xác định được số
lượng hàng hóa cần sản xuất, chủng loại, mẫu mã, kích thước, giá cả và chất lượng sản
phẩm.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh chịu sự chi phối của các yếu tố chính trị, kinh tế -
xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới. Các chính sách về kinh tế, thương mại và luật
pháp có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
1.2.2 Khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh của daonh nghiệp ngành khai
khoáng.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp khai khoáng là hoạt động sử
dụng kết hợp các yếu tố đầu vào tạo ra sản phẩm công nghiệp khai khoáng và cung cấp
cho cá đối tượng sản xuất và tiêu dùng trong và ngoài nước, nhằm mang lại thu nhập cho
tập thể lao động của doanh nghiệp.
Đặc điểm của hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ngành khai
khoáng :
- Với hơn 5000 điểm mỏ thuộc 60 loại khoáng sản được phát hiện và khai thác,
tiềm năng khoáng sản Việt Nam được đánh giá là tương đối đa dạng. Nếu tách riêng than
và dầu khí, các công ty khoáng sản hiện nay chủ yếu khai thác các loại quặng kim loại
(sắt, titan, mangan, vàng, kẽm, đồng, antimony) và các khoáng sản phi kim -vật liệu xây
dựng (VLXD) (đá, cát, sỏi, cao lanh, thạch anh).
- Do cung cấp các nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành công nghiệp sản xuất- chế
tạo và xây dựng, sự phát triển của ngành phụ thuộc rất lớn vào chu kỳ phát triển của nền
kinh tế thế giới. Nhu cầu và giá bán nhiều loại khoáng sản được quyết định bởi thị trường
thế giới.
- Triển vọng của ngành khoáng sản còn nhiều tiềm năng trong dài hạn, được hỗ trợ
bởi sức cầu từ sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam và thế giới, đặc biệt là nhân tố
Trung Quốc; và sức cung là trữ lượng khoáng sản phong phú của Việt Nam. Tuy nhiên,
hiện nay hiệu quả đầu tư của ngành đang suy giảm tương đối so với các lĩnh vực khác, do
đầu tư mới chú trọng đến việc mở rộng mà chưa đầu tư theo chiều sâu, chủ yếu dừng ở
việc xuất khẩu quặng và tinh quặng với giá trị thấp hơn nhiều giá kim loại phải nhập
khẩu về. Do vậy, trong thời gian tới, ngành cần phát triển theo hướng tăng cường chế
biến sâu, bên cạnh việc thăm dò, mở rộng mỏ mới.
- Ngoài ra, chính sách pháp luật của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn thiện,
có thể tác động đến hoạt động của ngành: Luật khoáng sản 2011 sẽ thay đổi cơ chế cấp
phép thăm dò khai thác mỏ theo cơ chế đấu giá; ngoài ra biểu thuế của nhiều loại khoáng
sản được điều chỉnh theo hướng tăng lên làm gia tăng chi phí cho doanh nghiệp.
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
1.2.3 Khái niệm về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngành khai
khoáng.
Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngành khai khoáng là các sản phẩm
hữu ích của hoạt động khai thác được biểu hiện dưới hai hình thái là: sản phẩm vật chất
và sản phẩm dịch vụ, do lao động của doanh nghiệp tạo ra trong một thời kỳ nhất định.
Nội dung của kết quả sản xuất kinh doanh.
Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là do lao động của chính doanh
nghiệp đó làm ra, đạt tiêu chuẩn chất lượng theo những quy định về tiêu chuẩn chất
lượng quốc gia và quốc tế, đáp ứng nhu cầu sử dụng của xã hội.
Kết quả sản xuất kinh doanh phải đảm bảo được lợi ích của người tiêu dùng và của
doanh nghiệp. Lợi ích của người tiêu dùng là khi họ trả chi phí cho những sản phẩm đó
thì họ muốn và phải được sử dụng những sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng, mẫu mã,
số lượng phù hợp với giá cả thị trường. Lợi ích của doanh nghiệp là sản xuất ra những
sản phẩm đạt tiêu chuẩn theo quy định mà vẫn đảm bảo thu được lợi nhuận, kết quả thu
về phải cao hơn chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra.
Kết quả sản xuất kinh doanh mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Lợi ích đó
biểu hiện bằng việc tiết kiệm chi phí, tiền của, thời gian của xã hội. Sản xuất của doanh
nghiệp đảm bảo sự phát triển bền vững, không làm thiệt hại đến môi trường của xã hội.
Những sản phẩm vật chất do doanh nghiệp tạo ra làm tăng thêm của cải vật chất cho xã
hội, còn những sản phẩm phi vật chất ( sản phẩm dịch vụ) không có hình thái cụ thể,
không thể cân đo, đong đếm được nhưng đang ngày càng chiếm vị trí cao trong nền kinh
tế quốc dân.
Các dạng biểu hiện của kết quả sản xuất kinh doanh.
Sản phẩm vật chất: là nhưng sản phẩm sau quá trình khai thác, chế biến có giá trị
sử dụng mói và được đo lường bằng đơn vị hiện vật ( gồm các đơn vị tự nhiên và đơn vị
vật lý). Những sản phẩm đó khi làm xong được chuyển sang khâu tiêu thụ và trở thành
hàng hóa.
Sản phẩm dịch vụ: là những công việc phục vụ có tính chất công nghiệp, gọi tắt là
dịch vụ công nghiệp. Những công việc này thường được đo bằng đơn vị tiền tệ.
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
Sản phẩm công nghiệp chỉ được coi là kết quả hoạt động của doanh nghiệp khi nó
đạt hai yêu cầu:
- Do chính lao động của doanh nghiệp tạo ra thông qua dây truyền sản xuất công
nghiệp của doanh nghiệp mình.
- Có tính hữu ích, thỏa mãn yêu cầu nhất định của sản xuất và tiêu dùng, phù
hợp với lợi ích kinh tế và trình độ văn minh của tiêu dùng xã hội.
1.2.4 Các sản phẩm ngành khai khoáng Việt Nam.
Khai khoáng là ngành khai thác khoáng sản hiện có ở Việt Nam, sản phẩm của
ngành rất phong phú và đa dang, phụ thuộc và điều kiện tự nhiên và trình độ khai thác
của nước ta. Các sản phẩm này chính là sản phẩm cấp cấp 5 của ngành khai khoáng được
liệt kê trong bảng phân ngành kinh tế. Cụ thể:
+ Than: có than cứng và than non.
+ Dầu thô và khí đốt tự nhiên
+ Các quặng kim loại: có quặng kim loại quý hiếm, quặng sắt và quặng không
chứa sắt ( như: quặng uranium,quặng thorlum, quặng bôxit ).
+ Các sản phẩm khác: đá, cát, sỏi, đất sét, hóa chất và phân bón, than bùn muối
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
CHƯƠNG 2. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN
TÍCH KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH KHAI KHOÁNG
2.1.Xác định hệ thống chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh của ngành khai khoáng.
2.1.1 Yêu cầu và nguyên tắc xác định hệ thống chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh.
- Yêu cầu:
+ Hệ thống chỉ tiêu phải có khả năng nêu được mối quan hệ giữa các bộ phận cũng
như giữa các mặt của kết quả sản xuất kinh doanh và giữa kết quả sản xuất kinh doanh
với các yếu tố liên quan, trong khuôn khổ của việc đáp ứng mục đích nghiên cứu.
+ Trong hệ thống chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh phải có chỉ tiêu
mang tính chất chung, các chỉ tiêu mang tính chất bộ phận của tổng thể và các chỉ tiêu
phản ánh các nhân tố để phản ánh một cách đầy đủ kết quả sản xuất kinh doanh của
ngành khai khoáng.
+ Phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung, phương pháp và phạm vi tính toán của
các chỉ tiêu cùng loại. Có như vậy mới phản ánh đúng kết quả sản xuất kinh doanh của
ngành khai khoáng.
- Nguyên tắc xác định hệ thống chỉ tiêu:
+ Đảm bảo tính hướng đích: là phải lựa chọn chỉ tiêu thích hợp để đảm bảo phù
hợp với mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu.
+ Đảm bảo tính hệ thống: đối với các chỉ tiêu có tính chất và hình thức phát triển
khác nhau phải áp dụng các phương pháp phân tích khác nhau. Mặt khác, có rất nhiều
phương pháp thống kê khác nhau để phân tích nhưng mỗi phương pháp đều có những ưu
điểm và nhược điểm khác nhau nên ta phải sử dụng kết hợp các phương pháp để phân
tích các chỉ tiêu một cách có hệ thống.
+ Đảm bảo tính khả thi: dựa vào yêu cầu, mục đích nghiên cứu và nguồn số liệu thu
thập được để lựa chọn những chỉ tiêu thích hợp nhất.
+ Đảm bảo tính hiệu quả: chỉ tiêu được chọn để phân tích phải đảm bảo được đúng
với yêu cầu cần đặt ra, dễ hiểu và có hiệu quả nhất.
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
2.2 Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của ngành khai khoáng Việt
Nam.
Nguyên tắc tính giá trị sản xuất (GO), giá trị gia tăng (VA) công nghiệp, của
ngành khai khoáng Việt Nam.
- Giá trị sản xuất và các chỉ tiêu khác của ngành khai khoáng được tính theo phương
pháp công xưởng, nghĩa là không được tính trùng giá trị sản xuất của các phân xưởng
trong phạm vi một đơn vị sản xuất. Chỉ tính vào giá trị sản xuất công nghiệp các kết quả
hoạt động cuối cùng của các doanh nghiệp, không tính các kết quả trung gian ( chu
chuyển nội bộ).
- Phải tính đầy đủ kết quả sản xuất của các đơn vị, tổ chức và cá nhân thường trú của
Việt Nam có hoạt động khai khoáng trong tất cả các ngành, các thành phần kinh tế. Như
vậy, trong một đơn vị sản xuất công nghiệp, ngoài phần sản xuất chính là công nghiệp ra
còn có sản xuất phụ khác thì phải đưa phần sản xuất phụ này về các ngành kinh tế tương
ứng. Ngược lại những đơn vị sản xuất của các ngành khác có sản xuất công nghiệp thì
đưa phần công nghiệp này về ngành công nghiệp chung của nền kinh tế quốc dân.
- Kết quả sản xuất của thời kỳ nào thì được tính cho thời kỳ đó, không được đem kết
quả sản xuất của thời kỳ này tính cho thời kỳ khác và ngược lại. Nghĩa là khi xác định giá
trị sản xuất của ngành khai khoáng, ngoài sản phẩm hoàn thành và bán ra ngoài trong thời
kỳ còn kể cả chênh lệch sản phẩm dở dang cuối kỳ trừ (-) đầu kỳ, thành phẩm tồn kho
cuối kỳ trừ (-) đầu kỳ
- Giá để tính các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị gia tăng là giá thực tế và giá so sánh
với năm gốc.
- Giá thực tế là giá của người sản xuất công nghiệp ngành khai khoáng bán thực tế
trên thị trường và trên sổ sách hạch toán của thời kỳ báo cáo.
- Giá so sánh với năm gốc là giá thực tế của một năm nào đó được chọn làm năm gốc
để so sánh, nhằm phản ánh tốc độ và xu thế phát triển của các chỉ tiêu qua các thời kỳ
khác nhau.
2.2.1 Giá trị sản xuất ( GO ).
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
- Khái niệm: Giá trị sản xuất công nghiệp là toàn bộ giá trị của các sản phẩm vật
chất và dịch vụ hữu ích do lao động công nghiệp của doanh nghiệp làm ra trong một thời
kỳ và là bộ phận chủ yếu của chỉ tiêu GO ching của toàn doanh nghiệp công nghiệp.
- Ý nghĩa của chỉ tiêu GO trong hoạt động sản xuất công nghiệp.
+ Phản ánh qui mô về kết quả của hoạt dộng sản xuất công nghiệp.
+ Là cơ sở tính cá chỉ tiêu VA, NVA của doanh nghiệp.
+ Là căn cứ tính các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Dùng để tính GDP, GNP của nền kinh tế quốc dân.
- Phương pháp tính GO của hoạt động sản xuất công nghiệp.
GO của hoạt động sản xuất công nghiệp tính theo giá sử dụng cuối cùng gồm các
yếu tố sau:
+ Doanh thu thuần của hoạt động sản xuất công nghiệp.
+ Trợ cấp của nhà nước.
+ Chênh lệch thành phẩm tồn kho.
+ Chênh lệch hàng gửi bán.
+ Thuế sản xuất khác.
+ Thuế sản phẩm.
+ Cước vận tải và phí thương nghiệp.
- Các yếu tố cấu thành GO
GO = C
1
+ C
2
+ V + M
Trong đó:
• C
1
là khấu hao TSCĐ của tất cả các hoạt động có trong doanh nghiệp công
nghiệp.
• C
2
là chi phí trung gian (IC) bao gồm chi phí vật chất và chi phí dịch vụ.
• V là thu nhập lần đầu của người lao động ( quỹ phân phối lần đầu) cho người lao
động. Gồm 2 khoản chính là: Tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập có tính chất
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
lương khác, và tiền trích vào các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ, TCTT của chủ doanh
nghiệp đóng cho người lao động.
• M là thu nhập lần đầu của chủ doanh nghiệp. Bao gồm: giá trị thặng dư, thuế sản
xuất và thu nhập hỗn hợp nếu có.
- Nguồn thông tin:
+ Từ tài khoản doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ TK 511
+ Doanh thu hoạt động tài chính TK 515
+ Doanh thu tiêu thụ thành phẩm TK 512
+ Xác định kết quả sản xuất kinh doanh TK 911
2.2.2 Giá trị gia tăng (VA).
- Khái niệm:
Giá trị gia tăng là phần giá trị tăng thêm của kết quả sản xuất kinh doanh công
nghiệp của doanh nghiệp trong một thời kỳ, được tạo bởi hai yếu tố sản xuất có vai trò
tích cực là lao động sống và tư liệu lao động. Vì vậy chỉ tiêu bao gồm giá trị mới sáng tạo
của lao động và giá trị chuyển dịch ( hay hoàn vốn) của tài sản cố đinh.
- Ý nghĩa:
+ Xem xét mối quan hệ phân chia lợi ích giữa người lao động với doanh nghiệp và
nhà nước.
+ Phản ánh thành quả lao động của doanh nghiệp và mức đóng góp đích thực của
mỗi doanh nghiệp vào kết quả sản xuất của nền kinh tế.
+ Đảm bảo sự công bằng hợp lý trong việc tính thuế VAT.
+ Là cơ sở tính GDP và GNI của nền kinh tế quốc dân.
- Phương pháp tính.
VA được tính theo 2 phương pháp:
+ Phương pháp sản xuất.
VA = GO – IC (C
2
)
+ Phương pháp phân phối.
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
VA bao gồm các yếu tố sau:
+ Thu nhập của người sản xuất.
+ Thuế sản xuất.
+ Khấu hao tài sản cố định (C
1
).
+ Thu nhập hỗn hợp.
+ Gía trị thặng dư.
Đối với thành phần kinh tế tư nhân, cá thể không thể tính riêng được phần thu của
người sản xuất và giá trị thặng dư vì vậy tổng của 2 chỉ tiêu này được ghi vào “ thu nhập
hỗn hợp”.
VA = V + M + C
1
Gía trị gia tăng của ngành khai khoáng được tính từ 2 phương pháp trên phải bằng
nhau. Nếu chênh lệch lớn cần kiểm tra lại số liệu ban đầu của các cơ sở.
- Nguồn thông tin.
+ TK 334 phải trả công nhân viên.
+ TK 622 chi phí công nhân trực tiếp.
+ TK 333 thuế và các khoản phải nộp nhà nước.
+ TK 6424 chi phí khấu hao TSCĐ.
2.2.3 Giá trị gia tăng thuần (NVA).
- Khái niệm.
Giá trị tăng thuần là chỉ tiêu biểu hiện phần giá trị mới sáng tạo của lao động sản
xuất kinh doanh công nghiệp của doanh nghiệp.
- Ý nghĩa: Chỉ tiêu nói lên vao trò của lao động trong việc tạo ra nguồn thu nhập cho
các đối tượng khác nhau và sự đóng góp của lao động doanh nghiệp và kết quả chung của
nền kinh tế. Vì vậy NVA là cơ sở tính chỉ tiêu VA, nghiên cứu quan hệ thu nhập giữa
người lao động, doanh nghiệp và nhà nước.
- Phương pháp tính:
NVA được tính theo 2 phương pháp.
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
+ Phương pháp sản xuất.
NVA = VA – C
1
+ Phương pháp phân phối.
NVA = V + M
2.2.4 Doanh thu tiêu thụ ( DT).
- Khái niệm.
Doanh thu tiêu thụ là tổng giá trị các mặt hàng sản phẩm công nghiệp của doanh
nghiệp đã tiêu thụ và thanh toán trong kỳ.
- Ý nghĩa.
Đây là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả kinh donh theo doanh số thực tế thu
được, là cơ sở để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu
này được xác định theo công thức:
DT =
Trong đó:
• p: là giá bán đơn vị sản phẩm i.
• q: là sản lượng tiêu thụ của sản phẩm i trong kỳ.
- Phương pháp tính.
Tổng hợp doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp có 2 hình thức sau:
+ Theo hình thái biểu hiện: doanh thu gồm nhưng yếu tố sau
• Doanh thu tiêu thụ thành phẩm từ kết quả sản xuất của doanh nghiệp.
• Doanh thu do chế biến thành phẩm cho khách hàng đặt hàng.
• Doanh thu bán phế phẩm, phế liệu.
• Doanh thu từ dịch vụ sản xuất cho bên ngoài.
• Giá trị sản phẩm sản xuất để lại tiêu dùng trong doanh nghiệp.
+ Theo thời kỳ thanh toán: doanh thu gồm những yếu tố sau
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
• Doanh thu sản phẩm vật chất và dịch vụ đã hoàn thành và tiêu thị trong kỳ thanh
toán.
• Doanh thu sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành trong các kỳ trước được tiêu
thụ và thu tiền trong kỳ này.
• Tiền thu từ việc bán sản phẩm trong các kỳ trước mới được thanh toán trong kỳ
này.
- Nguồn thông tin.
+ TK 511 doanh thu bán hàng, cung cấp dịch vụ.
+ TK 515 doanh thu hoạt động tài chính.
+ TK 711 thu nhập khác.
2.2.5 Doanh thu thuần (DTT).
- Khái niệm.
Doanh thu thuần là doanh thu bán hàng sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ doanh
thu.
- Ý nghĩa.
Doanh thu thuần là cơ sở xác định lãi (lỗ) ròng của hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Phương pháp tính.
DTT = DT – ( Các khoản giảm trừ doanh thu)
Các khoản giảm trừ doanh thu gồm:
+ Thuế sản xuất: thuế sản phẩm ( thuế VAT, tiêu thụ đặc biệt, xuất nhập khẩu ),
thuế sản xuất khác ( thuế đất, thuế môn bài, các khoản lệ phí phải nộp cho cơ
quan nhà nước).
+ Giảm giá hàng bán : giá trị hàng đã bán bị trả lại, chi phí sữa chữa hàng hư hỏng
còn trong thời hạn bảo hành
2.2.6 Lợi nhuận (M).
- Khái niệm.
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
Lợi nhuận kinh doanh là chỉ tiêu biểu hiện khối lượng giá trị thặng dư do lao động
của doanh nghiệp tạo ra trong kỳ.
- Ý nghĩa.
Phản ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động kinh doanh, phục vụ đánh giá việc
thực hiện mục tiêu lợi nhuận của các doanh nghiệp.
- Phương pháp tính.
Lợi nhuận kinh doanh = doanh thu kd – chi phí kd
M = DT - CP
- Nguồn thông tin.
Lợi nhuận bao gồm từ các thành phần sau:
+ Lợi nhuận thu từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Lợi nhuận thu từ kết quả hoạt động tài chính.
+ Lợi nhuận thu từ kết quả hoạt động khác, bất thường.
2. 3. Xác định một số phương pháp thống kê phân tích kết quả sản xuất kinh doanh.
2.3.1.Phương pháp phân tổ.
- Khái niệm.
Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hoặc một số tiêu thức nào đó tiến hành phân
chia các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu thành các tổ và tiểu tổ sao cho các đơn vị
trong cùng một tổ thì giống nhau về tính chất, khác tổ thì khác nhau về tính chất.
- Ý nghĩa.
+ Dùng phân tổ để chọn ra các đơn vị điều tra.
+ Là phương pháp cơ bản của tổng hợp thống kê.
+ Là cơ sở và là một phương pháp phân tích thống kê.
- Tác dụng.
Với ý nghĩa nêu trên thì phương pháp phân tổ thống kê có những tác dụng chủ yếu
sau :
+ Phân tổ thống kê nghiên cứu các loại hình kinh tế xã hội.
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
+ Phân tổ thống kê nghiên cứu mỗi liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các tiêu thức
của hiện tượng.
+ Phân tổ thống kê nghiên cứu kết cấu nội bộ tổng thể.
2.3.2 Bảng thống kê.
- Khái niệm.
Bảng thống kê là một hình thức biểu hiện các tài liệu thống kê một cách có hệ
thống, hợp lý và rõ rang, nhằm nêu lên các đặc trưng về mặt lượng của hiện tượng nghiên
cứu.
- Ý nghĩa.
Bảng thống kê giúp tổng hợp kết quả điều tra thành dạng rõ rang nhất, phục vụ cho
việc phân tích được diễn ra thuận lợi và chính xác nhất.
- Tác dụng.
Giúp cho nhà nghiên cứu tiến hành tiến hành so sánh, đối chiếu, phân tích theo các
phương pháp khác nhau, nhằm nêu lên sâu sắc bản chất của hiện tượng nghiên cứu. Nếu
biết trình bày và sử dụng thích đáng các bảng thống kê thì việc chứng minh vấn đề sẽ trở
nên rất sinh động, có sức thuyết phục lớn.
2.3.3 Đồ thị thống kê.
- Khái niệm.
Đồ thị thống kê là các hình vẽ hoặc đường nét hình học dùng để miêu tả có tính
chất quy ước các số liệu thống kê.
- Ý nghĩa và tác dụng.
+ Đổ thị thống kê sử dụng con số kết hợp với các hình vẽ, đường nét và màu sắc để
trình bày và phân tích các đặc điểm số lượng của hiện tượng. Vì thế giúp cho người xem
không cần mất nhiều công đọc mà vẫn nhận thức được vấn đề chủ yếu một cách dễ dàng,
nhanh chóng.
+ Các đồ thị thống kê không trình bày tỉ mỉ, chi tiết các đặc trưng số lượng của hiện
tượng mà chỉ nêu lên một cách khái quát các đặc điểm chủ yếu về bản chất và xu hường
phát triển cơ bản của hiện tượng. Vì vậy, đồ thị làm cho người ít hiểu biết về thống kê
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
cũng có thể lĩnh hội được vấn đề mà người nghiên cưu nêu ra một cách dễ dàng và chính
xác.
2.3.4 Phương pháp dãy số thời gian.
- Khái niệm.
Dãy số thời gian là dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự
thời gian.
- Ý nghĩa và tác dụng.
Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của hiện
tượng, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự phát triển đồng thời để dự đoán các mức
độ trong tương lai.
2.3.5 Phương pháp chỉ số.
- Khái niệm
Chỉ số trong thống kê là số tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ
của một hiện tượng nghiên cứu.
- Ý nghĩa và tác dụng.
+ Dùng chỉ số để nghiên cứu biến động của các chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh
doanh qua thời gian. Các chỉ số tính theo mục đích này thường được gọi là chỉ số phát
triển, được tính bằng cách so sánh mức độ của hiện tượng ở 2 thời gian khác nhau ( kỳ
nghiên cứu và kỳ gốc).
+ Nêu lên sự biến động của kết quả sản xuất kinh doanh qua những điều kiện
không gian khác nhau: giữa 2 địa phương, 2 doanh nghiệp các loại chỉ số này thường
được gọi là chỉ số không gian.
+ Biểu hiện các nhiệm vụ kế hoạch hoặc tình hình hoàn thành kế hoạch về các chỉ
tiêu kết quả sản xuất kinh doanh. Các chỉ tiêu này gọi là chỉ số kế hoạch.
+ Dùng chỉ số để phân tích vai trò và ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối
với sự biến động cuẩ toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh.
2.3.6 Phương pháp số tương đối.
- Khái niệm.
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
Số tương đối trong thống kê biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ nào đó của
hiện tượng. Đó có thể là kết quả của việc so sánh giữa hai mức độ cùng loại nhưng khác
nhau về điều kiện không gian hoặc thời gian, hoặc giữa hai mức dộ khác loại nhưng có
liên quan với nhau. Trong hai mức độ này, một mức độ được chọn làm gốc để so sánh.
- Ý nghĩa và tác dụng.
+ Số tương đối nêu lên kết cấu, quan hệ so sánh, trình độ phát triển, trình độ phổ
biến của hiện tượng trong điều kiện lịch sử nhất định.
+ Số tương đối trong thống kê nói lên mặt lượng trong mối quan hệ mật thiết với
mặt chất của hiện tượng nghiên cứu.
+ Trong công tác lập và kiểm tra thực hiện kế hoạch số tương đối cũng giữ vai trò
quan trọng. Nhiều chỉ tiêu kế hoạch được đề ra bằng số tương đối, còn khi kiểm tra thực
hiện kế hoạch bao giờ người ta cũng đánh giá mức độ hoàn thành bằng số tương đối.
+ Dùng các số tương đối để nêu ra tình hình thực tế trong khi cần bảo đảm được
tính chất bí mật của các số tuyệt đối.
2.3.7 Dự đoán thống kê.
- Khái niệm.
Dự đoán thống kê là xác định mức độ hoặc trạng thái của hiện tượng trong tương
lai bằng cách sử dụng các tài liệu thống kê và sử dụng phương pháp phù hợp.
- Ý nghĩa và tác dụng.
Có nhiều phương pháp dự đoán thống kê, tùy vào mục đích và nguồn số liệu của
hiện tượng mà ta thu thập được sẽ lựa chọn phương pháp dự đoán phù hợp nhất. Dự đoán
thống kê cho ta biết được ước lượng của mức độ hiện tượng trong tương lai với xác xuất
đáng tin cậy nhất, qua đó giúp cho các nhà quản lý có thể hoạch định đường chính sách,
hướng đi cho tổ chức mình trong tương lai để thực hiện các mục tiêu của mình.
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
NGÀNH KHAI KHOÁNG VIỆT NAM THỜI KỲ 2000 – 2010
3.1 Tổng quan ngành khai khoáng Việt Nam
Sự hình thành ngành khai khoáng cho đến thời đại hiện nay là cả một quá trình
diễn biến lâu dài. Nó gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ trong
lĩnh vực khai thác. Ban đầu ngành khai khoáng được biết đến là ngành khai thác mỏ,
nhằm khai thác những mỏ tài nguyên hiện có của đất nước với mục đích chủ yếu là để
làm nguyên nhiên liệu cho các ngành công nghiệp khác và xuất khẩu sản phẩm thô. Sau
đó, cùng với sự tiến bộ của công nghệ ngành khai khoáng Việt Nam đã phát triển mạnh
mẽ, hiện nay chúng ta không chỉ khai thác mà còn tinh chế những sản phẩm thô thành
những sản phẩm chất lượng phục vụ được nhu cầu trong nước và xuất khẩu đem lại giá
trị cao hơn.
Thực trạng ngành khai khoáng Việt Nam:
Quy mô doanh nghiệp. So với thời điểm năm 2000 thì quy mô các doanh nghiệp
hoạt động trong ngành khai khoáng đã tăng lên và chiếm tỷ trọng nhất đinh trong các
doanh nghiệp trong ngành công nghiệp, cũng như so với các doanh nghiệp trong cả nước,
được thể hiện rõ ở bảng dưới đây:
Bảng 1. Tổng hợp các doanh nghiệp Việt Nam tính đến ngày 31/12/2010
Chỉ tiêu
Tổng
nguồn
vốn
Số
doanh
nghiệp
Số lao
động
Đơn vị tính Tỷ đồng Doanh
nghiệp
Người
Tổng các doanh nghiệp cả nước 8803321 248842 8921535
Doanh nghiệp trong ngành công nghiệp 2098735 48714 4490482
1.Ngành khai khoáng 329934 2257 210421
2.Ngành công nghiệp chế biến 1742121 44015 4131096
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
3.Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt 286152 2143 121252
4.Cung cấp nước và xử lý rác thải 40528 299 27713
Nguồn:Vụ công nghiệp- Tổng cục thống kê
Qua bản tổng hợp cho ta thấy:
Về tổng nguồn vốn: Các doanh nghiệp trong ngành khai khoáng hiện đang là
ngành chiếm tỷ trọng vốn lớn trong nền kinh tế với 329934 triệu đồng tính đến
31/12/2009, chiếm 3.75% trong tổng nguồn vốn các doanh nghiệp và chiếm
15.72% trong tổng nguồn vốn công nghiệp ( bao gồm các ngành :B-Khai khoáng,
C- Công nghiệp chế biến, D- Sản xuất và phân phối điện , khí đốt, E- Cung cấp
nước và xử lý rác thải ), gấp 6.7 lần so với thời điểm 31/12/2000.
Về nguồn lao động và việc sử dụng lao động: Việt Nam được biết đến là một
trong những đất nước có nguồn lao động rồi, việc phát triển các khu công nghiệp
đặc biệt là trong ngành khai khoáng đã thu hút được lượng lớn số lao động tham
gia. Cụ thể, tính đến thời điểm năm 2010 ngành đã thu hút được 210421 người,
chiếm 2.36% số lao động làm việc trong các doanh nghiệp cả nước và chiếm
4.69% số lao động trong toàn ngành công nghiệp. So với thời điểm năm 2000 thì
đã tăng 1.8 lần.
Về số lượng các doanh nghiệp: Một trong những đặc điểm khi tham gia vào ngành
khai khoáng là các doanh nghiệp phải có vốn lớn, mức trang bị công nghệ cao và
chịu sự quản lý giám sát chặt chẽ từ nhà nước. Tuy nhiên, với khả năng đem lại
nhiều lợi ích nên hàng năm số doanh nghiệp tham gia vẫn tăng lên. Tính đến thời
điểm 31/12/2010 cả nước đã có 2257 doanh nghiệp hoạt động trong ngành khai
khoáng, tăng 5.2 lần so với thời điểm năm 2000. Chiếm 0.9% số doanh nghiệp của
cả nước và chiếm 4.63% số doanh nghiệp trong toàn ngành công nghiệp.
Tình hình kinh doanh. Khả năng kinh doanh của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó. Những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh
cao, khả năng nắm bắt thị trường, hiểu biết về pháp luật, nhạy bén trong kinh doanh sẽ
luôn là những doanh nghiệp có lợi thế và có những thành công. Các doanh nghiệp kinh
doanh trong ngành khai khoáng cũng vậy. Trước những khó khăn thách thức chung của
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
nền kinh tế có những doanh nghiệp kinh doanh có lãi và cũng có những doanh nghiệp
thua lỗ, điều đó được thể hiện rõ trong bảng sau:
Bảng 2. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi hoặc lỗ
Doanh nghiệp có lãi Doanh nghiệp lỗ
So với tổng số
doanh nghiệp
Số
doanh
nghiệp
Tổng
mức lãi
Lãi
BQ 1
DN
Số
doanh
nghiệp
Tổng
mức lỗ
Lỗ
BQ
DN
Số
DN
lãi
Số
DN
lỗ
1 2 3 4=3/2 5 6 7=6/5 8 9
Đơn vị tính Doanh
nghiệp
Tỷ
đồng
Triệu
đồng
Doanh
nghiệp
Tỷ
đồng
Triệu
đồng
% %
Năm 2008 1279 61017.4 47707 296 -82.2 -278 75.82 17.55
Năm 2009 1583 78553.2 49623 723 -1393.7 -1928 62.79 28.68
Năm 2010 1786 97407.5 54539 346 -137.1 -396 79.13 15.33
Nguồn: Vụ công nghiệp- Tổng cục thống kê
Nhìn vào bảng thống kê ta có thể thấy: Số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi
luôn tăng lên và mức lãi bình quân 1 doanh nghiệp cũng tăng lên, năm 2010 số doanh
nghiệp có lãi tăng 203 doanh nghiệp tương đương tăng 12.82%, đồng thời tổng mức lãi
cũng tăng lên kéo theo mức lãi bình quân 1 doanh nghiệp cũng tăng lên, cụ thể năm 2010
mức lãi bình quân 1 doanh nghiệp là 54539 triệu đồng/ 1DN tăng 4916 triệu đồng so với
năm 2009 tương đương tăng 9.9%. Mặc dù trong trong giai đoạn 2008-2009 Việt Nam
chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng với mức những mức tăng
này có thể thấy các doanh nghiệp đã ngày càng thích ứng với sự biến động của nền kinh
tế toàn cầu, đó là một tín hiệu đáng mừng cho nền công nghiệp nói riêng và nền kinh tế
của Việt Nam nói chung.
Cùng với những mức tăng như đã phân tích ở trên thì số doanh nghiệp kinh doanh
thua lỗ phản ánh đúng tình hình kinh tế trong giai đoạn này. Năm 2009 do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng mà nhiều doanh nghiệp đã rơi vào cảnh hoạt động đình trệ, nặng nề
hơn là dẫn đến phá sản. Năm 2009 số doanh nghiệp thua lỗ lên tới 723 doanh nghiệp tăng
427 doanh nghiệp so với năm 2008, tuy nhiên đến năm 2010 số đoanh nghiệp thua lỗ chỉ
còn 346 doanh nghiệp giảm 377 doanh nghiệp so với năm 2009 ( tương đương với giảm
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đỗ Văn Huân
52.14%). Điều này cho thấy sự nỗ lực của các doanh nghiệp, cũng như sự giúp đỡ kịp
thời từ phía nhà nước.
3.2. Các hướng phân tích
3.2.1.Phân tích tình hình tăng trưởng sản xuất kinh doanh của ngành khai khoáng
Sự tăng trưởng sản xuất kinh doanh của ngành khai khoáng được biểu hiện bằng
sự tăng trưởng của giá trị sản xuất công nghiệp của ngành, doanh thu và lợi nhuận của
ngành. Với số liệu thu thập theo các năm thì phương pháp tốt nhất để phân tích đó là
dùng phương pháp dãy số thời gian. Việc phân tích các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất
kinh doanh của ngành công nghiệp khai khoáng bằng phương pháp này sẽ cho chúng ta
thấy được rõ sự thay đổi, mức độ tăng (giảm) hay tốc độ tăng (giảm) của kết quả sản xuất
kinh doanh để từ đó có cái nhìn cụ thể hơn, chính sác hơn vể tình hình phát triển và hoạt
động sản xuất kinh doanh của ngành khai khoáng Việt Nam thời kỳ 2000-2010 từ đó đưa
ra những nhận đinh, dự báo kết quả sản xuất kinh của ngành trong thời gian tới.
Phân tích sự biến động của giá trị sản xuất ( GO).
Bảng 3. Phân tích mức độ biến động của GO ngành khai khoáng Việt Nam
(khu vực doanh nghiệp) thời kỳ 2000-2010 ( theo giá cố định năm 1994)
Năm
Chỉ tiêu
(Nghìn tỷ)
Lượng tăng (giảm)
tuyệt đối
Tốc độ phát triển
(%)
Tốc độ tăng
(%)
GO
i i
t
i
T
i
a
i
A
i
2000 27.3 - - - - - -
2001 29.1 1.8 1.8 106.59 106.59 6.59 6.59
2002 30.4 1.3 3.1 104.47 111.36 4.47 11.36
2003 32.8 2.4 5.5 107.89 120.15 7.89 20.15
2004 34.5 1.7 7.2 105.18 126.37 5.18 26.37
2005 36.4 1.9 9.1 105.51 133.33 5.51 33.33
2006 38.9 2.5 11.6 106.87 142.49 6.87 42.49
2007 39.5 0.6 12.2 101.54 144.69 1.54 44.69
2008 41.8 2.3 14.5 105.82 153.11 5.82 53.11
2009 44.6 2.8 17.3 106.70 163.37 6.70 63.37
2010 46.4 1.8 19.1 104.04 169.96 4.04 69.96
Sinh viên thực hiện: Dương Văn Lưu 25