Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
DANH SÁCH NHÓM
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
MỞ ĐẦU
Các yêu cầu mua hàng cần phải được phê chuẩn đúng đắn bởi những người
có thẩmquyền trong doanh nghiệp. Việc phê chuẩn có thể được thực hiện riêng
lẻ cho từng yêucầu mua hàng như đối với TSCĐ, hoặc là quy định chung cho
những loại hàng có nhu cầuthường xuyên; chẳng hạn như đối với hàng tồn kho,
các doanh nghiệp có thể quy địnhđiểm đặt hàng cho từng mặt hàng Các yêu
cầu mua hàng sau khi đã được phê chuẩn được chuyển đến cho bộ phận
muahàng để chuẩn bị đơn đặt hàng và gửi cho nhà cung cấp. Trước khi chuẩn bị
đơn đặt hàng,bộ phận mua hàng cần phải tìm hiểu giá cả, chất lượng sản phẩm
và chính sách bán hàngcủa các nhà cung cấp để lựa chọn nhà cung cấp phù hợp.
Doanh nghiệp thường sử dụngmẫu đơn đặt hàng của nhà cung cấp. Đơn đặt
hàng phải chỉ rõ số lượng, quy cách, mẫumã và chất lượng của hàng cần mua.
Một bản sao của đơn đặt hàng cần được chuyển chobộ phận nhận hàng để làm
cơ sở kiểm tra hàng khi nhận hàng. Nhận hàng Sau khi đơn đặt hàng của doanh
nghiệp đã được nhà cung cấp chấp nhận thì hàng sẽđược giao cho doanh nghiệp.
Bộ phận nhận hàng sẽ có trách nhiệm kiểm hàng, đảm bảorằng hàng nhận được
phải đúng số lượng, chất lượng, mẫu mã ghi trên đơn đặt hàng.Đồng thời, bộ
phận nhận hàng lập Biên bản nhận hàng để làm bằng chứng cho việc nhậnhàng
và kiểm hàng. Bản sao của Biên bản nhận hàng được chuyển đến các bộ phận
liênquan (bộ phận mua hàng và phòng kế toán) theo quy định của doanh nghiệp.
Cuối cùnghàng sẽ được chuyển từ bộ phận tiếp nhận qua kho hoặc bộ phận sử
dụng. Nếu hàng đượcnhập kho, Phiếu nhập kho sẽ được lập để làm bằng chứng
cho việc hàng đã được nhập kho.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KIỂM TOÁN CHU TRÌNH MUA HÀNG VÀ
THANH TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
I. CHU TRÌNH MUA HÀNG VÀ THANH TOÁN VỚI VẤN ĐỀ KIỂM
TOÁN
1. Bản chất và chức năng của chu trình mua hàng và thanh toán ảnh
hưởng tới công tác kiểm toán.
a. Bản chất của chu trình.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động kiểm toán đã phát triển
và ngày càng trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với các hoạt động kinh
doanh. Đối tượng chủ yếu của hoạt động kiểm toán là kiểm toán báo cáo tài
chính. Trong quá trình thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, các kiểm toán viên
thường chia công việc kiểm toán theo các chu trình, theo cách này các nghiệp vụ
và các tài khoản có liên quan chặt chẽ với nhau được xếp vào cùng một phần
hành.
Chu trình mua hàng và thanh toán là một chu trình quan trọng cần phải
được kiểm toán trong các cuộc kiểm toán, bởi vì quá trình mua vào và thanh
toán ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí, giá thành và tính kịp thời trong sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Quá trình mua vào của hàng hoá và dich vụ bao gồm các khoản mục như
mua nguyên liệu, máy móc, thiết bị, vật tư, điện, nước, sửa chữa bảo trì và
nghiên cứu phát triển. Chu trình không bao gồm quá trình mua vào và thanh
toán các dịch vụ lao động hoặc những sự chuyển nhượng và phân bổ của chi phí
ở bên trong tổ chức, chu trình mua hàng và thanh toán cũng không bao gồm qua
trình thu hút và hoàn trả vốn.
Chu trình mua hàng và thanh toán gồm các quyết định và các quá trình
cần thiết để có hàng hoá và dịch vụ cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Chu trình thường bắt đầu bằng việc lập một đơn đặt mua của người có trách
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
nhiệm tại bộ phận cần hàng hoá hay dich vụ và kết thúc bằng việc thanh toán
cho nhà cung cấp về hàng hoá hay dich vụ nhận được.
b. Chức năng của chu trình.
Đối với các đơn vị sản xuất, quá trình kinh doanh bao gồm 3 giai đoạn:
cung ứng, sản xuất và tiêu thụ. Còn ở doanh nghiệp thương mại, quá trình kinh
doanh cũng gồm hai giai đoạn: mua hàng và bán hàng. Như vậy, dù ở loại hình
doanh nghiệp nào thì quá trình “mua hàng” cũng là quá trình cung cấp các yếu
tố đầu vào, nó quyết định đến khả năng sản xuất và duy trì sản xuất của đơn vị,
bên cạnh đó khả năng thanh toán các khoản chi phí mua hàng cũng đánh giá tình
hình tài chính của doanh nghiệp là tốt hay xấu.
Mặc dù ở các doanh nghiệp khác nhau, nhu cầu về hàng hoá là khác nhau,
nhưng chu trình mua hàng và thanh toán vẫn phải đảm bảo đầy đủ 4 chức năng:
- Xử lý đơn đặt mua hàng hoá hay dịch vụ.
- Nhận hàng hoá hay dịch vụ.
- Ghi nhận các khoản nợ phải trả người bán.
- Xử lý và ghi sổ các khoản thanh toán cho người bán.
Xử lý đơn đặt mua hàng hoá hay dịch vụ.
Căn cứ vào nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ của các bộ phận hay kế hoạch,
phòng cung ứng sẽ lập duyệt đặt hàng sau đó trình cho người có thẩm quyền phê
duyệt. Đơn đặt hàng sau khi phê duyệt sẽ được chuyển cho bộ phận mua hàng,
bộ phận này căn cứ vào đơn đặt hàng lựa chọn nhà cung cấp phù hợp.
Mẫu của đơn đặt hàng và sự phê chuẩn quy định phụ thuộc vào bản chất
của hàng hoá dịch vụ và quy định của công ty.
Sự phê chuẩn đúng đắn nghiệp vụ mua hàng là phần chính của chức năng
này vì nó đảm bảo hàng hoávà dịch vụ được mua theo các mục đích đã được phê
chuẩn của công ty và tránh việc mua quá nhiều hoặc mua các mặt hàng không
cần thiết. Hầu hết các công ty cho phép một sự phê chuẩn chung cho việc mua
phục vụ các nhu cầu hoạt động thường xuyên như hàng tồn kho ở mức cho phép.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Đơn đặt hàng sẽ được lập thành 3 liên ( 1 liên giao cho nhà cung cấp, 1
giao cho phòng kế toán và 1 giao cho bộ phận kho), được đánh số thứ tự, đơn
đặt hàng giao cho người bán phải ghi rõ mặt hàng cụ thể ở một mức giá nhất
định, được giao vào một ngày quy định. đơn đặt hàng được coi là một chứng từ
hợp pháp và được xem như một đề nghị mua hàng hóa hay dịch vụ. Trong
những trường hợp mà các bên thực hiện các giao dịch lớn thì cần phải lập hợp
đồng.
Nhận hàng hoá hay dịch vụ .
Việc nhận hàng hóa từ người bán là một điểm quyết định trong chu trình
nghiệp vụ vì đây là thời điểm mà tại đó bên mua thừa nhận khoản nợ liên quan
đối với bên bán trên sổ sách của họ. Khi hàng hóa nhận được đòi hỏi phải có sự
kiểm tra mẫu mã, số lượng, thời gian đến và các đIều kiện khác.
Hầu hết các công ty có phòng tiếp nhận để đưa ra một báo cáo nhận hàng
như một bằng chứng của sự nhận hàng và sự kiểm tra hàng hoá. Một bản sao
thường được gửi cho thủ kho và một bản khác gửi cho kế toán các khoản phải
tra thông báo. để ngăn chặn sự mất mát và sự lạm dụng thì hàng hóa phải được
kiểm soát chặt chẽ từ khâu nhận hàng đến khi chuyển đi.
Để tiện cho việc kiểm tra chéo thì nhân viên phòng tiếp nhận phải độc lập
với thủ kho và phòng kế toán. Cuối cùng, sổ sách kế toán sẽ phản ánh việc
chuyển giao trách nhiệm đối với hàng hoá khi hàng hoá được từ phòng tiếp nhận
qua kho và từ kho vào quá trình sản xuất hay đưa đi tiêu thụ.
Ghi nhận các khoản nợ người bán .
Sự ghi nhận đúng đắn khoản về hàng hoá hay dịch vụ nhận được đòi hỏi
việc ghi sổ chính xác và nhanh chóng. Việc ghi sổ ban đầu có ảnh hưởng quan
trọng đến các báo cáo tài chính và đến các khoản thanh toán thực tế nên kế toán
chỉ được phép ghi vào các lần mua có cơ sở hợp lý theo đúng số tiền.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Kế toán các khoản phải trả thường có trách nhiệm kiểm tra tính đúng đắn
của các lần mua và ghi chúng vào sổ nhật kí và sổ hạch toán chi tiết “các khoản
phải trả”. Khi kế toán các khoản phải trả nhận được hóa đơn của người bán thì
phải so sánh mẫu mã, giá, số lượng, phương thức và chi phí vận chuyển ghi trên
hóa đơn với thông tin trên Đơn đặt mua (hoặc hợp đồng) và Báo cáo nhận hàng
(nếu hàng đã về). Thường thì các phép nhân và các phép tổng cộng được kiểm
tra lại và được ghi vào hóa đơn. Sau đó số tiền được chuyển vào sổ hạch toán
chi tiết Các khoản phải trả.
Một quá trình kiểm soát quan trọng đối với các khoản phải trả là quy định
tất cả những ai ghi sổ các khoản chi tiền mặt không được dính líu với tiền mặt,
và các chứng khoán thị trường và các tài sản khác.
Xử lý và ghi sổ các khoản thanh toán cho người bán.
Đối với hầu hết các công ty, các hóa đơn do kế toán các khoản phải trả
lưu giữ cho đến khi thanh toán. Thanh toán thường được thực hiện bằng uỷ
nhiệm chi, séc hoặc phiếu chi làm thành nhiều bản mà một được gửi cho người
thanh toán, một bản sao được lưu giữ lại trong hồ sơ theo người được thanh
toán.
Các quá trình kiểm soát quan trọng nhất của chức năng này bao gồm việc
ký chi phiếu do đúng cá nhân có trách nhiệm, tách biệt trách nhiệm kí chi phiếu
với thực hiện chức năng các khoản phải trả và xem xét lỹ lưỡng các chứng từ
chứng minh của người ký chi phiếu vào lúc chi phiếu được ký.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Quy trình tổ chức chứng từ mua hàng và thanh toán
Với nghiệp vụ mua vào
Với nghiệp vụ thanh toán
2. Chứng từ và sổ sách có liên quan đến chu trình mua hàng và thanh
toán.
Nhóm SVTH:
K ế
toán
quỹ
Th ủ
tr nưở
g k ế
toán
tr nưở
g
Th ủ
quỹ
Nhân
viên
thanh
toán
K ế
toán
L p ậ
ch ng ứ
t chi ừ
quỹ
Duy t ệ
ch ng ứ
từ
Chi
quỹ
Nh n ậ
ti n ề
v à
thanh
toán
Ghi sổ
Nhu
c u ầ
thanh
toán
L u ư
ch ng ứ
từ
Nhu
c u ầ
v t ậ
li u ệ
h ng à
hoá
B ộ
ph n ậ
k ế
ho chạ
B ộ
ph n ậ
cung
ngứ
Cán
b thu ộ
mua
Tr ng ưở
b ph n ộ ậ
cung
ngứ
Th ủ
kho
K ế
toán
K ế
ho ch ạ
cung
ngứ
Khai
thác
hàng
L p ậ
ch ng ứ
t khoừ
Ký
duy t ệ
ch ng ứ
từ
Nh p ậ
kho
Ghi
s ổ
ch ng ứ
từ
L u ư
tr v ữ à
b o ả
qu n ả
ch ng ứ
từ
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Trong chu trình mua hàng và thanh toán , hầu hết các doanh nghiệp sử
dụng các loại chứng từ và sổ sách sau:
- Yêu cầu mua: tài liệu được lập bởi bộ phận được sử dụng (như bộ
phận sản xuất) để đề nghị mua hàng hóa dịch vụ. Trong một số trường
hợp, các bộ phận trong doanh nghiệp có thể trực tiếp lập đơn đặt hàng,
trình phê duyệt và gửi cho nhà cung cấp.
- Đơn đặt hàng: lập lại các chi tiết có trong đề nghị mua, được gửi cho
nhà cung cấp hàng hóa hay dịch vụ.
- Phiếu giao hàng (biên bản giao nhận hàng hóa hoặc nghiệm thu dịch
vụ): tài liệu được chuẩn bị bởi nhà cung cấp. Phiếu giao nhận phảI
được kí nhận bởi khách hàng để chứng minh sự chuyển giao hàng hóa
hay dịch vụ thực tế.
- Báo cáo nhận hàng: được bộ phận nhận hàng lập như một bằng chứng
của việc nhận hàng và sự kiểm tra hàng hoá (dấu hiệu của sự kiểm
soát).
- Hóa đơn của người bán: chứng từ nhận được từ người cung cấp hàng
đề nghị thanh toán cho các hàng hóa dịch vụh đã được chuyển giao.
- Nhật ký mua hàng: đây là những ghi chép đầu tiên trong hệ thống kế
toán để ghi lại các khoản mua. Nhật ký phải liệt kê danh sách các hàng
hoá (tong cái một), cùng với việc chỉ ra tên người cung cấp hàng, ngày
hoá đơn và các khoản tiền của hoá đơn đó.
- Sổ hạch toán chi tiết nợ phải trả nhà cung cấp: danh sách các khoản
tiền phải trả cho mỗi nhà cung cấp. Tổng số của tài khoản người cung
cấp hàng trong sổ hạch toán chi tiết phảI bằng khoản tiền ghi trên
khoản mục phải trả người bán.
- Bảng đối chiếu của nhà cung cấp: báo cáo nhận được của nhà cung cấp
hàng (thường là hàng tháng) chỉ ra các hóa đơn chưa thanh toán vào
một ngày đối chiếu nhất định.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Thông tin, số liệu vận động từ các chứng từ vào sổ sách kế toán thông qua
hệ thống tài khoản. Đối với chu trình mua hàng và thanh toán, các tài khoản chịu
ảnh hưởng của chu trình gồm có các tài khoản trong khoản mục vốn bằng tiền,
hàng tồn kho, nợ phải trả,… Nhìn chung đa số các tài khoản chịu ảnh hưởng
trong chu trình mua hàng và thanh toán có liên quan đến các chu trình nghiệp vụ
khác.
3. Mục tiêu kiểm toán của chu trình mua hàng và thanh toán.
Trong bất kỳ một cuộc kiểm toán nào thì việc đưa ra các mục tiêu kiểm
toán là rất cần thiết. Việc xây dựng các mục tiêu kiểm toán nhằm mục đích giúp
KTV thu thập các bằng chứng đầy đủ, có giá trị và đúng lúc cho những khoản
mục trọng yếu trong chu trình mua hàng và thanh toán. Mục tiệu kiểm toán cho
chu trình này được chia ra: mục tiêu kiểm toán chung và mục tiêu kiểm toán đặc
thù. Mục tiêu kiểm toán chung gồm hai loại là mục tiêu về tính hợp lý chung và
mục tiêu khác. Mục tiêu kiểm toán chung giúp KTV đánh giá các số dư tài
khoản đã hợp lý chưa còn mục tiêu kiểm toán chung khác gồm 6 mục tiêu: tình
hiện hữu, tính đầy đủ, tính chính xác, tính đánh giá, tính trình bày. Các mục tỉêu
kiểm toán đặc thù cho chu trình mua hàng và thanh toán xuất phát từ 6 mục tiêu
kiểm toán trên.
Chu trình mua hàng và thanh toán là một chu trình quan trọng, tạo đầy đủ
các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh của doanh
nghiệp. Không những thế chu trình này còn liên quan đến nhiều tài khoản, cần
nhiều thời gian kiểm tra chi tiết trong một cuộc kiểm toán . Chính vì vậy kiểm
toán chu trình mua hàng và thanh toán là một bộ phận không thể tách rời của
tronh kiểm toán báo cáo tài chính . Mục đích chung của kiểm toán chu trình mua
hàng và thanh toán là đánh giá xem liệu số dư các tài khoản liên quan có được
trình bày trung thực hợp lý hay không. Các mục tiêu đặc thù của kiểm toán chu
trình mua hàng và thanh toán bao gồm.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
- Hiện hữu: hàng hóa, dịch vụ mua vào cũng như các khoản nợ người
bán phải đúng với ý nghĩa thông tin phản ánh tài sản hoặc công nợ
phải được đảm bảo bằng sự tồn tại của tài sản cũng như công nợ đó.
- Đầy đủ: việc nghi nhận các hàng hóa gay dịch vụ mua vào và các
khoản phải trả người bán phải đúng với ý nghĩa thông tin phản ánh
trên sổ sách, tài liệu kế toán không bị bỏ sót trong quá trình xử lý.
- Chính xác: việc tính giá vốn thực tế hàng nhập kho được tính theo chi
phí thực tế thực hiện nghiệp vụ, việc tính toán các khoản phải trả
người bán phù hợp với hợp đồng mua bán, phù hợp với hóa đơn người
bán và biên lai giao nhận hàng hóa hay dịch vụ.
- Trình bày và công bố: việc phân loại và trình bày các tài sản mua vào
cũng như các khoản phải trả người bán phải đúng với ý nghĩa tuân thủ
các quy định trong việc phân loại các tài sản và công nợ cùng việc thể
hiện chúng qua hệ thống tài khoản tổng hợp và chi tiết.
- Quyền và nghĩa vụ: phải đúng với ý nghĩa tài sản mua vào phản ánh
trên báo cáo tài chính thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và nợ phải
trả người bán thê hiện đúng nghĩa vụ của đơn vị này.
- Đánh giá: các tài sản, hàng hóa mua về hay các khoản nợ phải trả
người bán phải ghi chép theo giá trị thích hợp trên cơ sở chuẩn mực và
chế độ kế toán hiện hành (hoặc được thừa nhận).
- Phát sinh: Một nghiệp vụ hay một sự kiện đã ghi chép thì phải đã xảy
ra và có liên quan đến đơn vị trong thời kỳ xem xét.
Các mục tiêu nêu trên chính là khung tham chiếu cho việc xác định các
thủ tục kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán để thu thập bằng chứng
kiểm toán. Căn cứ vào các mục tiêu đó, kiểm toán viên phải thiết kế các thử
nghiệm tuân thủ để nhận diện được cơ cấu, các quá trình kiểm soát hiện có và
các nhược điểm theo từng mục tiêu. Từ đó, đánh giá rủi ro kiểm soát theo tong
mục tiêu và xây dựng các thủ tục kiểm tra chi tiết các số dư và các nghiệp vụ
một cách tương ứng.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
II. NỘI DUNG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH MUA HÀNG VÀ THANH
TOÁN TRONG QUÁ TRÌNH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1. Các phương pháp tiếp cận kiểm toán đối với chu trình mua hàng và
thanh toán .
Chu trình mua hàng và thanh toán cũng như các chu trình khác khi tiến
kiểm toán thường có hai cách tiếp cận
- Sử dụng chủ yếu các thử nghiệm tuân thủ.
- Sử dụng chủ yếu các thử nghiệm cơ bản.
Thử nghiệm tuân thủ: hay còn gọi là thử nghiệm kiểm soát là loại thử
nghiệm để thu thập bằng chứng kiểm toán chứng minh rằng hệ thống kiếm soát
nội bộ hoạt động hữu hiệu. Đặc trưng của thử nghiệm tuân thủ là chúng được
thực hiện dựa vào quy chế kiểm soát trong hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm trả
lời cho câu hỏi: liệu KTV có thể dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị
hay không?
Số lượng các thử nghiệm tuân thủ dựa vào việc đánh giá rủi ro kiểm soát.
Nếu rủi ro kiểm soát trong chu trình được đánh giá là cao, có nghĩa là hệ thống
kiểm soát nội bộ không có khả năng ngăn chặn các gian lân và sai sót thì không
cần thiết phải sử dụng các thử nghiệm tuân thủ nữa. Nếu rủi ro trong chu trình
được đánh giá ở mức thấp thì số lưọng các thử nghiệm tuân thủ sẽ được thực
hịên càng nhiều và các thử nghiệm cơ bản có thể được thu hẹp.
Thử nghiệm cơ bản:
Thử ngiệm cơ bản là loại thử nghiệm được thiết kế để thu thập các bằng
chứng về sự hoàn chỉnh, chính xác và hiệu lực của các dữ kiện do hệ thông kế
toán xử lý. Thử nghiệm cơ bản thường được sử dụng với số lượng lớn khi mà rủi
ro kiểm soát của chu trình đó được đánh giá là cao. Tuy nhiên thử nghiệm cơ
bản cũng được sử dụng ngay khi rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp bởi vì
một hệ thống kiểm soát nội bộ mạnh cũng không có nghĩa là nó có thể ngăn
chặn mọi gian lận và sai sót có thể xảy ra. Do đó, trong quá trình tìm kiểm bằng
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
chứng kiểm toán, các thử ngiệm cơ bản vẫn được các kiểm toán viên sử dụng
bởi tính hiệu quả của nó, tuy nhiên thì các thử nghiệm cơ bản thường phải tốn
nhiều công sức nên phải sử dụng cho hợp lý.
2. Kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán .
Mỗi cuộc kiểm toán dù quy mô lớn hay nhỏ, đơn giản hay phức tạp thì
quy trình kiểm toán thường tuân theo trình tự chung. Cụ thể kiểm toán chu trình
mua hàng và thanh toán được tiến hành qua 3 bước sau:
- Bước 1: Lập kế hoạch kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán.
- Bước 2: Thực hiện kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán.
- Bước 3: Kết thúc kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán.
a. Lập kế hoạch kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán.
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên cần
thực hiện trong các cuộc kiểm toán nhằm tạo các điều kiện pháp lý cũng như các
điều kiện cần thiết khác cho kiểm toán. Mục đích của giai đoạn này là xây dựng
kế hoạch kiểm toán chung và phương pháp kiểm toán cụ thể phù hợp với phạm
vi, bản chất, thời gian của quy trình kiểm toán sẽ thực hiện.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 “kiểm toán viên và công ty
kiểm toán phải lập kế hoạch kiểm toán, trong đó mô tả phạm vi dự kiến và cách
thức tiến hành công việc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán phải đầy đủ, chi tiết
làm cơ sở để lập chương trình kiểm toán”
Cũng như các chu trình khác, việc lập kế hoạch kiểm toán chu trình mua
hàng và thanh toán cũng tuân theo các bước như sau:
Nhóm SVTH:
Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
Thu thập thông tin về khách hàng và
thực hiện các thủ tục phân tích
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán.
Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán.
Trên thực tế không phải bất cứ một lời mời kiểm toán nào cũng được
chấp nhận ngay mà phải căn cứ vào khả năng của công ty và các điều kiện của
khách hàng. Trong giai đoạn này kiểm toán viên đánh giá rủi ro có thể gặp phải
khi tiến hành kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán của doanh nghiệp, sau
đó kết hợp vơí việc đánh giá các chu trình khác để đưa ra quyết định có chấp
nhận kiểm toán cho doanh nghiệp hay không.
Nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng.
Sau khi đã chấp nhận kiểm toán, công ty kiểm toán tiến hành xem xét các
lý do kiểm toán của khách hàng để từ đó tiến hành xác định số lượng bằng
chứng kiểm toán phải thu thập và mức độ chính xác của các ý kiến mà kiểm toán
viên đưa ra trong báo cáo kiểm toán.
Lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán.
Thông qua việc nhận diên các lý do kiểm toán của khách hàng, công ty
kiểm toán ước lượng được quy mô phức tạp của cuôc kiểm toán , từ đó lựa chọn
đội ngũ nhân viên thích hợp để thực hiện kiểm toán. Cụ thể công ty kiểm toán sẽ
lựa chọn những nhân viên có nhiều kinh nghiệm trong kiểm toán chu trình mua
hàng và thanh toán để kiểm toán chu trình này. Số lượng và trình độ của các
kiểm toán viên phụ thuộc vào tính phức tạp và mức rủi ro của chu trình.
Hợp đồng kiểm toán.
Nhóm SVTH:
Đánh giá tính trọng yếu, rủi ro kiểm toán
Tìm hi u h th ng KSNB v ánh giáể ệ ố à đ
r i ro ki m soát.ủ ể
L p k ho ch ki m toán to n di n vậ ế ạ ể à ệ à
so n th o ch ng trình ki m toánạ ả ươ ể
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Công viêc cuối cùng của giai đoạn này là kí kết hợp đồng kiểm toán, ghi
rõ trách nhiệm,nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên.
Thu thập thông tin về khách hàng
Sau khi kí kết hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên bắt đầu thu thập thông
tin đối với phần hành kiểm toán mà mình đảm nhận.Trong giai đoạn này, kiểm
toán viên tiến hành tìm hiểu các mặt hoạt động kinh doanh của khách hàng và
các quy trình mang tính pháp lý có ảnh hưởng đến các mặt hoạt động kinh doanh
này từ đó ảnh hưởng đến phần hành kiểm toán của mình.
Các thông tin cơ sở
Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng :
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300, quy định kiểm toán viên phải tìm
hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng. Việc tìm hiểu ngành
nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng giúp kiểm toán viên nhận định về
chủng loại hàng hoá mà doanh nghiệp mua vào cũng như cách thức thanh toán
và mục đích sử dụng đối với từng loại hàng hóa có đúng với mục đích đã cam
kết bằng van bản không. Ngoài ra việc tìm hiểu ngành nghề kinh doanh của
khách hàng cũng cho kiểm toán viên biết được cách thức tổ chức hệ thống kế
toán và các nguyên tắc kế toán đặc thù của ngành nghề này.
Xem xét lại kết quả cuộc kiểm toán năm trước và hồ sơ kiểm toán chung.
Việc xem xét lại kết quả cuộc kiểm toán năm trước và hồ sơ kiểm toán
chung giúp cho kiểm toán viên xác định và khoanh vùng các khoản mục chứa
đựng rủi ro cao trong chu trình, những bước mà ở đó hệ thống KSNB yếu kém.
Thông thường những điểm yếu này chưa khắc phục được trong thời gian ngắn.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Tham quan nhà xưởng.
Tham quan nhà xưởng là sẽ cung cấp cho kiểm toán viên những điều mắt
thấy tai nghe về quy trình sản xuất kinh doanh của khách hàng, giúp cho kiểm
toán viên đánh giá tình trạng bảo quản, nhập và xuất hàng hoá từ đó đánh giá
khả năng của bộ phận mua hàng và những gian lận gian sai sót có thể xảy ra
trong quá trình mua hàng. Cụ thể, nếu việc sản xuất diễn ra đều dặn, hàng hóa
không bị ứ đọng, chất lượng sản phẩm không giảm sút có nghĩa là việc mua
hàng tiến triển tốt, hàng hóa mua vào có chất lượng đạt yêu cầu. Ngược lại, nếu
sản xuất bị đình trệ thì đó là dấu hiệu cho thấykhả năng đầu vào cung cấp không
kịp thời, nếu hàng hóa tồn kho quá nhiều có nghĩa là mua không phù hợp với
nhu cầu, chất lượng giảm sút cho thấy chất lượng các yếu tố đầu vào không tốt.
Nhận diện các bên hữu quan.
Các bên hữu quan được hiểu là: các bộ phận trực thuộc (các chi nhánh,
các đại lý ), các nhà cung cấp, các cá nhân tổ chức mà công ty có quan hệ.
Trong quy trình kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán các bên hữu quan
mà kiểm toán viên quan tâm chủ yếu là nhà cung cấp, đại lý, các tổ chức có ảnh
hưởng đến quyết định mua của công ty khách hàng.
Việc nhận diện các bên hữu quan sẽ giúp cho kiểm toán viên trong quá
trình thu thập bằng chứng kiểm toán có nhiều thuận lợi hơn.
Dự kiến nhu cầu chuyên gia bên ngoài.
Trong khi kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán, sẽ có những
trường hợp phải giám định giá trị của những hàng hóa mà doanh nghiệp mua
vào nếu trong nhóm kiểm toán không ai có khả năng giám định thì họ sex phải
sử dụng các chuyên gia trọng những lĩnh vực nói trên.
Sau khi có được những thông tin cơ sở về quy trình mua vào và thanh
toán thì kiểm toán viên tiến hành thu thập các thông tin về các nghĩa vụ pháp lý
của khách hàng, điều này sẽ giúp cho kiểm toán viên nắm bắt được các quy trình
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
mang tính pháp lý có ảnh hưởng đến quá trình mua hàng và thanh toán. Đây sẽ
là những căn cứ để kiểm toán viên dựa vào trong quá trình thu thập bằng chứng
kiểm toán cung như đưa ra các ý kiến kiểm toán sau này.
Các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng.
Nếu các thông tin cơ sở được thu thập ở trên giúp cho kiểm toán viên hiểu
được về các mặt hoạt động kinh doanh của khách hàng thì việc thu thập các
thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng giúp cho kiểm toán viên nắm bắt
được các quy trình pháp lý có ảnh hưởng đến các mặt hoạt động kinh doanh của
khách hàng, những thông tin này được thu thập trong quá trình tiếp xúc với Ban
Giám Đốc của công ty khách hàng bao gồm các loại sau:
- Giấy phép thành lập và Điều lệ công ty.
- Các báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán, thanh tra hay kiểm tra của các
năm hiện hành hay trong vài năm trước .
- Biên bản các cuộc họp cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban Giám Đốc.
- Các hợp đồng cam kết quan trọng.
Thực hiện thủ tục phân tích.
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, sau khi đã thu thập các thông tin
cơ sở và thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng, kiểm toán viên tiến hành
thực hiện các thủ tục phân tích đối với các thông tin đã thu thập để hỗ trợ cho
việc lập kế hoạch về bản chất, thời gian và nội dung các thủ tục kiểm toán sẽ
được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đối với chu trình mua hàng và
thanh toán các thủ tục phân tích sử dụng có thể là :
- So sánh tỷ lệ chi phí mua hàng trên doanh thu của công ty khách hàng
với các công ty khác trong cùng nghành, so sánh tỷ lệ này qua các năm để
đánh giá tính hợp lý của việc mua hàng.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
- So sánh số dư tài khoản phải trả nhà cung cấp năm nay so với năm trước,
đối chiếu số chênh lệch đó với lượng hàng hoá mua vào của năm nay tăng
hay giảm hơn so với năm trước để tìm ra những điều không hợp lý.
- Xác định hệ số quay vòng của hàng tồn kho để xác định chất lượng, tính
kịp thời, tính lỗi thời của hàng hoá mua vào.
Ngoài những thủ tục trên còn rất nhiều những thủ tục khác được kiểm
toán viên sử dụng trong quá trình phân tích sơ bộ.
Đánh giá tính trọng yếu, rủi ro kiểm toán.
Đánh giá tính trọng yếu:
Trọng yếu là khái niệm chỉ về tầm cỡ, bản chất các sai phạm (kể cả bỏ
sót) thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ hoặc là từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ
thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì không chính xác hoặc là sẽ rút
ra những kết luận sai lầm.
Tuy nhiên tính trọng yếu là một khái niệm tương đối. Một sai sót có quy
mô nhất định, ví dụ bỏ sót không phản ánh 1 khoản chi mua hàng trị giá 3 triệu
có thể là trọng yếu đối với một công ty nhỏ nhưng có thể không là trọng yếu đối
với công ty lớn. Do đó, việc ước lượng trọng yếu phần lớn phụ thuộc vào kinh
nghiệm của KTV. Thông thường việc đánh giá tính trọng yếu bao gồm hai bước
cơ bản:
Bước 1: Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu.
Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục
kiểm toán.
Việc đánh giá tính trọng yếu đối với chu trình mua hàng và thanh toán
cũng không nằm ngoài các bước công việc trên. Trong giai đoạn này kiểm toán
viên cần ước lượng mức trọng yếu cho toàn bộ chu trình sau đó phân bổ mức
trọng yếu cho các nhóm nghiệp vụ.
Đánh giá rủi ro:
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Theo định nghĩa trong chuẩn mực kiểm toán số 400 “rủi ro kiểm toán là
rủi ro do công ty kiểm toán và các kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận xét không
thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng
yếu”.
Rủi ro tiềm tàng:
Bản thân chu trình mua hàng và thanh toán là một chu trình phức tạp, liên
quan đến nhiều tài khoản, ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí và việc thực hiện
nghĩa vụ về thuế với nhà nước đồng thời nó cũng phản ánh khả năng tài chính
của doanh nghiệp do đó dễ xảy ra những gian lận và sai sót. Rủi ro tiềm tàng của
chu trình thường được đánh giá là cao
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng, kiểm toán viên có thể dựa vào các yếu ảnh
hưởng sau: bản chất kinh doanh của khách hàng, tính liêm chính của Ban Giám
Đốc, kết quả của các cuộc kiểm toán lần trước, các nghiệp vụ kinh tế không
thường xuyên, các hợp đồng kiểm toán lần đầu và dài hạn, các ước tính kế toán,
quy mô số dư tài khoản.
Rủi ro kiểm soát:
Nói lên khả năng hạn chế gian lận sai sót của hệ thống kiểm soát nội bộ,
rủi ro kiểm soát càng lớn có nghĩa là hệ thống kiểm soát nội bộ càng yếu kém và
ngược lại. Việc đánh giá rủi ro phát hiện thông qua việc đánh giá hệ thống kiểm
soát nội bộ
Rủi ro phát hiện :
Là khả năng xảy ra các sai sót hoặc gian lận trên báo cáo tài chính mà
không được ngăn chặn hay phát hiện bởi hệ thống kiểm soát nội bộ vàcúng
không được kiểm toán viên phát hiện trong quá trình kiểm toán.
Viêc đánh giá rủi ro phát hiện phụ thuộc việc đánh giá rủi ro tiềm tàng,
rủi ro kiểm soát và khả năng chuyên môn của kiểm toán viên, nếu rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát càng cao thì rủi ro phát hiện có thể đánh giá ở mức thấp
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
và ngược lại, nếu mức rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên
đánh giá là thấp thì có thể xác định mức rủi ro phát hiện là cao nhất nhưng vẫn
đảm bảo là mức rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận được. Khả năng chuyên môn
của kiểm toán viên tôt sẽ là nhân tố tích cực làm giảm rủi ro phát hiện.
Đánh giá của kiểm toán viên
về rủi ro kiểm soát
Cao Trung
bình
Thấp
Đánh giá của
kiểm toán viên
về rủi ro tiềm
tàng.
Cao Thấp nhất Thấp Trung
bình
Trung bình Thấp Trung
bình
Cao
Thấp Trung
bình
Cao Cao nhất
Theo chuẩn mực kiểm toán số 400:“Kiểm toán viên phải dựa vào đánh giá
mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát để xác định nội dung, lịch trình và
phạm vi thử nghiệm cơ bản để giảm rủi ro phát hiện và giảm rủi ro kiểm toán
đến mức có thể chấp nhận được.”
Tìm hiểu hệ thống KSNB và đánh giá rủi ro kiểm soát.
Theo chuẩn mực số 400 (hệ thống chuẩn mực Việt Nam) kiểm toán viên
phải có đủ hiểu biết về bốn yếu tố của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng
để lập kế hoạch và chương trình kiểm toán thích hợp, có hiệu quả. Kiểm toán
viên phải sử dụng khả năng xét đoán chuyên môn của mình để đánh giá rủi ro
kiểm toán và xác định các thủ tục kiểm toán nhằm giảm các rủi ro kiểm toán
thấp tới mức có thể chấp nhận được.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Trong giai đoạn này, kiểm toán viên phải xem xét các thủ tục kiểm soát
nội bộ mà doanh nghiệp áp dụng trong chu trình mua hàng và thanh toán về mặt
thiết kế, và tính khả thi của các thủ tục kiểm soát đó.
Các thủ tục kiểm soát nội bộ đối với chu trình mua hàng và thanh toán
được thiết kế dựa trên 3 nguyên tắc chủ yếu:
- Nguyên tắc phân công phân nhiệm.
Công việc của chu trình được phân chia cho từng người để tạo ra sự
chuyên môn hoá, giảm thiểu các sai soát có thể xảy ra. Mức độ chuyên
môn hoá càng cao thì công việc càng được thực hiện tốt
- Nguyên tắc bất kiêm nhiệm.
Nguyên tắc này quy định sự cách ly trách nhiệm thích hợp về trách nhiệm
trong các nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các hành vi gian lận và
lạm dụng quyền lực. Ví dụ cách ly trách nhiệm giữa người nhận hàng và
kế toán mua hàng, giữa người phê duyệt và người lập đơn xin mua
hàng…
- Nguyên tắc uỷ quyền phê chuẩn.
Không phải lúc nào việc kí duyệt các đơn xin mua hàng hay phiếu chi
thanh toán công nợ cũng phải do người đứng đầu doanh nghiệp thực hiện.
Trong quá trình mua hàng và thanh toán để công việc tiến hành được
nhanh chóng việc kí duyệt được giao cho các cấp với một phạm vi nhất
định
Ngoài các thủ tục kiểm soát đối với chu trình mua hàng và thanh toán
chúng ta cũng cần phải có sự hiểu biết về các yếu tố của hệ thống kiểm soát nội
bộ như : Môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán và bộ phận kiểm toán nội bộ.
Các yếu tố này đảm bảo cho tính khả thi của các thủ tục kiểm soát và thường
được tìm hiểu chung trước khi đi xem xét các thủ tục kiểm soát cụ thể của mỗi
chu trình.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Sau khi đánh giá về các thủ tục kiểm soát nội bộ, chúng ta có thể đưa ra
mức đánh giá về rủi ro kiểm soát là cao hay thấp đối với chu trình này.
Lập kế hoạch kiểm toán toàn diện và soạn thảo chương trình kiểm
toán
Đây là bước cuối cùng trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, với những
thông tin đã thu thập được kiểm toán viên sẽ xây dựng kế hoạch kiểm toán. theo
chuẩn mực số 300, những vấn đề chủ yếu kiểm toán viên phải trình bày trong kế
hoạch kiểm toán bao gồm: hiểu biết về hoạt động của đơn vị được kiểm toán,
hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, rủi ro và mức trọng
yếu, nội dung, lịch trình và phạm vi thực hiện các thủ tục kiểm toán, phối hợp,
chỉ đạo, giám sát và kiểm tra các vấn đề khác.
Chương trình kiểm toán là sự chi tiết hoá của kế hoạch kiểm toán, việc
thiết kế chương trình kiểm toán bao gồm việc thiết kế các thử nghiệm tuân thủ
và các thử nghiệm cơ bản nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán trong quá trình
kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán.
b. Thực hiện kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán.
Thực hiên kiểm toán là việc cụ thể hóa chương trình kiểm toán đã thiết kế
trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán , đây là quá trình sử dụng các phương
pháp kỹ thuật kiểm toán thích ứng với đối tượng kiểm toán để thu thập bằng
chứng kiểm toán một cách đầy đủ và tin cậy nhằm đưa ra những ý kiến xác thực
về mức độ trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính.
Việc thu thập bằng chứng kiểm toán được tiến hành thông qua việc thực
hiện các thủ tục kiểm toán. Các thủ tục kiểm toán bao gồm 3 loại: các thủ tục
kiểm soát, các thủ tục kiểm tra chi tiết, các thủ rục phân tích. Thưòng thì nếu
kiểm toán viên tin tưởng vào hệ thống kiểm soát nội bộ thì bằng chứng kiểm
toán sẽ được thu thập chủ yếu thông qua các thủ tục kiểm soát còn ngược lại
việc thu thập bằng chứng kiểm toán sẽ chủ yếu thông qua các thủ tục kiểm tra
chi tiết.
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Thực hiện thủ tục kiểm soát đối với chu trình mua hàng và thanh toán
Trong chu trình mua hàng và thanh toán, việc kiểm tra hệ thống kiểm soát
nội bộ được chia thành hai phần hành cơ bản là thực hiện các thủ tục kiểm soát
đối với các nghiệp vụ mua hàng và thực hiện các thủ tục kiểm soát đối với các
nghiệp vụ thanh toán.
Bảy mục tiêu kiểm soát nội bộ được sử dụng như là một khung tham
chiếu của việc thiết kế các thủ tục kiểm soát các nghiệp vụ mua vào và các
nghiệp vụ thanh toán.
Trình tự thiết kế các thủ tục kiểm soát của
chu trình mua hàng và thanh toán
Thiết kế các thủ tục
Các thủ tục kiểm toán
Quy mô mẫu
Các khoản mục được
chọn
Thời gian
Đối với các nghiệp vụ mua hàng
Các rủi ro cơ bản liên quan đến nghiệp vụ mua hàng là các khoản mua
hàng có thể bị ghi tăng một cách giả tạo để hình thanh các khoản thanh toán phụ
trội hoặc các chính sách của công ty khách hàng muốn điều hoà lợi nhuận giữa
Nhóm SVTH:
Tìm hiểu cơ cấu KSNB
của chu trình
Đánh giá mức độ rủi ro
kiểm soát của chu trình
Đánh giá quan hệ chi
phí- lợi ích của các thủ
tục kiểm soát
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
các năm tài chính, từ đó vào sổ các chi phí mua hàng không đúng kì kế toán. Sau
đây là các thủ tục kiểm soát đối với nghiệp vụ mua vào căn cứ theo các mục tiêu
kiểm toán:
Các nghiệp vụ mua hàng ghi sổ là của hàng hoá và dịch vụ nhận được
(tính có căn cứ hợp lý).
Các quá trình kiểm soát nội bộ chủ yếu:
- Sự có thật của các chứng từ.
- Sự phê chuẩn chứng từ ở đúng cấp.
- Huỷ bỏ các chứng từ tránh việc sử dụng lại.
- Kiểm soát nội bộ các chứng từ.
Các trắc nghiệm đạt yêu cầu tương ứng:
- Kiểm tra sự hiện diện của các chứng từ.
- Kiểm tra dấu hiệu của sự phê chuẩn.
- Kiểm tra dấu hiệu huỷ bỏ.
- Kiểm tra dấu hiệu của kiểm soát nội bộ.
Các trắc nghiệm độ vững trãi tương ứng:
- Xem xét lai sổ nhật kí mua hàng, sổ cái tổng hợp và sổ chi tiết các khoản
phải trả.
- Kiểm tra tính hợp lý và tính xác thực của các chứng từ chứng minh.
- Đối chiếu hàng tồn kho mua vào với các sổ sách.
- Kiểm tra các tài sản mua vào.
Các nghiệp vụ mua hàng được phê chuẩn (sự phê chuẩn).
Các quá trình kiểm soát nội bộ chủ yếu:
- Sự phê chuẩn các nghiệp vụ hàng ở đúng cấp có thẩm quyền.
Các trắc nghiệm đạt yêu cầu tương ứng:
- Kiểm tra dấu hiệu của sự phê chuẩn.
Các trắc nghiệm độ vững trãi tương ứng:
- Kiểm tra tính đúng đắn của các chứng từ chứng minh.
Các nghiệp vụ hiện có đều được ghi vào sổ (tính đầy đủ).
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Các quá trình kiểm soát nội bộ chủ yếu:
- Các đơn đặt mua và các báo cáo nhận hàng đều được đánh số và theo
dõi.
Các trắc nghiệm đạt yêu cầu tương ứng:
- Theo dõi một chuỗi các đơn đặt mua, các báo cáo nhận hàng.
Các trắc nghiệm độ vững trãi tương ứng:
- Đối chiếu một hồ sơ báo cáo nhận hàng với sổ nhật ký mua hàng.
Các nghiệp vụ mua hàng được ghi sổ đều được đánh giá đúng (tính giá)
Các quá trình kiểm soát nội bộ chủ yếu:
- Kiểm tra nội bộ các quá trình tính toán và các số tiền.
Các trắc nghiệm đạt yêu cầu tương ứng:
- Kiểm tra dấu hiệu của việc kiểm tra nội bộ.
Các trắc nghiệm độ vững trãi tương ứng:
- So sánh các nghiệp vụ ghi trên sổ nhật kí mua hàng với các chứng từ có
liên quan và thực hiện tính toán lại các thông tin tài chính trên hoá đơn người
bán.
Các nghiệp vụ mua hàng được phân loại đúng đắn (sự phân loại).
Các quá trình kiểm soát nội bộ chủ yếu:
- Doanh nghiệp có sơ đồ tài khoản đầy đủ.
- Kiểm tra đầy đủ quá trình phân loại.
Các trắc nghiệm đạt yêu cầu tương ứng:
- Kiểm tra các thủ tục vào sổ và sơ đồ TK.
- Kiểm tra dấu hiệu của việc kiểm tra nội bộ.
Các trắc nghiệm độ vững trãi tương ứng:
- So sánh việc phân loại nghiệp vụ mua hàng với sơ đồ TK tham chiếu
theo hóa đơn của từng người bán.
Các nghiệp vụ mua hàng được ghi sổ đúng lúc (tính đúng thời).
Các quá trình kiểm soát nội bộ chủ yếu:
Nhóm SVTH:
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
- Doanh nghiệp có các thủ tục qui định việc ghi sổ nghiệp vụ càng sớm
càng tôt sau khi nhận hàng hoá, dịch vụ.
- Quá trình kiểm tra nội bộ.
Các trắc nghiệm đạt yêu cầu tương ứng:
- Kiểm tra các thủ tục vào sổ thủ công và quan sat liệu có hoá đơn nào của
người bán chưa được ghi sổ hay không.
- Kiểm tra dấu hiệu của KSNB.
Các trắc nghiệm độ vững trãi tương ứng:
- So sánh ngày của báo cáo nhận hàng và hoá đơn của người bán với ngày
trên sổ nhật kí mua hàng.
Các nghiệp vụ mua hàng được ghi sổ đúng đắn trên sổ hạch toán chi tiết
các khoản phải trả và sổ kho. Chúng được tổng hợp đúng đắn (chuyển sổ và
tổng hợp).
Các quá trình kiểm soát nội bộ chủ yếu:
- Quá trình kiểm tra nội bộ.
Các trắc nghiệm đạt yêu cầu tương ứng:
- Kiểm tra dấu hiệu của việc kiểm tra nội bộ.
Các trắc nghiệm độ vững trãi tương ứng:
- Khảo sát tính chính xác về mặt giấy tờ bằng cách cộng tổng số trong sổ
nhật kí và theo dõi quá trình chuyển sổ vào sổ hạch toán chi tiết các khoản phải
trả và sổ kho
Đối với các nghiệp vụ thanh toán
Một khi kiểm toán viên đã quyết định các thủ tục kiểm soát đối với các
nghiệp vụ mua vào thì các nghiệp vụ chi tiền mặt cũng được thực hiện đồng
thời. Dưới đây là các thủ tục kiểm soát đối với các nghiệp vụ thanh toán căn cứ
theo các mục tiêu kiểm toán:
Các khoản thanh toán ghi sổ là của hàng hoá dịch vụ thực tế nhận được
(tính có căn cứ hợp lý).
Các quá trình kiểm soát nội bộ chủ yếu:
Nhóm SVTH: