Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

thơ lẩu của người tày ở hà vị, bạch thông, bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 153 trang )



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




LÊ THƢƠNG HUYỀN




THƠ LẨU CỦA NGƢỜI TÀY Ở HÀ VỊ,
BẠCH THÔNG, BẮC KẠN





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN








Thái Nguyên - Năm 2011





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



LÊ THƢƠNG HUYỀN


THƠ LẨU CỦA NGƢỜI TÀY Ở HÀ VỊ,
BẠCH THÔNG, BẮC KẠN



CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN HẰNG PHƢƠNG




Thái Nguyên - Năm 2011





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, khoa Sau đại học, Ban Chủ nhiệm, quý Thầy, Cô giáo khoa
Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và quý Thầy, Cô giáo trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Tác giả xin chân thành cảm ơn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đoàn
Nghệ thuật dân tộc tỉnh Bắc Kạn; Đảng ủy - UBND, phòng Văn hóa Thông
tin xã Hà Vị huyện Bạch Thông; phòng Văn hóa Thông tin huyện Pác Nặm
tỉnh Bắc Kạn và cá nhân các ông, bà Hà Thiêm Thưởng, Nguyễn Văn Cư, Ma
Thị Bường, Hoàng Văn Lỷ, Cà Huy Hẩn cùng gia đình đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn:
PGS.TS. Nguyễn Hằng Phương, cô đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả cảm ơn tập thể lớp cao học K17 chuyên ngành Văn học Việt
Nam, trường ĐHSP Thái Nguyên đã đóng góp ý kiến trong quá trình học tập
và thực hiện luận văn.

Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và
đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả để hoàn thành luận văn này.

Tác giả


Lê Thƣơng Huyền


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung thực
và chƣa từng đƣợc ai công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả



Lê Thƣơng Huyền




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
MỤC LỤC

Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục i
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 11
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC TÌM HIỂU
THƠ LẨU Ở HÀ VỊ, BẠCH THÔNG, BẮC KẠN 11
1.1. Tổng quan về tộc ngƣời Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn 11
1.1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày ở Bắc Kạn 11
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm lịch sử, xã hội và đời sống văn hóa
của ngƣời Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn 12
1.2. Khái quát về Thơ lẩu và nghi lễ đám cƣới của ngƣời Tày ở Hà Vị,
Bạch Thông, Bắc Kạn 18
1.2.1. Khái quát về Thơ lẩu 18
1.2.2. Nghi lễ đám cƣới của ngƣời Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn. 23
1.3. Diễn xƣớng Thơ lẩu của ngƣời Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn 29
1.3.1. Môi trƣờng diễn xƣớng 30
1.3.2. Nhân vật diễn xƣớng 31
1.3.3. Trang phục diễn xƣớng 32
1.3.4. Hình thức diễn xƣớng 33
Chƣơng 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG THƠ LẨU CỦA
NGƢỜI TÀY Ở HÀ VỊ, BẠCH THÔNG, BẮC KẠN 38
2.1. Thơ lẩu thay cho lời chào mời xã giao vừa lịch sự vừa trân trọng. 38
2.2. Thơ lẩu thể hiện những nguyên tắc ứng xử tinh tế, khéo léo đúng đạo
lí, lối sống trọng tình nghĩa 45


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ii
2.2.1. Nguyên tắc ứng xử trong quan hệ với cha mẹ 45
2.2.2. Nguyên tắc ứng xử trong quan hệ vợ chồng 48
2.2.3. Nguyên tắc ứng xử trong quan hệ với tiên tổ, họ hàng 50
2.2.4. Nguyên tắc ứng xử trong các mối quan hệ khác 52
2.3. Thơ lẩu thể hiện đời sống tinh thần phong phú 54
2.3.1. Một kho tàng văn học dân gian phong phú 54
2.3.2. Uớc mơ, khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp 57
2.4. Thơ lẩu phản ánh các vấn đề lịch sử, xã hội 62
2.4.1. Phán ánh chế độ hôn nhân của ngƣời Tày 62
2.4.2. Phản ánh những tục lệ, tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Tày 64
Chƣơng 3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG . 69
THƠ LẨU CỦA NGƢỜI TÀY Ở HÀ VỊ, BẠCH THÔNG, BẮC KẠN 69
3.1. Nhan đề, thể thơ 69
3.1.1. Nhan đề 69
3.1.2. Thể thơ 70
3.2. Ngôn ngữ và biểu tƣợng 75
3.2.1. Ngôn ngữ 75
3.2.2. Các biểu tƣợng 80
3.3. Các biện pháp tu từ 85
3.3.1. So sánh 85
3.3.2. Ẩn dụ 88
3.3.3. Liệt kê 91
3.4. Thời gian và không gian nghệ thuật 94
3.4.1. Thời gian nghệ thuật 94
3.4.2. Không gian nghệ thuật 97
PHẦN KẾT LUẬN 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
PHỤ LỤC 115



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong di sản văn hóa các dân tộc Việt Nam, kho tàng văn hóa của các
dân tộc thiểu số rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc đều có những nét
văn hóa, phong tục tập quán riêng tạo nên sự khác biệt, đặc trƣng của mỗi
vùng miền.
Cùng nằm trong vùng văn hóa Việt Bắc nên nói đến Bắc Kạn, ngƣời ta
nghĩ ngay đến một miền đất giàu bản sắc văn hóa các dân tộc. Vốn văn học
nghệ thuật dân gian của các dân tộc, đặc biệt là dân tộc Tày ở nơi đây rất
phong phú, đa dạng và còn đƣợc lƣu truyền qua chữ viết, các hoạt động thờ
cùng, nghi lễ, hoạt động ca hát v.v
Một trong những hoạt động văn hóa dân gian hết sức ấn tƣợng, độc đáo
mang bản sắc riêng của họ đó là hát đám cƣới. Hát đám cƣới, ngƣời Tày
thƣờng gọi là Thơ lẩu (Thơ đám cƣới) hoặc hát Quan làng, xƣớng Quan
làng Đây là một loại dân ca nghi lễ của đám cƣới, đƣợc bắt rễ và tồn tại lâu
dài trong đời sống tinh thần của dân tộc Tày. Thơ lẩu là lời hát đối đáp giữa
hai bên: đại diên nhà trai (Quan làng) và đại diện nhà gái (Pả mẻ) trong lễ
cƣới của dân tộc Tày ở Bắc Kạn. Cuộc hát đƣợc bắt đầu từ lúc đoàn đại diện
nhà trai đến bản để đón dâu với khúc hát “pjết lền khên tàng” cho đến khi kết
thúc nghi lễ đám cƣới, tiễn chân Pả mẻ trở lại nhà bằng khúc hát “Slống Pả
mẻ”. Các công đoạn của toàn cuộc hát ấy đƣợc nâng lên thành văn nghệ,
thành lời ca, tạo nên một hình thức sinh hoạt văn hóa đặc sắc, mang nhiều giá
trị thẩm mĩ và giá trị nhân văn sâu sắc của dân tộc Tày.
Thực tế cho thấy, Thơ lẩu của tộc ngƣời Tày ở Việt Bắc, trong đó có Bắc
Kạn đã đƣợc một số nhà nghiên cứu dân gian sƣu tầm và biên soạn thành

những công trình khoa học. Tuy nhiên, cho tới nay chúng tôi thấy, chƣa có
một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách chuyên biệt, hệ thống về nội


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
dung và nghệ thuật của loại dân ca này ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn - vùng
đất mà theo chúng tôi, đƣợc xem nhƣ nguồn cội của tộc ngƣời Tày Bắc Kạn,
từ đây những giá trị văn hóa, văn học nghệ thuật phát lộ và lan tỏa, tạo nên
bản sắc riêng của cộng đồng ngƣời Tày tỉnh Bắc Kạn.
Nghiên cứu Thơ lẩu trong đời sống văn hóa dân gian của ngƣời Tày ở
Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn từ góc độ văn học dân gian là một việc làm có ý
nghĩa không chỉ trong lĩnh vực nghiên cứu mà còn có ý nghĩa thiết thực hơn
đối với một giáo viên dạy văn, đƣợc sinh thành từ chính miền đất văn hóa
này, góp phần khẳng định, giữ gìn và phát huy những nét đẹp truyền thống
của dân tộc Tày nơi đây nói riêng và các dân tộc thiểu số nói chung trên con
đƣờng tìm về với bản sắc dân tộc. Đây cũng chính là sự trăn trở của nhiều
ngƣời có tâm huyết với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, là tinh thần của
Nghị quyết TW 5 khóa VIII về phát triển nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc”.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn Thơ lẩu của người Tày ở Hà Vị,
Bạch Thông, Bắc Kạn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu dân ca Tày - Nùng
Dân tộc Tày với những nét văn hóa độc đáo của mình đã có nhiều đóng
góp quan trọng đối với kho tàng văn hóa, văn học dân gian, tạo nên những
gam màu tuyệt đẹp trong bức tranh văn hóa đa sắc màu của các dân tộc Việt
Nam. Một trong những đóng góp chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền
thống đó là các loại hình dân ca (như: hát ru, hát đồng dao, hát lượn, hát

then, hát pựt, hát thơ lẩu,v.v ). Cũng nhƣ dân ca các dân tộc khác, dân ca Tày
là tiếng nói tâm hồn, trí tuệ, thể hiện những tâm tƣ, tình cảm những khát vọng
tốt đẹp của con ngƣời. Bởi thế cho nên đã từ lâu, nó đã trở thành hơi thở, là
món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của tộc ngƣời Tày.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Thơ lẩu đƣợc lƣu truyền trong các gia đình và cộng đồng làng xã từ đời này
sang đời khác. Song do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các loại dân ca Tày
đã và đang dần bị mai một. Sƣu tầm, nghiên cứu, giới thiệu về các loại dân ca
của dân tộc Tày (trong đó có Thơ lẩu), luôn là việc làm có ý nghĩa sâu sắc về
nhiều phƣơng diện (không chỉ là văn hóa phong tục tập quán, lịch sử, xã hội
mà còn có ý nghĩa văn học miền núi).
Trong tƣ liệu mà chúng tôi bao quát, theo dòng thời gian một số công
trình sƣu tầm, khảo cứu có liên quan đến đề tài xuất hiện:
Công tác sƣu tầm, nghiên cứu, giới thiệu về văn hóa dân gian Tày -
Nùng đƣợc nhen nhóm từ sau cách mạng tháng Tám, đặc biệt là từ sau Hội
nghị bàn về công tác sƣu tầm văn hóa dân gian miền Bắc tháng 2 năm 1964.
Và chỉ thực sự khởi sắc từ thập niên 70 của thể kỉ XX, đƣợc đánh dấu bởi bài
viết Dân ca đám cưới Tày - Nùng của nhà nghiên cứu Vi Quốc Bảo đăng
trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 3 năm 1971.[3]
Ngay sau đó, năm 1973 trong cuốn Dân ca đám cưới Tày - Nùng, Nông
Minh Châu đã dày công sƣu tầm, biên soạn và dịch hơn 100 bài hát đám cƣới
Tày - Nùng ra tiếng Việt. Vi Quốc Bảo khi viết lời giới thiệu cho cuốn sách
đã có nhận xét, đánh giá, phát hiện rất xác đáng về cuốn sách: “Bên cạnh giá
trị sưu tầm, tập dân ca còn có những giá trị khác đáng trân trọng gấp bội. Đó
là giá trị về nội dung tư tưởng, về sử học, dân tộc học và nhất là giá trị nghệ
thuật thể hiện”.[5] Cuốn sách thực sự trở thành tƣ liệu quý giá cho những ai

muốn tìm hiểu về dân ca đám cƣới Tày - Nùng.
Hƣớng ứng mạnh mẽ tinh thần của Đảng Lao động Việt Nam, “Chúng ta
hãy cố gắng đi sâu trong việc khai thác và phát huy những tinh hoa của văn
nghệ dân tộc”, các cơ quan văn hóa Khu tự trị Việt Bắc đã sƣu tầm, ghi chép
đƣợc một số vốn văn học nghệ thuật của một số dân tộc trong khu và sớm ra
mắt cuốn: Bước đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc, vào năm 1974. Cuốn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
sách tập hợp nhiều bài viết của tác giả nghiên cứu, trong đó đã có những bài
bƣớc đầu nghiên cứu về hát đám cƣới. Tiêu biểu nhƣ Vi Quốc Bảo với
“Những bài hát đám cưới - những bài thơ trữ tình”, ông đã làm sáng tỏ chất
trữ tình trong những bài hát đám cưới:“ đôi bên nam nữ giãi bày quan điểm,
tư tưởng, thái độ của mình đối với các thủ tục, nghi lễ buổi đón dâu. Ở rất
nhiều bà, đôi bên nam nữ còn giãi bày tâm trạng, tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng, ước mở của mình đối với một vấn đề hệ trọng nhất của tuổi trẻ ở bất cứ
thời đại nào: tình yêu, hôn nhân, gia đình, hạnh phúc.” [32, tr.59-60]
Nhƣ vậy, dân ca đám cƣới không chỉ là những bài ca nghi lễ khô cứng
mà còn bao hàm cả thành phần giao duyên. Cũng khám phá từ góc độ nội
dung, tác giả Lƣờng Văn Thắng với bài “Tìm hiểu giá trị nội dung của một số
bài thơ Quan lang” đã đƣa ra nhận xét: “Thơ Quan lang của dân tộc Tày
chẳng qua cũng là một phương thức phản ánh một quan niệm sống, một sự
biết ơn, một sự ngợi ca, một sự khiêm tốn đáng quý phản ánh một truyền
thống đạo đức của dân tộc một cách tế nhị, duyên dáng mà kín đáo nhưng
đậm đà”.[32, tr.83] Tác giả Vi Hồng với chùm bài:“Vài ý nghĩ nhỏ bước đầu
về thơ ca dân tộc Tày - Nùng”,“Thử tìm hiểu về nội dung của Lượn”, tiếp đó,
ông còn cho đăng bài “Vài suy nghĩ về hát Quan Làng, phong slư, Lượn” trên
Tạp chí dân tộc học số 3 - 1976 để giới thiệu những nội dung tổ chức, hình

thức lề lối cơ bản, khái quát về nguồn gốc của loại dân ca này.
Có thể thấy, trong gần 10 năm (từ 1970 đến 1980), tuy số lƣợng sách và
các bài báo giới thiệu, nghiên cứu về Thơ lẩu chƣa nhiều, nhƣng chừng đó đã
đủ dữ liệu để chúng ta dựng lên khuôn hình của loại dân ca nghi lễ độc đáo
này. Từ đây, mở ra con đƣờng rộng lớn để ta thỏa sức khám phá những giá trị
văn hóa, văn nghệ dân tộc ở nhiều góc độ, gắn với từng địa phƣơng cụ thể.
Năm 1996, nhóm tác giả Triệu Đức Ngự và Hoàng Hóa với sự động viên
của Nông Viết Toại đã phối hợp tổ chức tiến hành điền dã, sƣu tầm, biên soạn
và dịch hoàn chỉnh tập Thơ lẩu (thơ đám cƣới). Tập Thơ lẩu gồm 100 bài


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
(đúng hơn là 100 khúc hát), đƣợc sƣu tầm ở vùng phía Bắc huyện Bạch
Thông (Bắc Kạn) đƣợc sắp xếp theo trình tự của đám cƣới (đại lễ), đoàn đại
diện nhà trai sang nhà gái đón dâu. [29]
Tiếp đó là công trình nghiên cứu của Nông Văn Nhủng, Tiếng ca người
Bắc Kạn, ra đời nhân dịp kỉ niệm 100 năm thành lập tỉnh Bắc Kạn (1900 -
2000). Trong cuốn sách này, tác giả đã đi sâu giới thiệu các loại hình văn
nghệ dân gian đặc sắc của địa phƣơng, những ca khúc tiêu biểu của các dân
tộc tỉnh nhà. Khi giới thiệu về phần Thơ lẩu, tác giả đã cung cấp một cái nhìn
bao quát từ thơ ca đến kết cấu âm nhạc của hát Thơ lẩu trong đám cƣới của
dân tộc Tày - Nùng tỉnh Bắc Kạn.[36]
Trong cuốn Văn hóa dân gian Tày, xuất bản năm 2002, nhóm tác giả do
T.S Hoàng Ngọc La (chủ biên) cũng nhắc tới hát đám cƣới, chủ yếu theo
hƣớng tìm hiểu nguồn gốc và đặc trƣng văn hóa Tày ở Việt Nam.
Phần Lễ cƣới, mục “Những lễ nghi phong tục trong chu kì đời ngƣời”
trong cuốn Bản sắc và văn hóa truyền thống các dân tộc tỉnh Bắc Kạn do
Hà Văn Viễn sƣu tầm - biên soạn năm 2004, đã miêu tả khá chi tiết về các

nghi lễ trong đám cƣới. Tuy nhiên, tác giả cũng dừng lại ở việc miêu tả tiến
trình nghi lễ đám cƣới của tộc ngƣời Tày gắn với việc hát của Quan làng và
Pả mẻ. [34]
Từ góc độ văn học dân gian, Thơ lẩu đã sớm đƣợc quan tâm nghiên cứu,
giới thiệu. Trong cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, do Đinh Gia
Khánh (chủ biên) năm 2006, các nhà nghiên cứu đã xếp Thơ lẩu vào nhóm
các bài ca hôn lễ, thuộc tiểu loại dân ca nghi lễ - phong tục và khẳng đinh:
“trong loại hình dân ca đám cưới của các dân tộc, thì hát quan làng của
người Tày hoặc hát thơ lẩu của người Nùng là loại dân ca đám cưới có quy
mô nhất”.[18, tr. 672] Tác phẩm đã giới thiệu trình tự, nội dung cơ bản trong
hát Quan làng của ngƣời Tày, có một số câu làm dẫn chứng, đặc biệt đã giới


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
thiệu trong sự đối sánh với hình thức hát đám cƣới của các dân tộc khác để
làm nổi bật hát đám cƣới của ngƣời Tày. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những
điểm sơ lƣợc nhất, chƣa chỉ ra nghệ thuật và diễn xƣớng - mà theo Vi Quốc
Bảo, nghệ thuật thể hiện có nhiều nét độc đáo, đáng để chúng ta nghiên cứu,
học tập - của loại dân ca này.
Trong những năm gần đây, việc sƣu tầm, nghiên cứu Thơ lẩu từ góc độ
văn học dân gian ở những địa phƣơng cụ thể đã đƣợc quan tâm nghiên cứu và
có những đóng góp nhất định. Tiêu biểu nhƣ: Ngọc Hải Anh với công trình
Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2009 về Hát quan làng ở Phương Viên,
Chợ Đồn, Bắc Kạn [2]; Đàm Thùy Linh, với Luận văn thạc sĩ, Hát quan lang
của người Tày ở Thạch An, Cao Bằng. [22]
Nhƣ trên chúng tôi đã giới thiệu, dân ca nói chung, dân ca đám cƣới Tày
– Nùng nói riêng, từ trƣớc đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, sƣu
tầm từ nhiều góc độ khác nhau (văn hóa dân gian, văn học dân gian, âm nhạc

dân gian, dân tộc học…). Tuy nhiên, khi đề cập tới các lĩnh vực trên, thì đa số
các nhà nghiên cứu đều quy gộp hai tộc ngƣời Tày, Nùng thành một và giới
thiệu khái quát, chung chung, chƣa có công trình nào chuyên sâu tìm hiểu về
giá trị nội dung và nghệ thuật Thơ lẩu của ngƣời Tày ở vùng Bạch Thông,
Bắc Kạn. Do vậy, chúng tôi đã tìm đƣợc khoảng trống cần thiết để thực hiện
đề tài. Những công trình nghiên cứu trên là cơ sở gợi dẫn rất bổ ích và quý
báu cho chúng tôi tiếp cận và triển khai đề tài.
2.2. Những công trình nghiên cứu Thơ lẩu của người Tày ở Hà Vị, Bạch
Thông, Bắc Kạn.
Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn là một trong những xã có rất đông ngƣời
Tày - “Cần Tày cốc đin mác nhả” nghĩa là “Ngƣời Tày gốc đất hạt cỏ” từ thời
nguyên thủy sinh sống (chiếm đến 95% dân số của toàn xã). Là một trong
những địa phƣơng của tỉnh còn lƣu giữ đƣợc nhiều vốn văn hóa văn nghệ dân
gian trong đó có Thơ lẩu.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Đối với những con ngƣời nơi đây, Thơ lẩu thực sự là một hình thức sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ chứa đựng rất nhiều ý nghĩa, thể hiện đƣợc nét văn
hóa độc đáo, đặc sắc của dân tộc mình. Những khúc hát Thơ lẩu đƣợc lƣu
truyền từ đời này sang đời khác, từ ngƣời này sang ngƣời khác và không quá
khó khăn khi hỏi những ngƣời hát giỏi - thợ hát, còn nhớ, còn say Thơ lẩu
trong xã. Đáng quý là những ngƣời nghệ sĩ dân gian ở Hà Vị ngoài hát hay,
họ còn có công cóp nhặt, sƣu tầm, tìm hiểu về Thơ lẩu ở địa phƣơng mình.
Tiêu biểu nhƣ: Ông Hà Thiêm Thƣởng, Ông Nguyễn Văn Cƣ, Bà Ma Thị
Bƣờng Khi chúng tôi đến sƣu tầm, những nghệ nhân đã cung cấp những tƣ
liệu quý giá về nghi lễ đám cƣới của ngƣời Tày, giá trị nội dung và ý nghĩa
của những bài Thơ lẩu. Chỉ tiếc rằng, những ngƣời thợ hát ấy đã cao tuổi, Thơ

lẩu vì thế mà cũng “dần theo nếp nhăn trên trán của những nghệ nhân cao
tuổi mà lùi sâu vào dĩ vãng” [36, tr.6]. Điều đó cho thấy, nguy cơ mai một
của hình thức sinh hoạt độc đáo này.
Tuy nhiên, do nhiều lí do khác nhau mà cho đến nay, việc sƣu tầm,
nghiên cứu và giới thiệu và xuất bản Thơ lẩu ở Hà Vị chƣa đƣợc chú ý. Hơn
lúc nào hết, việc sƣu tầm, nghiên cứu Thơ lẩu (từ góc độ văn học dân gian)
của ngƣời Tày nơi đây trở nên hết sức cần thiết, góp phần bảo tồn, gìn giữ và
phát huy nền văn học nghệ thuật vô cùng quý giá của cả dân tộc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khám phá những giá trị sâu sắc về nội dung ý nghĩa và sáng tạo nghệ
thuật chứa đựng trong những khúc hát Thơ lẩu, tìm ra đƣợc nét độc đáo, mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc Tày.
Có một cái nhìn tổng thể, toàn diện và chân thực nhất về nghi lễ đám
cƣới cổ truyền của ngƣời Tày ở một địa phƣơng cụ thể.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Góp phần bảo lƣu, gìn giữ một hình thức sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật
dân gian tốt đẹp của dân tộc Tày trong đời sống dân gian.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khảo sát, thống kê, phân tích lời Thơ lẩu và một số vấn đề có liên quan
đến giá trị nội dung, nghệ thuật đặc trƣng của nó.
Trong điều kiện có thể, chúng tôi sẽ sƣu tầm, tìm hiểu thêm lời hát Thơ
lẩu và một số loại hình văn hóa nghệ thuật, tập tục, tín ngƣỡng có liên quan
đến đề tài đang lƣu truyền trong đời sống dân gian.
4. Đối tƣơng phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là những bài Thơ lẩu đƣợc
sƣu tầm ở Hà Vị và một số vùng ở Bạch Thông, Bắc Kạn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi tư liệu nghiên cứu, khảo sát:
Văn bản Thơ lẩu đã đƣợc nhóm tác giả Triệu Đức Ngự, Hoàng Hóa sƣu
tầm và biên soạn và dịch hoàn chỉnh, xuất bản năm 1996;
Văn bản Thơ lẩu do chính tác giả sƣu tầm qua các nghệ nhân ở Hà Vị, Bạch
Thông và một số địa phƣơng lân cận trong tỉnh Bắc Kạn (Pác Nặm, Chợ Đồn).
Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Trong điều kiện và khuôn khổ cho phép, chúng tôi đi sâu tìm hiểu những
giá trị tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật trong lời hát Thơ lẩu ở Hà Vị, Bạch
Thông, Bắc Kạn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên bình diện phƣơng pháp luận là tiếp cận theo quan điểm ngữ văn
học, tức là dựa vào thành tố ngôn từ, cụ thể là lời Thơ lẩu để phân tích. Tuy
nhiên, đây là một loại dân ca nghi lễ nên không thể tách khỏi đời sống văn
hóa của dân tộc Tày. Do vậy, tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo quan điểm văn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
hóa học là cần thiết, song cần phải nghiên cứu theo quan điểm tiếp cận liên
ngành, xem xét đối tƣợng từ nhiều góc độ, ngành khoa học khác nhau.
Trên bình diện phƣơng pháp cụ thể, chúng tôi sử dụng kết hợp các
phƣơng pháp sau:
Điền dã văn học: chúng tôi sử dụng để sƣu tầm Thơ lẩu, tìm hiểu tình
hình thực tế của hát Thơ lẩu ở Hà Vị và một số địa phƣơng trong tỉnh.
Khảo sát, thống kê: đây là phƣơng pháp chúng tôi sử dụng để có đƣợc số
liệu chính xác về các bài hát Thơ lẩu của ngƣời Tày ở Hà Vị, tạo cơ sở cho

những nghiên cứu tiếp theo, đƣa ra những con số thống kê về một số đặc điểm
nghệ thuật, tần số xuất hiện của những hình ảnh biểu tƣợng và khả năng biểu
đạt của chúng.
Phân tích tổng hợp: từ kết quả khảo sát, thống kê, chúng tôi tiến hành
phân tích và đƣa ra những nhận xét, đánh giá về giá trị nội dung cũng nhƣ
những yếu tố nghệ thuật của Thơ lẩu ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn.
So sánh đối chiếu: chúng tôi sử dụng phƣơng pháp này để làm nổi bật
nét đặc sắc của Thơ lẩu, đồng thời, tìm ra những điểm tƣơng đồng, khác biệt –
màu sắc địa phƣơng của Thơ lẩu ở Hà Vị so với một số địa phƣơng khác
trong tỉnh (Pác Nặm, Chợ Đồn - Bắc Kạn).
6. Những đóng góp của luận văn
Là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về những giá trị
cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong lời hát Thơ lẩu của ngƣời Tày ở Hà
Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn.
Trong quá trình điền dã, kháo sát, nghiên cứu, tác giả luận văn đã thu
thập đƣợc một số lƣợng đáng kể những bài Thơ lẩu còn đƣợc lƣu truyền trong
đời sống dân gian ở Hà Vị, Bạch Thông và một số địa phƣơng lân cận (Pác
Nặm, Chợ Đồn) của tỉnh nhà.
Khảo sát thực tế trên là cơ sở khoa học để tác giả luận văn bƣớc đầu đề
xuất hƣớng bảo tồn và phát huy giữ gìn nét đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc Tày
nói chung trong đó có dân tộc Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
7. Bố cục của luận văn
Gồm phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội
dung của luận văn đƣợc trình bày trong ba chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tế của việc tìm hiểu Thơ lẩu của ngƣời

Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn.
Chương 2: Những nội dung cơ bản trong Thơ lẩu của ngƣời Tày ở Hà
Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn.
Chương 3: Những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu trong Thơ lẩu của ngƣời
Tày Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11

NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC
TÌM HIỂU THƠ LẨU Ở HÀ VỊ, BẠCH THÔNG, BẮC KẠN

1.1. Tổng quan về tộc ngƣời Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn
1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Bắc Kạn
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa vùng Đông Bắc
(Phía Đông giáp Lạng Sơn, phía Tây giáp Tuyên Quang, phía Nam giáp Thái
Nguyên, phía Bắc giáp Cao Bằng). Là nơi quần tụ của nhiều dân tộc anh em,
trong đó chủ yếu gồm 7 tộc ngƣời cƣ trú: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Mông, Hoa
và Sán Chay. Trong số các dân tộc anh em cùng sinh sống ở Bắc Kạn, thì
ngƣời Tày cƣ trú lâu đời và luôn là dân tộc có số đông nhất, theo tổng điều tra
dân số năm 2009 thì dân số trong toàn tỉnh là 294.660 nghìn ngƣời, trong đó,
dân tộc Tày 159.174 nghìn ngƣời chiếm 54,1%, [27]. Ngƣời Tày nơi đây có
số dân đông nhất, cƣ trú lâu đời và trên địa bàn rộng lớn nhất và cũng là một
cộng đồng có ý thức tộc ngƣời thuần nhất, giữ đƣợc truyền thống đoàn kết,
bình đẳng, tôn trọng các dân tộc khác, giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Ngƣời Tày Bắc Kạn hiện nay gồm ba bộ phận hợp thành trong quá trình

lịch sử: bộ phận bản địa từ thời nguyên thủy. Ngƣời Tày Bắc Kạn gọi bộ phận
này là “Cần Tày cốc đin mác nhả” nghĩa là “người Tày gốc đất hạt cỏ” từ
thời nguyên thủy; bộ phận ngƣời Tày gốc Kinh ở miền xuôi lên. Xuất phát từ
mối quan hệ lâu đời giữa hai miền xuôi ngƣợc, đặc biệt là do sự biến động về
lịch sử - xã hội: chế độ Lƣu quan, các tƣớng lĩnh, quan lại ngƣời Kinh đƣợc
cử lên miền núi cai trị và trấn ải biên thùy, theo đó là binh lính tòng quân, dân
phu phục dịch. Họ ở lại và xen kẽ trong xã hội ngƣời Tày và dần chuyển hóa
thành dân tộc Tày, còn gọi là “Kinh già hóa Thổ”; và suốt chiều dài lịch sử,


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
từ thời kì nhà Mạc thất thế cho đến sau cách mạng tháng Tám, ngƣời Kinh lên
Bắc Kạn ngày một tăng. Trong số này nhiều ngƣời ở lại lâu đời và đã bị Tày
hóa; bộ phận Tày - Nùng từ Quảng Tây (Trung Quốc) đến đất Bắc Kạn lập
nghiệp. Đây là nhóm ngƣời có nguồn gốc từ Quảng Tây (Trung Quốc), dƣới
ách nhà Thanh hà khắc, nhiều ngƣời đã rời bỏ quê hƣơng sang Việt Nam tìm
đất mới sinh cơ lập nghiệp. Họ đã sớm hòa nhập, cố kết vào khối Tày bản địa
một cách tự nhiên với tâm lí xã hội nhƣ chính vùng quê cha đất tổ của mình.
Trong quá trình lịch sử, cùng với ngƣời Tày trên cả nƣớc, ngƣời Tày ở
Bắc Kạn, chẳng những góp phần quan trọng vào sự nghiệp dựng nƣớc và giữ
nƣớc mà còn sớm hình thành một nền văn hóa, làm phong phú thêm những
truyền thống văn hóa của các dân tộc Việt Nam.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm lịch sử, xã hội và đời sống văn hóa
của người Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn
1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Hà Vị là một trong 16 xã của huyện Bạch Thông - một huyện nằm ở trung
tâm tỉnh Bắc Kạn - có vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi cho
giao thông đi lại và phát triển kinh tế xã hội cũng nhƣ giao lƣu văn hóa giữa

các địa phƣơng trong vùng. Nằm trên trục quốc lộ số 3 – nối giữa hai tỉnh Thái
Nguyên và Cao Bằng, Hà Vị cách trung tâm thị xã 6 km về hƣớng Bắc, có tổng
diện tích tự nhiên là 1251,17 ha, với số dân 1.646 ngƣời, gồm 02 dân tộc cùng
sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm tới 95 % dân số trong toàn xã. [57, tr.3]
Địa hình núi cao chiếm phần lớn diện tích của xã, xen kẽ những dãy núi
cao là những cánh đồng rộng lớn, bằng phẳng hết sức thuận lợi cho nông
nghiệp phát triển. Diện tích rừng lớn nhất toàn huyện, đã đem lại lợi thế cho
phát triển nguồn lâm thổ sản và làng nghề. Nằm trong khu vực khí hậu nhiệt
đới gió mùa, Hà Vị cũng phải chịu những đợt gió mùa Đông Bắc giá lạnh, có


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
khi cả rét đậm rét hại ảnh hƣởng đến vật nuôi và cây trồng; hệ thống sông
suối khá dày đổ về sông Cầu, vừa bồi đắp một lƣợng phù sa lớn cho nông
nghiệp, nhƣng về mùa mƣa, thƣờng gây ra lũ quét rất nguy hiểm cho cuộc
sống của con ngƣời.
Điều kiện tự nhiên nói trên, về cơ bản, đã tạo nhiều thuận lợi cho phát
triển kinh tế, xã hội cũng nhƣ tạo nên những đặc trƣng riêng trong sinh hoạt
văn hóa vật chất lẫn tinh thần của đồng bào nơi đây.
1.1.2.2. Đặc điểm lịch sử, xã hội
Cũng nhƣ cộng đồng ngƣời Tày trong tỉnh, ngƣời Tày Hà Vị, Bạch
Thông cũng đƣợc tạo nên từ ba bộ phận chính là: ngƣời bản địa từ thời
nguyên thủy, ngƣời Tày gốc Kinh ở miền xuôi lên và một bộ phận Tày -
Nùng từ Quảng Tây (Trung Quốc) đến đây lập nghiệp. Ba bộ phận hợp thành
một, giữ vai trò chủ chốt là ngƣời Tày bản địa, những chính hai bộ phận còn
lại đã tạo nên sự bổ sung cần thiết để tạo nên bản sắc Tày sâu sắc.
Điểm đáng chú ý là, cùng sinh sống trên mảnh đất này chỉ có 02 dân tộc
đó là dân tộc Kinh và Tày. Dù chiếm ƣu thế nhƣng ngƣời Tày luôn thể hiện

sự tôn trọng, tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa của dân tộc Kinh, sống đoàn
kết, thƣơng yêu, giúp đỡ lẫn nhau vƣợt qua mọi khó khăn thử thách, hƣớng
tới xây dựng bản làng, quê hƣơng, đất nƣớc ngày càng giàu mạnh.
Là một xã có đông ngƣời Tày bản địa sinh sống, ngƣời Tày ở Hà Vị
cũng sống quần tụ thành từng thôn bản ở chân núi, cánh đồng và ven các con
suôi nhỏ. Tên bản thƣờng đƣợc gọi theo tên đồng ruộng nhƣ Nà Ngàm, Nà
Phá, Nà Cà v.v Mỗi bản có tới 30 - 40 nóc nhà trở lên (xã Hà Vị có 09 thôn
bản, hộ gia đình 430 hộ, trong đó có 07 hộ gia đình ngƣời Kinh). Họ sống
theo gia đình với nhiều thế hệ; chế độ hôn nhân một vợ một chồng, gia đình
mang tính phụ hệ. Giống nhƣ dân tộc Kinh, sự phân biệt trƣởng thứ khá rõ
ràng trong từng gia đình, gia tộc ngƣời Tày.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Thành ngữ có câu “nhìn đai, chài ớ” (gái thôi, trai đấy!), có ý phân biệt
trong quan niệm về con trai, con gái. Tuy nhiên, nếu đi sâu tìm hiểu mối quan
hệ gia đình của ngƣời Tày chúng ta không thể phủ nhận sự tiến bộ trong quan
niệm nam – nữ của họ :“ ở đó bao trùm một tinh thần tương thân, tương ái,
bình đẳng, dân chủ nội bộ khá sâu sắc giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ.
Người Tày ( ) trân trọng, yêu quý người đàn bà, người mẹ, người vợ, và con
gái. Vì lẽ họ hiểu sâu xa rằng, người đàn bà đảm nhận vai trò vô cùng quan
trọng trong lao động sản xuất, quản lí kinh tế gia đình, và lớn lao hơn là
trong sinh nở con cái, nuôi dưỡng chúng trưởng thành.” [56, tr.25]
Nhƣ chúng ta đã biết, kinh tế truyền thống của ngƣời Tày trƣớc hết là
nông nghiệp, chủ yếu là trồng lúa nƣớc – họ là ngƣời sáng tạo, bảo lƣu nhiều
truyền thống về cây lúa và cách thức trồng lúa sơ khai. Ngƣời Tày cần cù lao
động, khai phá đất đai, tạo nên những thửa ruộng bậc thang ở các khe suối,
thung lũng. Xu hƣớng mở rộng diện tích ruộng, tạo hệ thống mƣơng, phai

cung cấp đủ nƣớc tƣới tạo cho cánh đồng ngày càng thêm màu mỡ. Ca ngợi
điều đó, dân gian có câu:
Nà mjạc bấu quá Đồng Viên
Tổng phiêng bấu quá Hà Vị
(Ruộng tốt không đâu hơn Đông Viên
Cánh đồng bằng phẳng không đâu hơn Hà Vị)
Bên cạnh đó, ngƣời Tày ở Hà Vị từ lâu đã biết “sống dựa vào thiên
nhiên”, nguồn lâm thổ sản dồi dào cả về thực vật và động vật, đem lại lợi ích
không nhỏ cho con ngƣời. Sau nữa là chăn nuôi và làm nghề thủ công nổi bật
nhƣ: dệt vải, đan lát, cất rƣợu Xã hội phát triển, nền kinh tế của ngƣời Tày
cũng có sự thay đổi. Nhu cầu trao đổi hàng hóa ngày càng cao, các sản phẩm
của ngƣời Tày không chỉ đáp ứng nhu cầu tự thân nữa mà đã có nhu cầu trao
đổi mua bán. Họ vẫn duy trì buổi chợ phiên của xã, đƣợc tổ chức cách nhau 5


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
ngày, thƣờng thu hút đông ngƣời tới chợ. Đồng bào tới đây không chỉ mục
đích kinh tế mà còn mong muốn đƣợc giao lƣu, kết bạn, tạo nên những nét
sinh hoạt văn hóa độc đáo của mình.
1.1.2.3. Đời sống văn hóa
Cũng nhƣ ngƣời Tày ở những địa phƣơng khác, ngƣời Tày ở Hà Vị có
một đời sống văn hóa vật chất lẫn tinh thần hết sức đa dạng và giàu bản sắc.
Về nhà ở, nhà sàn đã trở thành kiểu nhà truyền thống của ngƣời Tày.
Ngày nay, do nhiều lí do khác nhau của đời sống hiện đại, tính kinh tế, tiện
ích v.v nên một số gia đình ở đây cũng đã chuyển sang xây dựng nhà đất,
nhà gạch, nhƣng nhìn chung, nhà sàn truyền thống vẫn đƣợc ƣa chuộng. Nhà
sàn nơi đây đƣợc làm theo “kiểu vì 4 và sáu hàng cột” có trụ ngắn đứng trên
xà. Tùy theo lối ra vào mà ngƣời Tày lựa chọn vị trí đặt cầu thang lên nhà

(thƣờng đặt ở đầu hồi bên trái nhà). Mặt bằng sàn là nơi quan trọng, thể hiện
đậm nét sinh hoạt và tôn ti trật tự trong gia đình. Ngoài kết cấu các gian nhà
chính, còn có hai chái và hiên trƣớc nhà để thoáng, đƣợc giới hạn bằng hàng
rào chấn song. Liền với hiên trƣớc về phía đầu hồi là sàn phơi thóc lúa, quần
áo và những đêm trăng sáng con trẻ ra sàn vui hát, ngắm sao. Dƣới gầm sàn,
trƣớc kia là nơi chăn nuôi và nhốt gia súc, gia cầm. Ngày này, khi đời sống
cũng nhƣ nhận thức tiến bộ hơn, chuồng trại chăn nuôi đã đƣợc đồng bào tách
khỏi khu ở, cùng với đó họ còn xây dựng các công trình phụ mang tính khoa
học hiện đại.
Nhƣ vậy từ bao đời nay, nhà sàn đã gắn bó với đời sống sinh hoạt, nghi
lễ, phong tục tập quán của ngƣời Tày. Điều đó đã đƣợc phản ánh một cách
đầy đủ và rõ nét trong những khúc hát Thơ lẩu, tạo nên một nét văn hóa độc
đáo của con ngƣời nơi đây.
Về trang phục truyền thống, ngƣời Tày chủ yếu mặc quần áo màu chàm
bằng vải bông dệt tay, cắt may đơn giản, không thêu thùa hoa văn. Nam mặc


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
áo năm thân nhƣ nữ nhƣng chỉ dài tới đầu gối hoặc mặc áo cánh, xẻ ngực cài
cúc, quần lá tọa ống rộng dài tới mắt cá chân. Nữ thƣờng cuốn tóc ngang, chít
khăn vuông tạo nên một vòng tròn mỏ quạ nhƣ ngƣời Kinh, mặc áo năm thân,
buộc thắt lƣng, đeo vòng cổ, vòng tay, khuyên tai bằng bạc, đeo chuỗi xà tích
trong những ngày lễ hội, đăc biệt trong lễ cƣới - trang phục của cô dâu. Ngày
nay, dù những bộ trang phục truyền thống đã ít dần đi, nhƣng “sắc áo chàm”
luôn là nét văn hóa độc đáo và là niềm tự hào của ngƣời Tày.
Văn hóa ẩm thực của ngƣời Tày rất phong phú. Trƣớc kia, ở một số nơi,
ngƣời Tày ăn nếp là chính và hầu nhƣ gia đình nào cũng có chõ đồ xôi. Trong
các ngày tết, ngày lễ thƣờng làm nhiều loại bánh trái nhƣ bánh chưng, bánh

giày, bánh khảo, bánh trứng kiến Cách chế biến món ăn cũng khá tinh tế, họ
đặc biệt yêu thích các món hầm, rán, nƣớng, đồ treo gác bếp Đồ uống thông
dụng là nƣớc sôi để nguội, chè do chính họ trồng và sao, còn có rƣợu tự
chƣng cất. Chè và rƣợu là hai thức uống không thể thiếu của tộc ngƣời Tày
trong các ngày tết, lễ, đặc biệt là lễ cƣới. Phải chăng vì thế mà một cách gọi
khác của dân gian “ăn cƣới” là “kin lẩu” (uống rƣợu).
Trong văn hóa ứng xử, đồng bào coi trọng đạo nghĩa. Hầu hết mọi dòng
họ đều có gia phả, thứ bậc theo chi nhánh rõ ràng. Về điểm này có điểm khác
hẳn so với dân tộc Nùng – quan niệm “ai nhìn thấy mặt trời trƣớc thì ngƣời đó
là anh, chị”. Con cái phải hiếu nghĩa với cha mẹ, vợ chồng phải thủy chung
son sắt, anh em phải hòa thuận, đoàn kết, trong đó con trƣởng là trung tâm.
Có câu: “Van bấu quá nựa pết, chếp bấu quá pả nà”.
(Không gì ngon hơn thịt vịt, đau xót không ai hơn chị em).
Tục nhận con nuôi (lục liệng), nhận bạn (toồng) vẫn luôn đƣợc coi trọng.
Hàng xóm, bạn bè, cũng coi nhƣ ngƣời trong gia đình. Hơn nữa, chính tƣ
tƣởng Tam giáo cũng đã có ảnh hƣởng khá rõ nét tới phong cách, lối sống,
khát vọng của ngƣời Tày. Dù ở đâu, thời nào, họ cũng luôn thể hiện là những


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
con ngƣời trọng tình nghĩa, trọng danh dự, lời hứa, sống chân thành, mến
khách thƣơng ngƣời, mong có cuộc sống ấm no, công bằng, bác ái. Nét đẹp
trong văn hóa ứng xử ấy cũng đƣợc phản ánh rõ nét trong những khúc hát Thơ
lẩu của ngƣời Tày ở Hà Vị, Bạch Thông.
Ngƣời Tày rất coi trọng văn hóa tinh thần. Họ tin rằng, tất cả mọi vật kể
cả con ngƣời đều có ma. Có ma lành và ma dữ. Ma lành thì đƣợc thờ phụng
để phù hộ, ma dữ nếu quấy nhiễu thì phải cúng tế, xua ma đuổi tà. Công việc
này không chỉ thực hiện bởi ngƣời trong gia đình mà còn đƣợc thông qua tầng

lớp thầy cúng, thầy bói dân gian (các thầy Mo, thầy Tảo, bà Pựt). Coi trọng
việc thờ cúng, ngƣời Tày thờ tổ tiên, các vị thần cai quản gia đình và bản
mƣờng trong các ngày lễ, tết, mồng một, hôm rằm trong năm và ngoài tết.
Ở Hà Vị, cho đến hiện này vẫn duy trì rất tốt lễ hội Lồng Tổng (xuống đồng)
đƣợc tổ chức vào 11 tháng Giêng hàng năm, để cầu mƣa thuận gió hoà, cầu
cho mùa màng bội thu. Ngoài phần Lễ long trọng là phần Hội tƣng bừng với
những câu hát lƣợn giao duyên cùng với các trò chơi dân gian rất đặc sắc.
Văn học, văn hóa nghệ thuật dân gian ở Hà Vị cũng rất phong phú và đa
dạng. Vốn quý đó, một phần nhỏ đƣợc lƣu giữ qua các tài liệu mà các nhà
nghiên cứu văn học nghệ thuật dân gian sƣu tầm, còn phần lớn đƣợc lƣu giữ
qua các “nghệ sỹ” dân gian. Trong xã hội hiện đại, các hình thức sinh hoạt
văn hóa, nghệ thuật dân gian không còn đƣợc phổ biến nhƣ xƣa nữa mà đƣợc
diễn xƣớng xen kẽ trong các đợt sinh hoạt tập thể, lễ hội, một số đám cƣới,
mừng nhà mới, giải hạn, lễ đầy tháng v.v
Nhƣ vậy, dù cách trung tâm thị xã Bắc Kạn chỉ 6 km và gần kề quốc lộ
số 3, song đến với Hà Vị hôm nay vẫn có thể thấy, bản sắc Tày còn in đậm
trong những nếp sinh hoạt, lối sống, phong tục tập quán của con ngƣời nơi
đây. Và đây cũng chính là những cơ sở cần thiết để chúng tôi triển khai đề tài
của mình.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
1.2. Khái quát về Thơ lẩu và nghi lễ đám cƣới của ngƣời Tày ở Hà Vị,
Bạch Thông, Bắc Kạn
1.2.1. Khái quát về Thơ lẩu
1.2.1.1. Khái niệm: Thơ lẩu
Trong kho tàng văn học nghệ thuật cổ truyền của dân tộc Tày - Nùng ở
Việt Bắc, Thơ lẩu là một loại hình nghệ thuật có từ lâu đời và chiếm một vị trí

quan trọng trong đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân. Nó vừa có tính
chất sinh hoạt văn nghệ quần chúng lại vừa có tính chất sinh hoạt phong tục
nghi lễ cƣới xin của ngƣời Tày. Tuy nhiên, cho đến này vẫn chƣa có nhà
nghiên cứu nào đƣa một khái niệm cụ thể, và có tính chung nhất về loại hình
nghệ thuật này.
Nhà nghiên cứu Vi Quốc Bảo trong một số bài nghiên cứu của mình đã
thống nhất sử dụng khái niệm hát đám cưới, (ngƣời Tày thƣờng gọi là Thơ
lẩu) với cách hiểu: Đây là một hình thức sinh hoạt văn nghệ quần chúng đặc
sắc và rộng rãi trong đám cƣới. Hát đám cƣới, thực chất là một cuộc hát đối
đáp giữa nam và nữ, một cuộc thi hát, một cuộc thi thơ Nội dung chủ yếu
của các bài hát là phản ánh hiện thực xã hội đƣơng thời, đồng thời thể hiện cái
nhìn về vũ trụ và cuộc đời cũng nhƣ tâm hồn, tình cảm của dân tộc Tày,
Nùng. [32, tr. 53-63]
Lƣờng Văn Thắng khi Tìm hiểu giá trị nội dung của một số bài thơ Quan
lang đã cho rằng: Thơ Quan lang là loại thơ hôn lễ của dân tộc Tày, Các bài
thơ đều mang những tiêu đề của việc giao dịch hôn lễ nhƣ : Mở cửa, Cất chổi,
Giải chiếu, Kính cha mẹ Nội dung của thơ Quan lang tƣơng đối ổn định, chủ
yếu là phản ánh một nền đạo đức mang tính nhân dân sâu sắc. [32,tr. 75- 83]
Hà Văn Thƣ - Lã Văn Lô trong Văn hóa Tày - Nùng có viết: “Thơ ca
đám cƣới, ngƣời Tày gọi là xướng quan làng. Trong khi hành lễ nhất cử nhất
động đều phải thể hiện bằng thơ Thơ ca đám cƣới cùng rất nhiều màu, nhiều
vẻ và đậm màu sắc địa phƣơng”. [21, tr. 88]


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Nông Văn Nhủng, trong Tiếng ca người Bắc Kạn, đã xếp Thơ lẩu vào
dòng dân ca nghi lễ và phong tục văn hóa. Là tục hát đối đáp giữa hai đại diện
nhà trai và nhà gái trong lễ cƣới của dân tộc Tày - Nùng ở Bắc Kạn. Thơ lẩu

còn đƣợc hiểu là “Bài ca chuốc rượu”.[36, tr.30]
Phần Dân tộc Tày trong cuốn Bản sắc và truyền thống văn hóa các dân
tộc tỉnh Bắc Kạn, Hà Văn Viễn cùng nhóm tác giả cuốn sách cho rằng: “Hát
quan làng, ngƣời Tày gọi là Thơ lẩu (thơ rƣợu). Đây là loại dân ca nghi lễ của
đám cƣới. Nội dung chủ yếu phản ánh cách ứng xử lịch sự trong lối sống cũng
nhƣ trong cƣới xin, sự kính trọng tổ tiên, cha mẹ, họ hàng, làng bản của ngƣời
Tày” Là thể loại thơ dân gian nên Thơ lẩu có tính dị bản. [34, tr. 141- 142]
Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam, các tác giả đã xếp hát Quan
làng của ngƣời Tày vào nhóm các bài ca hôn lễ, trong tiểu loại dân ca nghi lễ
- phong tục, thuộc thể loại thơ ca dân gian Việt Nam [18, tr. 666]. Chỉ rõ, hát
Quan làng là một tục lệ sinh hoạt ca hát phục vụ đám cƣới, tuy vậy, “nội
dung phán ánh của nó không phải chỉ bị ước thúc trong phạm vị tục lệ hôn
nhân, quan điểm đạo đức gia đình mà nhiều khi còn vượt ra ngoài phạm vi đó
để phản ánh các vấn đề xã hội - lịch sử rộng lớn hơn nhiều”. [18, tr. 676]
Lộc Bích Kiệm trong Đón dâu bằng thơ – nét đẹp trong văn hóa Tày
cũng cho rằng: “Đó là những bài hát dành riêng cho đám cƣới, chỉ cất lên
trong đám cƣới. Những bài hát đám cƣới của ngƣời Tày mang chức năng trao
đổi tình cảm, lại diễn xƣớng theo nghi lễ truyền thống nên không nằm ngoài
nhu cầu về tinh thần, trí tuệ, thẩm mĩ”. [19]
Nhƣ vậy, chúng tôi thấy, bên cạnh những điểm chƣa thống nhất thì các nhà
nghiên cứu đều thừa nhận:
Thứ nhất: Thơ lẩu thuộc loại dân ca nghi lễ - phong tục đám cƣới. Với
một hệ thống những khúc hát, đƣợc chia thành những mục cụ thể, tƣơng ứng
với từng hành động, lễ thức của đám cƣới và chỉ đƣợc cất lên trong đám cƣới
chủ yếu thông qua đại diện nhà trai (Quan làng) và đại diện nhà gái (Pả mẻ).

×