Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Thảo luận về mô hình ngân hàng trung ương ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.7 KB, 27 trang )

B GIO DC V ĐO TO
TRƯỜNG ĐI HỌC KINH TẾ THNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

THẢO LUẬN VỀ MÔ HÌNH NGÂN
HÀNG TRUNG ƯƠNG Ở VIỆT NAM



TP.HCM, tháng 3 năm 2014
1
HỌ V TÊN LỚP
HUỲNH ĐĂNG KHOA KD001
NGUYỄN THỊ THÙY TRANG KD003
VŨ THỊ LAN PHƯƠNG KD003
NGUYỄN NGỌC DIỄM PHƯƠNG KD001
LÊ HONG H PHƯƠNG KD003
HONG THỊ THẢO KD002
ĐỖ THỊ HỒNG NHUNG KD003
TRẦN NGỌC NH KD001
LÊ THANH SƠN KD001
TRƯƠNG MINH NHỰT KD003
Đề tài tiểu luận:
Thảo luận về mô hình ngân hàng trung ương tại Việt Nam.
A. Tầm quan trọng của đề tài:
2
Will Rogers - một nhà văn hài hước người Mỹ từng nói: “There have been three
great inventions since the beginning of time: fire, the wheel, and central banking” (tạm
dịch là: “Có 3 phát minh vĩ đại từ khi bắt đầu sự sống của loài người: lửa, bánh xe và Ngân
hàng Trung ương”). Hàm ý sâu xa của câu nói này cho thấy Ngân hàng Trung ương
(NHTW) có tầm quan trọng như thế nào trong lịch sử phát triển của loài người.
Nếu hệ thống ngân hàng được ví là huyết mạch thì Ngân hàng Trung ương chính là


trái tim của nền kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có một NHTW
thực hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc trong hoạt
động của NHTW cũng có thể gây ra những cú “đột quỵ” đối với cả nền kinh tế. Vì vậy, ở
bất kỳ quốc gia nào, NHTW cũng đều đóng vai trò đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh
tế- xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của đề tài đối sinh viên đặc biệt là khối chuyên
ngành kinh tế, chúng em đã thực hiện đề tài này với mong muốn giải quyết được phần nào
những thắc mắc của các bạn. Trong quá trình tìm tòi tài liệu và chắt lọc thông tin không
tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết, chúng em rất mong được cô chỉnh sửa và giải
đáp thêm để những thông tin chúng em sẽ đưa đến cho các bạn trong giảng đường là thông
tin chính xác và cần thiết.
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô!
B. Phần nội dung của đề tài: Trang
I. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của NHTW Việt Nam 5
1. Các giai đoạn hình thành và phát triển của NHTW Việt Nam. 5
3
2. Mô hình tổ chức của NHTW Việt Nam. 7
II. Chức năng của NHTW Việt Nam. 9
1. Độc quyền phát hành tiền. 9
2. Chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gian. 9
3. Chức năng cố vấn đối với chính phủ 11
4. Chức năng trực tiếp quản lí dự trữ quốc gia. 12
5. Quản lí vĩ mô về tiền tệ, tín dụng và hoạt động. 12
III. Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTW. 13
1. Ảnh hưởng của cung ứng tiền đối với nền kinh tế. 13
2. Mục tiêu và phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng cung ứng tiền của
ngân hàng trung ương. 13
3. Các công cụ điều tiết. 14
IV. Hoạt động của NHTW. 15
1. Hoạt động tín dụng. 15

2. Hoạt động mở tài khoản, thanh toán và gây quỹ. 16
3. Hoạt động ngoại hối. 16
V. Những đóng góp của NHTW Việt Nam đối với nền kinh tế. 17
1. Đóng góp của NHTW. 17
2. Thành tựu đã đạt được. 18
4
3. Những cơ hội. 19
4. Thách thức. 20
VI. Phân tích chuyên sâu. 21
Thảo luận về vấn đề: “ Mô hình nào cho NHTW Việt Nam?”
1. Mô hình ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ. 21
2. Mô hình ngân hàng trung ương phụ thuộc chính phủ. 22
3. Thảo luận và một số ý kiến đánh giá của các chuyên gia. 23
C. Các nguồn tham khảo 26
I. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của NHTW Việt Nam.
1. Các giai đoạn hình thành và phát triển của NHTW Việt Nam.
Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam kể từ khi Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam ra đời đến nay có thể chia thành 4 thời kỳ như sau:
5
1. Thời kỳ 1951-1954: Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập và
hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên:
Phát hành giấy bạc Ngân hàng, thu hồi giấy bạc Tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc
Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách; Phát
triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng cường lực lượng
kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
2. Thời kỳ 1955-1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền
Bắc vừa xây dựng, chiến đấu, vừa chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam. Trong
thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo
điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế trong chiến tranh phá hoại bằng

không quân của Mỹ ở miền Bắc.
- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi
phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam.
3. Thời kỳ 1975-1985: Là giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng
và thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ cụ thể của ngành Ngân hàng là tiến hành thiết lập hệ
thống Ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống Ngân hàng của chế độ
cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã
được quốc hữu hóa và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng thực
hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới của nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam- Bắc
vào năm 1978. Trong giai đoạn này, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt
động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ
theo nguyên tắc thị trường.
6
4. Thời kỳ 1986 đến nay: Là quá trình đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống
Ngân hàng Việt Nam:
- Tháng 7/1987: Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 218/CT cho phép làm thử
việc chuyển hoạt động của Ngân hàng sang kinh doanh XHCN.
- Tháng 3/1988: Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT với định
hướng cơ bản là chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh.
- Tháng 5/1990: Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố 2 Pháp lệnh về ngân
hàng ( Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín
dụng và công ty tài chính). Sự ra đời của 2 Pháp lệnh Ngân hàng đã chính thức chuyển
cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp, trong đó
Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh
tiền tệ, ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng trung ương; các ngân hàng
thương mại và tổ chức tín dụng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và
dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ pháp luật.
- Tháng 10/1993, quan hệ hợp tác giữa Việt nam và cộng đồng tài chính quốc tế

(Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á) được tái lập và
khơi thông.
- Ngày 2/12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức
tín dụng được Quốc hội khóa X chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày
1/10/1998.
- Ngày 16/6/2010 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức
tín dụng được Quốc hội khóa XII chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2011. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính
phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân
hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và
7
ngoại hối; thực hiện chức năng Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của
các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt động của Ngân
hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng
và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán
quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Mô hình tổ chức của NHTW Việt Nam.
Trên cơ sở quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chính phủ đã
ban hành Nghị định quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hiện nay, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện theo Nghị định số
96/2008/NĐ-CP ngày 26/8/2008 của Chính phủ. Về cơ cấu tổ chức, theo Nghị định
96/2008/NĐ-CP, Ngân hàng Nhà nước có 24 đơn vị trực thuộc, trong đó 19 đơn vị giúp
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng
Ngân hàng trung ương, 5 đơn vị là tổ chức sự nghiệp.
Mô hình NHTW Việt Nam:
8
KHỐI CHÍNH SÁCH
64 chi nhánh Tỉnh, Thành phố
• Vụ chính sách tiền tệ

• Vụ chiến lược phát triển
• Vụ quản lý ngoại hối
• Vụ quan hệ quốc tế
II. Chức năng của NHTW Việt Nam.
1. Độc quyền phát hành tiền.
Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi,
ngân hàng trung ương trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng
9
BAN LÃNH ĐO
KHỐI NGHIỆP VỤ
KHỐI QUẢN TRỊ
ĐIỀU HÀNH
KHỐI THANH TRA
KIỂM SOÁT
• Vụ tài chính-kế toán.
• Vụ tín dụng
• Sở giao dịch
• Văn phòng
• Vụ tổ chức cán bộ và đào tạo
• Vụ NV phát hành và kho quỹ
• Cục quản trị
• Học viện ngân hàng
• ĐH Ngân hàng TPHCM
• Cục công nghệ tin học NH
• Thời báo Ngân hàng
• Thanh tra ngân hàng
• Vụ Tổng kiểm soát
• Vụ Pháp chế
• Vụ các ngân hàng
Các doanh nghiệp trực thuộc NHNN

tiền mặt là công cụ thứ nhất giúp ngân hàng trung ương điều tiết mức cung ứng tiền tổng
hợp.
Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều chỉnh được lượng tiền
lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng giảm lãi suất để tăng lượng
cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế.
2. Chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gian.
a. Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của
các ngân hàng trung gian.
Vì các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trong nước đều phải mở tài
khoản và kí quỹ tại ngân hàng trung ương nên hoàn toàn thực hiện được vai trò điều tiết
thanh toán giữa các ngân hàng giống như những thân chủ mua bán lẫn nhau cùng có một
tài khoản ở một ngân hàng. Vai trò này giúp ngân hàng trung ương kiểm soát, theo dõi,
quản lý hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính trong nước. Mặt khác có thể quản lý
được lượng tín dụng ra vào trong hệ thống tài chính vào những thời điểm nhất định.
b. Ngân hàng trung ương là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân
hàng trung gian.
Dự trữ bắt buộc là tiền mặt, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền mặt
trên tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thành viên phải lưu lại trong
kho tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại ngân hàng trung ương, không được cho vay
hết.
Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng
thương mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay tức khắc và ngược lại. Bằng cách việc
quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc ngân hàng trung ương quản lý một cách chặt chẽ tốc độ và
cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng trung gian.
c. Ngân hàng trung ương là cứu cánh cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng
trung gian.
10
Không có ngân hàng trung gian nào hoặc tổ chức tín dụng nào dám khẳng định
rằng trong lịch sử hoạt động của mình chưa hề có lúc kẹt tiền mặt. Những đợt rút tiền ồ ạt
của nhân dân ( vì lãi suất thấp, vì lạm phát cao cho nên lãi suất trở thành âm, vì có thể

những loại đầu tư khác có lợi cao hơn hoặc vì không đủ tin tưởng vào ngân hàng…) sẽ
rất dễ làm cho ngân hàng trung gian vỡ nợ vì không đủ tiền mặt chi trả cho nhân dân.
Trong trường hợp như thế khi ngân hàng trung gian không còn chỗ vay mượn nào khác,
không thu hồi về kịp những khoản vay về kịp thì nó phải đến ngân hàng trung ương vay
tiền như cứu cánh cuối cùng.
Ngân hàng trung ương cho ngân hàng trung gian vay với phương thức gọi là cho
vay chiết khấu. Đó là hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất của sự cho vay
này là lãi suất chiết khấu. Ngân hàng trung ương là ngân hàng duy nhất không thể vỡ nợ
hay kẹt tiền mặt, đơn giản vì nó rất mất ít thời gian đẩ in tiền mới. Cho nên nó có thể cho
ngân hàng trung gian vay khi có yêu cầu.
Ngân hàng trung gian có thể cho vay hết dự trữ bắt buộc vì khi cần thiết nó có thể
vay ngân hàng trung ương với lãi suất cũng giống như vay của nhân dân để thanh toán
cho nhân dân. Nhưng giả sử ngân hàng trung ương quy định, tuy lãi suất cho vay của
ngân hàng trung gian là 10%, nhưng nếu ngân hàng trung gian cho vay dưới tỉ lệ dự trữ
bắt buộc và phải vay đến ngân hàng trung ương, ngân hàng trung ương sẽ cho vay với lãi
suất 12%. Lúc đó ngân hàng trung gian sẽ cân nhắc, nếu nó cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt
buộc với lãi suất chỉ 10% , thì khi kẹt thanh toán nó phải vay lại của ngân hàng trung
ương với lãi suất cao hơn. Việc lỗ trông thấy khi vay tiền của ngân hàng trung ương sẽ
buộc các ngân hàng trung gian giảm lượng cho vay xuống, hay nói cách khác là giảm
lượng cung ứng tiền ngân hàng và tăng dự trữ để giải quyết vấn đề khi dân rút tiền.
Như vậy khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ làm giảm lượng
cung tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, tức là giảm lượng cung tiền trong toàn bộ
nền kinh tế và ngược lại.
Trong vai trò cứu cánh cuối cùng với lãi suất cho mình quy định, ngân hàng
trung ương dùng lãi suất chiết khấu để điều tiết lượng tiền cung ứng của hệ thống ngân
11
hàng trung gian và của nền kinh tế. Qua đây ta thấy được đây là một công cụ giúp chính
phủ quản lý nền kinh tế một cách vĩ mô.
Xét về mối quan hệ giữa NHNN Việt Nam với các ngân hàng thương mại, gần đây
nhất trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta có thể thấy có những luồng tin liên

quan tới một ngân hàng thương mại cổ phần rất lớn đó là Sacombank. Trước những bài báo
gây xôn xao dư luận như: “ Sacombank, ACB, Eximbank sẽ là người một nhà” hay
“Thâu tóm Sacombank- tin đồn và sự thực” NHNN Việt Nam đã khẳng định những
nguồn tin này là chưa có cơ sở và không chính thức. NHNN với vai trò là cơ quan quản lý
nhà nước đối với Sacombank khẳng định: Đến nay Sacombank vẫn đang tiếp tục hoạt động
bình thường. NHNN đang khẩn trương làm rõ các nguồn thông tin vừa qua để có biện pháp
xử lý thích hợp.
3. Chức năng cố vấn đối với chính phủ.
Ngân sách có tác động khá quan trọng đến nền kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động của
ngân sách không hài hòa với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả của chính sách
tiền tệ trong điều tiết vĩ mô.
Với lý do trên ngân hàng trung ương phải tham gia cố vấn cho chính phủ trong
chính sách tài chính và kinh tế. Với vai trò này ngân hàng trung ương gián tiếp ảnh hưởng
đến việc cung ứng trái phiếu của chính phủ và các hoạt động chi tiêu khác cho hợp lý với
ngân sách. Đây là một cách để điều tiết kinh tế vĩ mô.
4. Chức năng trực tiếp quản lí dự trữ quốc gia.
Dự trữ quốc gia bao gồm những dự trữ chiến lược cho những trường hợp khẩn cấp
như can thiệp vào điều tiết kinh tế, nhập khẩu hàng khẩn cấp để chống khan hiếm và chống
lạm phát, khi có thiên tai, chiến tranh…
Dự trữ bao gồm: vàng, tiền tệ, … Với tư cách là ngân hàng của chính phủ, ngân
hàng trung ương được giao phó nhiệm vụ quản lý dự trữ quốc gia. Khi nắm trong tay công
cụ này ngân hàng trung ương(NHTW) có thể can thiệt bất kì lúc nào vào thị trường ngoại
tệ để giữ giá đồng tiền trong nước, hay tăng hoặc giảm giá. NHTW với nghiệp vụ mua bán
12
trên thị trường vàng và ngoại tệ, nó tạo ra hai tác động quan trọng là thay đổi cung ứng tiền
và thay đổi tỉ giá hối đoái của đồng tiền trong nước. Hai điều này tác động đến tổng cầu,
sản xuất, thu nhập và giá cả và đương nhiên điều này có tác động đến kinh tế vĩ mô
5. Quản lí vĩ mô về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng.
Đây là chức năng quyết định bản chất ngân hàng trung ương của một ngân hàng
phát hành. Việc thực hiện chức năng này không thể tách rời khỏi các nghiệp vụ ngân

hàng của NHTW. Nói cách khác, NHTW quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ và tín dụng
thông qua khả năng kinh doanh của mình.
a. Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia :Chính sách tiền tệ là chính
sách kinh tế vĩ mô trong đó NHTW sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát
khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ đồng thời thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm.
b. Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng : Với tư cách là ngân
hàng của các ngân hàng, NHTW không chỉ cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuần tuý
cho các ngân hàng trung gian, mà thông qua các hoạt động đó, NHTW còn thực hiện vai
trò điều tiết, giám sát thường xuyên hoạt động của các ngân hàng trung gian nhằm: Đảm
bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong nền
kinh tế, đặc biệt là của những người gửi tiền, trong quan hệ với ngân hàng.
III. Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTW.
Mọi họat động của ngân hàng trung ương đều ảnh hưởng mật thiết đến cung ứng
tiền trong nền kinh tế. Cung ứng tiền thay đổi làm biến động giá cả, sản lượng quốc gia,
do đó một cách gián tiếp mọi họat động ngân hàng ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế.
1. Ảnh hưởng của cung ứng tiền đối với nền kinh tế.
13
Chính sách cung ứng tiền nới lỏng làm cho tiền tệ trở nên dồi dào hơn. Điều này
kích thích tiêu dùng cho cuộc sống và cho đầu tư nhiều hơn. Sự gia tăng tiêu dùng và đầu
tư làm sản xuất liên tục được mở rộng, tuyển mộ thêm công nhân, giảm thất nghiệp và
gia tăng thu nhập quốc dân. Nền kinh tế tăng trưởng với giá cả tăng cao hơn trước.
Chính sách cung ứng tiền thắt chặt làm cho chi phí để có tiền cao hơn và tiền trở
nên khan hiếm. Sản xuất thiếu vốn, người mua thiếu tiền buộc phải cắt giảm chi tiêu và
đầu tư, điều này dẫn đến tổng cầu giảm và giá cả hạ. Cái giá phải trả là sản xuất bị thu
hẹp, thất nghiệp tăng, thu nhập quốc dân giảm và nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái.
Do đó cung ứng tiền là sức mạnh đầy quyền lực của ngân hành trung ương. Khi ngân
hàng trung ương điều tiết cung ứng tiền tức là nó bắt đầu tiến hành điều tiết nền kinh tế.
2. Mục tiêu và phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng cung ứng tiền của
NHTW.

Mục tiêu:
- Chính sách tiền tệ phải phục vụ cho mục đích đảm bảo cho nền kinh tế có tăng
trưởng, tức là giảm thất nghiệp, gia tăng thu nhập quốc dân và mở rộng tiềm năng
sản xuất, chống suy thoái…
- Chính sách tiền tệ phải hướng về ổn định giá cả
- Phải tạo cho nền kinh tế có một nền tảng tài chính ổn định
- Góp phần mở rộng sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, khai thác và phát triển
các ngưồn lực một cách có hiệu quả nhất.
3. Các công cụ điều tiết.
• Nghiệp vụ thị trường mở:
Bằng cách mua hoặc bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán, NHTW sẽ
làm thay đổi dự trữ trong hệ thống ngân hàng, từ đó làm thay đổi lượng tiền cung ứng.
14
Tùy theo tình hình của nền kinh tế NHTW sẽ quyết định mua và hay bán chứng khoán ra
cho thích hợp.
Khi NHTW bán chứng khoán ra: Lượng chứng khoán tăng lên, chứng khoán trở
nên thừa và giá của nó sẽ giảm xuống, lãi suất của nó sẽ tăng lên. Lãi suất chứng khoán
tăng lên buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để tránh tình trạng người dân rút tiền ra
khỏi ngân hàng để đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất ngân hàng tăng làm lượng tiền cung
ứng giảm và do đó tiền trở nên khan hiếm, do đó tỉ giá và giá cả hàng hóa giảm xuống.
Và sẽ ngược lại khi NHTW mua chứng khoán vào.
Cũng theo quy định của NHNN Việt Nam thì những loại giấy tờ có giá được sử
dụng trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở bao gồm:
1. Tín phiếu ngân hàng nhà nước
2. Trái phiếu Chính phủ, bao gồm: Tín phiếu Kho bạc; Trái phiếu Kho bạc;
Trái phiếu công trình Trung ương; Công trái xây dựng Tổ quốc; Trái phiếu
Chính phủ do Ngân hàng Phát triển Việt Nam (trước đây là Quỹ Hỗ trợ
phát triển) được Thủ tướng Chính phủ chỉ định phát hành.
3. Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, bao gồm: Trái phiếu do Ngân hàng
Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành được Chính

phủ bảo lãnh thanh toán 100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn.
4. Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành.
5. Riêng đối với giao dịch mua có kỳ hạn. Ngân hàng Nhà nước chỉ giao dịch
đối với: Công trái xây dựng Tổ quốc; Trái phiếu do Ngân hàng Phát triển
Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành được Chính phủ bảo
lãnh thanh toán 100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn; Trái phiếu Chính quyền
địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Ủy ban nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh phát hành.
• Lãi suất cho vay chiết khấu.
15
- Được ngân hàng trung ương quyết định trong cả hai trường hợp:
Cho vay bình thường với kí quỹ khi ngân hàng trung gian kẹt thanh tóan.
Cho vay dưới hình thức cứu cánh cuối cùng.
- Hiện nay mức lãi suất chiết khấu mà NHNN Việt Nam quy định đối với các
ngân hàng trung gian là 13%
• Dự trữ bắt buộc
Là lượng tiền mặt mà ngân hàng trung gian phải nộp vào NHTW theo tỷ lệ phần
trăm do NHTW quy định. Thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc NHTW sẽ làm
thay đổi lượng tiền cung ứng và ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế.
IV. Hoạt động của NHTW.
1. Hoạt động tín dụng
a. Cho vay :
NHTW cho các TCTD vay dưới dạng hình thưc tái cấp vốn
NHTW không cho vay đối với cá nhân và tổ chức không phải là TCTD
b. Bảo hành:
NHTW không bảo lãnh cho tổ chức ,cá nhân vay vốn, trừ trường hợp đặc biệt.
c. Tạm ứng:
NHTW tạm ứng cho ngân sách trung ương để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ nsnn của
thủ tướng chính phủ.

d. Góp vốn mua cổ phần:
NHTW không được góp vốn mua cổ phần của TCTD và các doanh nghiệp khác.
2. Hoạt động mở tài khoản, thanh toán và gây quỹ:
a. Mở tài khoản:
16
NHTW được mở tài khoản ở ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ va ngân hàng
quốc tế.
b. Thanh toán :
NHTW tổ chức hệ thống thanh toán liên ngân hàng và cung cấp các dịch vụ thanh
toán.
c. Đại lý kho bạc:
NHTW làm đại lý cho kho bạc nhà nước trong việc đấu thầu, phát hành va thanh
toán tín phiếu, trái phiếu kho bạc.
3. Hoạt động ngọai hối:
NHTW thực hiện mua bán ngoại hối trên thị trường trong nước vì mục tiêu chính
sách tiền tệ quốc gia, mua, bán ngoại hối trên thị trường quốc tế và thực hiện các giao dịch
ngoại hối khác theo quy định của chính phủ.
Mục đích quản lý dự trữ ngoại hối:
-Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
-Bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế
-Bảo toàn dự trữ ngoại hối nhà nước
Tỷ giá ngoại hối tại sở giao dịch NHNN Việt Nam ngày 28/2/2012.
17
Tỷ giá áp dụng cho ngày 28/02/2012
Đơn vị: Việt Nam Đồng
STT Ngoại tệ Tên ngoại tệ Mua Bán
1 USD Đô la Mỹ 20.850,00 21.036,00
2 EUR Đồng Euro 27.640,00 28.198,00
3 JPY Yên Nhật 256,90 262,09
4 GBP Bảng Anh 32.641,00 33.300,00

5 CHF Phơ răng Thuỵ Sĩ 22.940,00 23.404,00
V. Những đóng góp của NHTW Việt Nam đối với nền kinh tế.
1. Những đóng góp của NHTW
Trong 20 năm qua, NHTW đã có những đóng góp tích cực cho quá trình đổi mới
và phát triển kinh tế Việt Nam. Có được kết quả đó cũng kể đến cả hệ thống ngành ngân
hàng không chỉ riêng NHTW. Đóng góp đó thể hiện ở những nội dung chính sau:
Thứ nhất, NHTW điều chỉnh hoạt động của hệ thống ngân hàng đi vào khuôn khổ
và cùng với hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi, kiềm chế lạm
phát, từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ
mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh;
Thứ hai, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và
hoạt động xuất nhập khẩu.
Thứ ba, NHTW mở tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự
tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục.
Thứ tư, góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển
bền vững. Đóng góp này được thể hiện qua công tác thẩm định dự án, quyết định cho vay
vốn ngân hàng cho các dự án và giám sát thực hiện một cách chặt chẽ sau khi cho vay.
2. Thành tựu.
18
Sau 20 năm thực hiện đổi mới, bên cạnh những cố gắng hoàn thành các chức năng,
nhiệm vụ được giao để có đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của nền kinh tế, NHTW
và hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong
quá trình xây dựng và trưởng thành, cụ thể là:
Đã hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, nhờ đó đã thiết lập được một mạng
lưới cung cấp dịch vụ ngân hàng phong phú, phục vụ mọi thành phần kinh tế. Tính đến
cuối năm 2005, hệ thống các TCTD Việt Nam bao gồm 5 NHTMNN, 1 Ngân hàng Chính
sách xã hội, 25 NHTMCP đô thị, 11 NHTMCP nông thôn, 27 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 44 văn phòng đại diện TCTD nước ngoài tại Việt Nam, 6
công ty tài chính, 9 công ty cho thuê tài chính, gần 900 quĩ tín dụng nhân dân.
Đáng chú ý, hai Luật ngân hàng có hiệu lực từ cuối năm 1998 là bước tiến mới về

củng cố, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động ngân hàng. Năng lực xây dựng và điều
hành, quản lý tiền tệ – tín dụng – ngân hàng của NHTW đã được nâng lên một tầm cao
mới, thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia và hoạt động có hiệu quả;
Chính sách lãi suất đang từng bước được đổi mới, phù hợp với cơ chế thị trường.
Trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHTW công bố, các TCTD chủ động ấn định lãi suất huy
động và cho vay theo hướng đảm bảo các qui định an toàn và hiệu quả trong kinh doanh
ngân hàng;
Chính sách quản lý ngoại hối từng bước được tự do hóa; xóa bỏ nhiều loại giấy
phép theo hướng phù hợp dần với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập quốc tế; bước đầu
đã đáp ứng được yêu cầu của cải cách hành chính, của Luật Doanh nghiệp trong việc
phân định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của doanh nghiệp; tạo ra sự thông thoáng hơn cho
hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối đã được tiến
hành theo hướng đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền quản lý để nâng cao tinh thần trách nhiệm
và hiệu quả hoạt động của các địa phương, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp và
người dân thực hiện các giao dịch ngoại hối, giúp NHTW có điều kiện tập trung nghiên
cứu cơ chế, chính sách theo mô hình ngân hàng trung ương hiện đại;
19
Chính sách tỉ giá đã bước đầu được điều hành tương đối linh hoạt theo quan hệ
cung cầu ngoại tệ trên cơ sở rổ tiền tệ, tỉ giá vì thế đã phản ánh tương đối chính xác sức
mua của VND và tương quan giữa VND với các loại ngoại tệ của các nước có quan hệ
thương mại, đầu tư và tín dụng với Việt Nam. Việc điều chỉnh tỉ giá linh hoạt đã tạo điều
kiện thuận lợi cho các NHTM và NHTW tăng mua ngoại tệ từ thị trường, đáp ứng phần
lớn các nhu cầu ngoại tệ của khách hàng và đảm bảo mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối nhà
nước;
Xây dựng được bộ máy quản lý và mạng lưới tổ chức phù hợp với yêu cầu phát
triển trong từng thời kỳ. Trong đó, đội ngũ cán bộ trong ngành ngân hàng trưởng thành
nhanh chóng, có khả năng tiếp cận kiến thức mới và công nghệ ngân hàng hiện đại, có
năng lực điều hành và thực hiện các hoạt động ngân hàng ngày càng có tính chuyên
nghiệp hơn theo yêu cầu của nền kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế về tài
chính – ngân hàng;

Xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ sở pháp lý và qui trình nghiệp vụ ngân
hàng phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, từng bước hình thành một sân chơi bình
đẳng, công bằng cho các TCTD và các doanh nghiệp trên cơ sở hiệu quả sử dụng vốn vay
chứ không phụ thuộc nhiều vào thành phần kinh tế như trước đây;
Cơ sở vật chất của các TCTD ngày càng được tăng cường, đảm bảo điều kiện làm
việc cho đội ngũ cán bộ với các trang thiết bị cần thiết;
Đã xây dựng được hệ thống công nghệ ngân hàng đạt trình độ trung bình trong
khu vực, nhất là sau khi thực hiện thành công Dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống
thanh toán giai đoạn I. Quá trình đổi mới và áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại đã và
đang được thúc đẩy mạnh mẽ nhằm tạo ra sự đồng bộ, có khả năng khai thác, sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn ngân hàng.
3. Cơ hội đối với NHTW Việt Nam.
Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam,
nhất là trên thị trường tài chính khu vực.
20
Đối với NHTW, hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội nâng cao năng lực và hiệu quả điều
hành và thực thi chính sách tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỉ giá theo
nguyên tắc thị trường. Hội nhập cũng là cơ hội để NHTW tăng cường phối hợp với các
NHTW và các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi thông tin và ngăn
ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động của thị trường tài chính trong nước và đảm bảo an
toàn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hệ thống NHTM và thị trường tiền tệ hoạt động
an toàn và hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính
sách tiền tệ.
Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và
nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, loại bỏ các biện pháp bảo
hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTM trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông
chờ vào sự hỗ trợ của NHTW và Chính phủ.
4. Thách thức
Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về
tài chính, công nghệ và trình độ quản lý. Áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình

nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, trong khi các tổ chức tài
chính Việt Nam còn nhiều yếu kém, trình độ chuyên môn và trình độ quản lý còn bất cập,
hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh thấp, nợ quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn
kém. Vì thế, NHTW Việt Nam sẽ khó có thể kiểm soát ngân hàng trong nước. Các ngân
hàng trong nước mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách hàng và hệ thống kênh phân
phối Đáng chú ý, rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tăng lên do các
ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài chính trong nước thông
qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh; một số tổ chức tài chính trong
nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh tranh kém và không có khả
năng kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt động ngân hàng quốc tế.
Mở cửa thị trường tài chính trong nước cũng làm tăng rủi ro do những tác động từ
bên ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và thị
21
trường quốc tế giảm dần. NHTW cũng phải đối mặt với các cơn sốc kinh tế, tài chính
quốc tế và nguy cơ khủng hoảng.
VI. Phân tích chuyên sâu và thảo luận.
Trước khi nghiên cứu trực tiếp vấn đề này, chúng ta cần nắm được hai mô hình ngân
hàng trung ương (NHTW): ngân hàng trung ương độc lập chính phủ; ngân hàng trung
ương phụ thuộc chính phủ, cùng với những ưu và nhược điểm của hai mô hình này từ đó
đưa ra những nhận định về việc xây dựng mô hình nào cho ngân hàng trung ương Việt
Nam trong tương lai.
Mô hình ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ:
Khái niệm:
Mô hình ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ là mô hình trong đó ngân
hàng trung ương không chịu sự quản lý của chính phủ mà chịu sự quản lý của quốc hội.
Quan hệ giữa ngân hàng trung ương và chính phủ là quan hệ hợp tác. Các NHTW theo mô
hình này là Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ, NHTW Thụy sĩ, Anh, Pháp, Đức, Nhật bản và
gần đây là NHTW châu Âu (ECB).
Ưu điểm:
- Tăng hiệu quả mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế, giảm

thâm hụt ngân sách và ổn định hệ thống tài chính.
- Được giao quyền lựa chọn mục tiêu mà không chịu sự can thiệp chỉ
đạo từ chính phủ hay cơ quan liên quan khác.
- Độc lập trong việc thực thi chính sách nên tưng tính chủ động và giảm
độ trễ của chính sách tiền tệ.
- Tự chủ về cơ chế tổ chức và cơ chế tài chính nhân sự.
- Có trách nhiệm giải trình và minh bạch .
Nhược điểm:
22
- Không phải tất cả các NHTW được tổ chức theo mô hình này đều đảm
bảo được sự độc lập hoàn toàn khỏi áp lực của chính phủ khi điều hành chính sách
tiền tệ. Mức độ độc lập của mỗi NHTW phụ thuộc vào sự chi phối của người đứng
đầu nhà nước vào cơ chế lập pháp và nhân sự của NHTW.
- Khó có sự kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ -do NHTW thực
hiện và chính sách tài khóa-do chính phủ thực hiện để quản lý vĩ mô hiệu quả.
Mô hình ngân hàng trung ương phụ thuộc chính phủ:
Khái niệm:
Mô hình ngân hàng trung ương thuộc chính phủ là mô hình trong đó ngân hàng
trung ương nằm trong nội các chính phủ và chịu sự chi phối trực tiếp của chính phủ về
nhân sự, về tài chính và đặc biệt về các quyết định liên quan đến việc xây dựng và thực
hiện chính sách tiền tệ. Các nước áp dụng mô hình này phần lớn là các nước Đông Á (Hàn
quốc, Đài Loan, Singapore, Indonesia, Việt nam ) hoặc các nước thuộc khối XHCN trước
đây.
Ưu điểm:
- Chính phủ có thể dễ dàng phối hợp chính sách tiền tệ của NHTW
đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo mức độ và liều lượng
tác động hiệu quả của tổng thể các chính sách đối với các mục tiêu vĩ mô trong từng
kỳ.
- Phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng
xây dựng kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển.

Nhược điểm:
- NHTW sẽ mất đi sự chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
- Làm cho NHTW dễ xa rời mục tiêu dài hạn của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc cải cách Ngân hàng Nhà nước (NHTW)
đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế thế giới cũng như trong nước có nhiều biến động khó
23
lường, Đảng và Chính phủ đã xác định rõ: “ Tổ chức lại NHTW với cơ cấu và tính chất
hoạt động như một Ngân hàng trung ương hiện đại, hoạt động theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN”.
Tháng 12/1997, Luật NHTW của nước CHXHCN Việt Nam ra đời và có hiệu lực
thi hành từ 1/1/1998. Theo đó NHTW là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của
các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Kể từ đó đến nay,
ngành ngân hàng nói chung và NHTW Việt Nam nói riêng đã có những bước tiến khá dài
trên con đường phát triển. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII vừa thông qua Luật NHTW
Việt Nam (sửa đổi) và Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). So với Luật NHTW Việt Nam
năm 1997 và Luật NHTW được sửa đổi, bổ sung năm 2003, Luật NHTW Việt Nam năm
2010 có những điểm mới, tiến bộ sau đây:
Về địa vị pháp lý, NHTW Việt Nam vẫn giữ nguyên như thể hiện trong Luật
NHTW Việt Nam 1997 để phù hợp với thể chế chính trị và Hiến pháp 1992. Tuy nhiên,
cách thiết kế trong Luật NHTW 2010 đã thể hiện rõ hơn vị trí của NHTW là cơ quan ngang
Bộ của Chính phủ, đồng thời xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ của NHTW với tư cách
là NHTƯ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các chức năng về quản
lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, qua đó, khẳng định mối quan hệ
chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một NHTƯ: Thực thi CSTT và giám sát an
toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng
Tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế thế giới cũng như trong nước có nhiều biến động
khó lường, những hạn chế của ngành ngân hàng nói chung và NHTW nói riêng là điều khó
tránh khỏi và cần có sự cải cách như Đảng và nhà nước đã đề ra ở trên. Như vậy, một câu
hỏi được đặt ra là:

Mô hình nào cho ngân hàng nhà nước Việt Nam?
Không có một mô hình chung nào cho tất cả các NHTW trên thế giới. Mỗi quốc gia
có một cách vận dụng riêng một mô hình NHTW phù hợp với điều kiện thực tiễn của quốc
24
gia mình. Ở nước ta, như chúng ta đã biết, NHTW là cơ quan của chính phủ và Thồng đốc
NHTW là thành viên chính phủ. Thời gian qua khi bàn về vấn đề cải cách NHTW, một số
ý kiền cho rằng chúng ta nên lựa chọn mô hình NHTW độc lập chính phủ với lý do cơ bản
được đưa ra là NHTW càng độc lập thì mục tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát vừa phải càng dễ
thực hiện. Về mặt lý thuyết điều này có lẽ là đúng, tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay và
có thể trong nhiều năm tới thì mô hình NHTW là một cơ quan của chính phủ như hiện nay
vẫn phù hợp với thể chế chính trị, đặc thù kinh tế- xã hội và hệ thống luật pháp của nước
ta. Sự lớn mạnh nhanh chóng của các nước thuộc nhóm NIEs như Singapore, Hàn quốc,
Đài loan nơi NHTW là một bộ phận trong guồng máy chính phủ là một bằng chứng có
sức thuyết phục về sự phù hợp của mô hình tổ chức này đối với truyền thống văn hoá Á
đông. Tuy nhiên để tăng cường hiệu quả hoạt động của NHTW với tư cách là một NHTW
trong nền kinh tế thị trường, việc nâng cao tính độc lập của NHTW là hết sức cần thiết.
Nâng cao tính độc lập không có nghĩa là tách NHTW ra khỏi bộ máy chính phủ mà chọn
cấp độ độc lập nào cho phù hợp NHTW trong bối cảnh hiện nay.
Với cấp độ độc lập thứ nhất, “độc lập chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động”, ngoài
các lý do về trình độ phát kinh tế, tính đặc thù về thể chế chính trị và hệ thống pháp luật,
trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính nói riêng đang trong
quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, việc dự báo dựa trên các biến số kinh tế - tài chính là rất
khó khăn. Bên cạnh đó, năng lực thống kê và dự báo của chúng ta hiện vẫn còn rất hạn chế.
Vì vậy, mức độ độc lập này không phù hợp với NHTW Việt Nam ít nhất là trong thời gian
trung hạn.
Với cấp độ độc lập thứ hai, “độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động”, tương
tự như lý do vừa nêu ở trên, cấp độ độc lập tự chủ này cũng tỏ ra không phù hợp với
NHTW Việt Nam trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, trong tương lai, cấp độ độc lập này
có thể được cân nhắc, xem xét khi điều kiện cho phép (các biến số kinh tế - tài chính đã trở
nên ổn định hơn; năng lực thống kê, dự báo được cải thiện).

Theo ý kiến của các chuyên gia, tại thời điểm hiện nay, cấp độ “Độc lập tự chủ
trong lựa chọn công cụ điều hành” tỏ ra phù hợp với NHTW Việt Nam hơn cả, đặc
25

×