Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

THOÁI HÓA ĐẤT DỐC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.73 KB, 29 trang )

THOÁI HÓA ĐẤT DỐC Ở VIỆT NAM
I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là thành phần quan trọng hàng
đầu của môi trường sống.trong sản xuất nông nghiệp đất vừa là đối tượng lao
động vừa là tư liệu sản xuất không thể thay thế được. Cuộc sống của con
người phụ thuộc rất nhiều vào lớp đất trồng trọt để sản xuất ra lương thực,
thực phẩm và các nguyên liệu sản xuất công nghiệp phục vụ cho cuộc sống
của mình. Tuy nhiên lớp đất có khả năng tự canh tác luôn chịu tác động mạnh
mẽ của tự nhiên và các hoạt động canh tác do con người.
Việt Nam là nước có ¾ diện tích là đồi núi, có độ dốc cao. Phần lớn
diện tích đất dốc phân bố ở vùng trung du và miền núi nước ta. Đó là tính
chung trong cả nước, ở nhiều vùng miền núi tỷ lệ đất dốc còn cao hơn nhiều,
có những xã đến hơn 90% tổng diện tích tự nhiên của địa phương là đồi núi,
còn đất ruộng bằng phẳng phân bố manh mún dọc theo các khe, suối.
Ngoài ra, nước ta có lượng mưa lớn lại tập trung theo mùa, nên mỗi trận
mưa do hạt mưa rơi từ trên cao xuống, nếu mặt đất không có gì che phủ thì hạt
mưa sẽ gõ rất mạnh vào mặt đất làm tan dã và phá vỡ kết cấu của hạt đất.Khi
mặt đất trơ trọi đất lại dốc thì mỗi trận mưa lớn sẽ dồn xuống rất nhanh tạo ra
1
các trận lũ quét, lở đất vùng núi và lụt lội ở vùng đồng bằng gây ra nhiều tai
họa không chỉ về người mà thiệt hại về nhiều mặt.
Đặc biệt là khu vực miền núi với diện tích đất dốc tương đối lớn với độ
dốc lớn. Địa hình dốc là nguyên nhân dẫn đến xói mòn, sạt lở đất trên vùng
cao.Độ dốc là yếu tố đầu tiên tạo nên xói mòn do nước của đất.Cùng với hoạt
động sản xuất đất dốc không hợp lý đâ làm cho đất dốc bị thoái hóa nghiêm
trọng.Thoái hóa đất dốc không chỉ làm giảm năng suất cây trồng, giảm hiệu
quả sản xuất của đất. Không những thế nó còn gây ra các hiện tượng như lũ
ống, lũ quét ở đầu nguồn gây thiệt hại không chỉ về kinh tế, môi trường mà cả
tính mạng con người.
Chính vì tính cấp thiết của vấn đề này mà nhóm chúng tôi thực hiện đề


tài: “ Thoái hóa đất dốc ở Việt Nam”.
II. NỘI DUNG
2.1 Một số khái niệm liên quan :
- Đất dốc : Đất dốc là đất có bề mặt nằm nghiêng thường ghồ ghề hoặc
lượn sóng, phần nằm nghiêng là mặt dốc hoặc sườn dốc, góc tạo bởi sườn dốc
và mặt phẳng nằm ngang là độ dốc của địa hình.
- Thoái hóa đất:
+ Là quá trình thay đổi các tính chất hóa lý và sinh học của đất dẫn đến
giảm khả năng của đất trong việc các chức năng của mình.
+ Hoặc có thể định nghĩa thoái hóa đất đai là dấu hiệu chung của sự suy
giảm nhất thời hoặc thường xuyên khả năng sản xuất của đất đai (UNEP,
1992)
2
- Thoái hóa đất đai có thể được xem là sự mất khả năng sản xuất hiện
tạo hoặc tiềm tàng của đất do tác động của các nhân tự nhiên hoặc con người,
đó là sự giảm chất lượng hoặc giảm khả năng sản xuất của nó
2.2 Điều kiện tự nhiên ở Việt Nam
2.2.1 Địa hình
- Đồi núi là bộ phận quan trọng nhất của địa hình Việt Nam, Đa dạng nhiều
loại, trong đó đồi núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ chủ yếu là đồi núi thấp, Dãy
núi cao nhất nước ta là Hoàng Liên Sơn với đỉnh Fanxifăng cao 3143 mét,
Được coi là mái nhà của Ðông Dương. Miên núi nước ta còn có một số núi
cao hơn 2000 mét như Tây Côn Lĩnh 2427 mét, Ngọc Linh cao 2598 mét,
Bidup 2286 mét
- Địa hình chịu tác động mạnh mẽ của con người. Địa hình là nơi diễn ra mọi
hoạt động sản xuất của xã hội, làm cho địa hình ngày càng thay đổi, làm mất
đi vẻ nguyên sinh, hình thành nên dạng địa hình mới là dạng nhân sinh, phần
lớn địa hình VN ngày nay là dạng địa hình nhân sinh
2.2.2 Khí Hậu
- Việt Nam hoàn toàn nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với các đặc điểm khí

hậu nóng ẩm, mưa nhiều và mưa theo mùa. Quá trình phong hóa diễn ra mạnh
mẽ.
- Lượng mưa trung bình từ 1500-2000 mm/năm có nơi rất cao từ 2000-
3000mm/năm (Sapa, Tan Đảo, Móng Cái, )
- Độ ẩm không khí tương đối cao.
3
2.3 Hiện trạng.
- Trên thế giới: theo tài liệu của FAO (2000) thì trên thế giới có khoảng 1 tỷ
476 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó đất dốc vùng đồi núi chiếm 65,9% các
vùng đồi núi có đất dốc trên 10
0
chiếm 50 – 60% diện tích đất nông nghiệp
Bảng: Diện tích đồi núi ở 1 số quốc gia
Tên nước Thái Lan Philipin Lêpan
Diện tích đất đồi
núi so với tổng
diện tích tự nhiên
(1992)
35% 65% 87%

Phía nam Trung Quốc, đất vàng và đất đỏ Á nhiệt đới có tới 218 triệu
ha, trong đó 90% nằm ở địa hình đồi núi. Trong vùng này, xói mòn diễn ra
diện tích khoảng 615.300 km
2
(changli và ctv,1992). Nêpan có diên tích
147.500 km
2
(14,75 triệu ha), trong đó 2/3 là đất đồi núi, nơi đó chủ yếu là
dân tộc thiểu số sinh sống. Ở trung du miền trung Nêpan tập trung nhiều đất
dốc nhất trên cả nước, chiếm 42.800 km

2
. Trong tổng diện tích đất nông
nghiệp, đất dốc là 709.400 ha, đất bằng 954.000 ha, (Joshy và cvt, 1992).
Philipin có tổng diện tích 30 triệu ha, trong đó có hơn 60% là đất dốc, xói
mòn, tầng mỏng, rất khó khăn cho trồng trọt (Atienza và ctv,1992)
- Ở Việt Nam:
đối với Việt Nam thì đất dốc là một hợp phần quan trọng trong hệ sinh
thái – nhân văn toàn quốc, không chỉ vì nó chiếm ¾ lãnh thổ mà vì nó là nơi
cư chú của hàng chục triệu người thuộc 54 dân tộc anh em, chủ yếu là các dân
tộc thiểu số. Dân cư của 54 dân tộc thiểu số có khoảng 8 triệu người (1999) và
4
hơn 10 triệu người (1/4/2008)  việc khai thác và sử dụng đất đồi núi ngày
càng ra tăng
Trong phạm vi toàn quốc, đất dốc gồm các khu vực gò đồi, cao nguyên,
núi thấp và núi cao phân bố ở cả 8 vùng sinh thái trong toàn quốc với diện tích
khoảng 24,862 triệu ha. Tuy nhiên ở 2 vùng. Đồng bằng sông hồng và Đồng
bằng sông cửu long đất dốc chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, nên tập trung chủ yếu ở
vùng núi phía Bắc, Tây trung bộ và Tây nguyên.
Trong cả 8 vùng sinh thái, nhóm đất đỏ vàng chiếm diện tích lớn nhất,
sau đó là nhóm đất vàng đỏ trên núi và cuối cùng là nhóm đất xám bạc màu.
Trong tổng số 24.863 triệu ha đất dốc.
Bảng: Phân độ phì nhiêu của đất dốc
Độ phì nhiêu của đất dốc Diện tích
(ha)
Tỉ lệ
(%)
Cấp
Khá 3,336 13,4 2
Trung bình 1,068 6,5 3
Kém do tầng đất mỏng 0,910 3,7 4

Kém do có độ dốc cao và nguy
cơ sói mòn lớn
2,071 8,3 5
Kém do có độ dốc và nguy cơ
sói mòn lớn, tầng đất mỏng,
16,938 68,1 6
Tổng 24.863 100%
Phần lớn diện tích đất có độ dốc dưới 15
0
(chiếm 21,9%) đã được sử
dụng cho sản xuất nông nghiệp hoặc nông lâm kết hợp. Diện tích đất dốc có
độ dốc từ 15-25
0
chiếm khoảng 16,4%, còn lại là đất dốc có độ dốc trên 25
0

diện tích 12,1 triệu ha (chiếm 61,7% toàn quốc và 54,9 diện tích đất đồi núi).
Đây là khu vực nhạy cảm, dễ biến động khi có sự thay đổi về điều kiện sinh
thái, đặc biệt là thảm thực vật. Tuy nhiên do thiếu đất nên cư dân miền núi vẫn
phải canh tác trên đất có độ dốc trên 25
0
chịu xói mòn rất mạnh và thời gian
canh tác rút ngắn, thường chỉ trồng được 2-3 vụ cây lương thực ngắn ngày,
5
sau đó trồng sắn và bỏ hóa. Những vùng đất có độ dốc thấp, do sức ép của
chăn thả tự do cây cối ko thể tái sinh, các loài cỏ cho trâu bò cũng không thể
phát triển, ngoại trừ cỏ may, cỏ đắng, cỏ tranh, đã trở thành vùng đất chống,
đồi núi trọc với độ thoái hóa đến mức khó có thể phục hồi nếu như không đầu
tư cao và kịp thời, các loài cỏ dại không có giá trị kinh tế lại phát triển mạnh
và cạnh tranh gay gắt với cây trồng. Kết quả là rừng bị mất đất bị thoái hóa,

năng suất cây trồng thấp , thu nhập từ chăn nuôi cũng giảm nên cuộc sống
người nông dân miền đất dốc rất khó khăn và luẩn quẩn trong vòng đói nghèo.
Bảng: Tình hình đất dốc ở một số vùng
Vùng Diện tích Đất dốc Đất có

rừng (%)
Đất thoái hóa
Triệu ha %
Trung du
MNPB
9,8 95 9 7,84 80
Bắc trung bộ 5,2 80 12 3,64 70
Nam trung bộ 4,4 70 13 2,83 65
Tây nguyên 5,5 90 23 2,86 60
Cộng 24,9 17,64
(nguồn: hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường)
2.4 Nguyên nhân.
6
2.4.1 Nguyên nhân tự nhiên
- Do xói mòn ,rửa trôi:trong các nguy cơ gây thoái hòa đất dốc ở Việt
Nam thì xói mòn rửa trôi là nguy cơ phổ biến nhất

Xói mòn do nước có thể do
+ Lương mưa ở nước ta lớn:1500-2500mm/năm, lượng mưa tập trung
không đều trong năm, cương độ mưa lớn (41-46%)gây xói mòn
+ Địa hình đất dốc
+ Phần lớn đất đồi núi có tầng mỏng <50cm và các loại đất có tính
chống chịu kém đối với sói mòn do nước
Bên cạnh đó là sự sói mòn do gió :tốc độ gió lớn ,độ ẩm của đất và không khi
lớn

+ Do đất dốc có độ dốc lớn sẽ quyết định đến thế năng của hạt đất và
dòng chảy phát sinh trên mặt do vậy càng làm cho tốc độ sói mòn tăng
M= S
a
Trong đó M:lượng đất bị sói mòn
S:Độ dốc
A: hệ số mũ(a=1,35)
- Khi xói mòn rửa trôi là nguyên nhân cơ bản làm cho độ chua tăng lên
vì khi sói mòn và rửa trôi các cation kiềm và kiềm thổ cũng bị rửa trôi theo
và có quá trình giải phóng ion H
+
và Al
3+
vào dung dịch .Các ion này sẽ đi vào
phức hê hấp phụ của keo đất ngày càng nhiều để chiếm chỗ trống do bị kiềm
7
rửa trôi.Như vậy ,keo đất ngày càng bão hòa các cation H
+,
,Al
3+
trở nên chua
hơn.
Vào mùa mưa. thời gian và cường độ sói mò và rửa trôi là lớn nhất thì sự suy
giãm chất hữu cơ ,mùn và chất dinh dưỡng là lớn nhất.Chất hữu cơ và mùn bị
suy giảm dẫn đến hàng loạt các tính chất khác của đất bị thay đổi theo chiều
bất lợi và đất bị thoái hóa nhanh chóng.
Diện tích đất dốc cũng khá tương đồng với tỉ lệ đất thoái hóa do sói mòn
và rửa trôi.Vùng Tây Ngyên có cấp độ dốc ít nhất nhưng cũng có thoái hóa do
sói mòn đến 60%. Vùng có độ dốc cao nhất là ở miền núi và trung du Bắc Bộ
diện tích đất thoái hóa do sói mòn nhiều nhất ,chiếm 80% trong tổng diện tích

9,8 triệu ha.
- Thay đổi thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu: Biến đổi khí hậu gây
dối loạn chế độ mưa ,nắng ,nhiệt độ thời tiết gây ra các hiên tượng bão lũ
,hạn hán kéo dài,do vậy biến đổi khí hậu là yếu tố gây bất lợi cho sự hình
thành đất.vùng đất dộc là những khu vực rất nhạy cảm,dễ biến động khi có sự
biến đổi khí hậu ,điều kiện sinh thái ,đặc biệt là thảm thực vật.Do đó ,tài
nguyên đất ở các vùng đất nãy có nguy cơ tiếp tục bị suy thoái trầm trọng .làm
biến đổi các tính chất đất và mất đất không còn tính năng sản suất
2.4.2 Nguyên nhân thoái hóa nhân tạo
*nguyên nhân trực tiếp:
- Sự phá rừng:Là nguyên nhân chủ yếu của sói mòn do nước ,đặc biêt
trên các đất dốc của vùng khí hậu ẩm ướt.Nó là một nguyên nhân góp phần
cho sói mòn do gió ,sự suy giảm độ phì nhiêu của đất
8
- Sự đốn cắt quá mức thảm thực vật:Đất dốc hiện nay còn lại tầng A
o

A
1
rất mỏng. người nông dân thường đốn cắt rừng tự nhiên lấy gỗ hoặc đốn
củi ,lớp thảm mục không còn có tác dụng bảo vệ tầng mặt làm lớp đất mặt bị
rửa trôi
- Luân canh cây trông không có thời gian bỏ hoang thích hợp :Điều nài
đẫ làm thoái hóa tinh chất vật lý của đất. Đất dốc bị cày xới ,rửa trôi và mất
chất hữu cơ ,mất kết cấu sẽ làm cho độ xốp giảm xuống,dung trọng và độ chắt
tăng lến
Hoạt động canh tác nương rẫy,chặt phá rừng ,đốt nương làm rãy làm cho
đất trở nên nghèo kiệt cho năng suất thấp .tạo điều kiên cho sói mòn đất diễn
ra mạnh hơn
- Không thực hiện các biện pháp quản lý đất hợp lý bảo vệ đất

- Do sức ép của sự gia tăng dân số đã dẫn đến mở rộng đất canh tác mà
đặc biêt là trên đất dốc –loại đất có khả năng thoái hóa tự nhiên(hoặc thoái
hóa tiềm năng) cao
*nguyên nhân gián tiếp:
- Thiếu đất đai:đất đai là một tài nguyên hạn chế nên dễ nhận thấy sự
thiếu đất đai,hiên nay sự gia tăng dân số ở các vùng có đất dốc khiên cho việc
sử dụng đất dốc không hợp lý diễn ra,Để dáp ứng được nhu cầu về kinh tế
trước mắt con người đẫ tận dụng hết năng suất của đất mà không có các biện
pháp trả lại chất dinh dương cho đất làm đât bị thoái hóa nghiêm trọng.
9
- Sự nghèo nàn:Nhiều nước đang phát triển có tiến bộ rất lớn trong phát
triển kinh tế ,đạt được sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội tính theo đầu
người .Vấn đề là những cải thiện đó có tương ứng với phúc lợi xã hộ thực tế
của lớp dân nghèo nông thôn Phần lớn những người nông dân vẫn ở mức
nghèo hoặc gần nghèo.Sự nghèo đói dẫn đến sự thoái hóa đất đai .Một thực tế
hầu như chắc chắn rằng những nông dân khá giả hơn duy trì đất của họ tốt
hơn những nông dân nghèo.
Sự tăng dân số; cùng với sự thiếu về đất đai ,nguyên nhân cơ bản của sự thoái
hóa đất dốc nói riêng và đất đai nói chung là sự gia tăng dân số
2.5 Hậu quả
- Đất bị thoái hóa: là những loại đất do những nguyên nhân tác động
nhất định theo thời gian đã và đang mất đi những đặc tính và tính chất vốn có
ban đầu trở thành các loại đất mang đặc tính và tính chất không có lợi cho
sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng nông lâm nghiệp
- Một loại đất bị thoái hóa nghĩa là bị suy giảm hoặc mất đi:
+ Độ phì đất: các chất dinh dưỡng; cấu trúc đất; màu sắc ban đầu của đất; tầng
dày đất, thay đổi pH đất…
+ Khả năng sản xuất: các loại cây trồng, các loại vật nuôi, các loại cây lâm
nghiệp
+ Cảnh quan sinh thái: Rừng tự nhiên , rừng trồng, hệ thống cây trồng

+ Hệ sinh vật: cây - con
+ Môi trường sống của con người: cây xanh, nguồn nước, không khí trong
lành, nhiệt độ ôn hòa, ổn định…
- Tác hại do xói mòn:
+ Rửa trôi nước:
Đất bị mất lớp che phủ, xói mòn đất làm giảm và mất dần khả năng giữ
nước của đất, nước rửa trôi mạnh, dễ bị hạn hán, khô cằn.Xói mòn gây nên
10
mất nước nghiêm trọng ở nhiều nước nhiệt đới ẩm, mưa nhiều, nước trôi tới
50-60% lượng mưa hàng năm.
Ở những nơi đất xói mòn, đất có độ phì nhiêu kém, tầng che phủ cạn
kiệt hoặc canh tác không hợp lý thì tỷ lệ này lớn hơn.
Ở nơi có lượng mưa thấp thì tỷ lệ này cùng thấp hơn.
Ở những nơi đất có độ phì nhiêu khá, tầng đất dày, độ che phủ tốt, có
các biện pháp chống xói mòn tốt thì tỷ lệ này thấp hơn do nước được giữ lại
bởi tầng che phủ, bởi các hệ thống biện pháp chống xói mòn (băng cây xanh,
hố vảy cá, mương bờ . . ), bởi thấm xuống các tầng dưới, giữ lại bởi đất và hệ
rễ cây trồng.
+ Rửa trôi đất:
Xói mòn gây mất đất nghiêm trọng. Mất đất do xói mòn có thể chỉ một
vài tấn cho đến hàng trăm tấn đất trên diện tích 1 ha tuỳ thuộc: Lượng và
cường độ mưa, tần số mưa, tính thấm nước của đất, độ bền của cấu trúc đất độ
dốc, độ dốc và dài dốc, các biện pháp bảo vệ đất, các biện pháp canh tác. Ở
nhiều vùng đất dốc mà con người khai thác đất không hợp lý, rừng bị chặt
phá, canh tác không có biện pháp bảo vệ, mất dần lớp che phủ trên điều kiện
độ dốc lớn, cường độ mưa lớn đất đã bị bào mòn dần lớp màu mỡ bề mặt, đất
mất dần sức sản xuất.
Lượng đất mất do xói mòn là rất lớn phụ thuộc vào độ dốc, chiều dài
sườn dốc, thực trạng lớp phủ trên mặt đất, dao động từ 100 đến 500 tấn
đất/ha/năm.

Theo nghiên cứu về lượng xói mòn trên đất canh tác rẫy ở Tây Bắc của hội
Khoa Học Đất Việt Nam:
11
Bảng: Lượng đất hằng năm bị mất do xói mòn.
Vụ Độ dày tầng đất bị xói
mòn (cm )
Lượng đất mất ( tấn/ha )
Vụ 1 (1962)
Vụ 2 (1963)
Vụ 3 (1964)
0,79
0,88
0,77
119,2
134,0
115,5
Cả 3 vụ gieo 2,44 366,7

+ Mất chất dinh dưỡng của đất:
Gắn liền với mất đất do xói mòn là mất chất dinh dưỡng. Tuỳ thuộc vào
độ dốc, tổng lượng và cường độ mưa và các phương pháp bảo vệ đất, mức độ
xói mòn mà lượng chất dinh dưỡng mất có thể thay đổi: 250 kg chất hữu cơ,
13 kg N, 20 kg P
2
O
5
, 20 kg K
2
O cho đến 4800 kg chất hữu cơ, 200 kg N 300
kg P

2
O
5
và 300 kg K
2
O. Đất độc canh cây lương thực như trồng sắn, lúa
nương mất dinh dưỡng nhiều, đất canh tác nông lâm nghiệp áp dụng đầy đủ
các biện pháp chống xói mòn mất ít. Nếu mưa to vào dịp mới trồng, cây chưa
khép tán thì mất dinh dưỡng nhiều hơn. Cùng tổng lượng mưa trong năm,
nhưng nếu có nhiều trận mưa to, mưa bão thì mất đất mất dinh dưỡng nhiều
hơn. Sự suy giảm hàm lượng chất hữu cơ là nguyên nhân gây thoái hoá đất.
Chất hữu cơ cải thiện tình trạng vật lý đất làm đất chống xói mòn tốt hơn. Có
tương quan giữa hàm lượng chất hữu cơ và sức chứa ẩm cực đại. Chất hữu cơ
làm giảm độc sắt nhôm, làm tăng lân dễ tiêu, hạn chế rửa trôi của các kim loại
kiềm, kiềm thổ.
Theo số liệu của bộ nông nghiệp, đất đòi núi miền Bắc nước ta hằng
năm mất khoảng 1cm tầng đất mặt (100m
3
/ha), trong đó có khoảng 6 tấn mùn
(tương đương khoảng 100 tấn phân chuồng) và 300kg N (tương đương
khoảng 1,5 tấn sunphat amon). Đặc biệt có nơi như Tây Bắc mất đi khoảng
3cm đất mặt, tương đương 150 - 300 tấn/ha. Mỗi năm cuốn ra biển khoảng
12
250 triệu tấn phù sa màu mỡ, riêng sông Hồng mất đi khoảng 80 triệu m
3
/năm.
Làm thay đổi tính chất vật lí của đất, số liệu thể hiện ở bảng sau:
Chỉ tiêu quan sát Số lượng bị trôi (%)
Cấp hạt lớ hơn 1mm 21,00
Cấp hạt nhỏ hơn 1mm 79,00

N % 0,48
P2O5 % 0,23
K2O % 5,80
Mùn 11,0
( Nguồn: “Thổ Nhưỡng học”, Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp, 1979)

Theo Trần Đức Toàn và cộng sự (1998) sau khi đo kết quả xói mòn trên
các hệ thống canh tác tại huyện Tam Dương (cũ) - Vĩnh Phúc. Trong điều kiện
lượng mưa/năm thay đổi từ 800 - 1890mm thì lượng đất mất và lượng dinh
dưỡng mất trên đất đồi trọc khoảng 599,2kg chất hữu cơ, 52kg đạm, 26,2kg
lân và 34,6kg kali trong 1 năm. Còn trên đất trồng sắn thì mất 295kg hữu cơ,
28,3kg đạm, 21,3kg lân và 22,4kg kali trong 1 năm.
Cụ thể được thể hiện trong bảng sau:

Hệ thống canh tác Dòng chảy
mặt
(m
3
/ha/năm)
Đất mất
(tấn/ha/năm)
Dinh dưỡng mất
(kg/ha/năm)
OC Đạm Lân Kali
Đồi trọc 42520 37,2 599,2 52,0 26,6 34,6
Sắn 32628 24,5 295,0 28,3 21,3 22,4
Sắn + đỗ đen 30946 22,7 282,8 27,7 21,9 28,2
Sắn + đỗ đen + băng
cốt khí + dứa chắn
xói mòn

29256 21,1 346,9 32,2 20,5 25,8
Sắn + đỗ đen + băng
cốt khí + keo tai
tượng + dứa
27437 17,5 277,6 29,2 19,9 22,5

13
Làm tổn hại tới môi trường sống của sinh vật, động thực vật đất, nên
hạn chế khả năng phân giải của chúng, do đó độ phì của đất giảm.
+ Tác hại đến sản xuất:
Năng suất cây trồng giảm nhanh, có khi không thu hoạch. Như ở Nông
trường Mộc Châu, Tây Bắc năm 1959 mới khai phá, năng suất lúa 25 tạ/ha,
đến năm 1960 chỉ còn 18 tạ/ha, năm 1961 còn 5 tạ/ha và năm 1962 gieo ngô
cũng không thu hoạch được.
Tăng chi phí sản xuất để phục hồi đất, thu nhập của người dân thấp, đời
sống của người dân gặp khó khăn:
• Tác hại đến sản xuất nông nghiệp: đất bị bào mòn, đất trở nên
nghèo, xấu, mất hết chất hữu cơ độ phì trong đất. Xói mòn đất gây nhiều thiệt
hại to lớn trong nông nghiệp, đã lôi cuốn phần lớn các hạt đất có kích thước
nhỏ có chứa chất phì làm đất trở nên nghèo nàn. Làm giảm năng suất cây
trồng.
• Tác hại đến sản xuất công nghiệp: Do xói mòn đất, nương rẫy chỉ
làm vài ba vụ rồi bỏ hóa, chế độ canh tác bừa bãi theo kiểu đốt nương làm rẫy
đã làm cho nông sản giảm đi rất nhiều. Rừng bị chặt phá sẽ kèm theo hạn hán,
lũ lụt.
• Tác hại đến thủy lợi: Mức độ xói mòn ở nước ta thuộc loại cao,
phù sa các sông lớn cuốn từ thượng nguồn về bồi đắp các con sông ở hạ lưu
làm nâng mực nước sông dẫn đến lụt lội. Ngoài ra, sa bồi làm cho các công
trình thủy lợi như hồ chứa nước, kênh mương bị thu hẹp diện tích, hiệu suất
sử dụng bị hạn chế, công tác tưới tiêu gặp nhiều trở ngại.

+ Ô nhiễm do xói mòn gây ra:
Đồng thời với việc lấy đi đất và chất dinh dưỡng từ đất, xói mòn còn
gây ô nhiễm nước lưu vực, suối, sông, hồ nước. Thêm vào tác hại do xói mòn,
các chất dinh dưỡng bào mòn từ đất gây ô nhiễm các dòng chảy bằng các cặn
lắng. Các dòng chảy chứa các chất lắng đọng làm suy yếu dòng chảy bởi lấp
dần các dòng chảy bởi cặn lắng và gây ô nhiễm nước, ô nhiễm tới cá và các
14
động vật thuỷ sinh và làm cạn kiệt dần. Các chất cặn lắng do xói mòn còn ảnh
hưởng tới con người do làm nhiễm bẩn nguồn nước, lấp dần các dòng sông và
hồ chứa nước, tắc nghẽn dòng chảy. Xói mòn do gió còn làm hư hại dơ bẩn
đến các công trình xây dựng, đường xá.
Xói mòn nước, đất xảy ra trên vùng sản xuất nông nghiệp được đầu tư
phân bón hoá chất bảo vệ thực vật cũng sẽ cuốn theo không chỉ đất, chất dinh
dưỡng của đất mà còn cuốn theo các hoá chất nông nghiệp gây ô nhiễm môi
trường nước nghiêm trọng. Ở những nơi đầu tư nông nghiệp cao, ô nhiễm
nguồn nước do xói mòn đã làm tổn hại khá lớn về kinh tế để xử lý nước, loại
bỏ các chất độc hại ra khỏi nước dùng cho sinh hoạt.
Xói mòn ở mức độ cao người ta gọi là hiện tượng lở đất, sạt núi gắn liền
với hiện tượng lũ quét đã gây thiệt hại không những cho môi trường sinh thái,
cảnh quan mà cả con người và xã hội.
2.5 Giải pháp
2.5.1 Biện pháp canh tác theo đường đồng mức chống xói mòn
Xây dựng các mô hình tổng họp về các kỹ thuật canh tác trên đất dốc
như Rừng-Vườn-Ao-Chuồng (RVAC), SALT và tuân thủ theo hướng dẫn của
Thủ tướng Chính phủ.
Bảng tiêu chuẩn sử dụng đất theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Cấp độ dốc Độ dốc Phương thức sử dụng đất
-Nhẹ < 15
o
-Vừa 16-25

o
- Mạnh 26-35
o
- Rất mạnh > 35
o
< 27
27 - 33
33 -47
>47
- Ruộng bậc thang, vườn nhà, vườn rừng,
VAC.
- Ruộng bậc thang hẹp, vườn nhà nông lâm
kết hợp, vườn rừng, trang trại nương định
canh, trại rừng, bãi chăn thả, cây công
nghiệp dài ngày.
- Nương định canh, trại rừng, rừng rẫy luân
canh, đồng cỏ, bãi chăn thả luân canh.
- Khoanh nuôi bảo vệ, tái sinh phục hồi
15
rừng.
a. Canh tác theo đường đồng mức kết hợp băng (SALT1)
Canh tác theo băng là hệ thống nông lâm kết hợp bao gồm việc trồng
các cây làm ranh (thường theo hướng Đông-Tây) và canh tác hoa màu ở
đường băng giữa hai hàng ranh. Các hàng ranh thường rộng một mét, được
cấu tạo bởi một hoặc hai hàng cây than gỗ đa niên và định kỳ được cắt tỉa để
tránh che bóng cây hoa màu.
Biện pháp canh tác này phải áp dụng triệt để kỹ thuật luân canh và xen
canh khi canh tác hoa màu nông nghiệp giữa hai hàng ranh cây xanh.
Lợi ích:
-Bảo tồn đất và nước trên đất dốc.

-Phục hồi độ phì của đất.
-Năng suất và thu nhập của nông trại;
-Hạn chế xói mòn đất, lưu giữ lại lượng đất mặt bị cuốn trôi tại chân
các hàng cây, làm giảm vận tốc của dòng chảy bề mặt.
Việc canh tác này ít gây thay đổi đến các cách canh tác của nông dân,
trừ việc đưa vào gây trồng các hàng ranh, nông dân vẫn tiếp tục canh tác như
cũ.
Hạn chế: Biện pháp này hiệu quả cải thiện được độ phì của đất sau canh
tác chỉ thấy sau một thời gian( ít ra là 4 năm) nên ít thuyết phục người nông
dân nghèo thiếu đất canh tác và ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng hoa
màu.
b. Hệ thống lâm-nông-đồng cỏ (SALT2)
Kỹ thuật này sử dụng đất tổng hợp dựa trên kỹ thuật canh tác nông
nghiệp trên đất dốc (SALT1) nói trên bằng cách dành một phần đất trồng cây
làm thức ăn để chăn nuôi theo phương thức nông súc kết hợp.
16
Lợi ích: Thức ăn của gia súc cắt từ cỏ và cây họ đậu trên đường đồng
mức, phân gia súc được bón cho đất canh tác giúp cải thiện độ mùn cho đất
Hạn chế: Nông dân thiếu kỹ thuật về kỹ năng này và thiếu kiến thức về
sự cân đối giữa diện tích trồng cây thức ăn gia súc và số đầu gia súc có thể
nuôi.
c. Hệ thống canh tác nông-lâm bền vững (SALT3)
Kỹ thuật này dựa trên kết hợp trồng rừng quy mô nhỏ với việc sản xuất
cây lương thực, thực phẩm. Trong hệ thống canh tác SALT3, nông đân dành
phần đất thấp ở sườn dưới và chân đồi để trồng các băng cây lương thực xen
với các hàng rào xanh cây cố định đạm, bảo vệ đất khỏi bị xói mòn. Phần đất
cao ở bên trên từ sườn đến trên đến đỉnh đồi trồng rừng hoặc để rừng tự nhiên
phục hồi. Cây lâm nghiệp được chọn để trồng có chu kỳ thu hoạch từ 1-5; 6-
10; 11-15; 16-20 năm sao cho nông dân có sản phẩm thu hoạch. Phải sử dụng
cây mọc nhanh và cho gỗ nhỏ trồng xen phụ trợ cho các cây lâm nghiệp chu

kỳ dài ngày. Ngoài ra, phải chọn cây có tác dụng cải tạo đất như keo dậu, bản
xe lá phượng, lỗi thọ, tếch đồng thời có giá trị kinh tế cao. Bố trí: 40% dùng
cho nông nghiệp và 60% dung cho lâm nghiệp.
Lợi ích: Đất đai được bảo vệ có hiệu quả hơn.
Hạn chế: Kỹ thuật này đòi hỏi đầu tư tương đối cao cả về vốn cũng hiểu
biết. Cần thời gian dài mới thu hoạch được.
17
d. Hệ thống sản xuất nông lâm nghiệp với cây ăn quả quy mô nhỏ(SALT4)
Đây là kỹ thuật sử dụng đất tổng hợp. Trong kỹ thuật này, ngoài đất đai
để trồng cây lương thực, cây lâm nghiệp, cây hàng rào xanh, nông dân còn
dành phần trồng cây ăn quả như đu đủ, chuối, cam, chanh,… và cả một số cây
công nghiệp có giá trị như cà phê, ca cao, chè,…
Lợi ích: Gia tăng được độ che phủ mặt đất bằng các loại cây ăn quả.
Hạn chế: Đầu tư cao và cần kiến thức về biện pháp làm đất, chọn giống,
bón phân, chăn sóc cây ăn quả.
2.5.2 . Các biện pháp công trình chống xói mòn bảo vệ đất dốc
a. Làm ruộng bậc thang
18
Xây dựng ruộng bậc thang bằng cách chia cắt dốc thành các bậc thềm để
giữ nước, điều chỉnh dòng chảy, chống xói mòn. Ở các bậc thềm, nước được
thấm lọc từ từ xuống những tầng đất sâu, hoặc giữ nước để trồng lúa.
Những mặt mạnh của ruộng bậc thang :
- Tác dụng chống sói mòn và rửa trôi rất lớn;
- Có điều kiện thu lại lượng đất trên mỗi bậc thềm;
- Làm giảm chiều dài sườn dốc, giảm hẳn tốc độ dòng chảy từ trên
đỉnh đồi xuống;
- Cải thiện đất về lâu dài.
b. Biện pháp công trình làm mương bờ kết hợp:
Công trình bao gồm những rãnh và bờ cao, xây dựng dọc theo đường
đồng mức trên đất dốc. Mục đích của công trình là ngăn chặn mất đất và bẫy

nước. Người ta thường trồng cây keo dậu và cỏ để giữ các bờ cho ổn định.
Trong mùa mưa , các rãnh thường chứa đầy bùn, nông dân thường nạo vét và
trả lại cho mặt ruộng bằng cách rải đều.
Những mặt mạnh của mương bờ kết hợp:
- Ngăn chặn rất hiệu quả rửa trôi và sói mòn ở những độ dốc trung
bình;
19
- Những rãnh nằm ở phía dưới các bờ luống thường giữ được bùn đất
và các chất dinh dưỡng;
- Đầu tư lao động ít hơn so với làm ruộng bậc thang;
- Ít làm đảo lộn đất, đạc biệt với những loai đất dốc có tang đất nông.
c. Vật cản đất của mương bờ kết hợp
Vật cản đất nhằm giảm rửa trôi và giữ lại đất bị mất do sói mòn bề mặt.
Chúng có thể được làm từ gỗ hay đá và dần dần nó có thể trở thành hàng rào
sống bằng việc gieo trông các cây lâu năm và cây bụi. Ở đất trông trọt,
khoảng cách giữa các vật cản phụ thuộc vào độ dốc, nhưng thường từ 4-8m.
Các cây trồng như ngô, khoai và đậu đỗ các loại, được trồng theo hàng giữa
băng vật cản đất.
Những mặt mạnh:
- Làm giảm rửa trôi bề mặt;
- Giữ lại bùn cát ở phía trước vật cản;
- Nếu được tu bổ cẩn thận, thường xuyên, vật cản đất sẽ trở thành
những bậc thang;
- Cho phép canh tác được trên những đất rất dốc mà bình thường
không thể trông cấy được.
c. Biện pháp bẫy đất
Đó là công trình được xây đựng để thu gom đất bị xói mòn từ trên đỉnh
đồi núi xuống. Dạng phổ biến nhất là những đập ngăn lũ hoặc các rãnh được
xây dựng ở dạng mương phân dòng chảy hoặc đường dẫn nước. Kích thước
của đập ngăn lũ phụ thuốc vào rãnh nước hoặc rãnh bị xói mòn. Đập ngăn lũ

(hay kè ngăn lũ) có thể làm bằng tre, gỗ hoặc nhiều vật liệu khác bện lại với
nhau. Hố bẫy được đào khoảng 1-2 m trước đập ngăn lũ, sâu khoảng 0,8m, dài
khoảng 1m và rộng khoảng 0,5m.
20
Những mặt mạnh:
-Ngăn chặn không cho các rãnh xói mòn mở rộng và khoét sâu them
- Làm tăng sự lắng đọng các bùn đất giàu dinh dưỡng.
- Làm giảm tốc độ quá trình rửa trôi vào rãnh xói mòn;
- Chỗ mà đất tích đọng có thể trồng cấy.
d. Hố trữ nước và bẫy đất chống xói mòn
Các công trình này dễ làm, các hố đào xen kẽ nhau dạng vẩy cá, sâu
50cm.Chúng có tác dụng cắt dòng chảy, trữ nước, bẫy được đât, chống xói
mòn. Sau mùa mưa, các hố được nạo vét, đất trong hố được vãi lại trên mặt
ruộng.
2.5. 3. Các biện pháp kỹ thuật canh tác trên đất dốc
a. Gieo trồng và làm đất theo đường đồng mức
Gieo trồng và làm đất theo đường đồng mức có thể bao gồm cả bẫy đất,
ruộng bậc thang hoặc băng cây sống. Đường đồng mức được xác định nhờ
thước chữ A.
Những mặt mạnh
-Giảm rửa trôi và xói mòn đất;
- giảm mất mát chất dinh dưỡng;
-Canh tác nhanh hơn nếu dùng sức kéo động vật hoặc máy móc vì các
thiết bị đều chuyển động dọc theo độ cao.
b. Làm đất tối thiểu không làm đất.
Trong hệ thống này, những công cụ đơn giản như cuốc, gậy chọc lỗ
được dùng để chuẩn bị đất và treo trồng cây lương thực. Làm đất tối thiểu là
phổ biến và hiệu quả trong kiểm soát xói mòn đất, đặc biệt ở những đất tươi
xốp và đất cát
Những mặt mạnh:

- Làm giảm tác động trực tiếp của các giọt mưa trên đất trống, trọc và
do đó làm giảm xói mòn đất;
- Giảm sự thoái hóa cấu trúc đât;
21
- Giảm tốc độ khoáng hóa dẫn đến việc sử dụng các chất dinh dưỡng
bền vững hơn trong chất hữu cơ;
- Đòi hỏi ít lao động hơn là làm đất kĩ;
- Có thể thực hiện trên những loại đất xấu mà nếu làm đất kĩ không
thể cach tác được.
c. Che phủ mặt đất
Che phủ mặt đất là kinh nghiệm để bảo bệ đất và nước, mà trong đó
dùng cỏ, rơm, dạ và các vật liệu hữu cơ khác để che phủ bề mặt đất, giữa các
hàng hoặc gốc cây. Thực tiễn này giúp giữ độ ẩm đất, hạn chế cỏ dại và làm
tăng cấu trúc đất làm đất tươi xốp.
Những mặt mạnh:
- Ngăn chặn tác động trực tiếp của các hạt mưa lên đất trống, trọc và
giảm rửa trôi, mất đất;
- Hạn chế cỏ dại và giảm công lao động để làm cỏ;
- Tăng chất hữu cơ cho đất;
- Cải thiện các tính chất lý – hóa học của đất;
- Giúp điều chỉnh, giảm nhiệt độ của đất vào mùa hè.
2.5. 4. Các biện pháp kĩ thuật sinh học
a. Luân canh cây trồng
Đó là nhiều loài cây trồng khác nhau được gieo trồng kế tiếp nhau, cây
nọ sau cây kia trên cùng 1 mảnh đất hay thửa ruộng nương, trong luân canh
các tính chất dinh dưỡng và lý học của đất được cải thiện rõ.
Một hình thức luân canh điển hình là lúa- đậu- ngô- đậu xanh. Các cây họ
đậu này có khả năng cố định đạm và tác động tốt lên đất và có thể trồng ngô
sau đỗ, vì ngô đòi hỏi nhiều chất dinh dưỡng.
Những mặt mạnh:

- Rất có hiệu quả để cải thiện độ phì nhiêu đất;
- Làm giảm sự mất dinh dưỡng của đất;
22
- Giúp duy trì sản xuất lương thực;
- Đa dạng hóa cây trồng;
- Giúp kiểm soát côn trùng và bệnh tật.
b. Trồng cây che phủ
Cây trồng che phủ được trồng để bảo vệ đất qua nguồn phân xanh (hoặc
cày vùi hoặc những vật liệu hữu cơ tơi khác )
Đây là những cây ngắn ngày ( ít hơn 2 năm ) trồng ở ruộng hoặc dưới
bóng cây trong thời gian bỏ hoang những cây trồng che phủ trồng xen theo
hàng với các cây ngũ cốc như ngô, lúa nương.
Những mặt mạnh:
- Cải thiện đoộ phì đất và các tính chất lý – hóa học của đất ;
- Làm giảm xói mòn đất và mất nước ;
- Hạn chế cỏ dại phát triển ;
- Làm giảm nhu cầu sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu;
- Cung cấp thức ăn cho người và động vật;
- Tăng chất hữu cơ cho đất;
- Duy trì độ ẩm đất và phòng chất mặt đất khỏi bị khô hạn;
- Một số cây che phủ có thể bán quả, hạt có thu nhập hơn.
c. Tăng cường hữu cơ cho đất
Tăng cường hữu cơ cho đất là giải pháp tăng sức sản xuất cho của đất.
Do địa hình dốc, đi lại khó khăn, nên vận chuyển phân hữu cơ , phân chuồng
để bón cho đất đồi núi là bất khả thi với đất đồi núi. Chỉ có thể tận dụng các
nguồn hữu cơ tại chỗ bón tủ hay ép xanh cho cây trồng.
2.5. 5. Giải pháp về chính sách
a. Chính sách pháp luật
Bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện hơn nữa các chính sách và pháp luật về
quyền sở hữu, sử dụng và quản lý nhà nước về đất đai.Tiếp tục xây dựng và

ban hành các chính sách, các quy định về quản lý đất dốc; cần lồng ghép có
23
hiệu quả các chính sách quốc gia với các kế hoạch hành động quốc tế về việc
chống thái hóa và sử dụng đất đai.
b. Chính sách kinh tế
Cần quy hoạch, sắp xếp lại dân cư giữa các vùng, miền nhằm giảm áp
lực của dân số đối với tài nguyên đất; Nghiên cứu và áp dụng công nghệ sản
xuất nông – lâm – ngư nghiệp liên hoàn.
c . Giao quyền sử dụng đất tới người dân
Chính sách giao đất và giao rừng của Đảng và Nhà nước ta là “ đòn bẩy
“ và là “ bà đỡ” cho mọi thành công của nước ta trong lĩnh vực sử dụng hiệu
quả và quản lý bền vững tài nguyên đất.
d. Thể chế hóa chính sách bảo vệ tài nguyên đất
Nhà nước ta có rất nhiều chủ trương chính sách với những nỗ lực rất
lớn nhằm ưu tiên cho sự phát triển nông thôn miền núi, xóa đói giảm nghèo
cho cộng đồng các dân tộc đang gặp khó khăn ở vùng sâu, vùng xa.
III. KẾT LUẬN
- Đất dốc là nhóm khó tái tạo và đảm bảo chất lượng sau canh tác. Đất
dốc Việt Nam đang đứng trước nguy cơ thoái hóa, suy giảm khả năng sản
xuất, nguyên nhân chủ yếu do nhóm đất này phân bố chủ yếu ở vùng sâu,
vùng xa, nơi chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Từ đó cơ sở vật
chất cũng như hiểu biết còn hạn chế, họ đã áp dụng biện pháp canh tác chưa
phù hợp gây phá vỡ kết cấu tự nhiên chặt chẽ vốn có của môi trường địa chất,
Vì vậy cần đưa ra những biện pháp, chính sách hợp lý để khắc phục điều này
- Đất dốc gây ra nhiều hậu quả như : đất bị thoái hóa, ở những vùng ít
hoặc ko có thảm thực vật che phủ khi mưa sẽ mất khả năng giữ đất, nước, mất
chất dinh dưỡng , gây ô nhiễm nước lưu vực, suối, sông, hồ nước. Xói mòn ở
mức độ cao người ta gọi là hiện tượng lở đất, sạt núi gắn liền với hiện tượng
lũ quét đã gây thiệt hại không những cho môi trường sinh thái, cảnh quan mà
cả con người và xã hội

24
- nguyên nhân gây thoái hóa đất dốc bao gồm các nguyên nhân tự nhiên như:
do xói mòn rửa trôi, thay đổi thời tiết cực đoan, và nguyên nhân nhân tạo
gồm nguyên nhân trực tiếp (phá rừng, đốn cắt quá mức thảm thực vật, không
thực hiện các biện pháp quản lý đất hợp lý bảo vệ đất, ) , nguyên nhân gián
tiếp (thiếu đất, sự nghèo nàn, tăng dân số, ). Trong đó nguyên nhân chính gây
ra thoái hóa đất dốc là do con người.
- Giải pháp: chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp nhằm hạn chế
tác động xấu của đất dốc như: Canh tác theo đường đồng mức chống xói mòn
(canh tác theo đường đồng mức kết hợp băng (SALT1), xây dựng hệ thống
Nông-Lâm-Đồng cỏ (SALT2), ), Biện pháp công trình chống xói mòn bảo
vệ đất dốc (Làm ruộng bậc thang, Hố trữ nước và bẫy đất chống xói mòn, ),
Các biện pháp kĩ thuật trên đất dốc (gieo trồng và làm đất theo đường đồng
mức, che phủ mặt đất, ), Các biện pháp kĩ thuật sinh học (luân canh cây
trồng, trồng cây che phủ, tăng cường hữu cơ cho đất), Các giải pháp về chính
sách (pháp luật, kinh tế, )
25

×