LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực tập, em đã được sự giúp đỡ của nhiều thầy cô,
anh chò, bạn bè và gia đình. Nhân đây em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
- Thầy: ThS. Nguyễn Tấn Sỹ.
- ThS. Phạm Cử Thiện
đã tận tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.
Xin cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của thầy TS. Hoàng Tùng và cô TS. Đỗ
Thò Hòa (trường Đại học Thủy sản), các anh chò thạc só, kỹ sư (Trung tâm giống
Thủy sản Quốc gia Nam Bộ) đã luôn sẵn sàng giúp đỡ em trong công việc và
những khi gặp khó khăn.
Chân thành cảm ơn các bạn sinh viên thực tập của trường Đại học Thủy
sản (hệ tại chức Bến Tre), thời gian qua đã sát cánh cùng tôi trong thời gian qua
giúp tôi hoàn thành công việc.
Con xin cảm ơn gia đình đã tạo những điều kiện tốt nhất cho con được an
tâm làm tốt công việc.
i
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Mục lục i
Tóm tắt iii
Danh mục bảng và hình iv
Thuật ngữ và chữ viết tắt v
Phần I: Mở đầu 1
Phần II: Tổng quan tài liệu
1. Tình hình phát triển của ngành NTTS 4
2. Đặc điểm sinh học của cá Trê lai 6
2.1 Hệ thống phân loại 6
2.2 Đặc điểm sinh học 6
3. Vòng đời phát triển của sán lá song chủ 8
4. Tình hình nghiên cứu lây nhiễm FZP………………………………………………………………………11
4.1. Trên Thế giới 11
4.2. Ở Việt Nam 13
5. Sự lây nhiễm Metacercaria 14
5.1. Tác hại của Metacercaria 14
5.2. Sự lây nhiễm Metacercaria 14
5.3. Bất hoạt Metacercaria 18
ii
Phần III: Phương pháp nghiên cứu.
1. Vò trí, thời gian và đối tượng nghiên cứu 20
2. Phương pháp nghiên cứu 20
3. Công thức tính 22
4. Xử lý số liệu 22
Phần IV: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
1. Kỹ thuật nuôi cá Trê lai thương phẩm 23
1.1. Điều kiện ao 23
1.2. Cải tạo ao 24
1.3. Thả giống 28
1.4. Chăm sóc và quản lý 30
1.5. Phòng và trò bệnh 32
2. Tình hình nhiễm ấu trùng Metacercaria 34
2.1. Phân bố mẫu 34
2.2. Tình hình nhiễm Metacercaria trên cá Trê lai 34
2.2.1. Kết quả khi phân tích từng cơ quan 35
2.2.2. Kết quả khi phân tích gộp chung 37
2.2.3. Các loài Metacercaria nhiễm trên cá Trê lai VAC 44
Phần V: Kết luận và đề xuất 46
Phần VI: Tài liệu tham khảo
Phần VII: Phụ Lục
PL1: Khóa phân loại Metacercaria của dự án FIBOZOPA
PL2: Bảng câu hỏi điều tra
PL3: Dụng cụ phục vụ nghiên cứu
iii
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của ngành Nuôi trồng
Thủy sản, các tổ chức Khoa học và Y tế Thế giới đã và đang có nhiều nghiên cứu
về tình hình lây nhiễm kí sinh trùng có nguồn gốc Thủy sản trên người và động
vật. Kết luận chung cho thấy tỉ lệ nhiễm các loài kí sinh trùng này tập trung ở các
quốc gia Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương.
Khi tiến hành nghiên cứu ấu trùng Metacercaria trên 300 con cá Trê lai
nuôi thâm canh thu ngẫu nhiên tại huyện Ô Môn – Cần Thơ và huyện Chợ Gạo –
Tiền Giang, mẫu cá tại Chợ Gạo nhiễmvới tỉ lệ 10% và cường độ nhiễm 0,03 –
0,7 Metacercaria/g, trong khi các mẫu ở Ô Môn không bò nhiễm.
Dùng phương pháp tiêu cơ với dung dòch dạ dày nhân tạo gồm 6 g Pepsin
+ 8 mL HCl đậm đặc + 1 L nước cất, giữ trong tủ ấm trên 2 giờ rồi rửa bằng nước
muối sinh lý 0,86% qua lưới lọc có mắt lưới 1x1 mm. Cỡ cá nghiên cứu đa dạng
với khối lượng từ 5,98 - 537 g và chiều dài từ 8,8 -39,8 cm trong đó tập trung
nhiều ở cỡ cá 100 - 300 g (56,3%) và kích thước 10 - 30 cm (74,4%).
Sự khác nahu về kỹ thuật nuôi giữa hai mô hình dẫn đến sự cảm nhiễm
khác nhau giữa hai đối tượng cá nghiên cứu. Cá không bò cảm nhiễm
Metacercaria ngoài kỹ thuật quản lý ao nuôi tốt còn phụ thuộc vào đặc điểm của
loài và vùng đòa lý. Đây là thông tin đáng mừng cho các hộ nuôi cá Trê lai vùng
Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và vùng Ô Môn nói riêng trong việc hạn
chế lây nhiễm các bệnh kí sinh trùng nguy hiểm và tạo nguồn thực phẩm an toàn.
iv
DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH
Trang
BẢNG:
Bảng 1: Sản lượng sản phẩm thủy sản qua các năm 5
Bảng 2: Phân bố sự lây nhiễm các loài FZP trên Thế giới 12
Bảng 3: Bất hoạt Metacercaria bằng nhiệt độ 19
Bảng 4: Diện tích các ao nghiên cứu 24
Bảng 5: Lượng vôi cải tạo ao 26
Bảng 6: Thời gian phơi đáy 26
Bảng 7: Mực nước trong các ao nghiên cứu 28
Bảng 8: Cỡ cá giống và mật độ thả 29
Bảng 9: Tình hình xuất hiện và điều trò bệnh 33
Bảng 10: Khối lượng và chiều dài cá nghiên cứu 34
Bảng 11: Cường độ nhiễm Metacercaria trên từng cơ quan 35
Bảng 12: Cường độ nhiễm Metacercaria khi phân tích gộp chung 37
Bảng 13: Kích thước cá bò nhiễm Metacercaria 38
Bảng 14: Tình hình nhiễm Metacercaria trên các loài cá VAC 40
Bảng 15: So sánh ao nuôi cá Trê lai thâm canh và ao nuôi VAC 41
HÌNH:
Hình 1: Vòng đời phát triển của Metacercaria 10
Hình 2: Hình dạng của Metacercaria dưới kính soi nổi 43
Hình 3: Hình dạng của Metacercaria dưới kính hiển vi 44
Hình 4: Metacercaria của Haplorchis pumilo 45
v
THUẬT NGỮ VÀ CHỮ VIẾT TẮT
- CTK: Tổng cục thống kê
- ctv: Cộng tác viên.
- FCR (Food Conversion Ratio): Hệ số chuyển đổi thức ăn.
- FZP (Fish-borne Zoonotic Parasite): Kí sinh trùng có nguồn gốc Thủy sản.
- KST: Kí sinh trùng - động vật có đời sống kí sinh.
- ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
- NTTS: Nuôi trồng thủy sản.
- ppt (part per thousand): Đơn vò tính phần ngàn
- std: Độ lệch chuẩn.
- VAC: Vườn ao chuồng
- WHO (World Health Organization): Tổ chức Y tế Thế giới.
- Ấu trùng: Các giai đoại trung gian trong vòng đời phát triển của sinh vật
trước khi trưởng thành.
- Cường độ nhiễm: Mật độ KST tính trên một đơn vò khối lượng.
- Tỉ lệ nhiễm: Phần trăm cá thể/ đơn vò bò nhiễm KST trong tổng số cá thể/
đơn vò nghiên cứu.
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản trên thế giới nói chung và ở
Việt Nam nói riêng đã thu hút không ít sự quan tâm của các nhà khoa học, bằng
chứng là đã có hàng loạt những nghiên cứu có liên quan đến ngành ra đời. Từ
năm 1990 trở lại đây, nhiều thông tin về sự lây nhiễm bệnh KST có nguồn gốc
thủy sản (FZP) lây sang người được phổ biến. Theo thống kê có trên 40 triệu
người và trên 10% dân số Thế giới có nguy cơ bò nhiễm FZP, trong đó tập trung
chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương [20].
Ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở các nước Châu Á đã và đang giữ một
vò trí khá quan trọng trong việc cung cấp các sản phẩm thủy sản cho toàn cầu.
Theo thống kê năm 2000, các nước Châu Á chiếm 91,3% trong tổng số 45,7 triệu
tấn sản phẩm từ NTTS. Riêng ba nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam, sản
lượng cá nước ngọt đã tăng vọt từ 136.000 tấn năm 1952 lên 16,6 triệu tấn năm
2002, trong đó cao nhất là Trung Quốc (chiếm 97,6% trong 16,2 triệu tấn) [29].
Tại Việt Nam, giá trò kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng từ năm 1991 và hiện nay
đã đạt 2,61 tỉ USA (năm 2004) [4,14].
Cá là một trong những sản phẩm thủy sản được sử dụng phổ biến trên toàn
cầu. Theo thống kê năm 1997, mức tiêu thụ bình quân sản phẩm này trên đầu
người ở Châu Đại Dương đạt 19,9 kg, Châu Âu đạt 18,5 kg, Châu Á đạt 17,0 kg,
Nam Trung Mỹ đạt 16,7 kg, Bắc Mỹ đạt 10 kg, cuối cùng là Châu Phi chỉ đạt 7,1
kg. Tại Đông Nam Á, mức tiêu thụ này cao và tăng nhiều trong thời gian gần
đây, cụ thể là từ 19,5 kg/người năm 1990 đến 23 kg/người năm 199. Ở nước ta,
mức sử dụng nguồn thực phẩm này liên tục tăng: 13,2 kg/người (năm 1990), 15,2
kg/người (năm 1997), 18,7 kg/người (năm 2000) và 19,4 kg/người (năm 2001).
Tính riêng tại Đồng bằng Sông Cửu Long là 30 kg/người và mức cao nhất nằm ở
Long An với 60 kg/người. Hiện nay lượng protein do cá cung cấp lên đến 45%
2
trong tổng số protein động vật của người dân trong khu vực Đông Nam Á, tỉ lệ
này ở Việt Nam cao hơn với 50% [19, 26, 38].
Sự lây nhiễm FZP cũng đang được quan tâm và tiến hành nghiên cứu ở
nhiều nước trên Thế giới nhằm đảm bảo sức khỏe cho con người trước tình hình
số người bò nhiễm FZP ngày càng tăng [29]. Thông qua dự án FIBZOPA (Fish
Borne Zoonotic Parasite), nước ta cũng đã tìm hiểu, đánh giá và nghiên cứu sự
lây nhiễm FZP. Dự án này được tài trợ bởi Cơ quan phát triển Quốc tế Đan Mạch
(Danida) thông qua hội đồng nghiên cứu phát triển (RUF) và Bộ Thủy sản
(MOFI) nhằm triển khai các nghiên cứu cần thiết để kiểm soát vấn đề dòch tễ học
của ký sinh trùng và phát triển các chương trình kiểm soát.
Đã có một vài nghiên cứu về tình hình nhiễm các FZP trên người và động
vật nhưng chỉ tập trung chủ yếu ở một số tỉnh miền Bắc và miền Trung nên đối
với miền Nam đây là vấn đề còn rất mới. Đối tượng nghiên cứu của dự án được
chia thành hai mảng: những loại thực phẩm thủy sản là mặt hàng xuất khẩu và
những thực phẩm tiêu thụ nội đòa có khả năng xuất khẩu.
Thời gian gần đây, khu vực Tây và Đông Nam Bộ đang phát triển phong
trào nuôi cá Trê lai do sự đòi hỏi ngày một tăng cao của thò trường trong nước và
thò trường xuất khẩu [9]. Mặt khác, cá Trê có những ưu điểm như: có khả năng
chòu đựng được các điều kiện môi trường khắc nghiệt, chu kỳ nuôi ngắn, giá bán
cao, ăn tạp và thòt ngon nên nó được xem là đối tượng nuôi cho nhiều nông hộ.
Đã có nhiều nghiên cứu trên cá Trê lai về các chỉ tiêu sinh hóa, sinh lý, sinh sản
cũng như việc phòng trừ một số bệnh phổ biến trên cá. Nhưng những nghiên cứu
về sự lây nhiễm FZP trên cá Trê lai, hay tình hình nhiễm Metacercaria vẫn chưa
được quan tâm.
Đề tài: “Điều tra kỹ thuật nuôi thương phẩm và tình hình nhiễm ấu
trùng Metacercaria trên cá Trê lai (đực C. gariepinus x cái C.
macrocephalus) tại Ô Môn - Cần Thơ và Chợ Gạo – Tiền Giang” nhằm xác
3
đònh tỉ lệ và cường độ nhiễm của ấu trùng Metacercaria trên cá Trê lai, trên cơ sở
đó đònh hướng người tiêu dùng sử dụng nguồn thực phẩm an toàn, giúp hạn chế
vấn đề lây nhiễm FZP. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ triển
khai nghiên cứu tại quận Ô Môn – Cần Thơ và huyện Chợ Gạo – Tiền Giang vì
hai vùng này là những khu vực nuôi cá Trê lai nhiều nhất ĐBSCL.
Để đạt được kết quả như mong đợi của đề tài, các nội dung nghiên cứu bao
gồm:
- Điều tra kỹ thuật nuôi thương phẩm cá Trê lai tại Ô Môn - Cần Thơ và
Chợ Gạo – Tiền Giang.
- Nghiên cứu xác đònh tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm của ấu trùng
Metacercaria trên cá Trê lai nuôi thâm canh.
4
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH NTTS
Sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) trong những năm gần
đây đạt những bước tiến đáng kể. Trong tổng sản lượng sản phẩm thủy sản toàn
cầu, sản lượng của ngành NTTS tăng từ 5,3% (năm 1970) lên 32,2% (năm 2000),
ước tính đến năm 2030 sẽ có 50% lượng cá tiêu thụ trên Thế giới được cung cấp
từ ngành này [29]. Theo thống kê của WHO (năm 2001), trong tổng sản lượng
345,7 triệu tấn của ngành NTTS, Châu Á đã chiếm 91,3%. Vai trò chủ đạo của
ngành này sẽ còn tiếp tục được củng cố và phát huy hơn nữa khi dân số Thế giới
ngày một tăng, mức sống ngày càng được nâng cao, kinh tế ngày càng phát triển
và nhu cầu sử dụng thực phẩm có hàm lượng đạm cao cấp ngày càng được quan
tâm. Để đáp ứng được những nhu cầu trên, trong khi ngành khai thác đang gặp
khó khăn do nguồn lợi bò suy giảm, đòi hỏi sản lượng từ NTTS phải tăng và tăng
gấp đôi trong vòng 25 năm tới [29].
Điều kiện tự nhiên của Việt Nam rất được thuận lợi cho NTTS. Diện tích
có khả năng sử dụng cho NTTS rất lớn, với 120.000 ha diện tích ao hòa nhỏ -
mương vườn; 340.000 ha diện tích mặt nước lớn; 580.000 ha diện tích ruộng trũng
có thể kết hợp sản xuất nông nghiệp với NTTS; 660.000 ha vùng triều bãi bồi
ven biển và 300.000 - 400.000 ha diện tích mặt nước ven biển, ven đảo, đầm,
phá, eo, vụng …[13].
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thò trường trong khu vực, ngành
thủy sản của Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và ngày càng khẳng đònh vò trí
của mình trên thế giới. Trong mô hình sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản, tỷ
lệ của hộ nông nghiệp giảm từ 97,5% xuống còn 95,8% nhưng ngược lại, tỷ lệ hộ
thủy sản tăng từ 2,35% lên 4,91%. Lao động thủy sản tính đến năm 2001 là 1,14
triệu người, tăng gấp đôi so với năm 1994 [18].
5
Trong những năm gần đây, ngành NTTS Việt Nam đã có những bước phát
triển đáng kể. Trong cơ cấu sản phẩm của ngành NTTS, cá giữ vai trò quan trọng
với tỉ lệ 86,2% tổng sản lượng [18]. Tính đến năm 2002, cả nước đã có trên
955.000 ha diện tích mặt nước phục vụ cho NTTS. Trong thời gian qua, sản lượng
sản phẩm thủy sản của ngành liên tục gia tăng với tốc độ ngày càng cao.
Bảng 1: Sản lượng sản phẩm thủy sản qua các năm
Năm
Tổng SLSPTS
(tấn)
Sản lượng ngành
NTTS (tấn)
Tỉ lệ ngành
NTTS (%)
1991 1.066.000 335.900 31,5
1995 1.343.000 440.000 32,0
1996 1.489.000 536.800 36,1
1997 1.526.000 622.700 40,8
2000 1.688.000 745.800 44,2
2001 1.706.000 895.000 52,5
2002 1.772.000 980.000 55,3
Nguồn: Nguyễn Văn Hảo, Lê Xuân Sinh, Phùng Chí Sỹ, Nguyễn Văn Thành
ĐBSCL là vùng giữ vai trò quan trọng nhất trong việc góp phần nâng cao
sự phát triển của ngành NTTS cả nước. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thủy sản
của nước ta đạt 2,3 tỷ USD, trong đó có 70% sản lượng sản phẩm thủy sản là của
ĐBSCL.
ĐBSCL có tổng diện tích 39.568 km
2
,với hệ thống sông ngòi rất chằng
chòt, đặc biệt là hai hệ thống sông lớn: sông Tiền và sông Hậu, nên tiềm năng về
NTTS rất lớn. Trên cả nước có 12.130 trang trại NTTS thì ĐBSCL đã chiếm
71,29%, trong đó số trang trại từ 5 ha trở lên chiếm đến con số 1.265. Lao động
trong ngành NTTS ở ĐBSCL chiếm hơn một nửa (54,8%) so với tổng số lao động
cùng ngành trên cả nước. Sản phẩm thủy sản nước ngọt chiếm ưu thế trong tổng
sản lượng sản phẩm của toàn vùng. Về diện tích phục vụ cho NTTS, diện tích
nuôi nước ngọt chiếm đến 492.000 ha trong tổng số 691.000 ha [4, 11, 18, 35].
6
2. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁ TRÊ LAI
2.1. Hệ thống phân loại
Bộ: Siluriformes
Họ: Claridae
Giống: Clarias Scopoli, 1777.
Loài: Cá Trê phi: C. gariepinus Burchell
Cá Trê vàng: C. macrocephalus Gunther, 1984.
Cá Trê lai: đực C. gariepinus x cái C. macrocephalus
2.2. Đặc điểm sinh học
2.2.1. Cá Trê phi
Cá Trê phi có nguồn gốc từ Châu Phi. Năm 1975, nhà khoa học người
Pháp Dekimpe đưa 74 con cả đực và cái vào trại dưỡng ngư Thủ Đức, đến năm
1979 chỉ còn 1 đực và 1 cái. Sau đó, phân Viện Nghiên cứu NTTS I (nay là Viện
Nghiên cứu NTTS II) nghiên cứu nuôi dưỡng và nhân giống thành công [1].
Cá Trê phi có đầu to và dẹp đứng, trên có 4 đôi râu. Thân cá thon dài và
dẹp dần về phía cuống đuôi, cuống đuôi hơi dài. Lưng cá màu xanh đen và có
điểm những bông sắc tố xanh đậm, bụng cá có màu trắng đục. Xương chẩm hình
chữ M với các gốc xương nhọn. Đây là loài cá ăn tạp. Thức ăn ưa thích thường là
cá nhỏ, ếch nhái, động vật thân mềm, côn trùng,…
Cá có thể sống trong điều kiện môi trường khắc nghiệt như: nhiệt độ từ 8,5
- 40,5
o
C; độ mặn từ 10 - 29 ppt, độ pH từ 4,5 - 10. Đặc biệt, cá có thể sống trong
điều kiện hàm lượng Oxy hoà tan rất thấp, đôi khi chỉ còn 0 mg/L. Cá Trê phi có
tốc độ tăng trưởng nhanh, sau 6 tháng nuôi đạt 0,6 - 1 kg/con.
Mùa vụ sinh sản của cá ngoài tự nhiên là vào đầu mùa mưa, nhưng trong
sinh sản nhân tạo có thể là quanh năm và tập trung vào đầu mùa mưa. Ngoài tự
nhiên cá thành thục ở tuổi 2
+
, trong ao nuôi chỉ có 8 tháng tuổi, hệ số thành thục
của cá cái được xác đònh 10% và có khả năng tái phát dục sau 30 - 40 ngày [1].
7
2.2.1. Cá Trê vàng
Đây là loài cá bản đòa của miền Nam Việt Nam. Trong tự nhiên phân bố
khá rộng trong hầu hết các thủy vực nước ngọt, chủ yếu là ao hòa, kênh rạch, đầm
lầy, rất ít gặp trong các sông lớn [6].
Cá Trê vàng có thân thon dài và dẹp dần về phía đuôi. Đầu cá to và rộng,
dẹp theo chiều thẳng đứng, xương gốc chẩm hình cung tròn. Bốn đôi râu của cá
Trê vàng rất phát triển, dài gần đến hoặc quá gốc vây ngực. Lưng và đỉnh đầu
của cá màu đen, bụng có màu vàng nhạt, hai bên thân có những chấm trắng tạo
thành các hàng thẳng đứng. Vây màu đen, có điểm các đốm thẩm.
Cá Trê vàng cũng là loài ăn tạp và thiên về ăn động vật. Giai đoạn nhỏ ăn
động vật phù du như Cladocera, Moina, Copepoda và tảo. Giai đoạn cá giống ăn
động vật sống như cá lòng tong, cá bảy màu, Tubifex,… Cá trưởng thành ăn dế
nhũi, nhện nước, trùn, tép, cá con, ếch nhái,… Cá cũng có thể ăn phụ phẩm của
nhà máy chế biến.
Cá sống được ở nhiệt độ từ 12 - 30
o
C nhưng thích hợp nhất là 25 - 26
o
C.
Độ mặn dao động trong khoảng 0 - 10 ppt, và pH từ 4 - 10. Giống Trê phi, cá Trê
vàng cũng có thể chòu được hàm lượng Oxy xuống thấp, có khi 0 mg/L. Tốc độ
tăng trưởng của cá Trê vàng rất chậm, cá nuôi 1 tuổi chỉ đạt 400 - 600 g/con.
2.2.2. Cá Trê lai
Là con lai giữa cá đực Trê phi và cá cái Trê vàng, cá Trê lai tập trung
những ưu điểm của cá bố mẹ như sức chòu đựng cao, chu kỳ nuôi ngắn, ăn tạp,
thòt ngon,… Cá Trê lai ăn tạp và thiên về ăn động vật, thức ăn ưa thích là trùn chỉ
Tubifex.
Đầu cá Trê lai có dạng giống cá Trê vàng nhưng lại nổi sần như cá Trê
phi, đầu không to lắm, miệng rộng, có 4 đôi râu trong đó râu hàm trên dài nhất.
Xương chẩm có dạng chữ M với các gốc xương tù. Thân cá thon dài và dẹp ngang
8
về phía sau. Cuống đuôi ngắn, vây duôi chỉ có một thùy. Phần lưng của đầu và
thân có màu vàng nâu, phần bụng màu trắng vàng.
Cá có thể sống trong môi trường nhiệt độ 11 - 39
o
C , độ mặn 1 - 39 ppt.
Tuy nhiên cá Trê lai không có khả năng sinh sản do cá đực có mật độ tinh trùng
quá thấp, cá cái đem lai tạo với cá đực của các loài cá Trê khác thu được kết quả
không khả quan do tỉ lệ dò hình cao (71,14%).
Cá Trê lai có sức đề kháng bệnh cao hơn và có sức tăng trưởng trung gian
khi so sánh cùng với cá bố mẹ.
3. VÒNG ĐỜI PHÁT TRIỂN CỦA SÁN LÁ SONG CHỦ
Chu kỳ phát triển chung của sán lá song chủ trải qua các giai đoạn sau [8]:
Sán lá song chủ đẻ trứng, giao phóai trên cùng một cơ thể, trứng nhỏ nhưng số
lượng nhiều. Sán lá song chủ từ trứng phát triển thành cá thể trưởng thành phải
qua một quá trình phát triển phức tạp qua nhiều giai đoạn:
- Giai đoạn ấu trùng Miracidium: Trứng sau khi rơi vào nước nở ra ấu trùng
Miracidium có lông tơ và điểm mắt. Phần trước cơ thể có tuyến đầu, đoạn sau cơ
thể có một đám tế bào mầm có ống tiêu hóa đơn giản. Hệ thần kinh và bài tiết
không phát triển. Miracidium không ăn, sống tự do trong nước nhờ glucogen dự
trữ nên chỉ bơi một thời gian rồi nhờ tuyến đầu tiết men phân giải lớp biểu mô
chui vào tổ chức gan của cơ thể ốc. Ở trong cơ thể ký chủ trung gian, ấu trùng
Miracidium mất lông tơ, điểm mắt và ruột biến thành bào nang Sporocyste.
- Giai đoạn ấu trùng bào nang Sporocyste: Bào nang hình tròn hay hình túi,
bề mặt có khả năng thẩm thấu dinh dưỡng. Bào nang Sporocyste có thể xoang
lớn, nó tiến hành sinh sản đơn tính (vô tính) cho nhiều ấu trùng Redia.
- Giai đoạn ấu trùng Redia: Redia hình túi có thể di động, cấu tạo cơ thể có
hầu và ruột có dạng hình túi ngắn. Ấu trùng Redia lớn lên, phá màng của bào
nang để ra khỏi tổ chức gan rồi vào cơ quan tiêu hóa của ốc. Cơ thể ấu trùng
9
Redia dài ra, hầu và ruột phát triển, có hai ống bài tiết. Phía sau cơ thể có một
đám tế bào mầm tiến hành sinh sản đơn tính cho nhiều ấu trùng Cercaria. Có
chủng loại sán lá song chủ không qua giai đoạn ấu trùng Redia mà phát triển trực
tiếp qua Cercaria.
- Giai đoạn ấu trùng Cercaria: Cơ thể Cercaria chia làm hai phần là thân và
đuôi, bề mặt cơ thể có gai, có một hoặc hai giác hút. Cơ quan tiêu hóa có miệng,
hầu, thực quản, ruột. Có hệ thống bài tiết và ống thần kinh. Ở phía trước cơ thể có
tuyến tiết ra men phá hoại tổ chức để xâm nhập vào cơ thể ký chủ, đồng thời biểu
mô ở dưới lớp nguyên sinh chất có tuyến phân tiết tạo vách của bào nang.
Cercaria ra khỏi cơ thể Redia sống tạm thời trong cơ thể ốc, sau đó ra nước hoạt
động trong một thời gian ngắn, mất đuôi biến thành ấu trùng có vỏ bọc
Metacercaria. Cũng có giống loài sán lá song chủ giai đoạn ấu trùng Cercaria
xâm nhập vào da của ký chủ rồi đến mạch máu, sau đó qua thời kỳ ấu trùng
Metacercaria phát triển thành trùng trưởng thành. Ngược lại cũng có một số
giống loài khi Cercaria ra môi trường nước mất đuôi hình thành bào nang (kén)
bám trên các cây thực vật thủy sinh thượng đẳng hay vỏ ốc, nếu gặp ký chủ ăn
vào sẽ phát triển thành trùng trưởng thành.
Một số giống loài ấu trùng Cercaria sau khi tách khỏi cơ thể Redia hình
thành bào nang (kén) ngay trong cơ thể ốc hoặc chui ra ngoài, nhưng lại tiếp tục
xâm nhập vào cơ thể ốc đó. Nếu ký chủ ăn ốc có ấu trùng thì sẽ phát triển thành
trùng trưởng thành.
Các giống loài sán lá song chủ lấy cá làm ký chủ trung gian thứ hai, đa số
ấu trùng Cercaria chủ động xâm nhập vào cơ thể cá và hình thành Metacercaria,
một số ít giống loài ngoài môi trường, ký chủ cuối cùng trực tiếp nuốt bào nang
Metacercaria.
- Giai đoạn ấu trùng Metacercaria: Do có vỏ bao lại, cơ thể nằm trong bào
nang nên không vận động. Cấu tạo cơ thể gần giống trùng trưởng thành. Bề mặt
10
cơ thể có gai, giác miệng, giác bụng, lỗ miệng và lỗ bài tiết. Cấu tạo trong có cơ
quan tiêu hóa, cơ quan bài tiết, thần kinh và cơ quan sinh dục. Hệ thống sinh dục
của một số giống loài còn đơn giản nhưng cũng có những loài có cơ quan sinh dục
cái đã hoàn chỉnh, thậm chí có khi có xuất hiện trứng.
Metacercaria cùng với ký chủ trung gian thứ hai hoặc vật môi giới bò ký
chủ sau cùng ăn vào trong ống tiêu hóa, dưới tác dụng của dòch tiêu hóa vỏ bọc
vỡ ra, ấu trùng thoát ra ngoài và di chuyển đến cơ quan thích hợp phát triển thành
trùng trưởng thành.
Quá trình phát triển của sán lá song chủ có yêu cầu những ký chủ trung
gian nhất đònh, ký chủ trung gian thứ nhất là ốc, ký chủ trung gian thứ hai hoặc
cuối cùng thường là động vật nhuyễn thể, động vật có đốt, giáp xác, côn trùng,
cá, lưỡng thê, bò sát, chim và động vật có vú. Có loài yêu cầu đến ba hay bốn ký
chủ trung gian.
Hình 1: Vòng đời phát triển của sán lá song chủ [33]
11
4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LÂY NHIỄM FZP
4.1 Trên Thế giới
Năm 1995, số người nhiễm FZP đã lên đến 18 triệu người và 0,5 tỉ người
đang có nguy cơ bò nhiễm [20]. Con số này chắc rằng sẽ không dừng lại ở đây mà
còn cao hơn nữa khi nguy cơ nhiễm bệnh không còn bó hẹp ở những nước có mức
sống thấp hoặc trung bình mà còn lan rộng đến cả những nước phát triển. Tuy các
loài FZP có sự phân bố khác nhau về đòa lý, nhưng tình hình lây nhiễm của chúng
hiện nay không bò chi phóai bởi đặc điểm đòa lý trên. Nguyên nhân chủ yếu xuất
phát từ sự phát triển của thò trường xuất khẩu trên Thế giới, sự hoàn thiện về hệ
thống giao thông và sự di cư của con người, đặc biệt nhân tố có ảnh hưởng trực
tiếp nhất đó là sự phát triển nhanh và rộng của ngành NTTS.
Thật vậy, số người nhiễm ba loài sán lá phổ biến nhất là Clonorchis
sinensis, Opisthorchis viverrini và O. felineus tương ứng theo thứ tự 7 triệu , 9
triệu và 1,2 triệu người (những năm 90) thì thời gian gần đây đã tăng lên đến
601,1 triệu, 67,3 triệu và 12,5 triệu người (năm 2000). Năm 1995, Hàn Quốc có
19 triệu người nhiễm các loài thuộc giống Clonorchiasis (chiếm 44% dân số của
cả nước) nhưng hiện nay chỉ tính riêng C. sinensis đã có 21 triệu người nhiễm. Ở
Trung Quốc và Đài Loan có 570 triệu người trong tổng số 601 triệu người nhiễm
C. sinensis [29].
Những thông tin và nghiên cứu về việc lây nhiễm FZP không chỉ mới tiến
hành trong những năm gần đây mà đã từ rất lâu, kết luận chung cho thấy FZP chủ
yếu phân bố và lây nhiễm ở khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Kết quả
được biểu hiện qua bảng sau:
12
Bảng 2: Phân bố lây nhiễm các loài FZP trên Thế Giới.
Loài Khu vực nhiễm
Clonorchis sinensis
Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam
Opisthorchis felineus
Kazakhstan, Nga, Siberi, Ucraina
Opisthorchis viverrini
Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam
Fasciola hepatica
Cuba, Altiphano
Fasciola gigantica
Ecuado, Peru, Ai Cập, Iran, Thổ Nhó Kỳ, Bồ Đào Nha
Loài phổ biến nhất hiện nay là Clonorchis sinensis được tìm thấy đầu tiên
vào năm 1875 bởi Cobbold. Năm 1910, Kobayasti tìm được họ cá chép
(Cyrinidae) là ký chủ trung gian thứ hai, ký chủ trung gian thứ nhất được xác đònh
là ốc nước ngọt vào năm 1918 do Muto công bố. Hình thể ấu trùng của C.
sinensis được nghiên cứu và mô tả bởi Faust và Khaw, Komiya và Suzuki [3].
Loài Opisthorchis viverrini được tìm thấy ở Đông Nam Á bởi Poirier,
Stiles và Hassal. Trong khi đó, loài cùng giống O. felineus được tìm thấy ở Nga
và Đông Âu bởi Blanchard năm 1895. Năm 1860, Cobbold lại phát hiện thêm
một loài mới Metorchis cojïnunctos ở Bắc Mỹ. Một loài khác Haplorchis taichui
(Nishigori, 1924) tìm thấy lần đầu tiên trên chim và động vật có vú ở miền Trung
Đài Loan, trên cơ thể hai ký chủ này lần đầu tiên người ta phát hiện ra loài cùng
giống H. pumilo ở Ai Cập, cả hai loài này hiện nay đang phân bố rộng khắp Châu
Á [28, 29].
Năm 1947, trên thế giới có khoảng 19 triệu người nhiễm C. sinensis và 1,1
triệu người nhiễm O. felineus. Năm 1960, có khoảng trên 1,5 triệu người nhiễm
O. viverrini trên toàn Thế giới. Số người nhiễm hiện nay đã tăng lên rất nhiều,
chỉ tính riêng Thái Lan là 7 triệu người. Cũng trong năm 1960, tại Nhật Bản, C.
sinensis đã gây nhiễm khắp trong cả nước nhưng được kiểm soát thành công. Tại
13
Hàn Quốc, số người nhiễm C. sinensis khoảng 1,5 triệu người còn ở Trung Quốc
là 10 triệu người [16, 29].
4.2. Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, từ đầu năm 1887, Grall đã báo cáo về sự có mặt của sán lá
gan nhỏ C. sinensis ở miền Bắc với tỉ lệ nhiễm là 28% . Năm 1907, Verdun cũng
đã báo cáo sự xuất hiện của loài O.felineus ở Việt Nam. Loài O. viverrini được
phát hiện bởi Nguyễn Văn Đề (1996) và Nguyễn Văn Chương (1997). Những báo
cáo về việc lây nhiễm FZP ở Việt Nam đã và đang tiếp tục xuất hiện trong nửa
đầu thế kỷ 20 từ các nhà điều tra Việt Nam và Pháp, nhưng phần lớn thông tin
được đăng tải trong các bài báo quốc tế, nên vấn đề này trong nước ít được biết
đến. Hiện nay,ước tính có khoảng 7 triệu người Việt Nam có nguy cơ nhiễm
bệnh, trong đó có 1 triệu người đã bò nhiễm [23].
Theo Nguyễn Văn Đề [23], tình hình nhiễm ký sinh trùng (đặc biệt là sán
lágan nhỏ) ở người Việt Nam có tỉ lệ tương đối cao. Kết quả nghiên cứu qua xét
nghiệm phân của người dân ở 12 trong tổng số 61 tỉnh thành đã tìm thấy C.
sinensis có mặt ở 9 tỉnh miền Bắc, còn O. viverrini thì xuất hiện ở 3 tỉnh miền
Trung (Daklak, Đà Nẵng và Phú Yên). Thông tin này không có nghóa là miền
Nam không bò nhiễm loài ký sinh trùng này mà do điều kiện nghiên cứu bò hạn
chế nên chưa có thể tiến hành được. Cũng theo nghiên cứu này, kết luận tỉ lệ
nhiễm C. sinensis biến động rất lớn từ 0,2% ở tỉnh Thái Bình lên cao đến 26% ở
tỉnh Nam Đònh và tỉ lệ nhiễm sán lá gan ở các tỉnh Đồng bằng sông Hòang rất cao
(15 - 20%).
Lê Văn Châu (1992, 1996), Nguyễn Văn Đề (1996), Nguyễn Văn Chương
(2000) cho rằng, nước ta có nhiều loài cá nhiễm ấu trùng Metacercaria của sán lá
gan nhỏ C. sinensis như: cá Mè trắng (Hypophthamichthys molitrix), cá Rô phi
14
(Tilapia mossambica), cá Diếc (Carasius auratus), cá Rô đồng (Anabas
testudineus). Tuy nhiên đó cũng chỉ là bước khởi đầu bởi họ chưa nghiên cứu trên
tất cả các loài cá khác đang nuôi tại Việt Nam và chưa xác đònh được giai đoạn
cảm nhiễm, cơ quan cảm nhiễm, …
5. SỰ LÂY NHIỄM METACERCARIA
5.1. Tác hại của Metacercaria
Ấu trùng Metacercaria khi ký sinh trên cá gây chết rải rác đến hàng loạt
chủ yếu ở giai đoạn cá giống (như Metacercaria của Diplostomulum ký sinh trên
mắt cá), làm giảm giá trò thâm canh của cá thòt (Metacercaria của Clonorchis và
Opisthorchis) [5].
Khi lây nhiễm sang người, Metacercaria phát triển thành cá thể trưởng
thành gây nên các bệnh nguy hiểm như sán lá gan, sán lá phổi, sán lá ruột. Trên
thực tế hiện nay đã có thuốc trò nhưng chi phí còn quá cao nên khó có thể trò triệt
để khi mắc bệnh. Người mắc các bệnh này thường gầy yếu, thiếu máu, suy gan
do các kí sinh trùng này sử dụng chất dinh dưỡng và phá hoại cơ thể.
5.2. Sự lây nhiễm Metacercaria
Metacercaria được lây nhiễm khi con người và động vật ăn thực phẩm có
chứa Metacercaria nhưng chưa nấu chín, vì vậy Metacercaria còn sống và có khả
năng phát triển tạo thành cá thể trưởng thành tiếp tục đời sống ký sinh trên cơ thể
ký chủ cuối cùng. Những nhân tố sinh thái học chủ yếu ảnh hưởng đến tỉ lệ lây
nhiễm các FZP bao gồm điều kiện môi trường sinh thái, phong tục tập quán và tự
nhiên xã hội.
Môi trường sinh thái là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sự xuất hiện
Metacercaria thông qua sự tồn tại của các ký chủ trung gian. Trong môi trường
nước, các thông số về chất lượng môi trường, nhiệt độ và dòng chảy,… có liên
quan đến sự xuất hiện của các loài ký chủ trung gian như ốc, cá, giáp xác, thực
15
vật thủy sinh, … Tùy từng loài ký chủ sẽ thích nghi với từng điều kiện môi trường
khác nhau mà xuất hiện hay không, có mặt nhiều hay ít và mối quan hệ như thế
nào trong thủy vực, … Vòng đời phát triển của FZP có được khép kín hay không
phụ thuộc rất lớn vào các nhân tố này, vì vậy, một trong những phương pháp
nhằm hạn chế sự lây nhiễm FZP bằng cách cắt đứt vòng đời phát triển của sán
khi tiêu diệt các ký chủ trung gian.
Dân số phát triển cũng là một nguyên nhân dẫn đến nhiều tác động xấu
cho môi trường và cũng đã gián tiếp gây hại cho con người. Nước ta có tốc độ
tăng dân số rất nhanh, năm 1989 là 64.375.800 người, năm 1993 là 71 triệu
người, năm 1996 tăng đến 76 triệu người [35] và hiện nay ước tính lên đến 82
triệu người [10]. Nếu như vậy, hàng năm diện tích có khả năng NTTS bò thu hẹp
nhằm phục vụ cho sinh hoạt, lượng chất thải ngày càng tăng và hàng loạt các vấn
đề xã hội khác không thể nào giải quyết được như y tế, vệ sinh, môi trường,…
Đồng thời, nhu cầu về lương thực thực phẩm ngày càng tăng, trong đó thực phẩm
thủy sản giữ vai trò quan trọng do thích hợp với điều kiện và mức sống của người
dân nước ta. Vì thế tỉ lệ và nguy cơ nhiễm bệnh từ FZP tăng lên cùng với sự gia
tăng dân số.
Nguy cơ nhiễm bệnh do sử dụng sản phẩm thủy sản của nước ta có thể nói
là rất cao trong năm 2001, người Việt Nam ta nhận 50% lượng protein yêu cầu từ
nguồn thực phẩm này. Đặc biệt là vùng ĐBSCL với tỉ lệ sử dụng cá trung bình
hằng năm là 30 kg/người/năm trong khi thống kê trên cả nước chỉ ở mức 13
kg/người/năm. Càng đáng lo ngại hơn khi nơi đây có đến 83% hộ có mức sống
thấp đánh bắt cá trong các ruộng lúa, kênh mương và sông rạch để phục vụ cho
bữa ăn hằng ngày [19], trong khi các nghiên cứu trước có kết luận tỉ lệ nhiễm của
một số Metacercaria cao trên các loài cá tự nhiên và 25-100% các loài cá đều có
thể có chứa Metacercaria [16, 30].
16
Ở mỗi đòa phương, mỗi vùng có một số các phong tục đặc trưng về sinh
hoạt, ẩm thực và văn hóa, trong đó nguyên nhân gây nên tỉ lệ nhiễm FZP cao là
do các món ăn truyền thống nấu không đủ chín như gỏi, tái,… Tại Nhật, Trung
Quốc và Thái Lan có số người nhiễm FZP cao vì nơi đây có các món ăn đặc sản
bằng các loài thủy sản sống như: Zhu-shi, Lab Pla, Pla Som, Koi Pla,… Thật vậy tỉ
lệ nhiễm FZP tập trung ở độ tuổi nam giới là 25 – 55 tuổi và phụ nữ trên 45 tuổi,
trong đó nam giới nhiễm cao hơn nữ giới và người lớn nhiễm nhiều hơn trẻ em.
Người ta cho rằng sỡ dó nam giới bò nhiễm cao là do họ có thói quen thường nhậu
với các món tái hay gỏi [23, 27]. Do đó cần phải nấu chín thức ăn để bất hoạt
Metacercaria là biện pháp ngăn ngừa dễ thực hiện nhất khi sử dụng thực phẩm
thủy sản.
Đối với những quốc gia và những vùng phát triển có cuộc sống văn minh
hơn nên vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm và sức khoẻ cộng đồng được chú
trọng. Chất thải sinh hoạt được thu gom và xử lý chứ không thải bừa bãi vào môi
trường như các vùng nông thôn hẻo lánh, do đó trứng của FZP không có khả năng
phát triển và lây lan được. Hiện tại cũng còn đa số các vùng nuôi thủy sản theo
phương pháp truyền thống sử dụng phân tươi làm thức ăn và thải chất thải trực
tiếp xuống ao [15] nên thực phẩm rất dễ bò nhiễm Metacercaria. Cần hạn chế mô
hình nuôi này và phát triển các mô hình nuôi hiện đại hơn cho nông hộ.
Trong khi những thông tin về vấn đề lây nhiễm FZP đang còn rất hạn chế,
đặc biệt là đối với nhừng vùng nông thôn xa xôi thì tỉ lệ nhiễm FZP vẫn không
ngừng gia tăng theo thời gian nhưng không kiểm soát được. Cần phải tuyên
truyền và giáo dục cho người dân về tình hình lây nhiễm, con đường xâm nhập
cũng như tác hại của các FZP. Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên Thế giới,
đây không phải là việc làm có thể đạt kết quả trong một sớm một chiều mà đòi
hỏi sự kiên trì, quyết tâm và hợp tác làm việc của các nhà khoa học, nhà NTTS
và người tiêu dùng.
17
Vì vậy, việc không ngừng phổ biến thông tin về tình hình lây nhiễm FZP
trên các phương tiện thông tin đại chúng là rất cần thiết và có hiệu quả hơn là
phải ràng buộc con người vào những quy đònh khắc khe của pháp luật. Những
thông tin về phương pháp chế biến và các loài ký chủ trung gian rất quan trọng
trong việc hạn chế sự lây nhiễm FZP.
Nguyên nhân của sự lây nhiễm FZP chủ yếu là do con người sử dụng thức
ăn sống hoặc nấu chưa đủ chín, nhưng sự gia tăng tỉ lệ nhiễm nhanh và nhiều như
vậy còn liên quan đến nhiều nhân tố xã hội khác. Theo Abdussalam và ctv [20],
có các nguyên nhân sau:
- Sự gia tăng sản lượng sản phẩm thủy sản nhằm đáp ứng nhu cầu cho dân
số Thế giới tăng nhanh. Tổng sản lượng thủy sản toàn cầu năm 1980 là 72 triệu
tấn, năm 1991 là 96,9 triệu tấn và hiện nay ước tính khoảng 160 triệu tấn.
- Sản phẩm cá nước ngọt trong NTTS tăng, đặc biệt là họ cá chép
(Cyprinidae) do là đối tượng nuôi ưa thích và phổ biến, nhưng đây lại là ký chủ
trung gian thích hợp của đa số các loài FZP. Nhiều ao sử dụng phân tươi của con
người và gia súc làm thức ăn trực tiếp cho cá nuôi, chất thải sinh hoạt cũng được
thải xuống ao mà không qua một biện pháp xử lý hay kiểm soát nào, trong ao có
xuất hiện nhiều vật chủ trung gian truyền bệnh như ốc, thực vật thủy sinh,… thuận
lợi cho việc khép kín vòng đời của FZP.
- Những món ăn truyền thống dùng thực phẩm thủy sản sống hoặc nấu chưa
chín được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng trên mỗi quốc gia. Tuy nhiên để thay
đổi tâïp quán ăn uống nguy hiểm này thường gặp nhiều khó khăn, nhất là khi họ
tin rằng thực phẩm sống có khả năng giúp gia tăng sinh lực, cải thiện sức khoẻ và
sinh lý của con người.
- Nhu cầu về sản phẩm tươi của thò trường tiêu thụ dẫn đến họ cố gắng giữ
tươi sản phẩm bằng các phương tiện lưu trữ, bảo quản và vận chuyển hiện đại.
18
- Thực phẩm thủy sản sống được xem như một phương thuốc nhằm hạn chế
và ngăn ngừa bệnh tật. Có nhiều bài thuốc dân gian như cho trẻ em ăn thòt sống
sẽ trò được bệnh lao, uống nước cua ép sẽ chữa được bệnh ho và nóng sốt.
- Đối với các hộ nghèo, họ thường tiết kiệm và thiếu thóan về nhiệt lượng dễ
dẫn đến trường hợp nấu ăn chưa đủ chín, không đủ nhiệt độ tiêu diệt mầm bệnh.
- Ở những vùng nông thôn hẻo lánh, xa chợ búa nên trong bữa cơm thường
có những loại rau quả hoặc cá trong tự nhiên, nhất là ở trong các ao cạnh nhà.
- Dân số tăng nhanh đã có nhiều tác động có hại hơn lên môi trường, làm
môi trường bò suy thoái hay ô nhiễm nghiêm trọng đặc biệt là nguồn nước.
- Trong 4 - 5 thập kỷ gần đây, cùng với sự phát triển của ngành nông
nghiệp, hệ thống đê đập phục vụ được xây dựng, đến nay đã có một khu hệ thủy
sinh vật phát triển đầy đủ tạo thuận lợi cho việc khép kín vòng đời của các ZPT.
5.3. Bất hoạt Metacercaria
Song song với việc tìm hiểu đặc điểm của các loài sán lá song chủ, đánh
giá tình hình và tỉ lệ nhiễm, các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu nhằm đưa ra
một số phương pháp phòng trò loại bệnh này. Phương pháp phòng bệnh nhằm đưa
ra các giải pháp hạn chế việc sử dụng thực phẩm thủy sản sống, khuyến khích
dùng thực phẩm đã nấu chín và các biện pháp nhằm cắt đứt vòng đời của sán.
Biện pháp trò chủ yếu là dùng các thuốc kháng sinh như: Praziquantel, Heltol,
Dehydroemetin, Niclofolan, … [3].
Theo Murrell và ctv [33] Metacercaria ký sinh trên cá và động vật thủy
sản cá thể bò bất hoạt khi dùng các biện pháp sau:
- Lưu giữ ở –20
o
C hoặc thấp hơn trong vòng 7 ngày.
- Đông lạnh ở –35
o
C hoặc thấp hơn cho đến khi đông cứng và bảo quản ở
nhiệt độ –35
o
C hay thấp hơn trong 15 giờ.
- Đông lạnh ở –35
o
C hay thấp hơn cho đến khi đông cứng và bảo quản ở
–20
o
C hay thấp hơn trong 24 giờ.
19
- Nấu chín cá (nhiệt độ trên 60
o
C).
- Thanh trùng bằng phương pháp Pasteur.
- Tiệt trùng bằng nhiệt độ cao trong nhiều giờ liền.
- Muối hoặc làm chua….
Trên Thế giới đã có một số nghiên cứu làm bất hoạt Metacercaria để đưa
ra biện pháp xử lý an toàn và hiệu quả cho người dùng thực phẩm thủy sản.
Metacercaria có thể bò làm bất hoạt khi muối chua, hun khói, phơi khô, nấu chín,
đông lạnh và ướp muối trong điều kiện thích hợp tùy theo từng loại ấu trùng
Metacercaria. Theo tài liệu trích bởi Abdussalam và ctv [20] thu được các kết
quả sau:
Bảng 3: Làm bất hoạt Metacercaria bằng nhiệt độ.
Loài Metacercaria Nhiệt độ(
o
C) Thời gian Tác giả
Clonorchis sinensis
-10 5 ngày WHO, 1979
Opisthorchis viverrini
70 30 phút Waikagul, 1974
80 5 phút Waikagul, 1974
O. felineus
-8 đến –12 5 - 12 ngày WHO, 1995
Heterophyes
-10 đến-20 30 giờ Hamed và Elias, 1970
6 9 ngày Hamed và Elias, 1970
50 180 phút Hamed và Elias, 1970
100 10 phút Hamed và Elias, 1970
Một số phương pháp khác đã được nghiên cứu như bất hoạt Metacercaria
của Metagonimus yokogawai ở dung dòch nước giấm 7% acetic acid trong 2 giờ,
trong nước sốt đậu soya liên tục 6 giờ. Nhưng cần đến 10 ngày trong nước muối
sinh lý, 2 tuần trong nước máy và 3 ngày trong rượu gạo [1].
Metacercaria của Fasciolis chết ngay sau 20-30 phutù phơi trực tiếp
dưới nắng và cần 19 giờ phơi khô ở 27
o
C. Còn Metacercaria của Clonorchis
sinensis sẽ bò mất hoạt tính khi ngâm trong dung dòch nước muối 10% trong ít
nhất 1 tuần.