CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN TẠI THỤY
ĐIỂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO TP.HCM
I. Giới thiệu
I.1. Mở đầu
Chất thải rắn phát sinh từ các hộ gia đình, văn phòng, trường học, các cơ sở kinh doanh
vừa và nhỏ, các cơ sở sản xuất bao gồm chất thải sinh hoạt, chất thải có khả năng tái chế,
tái sử dụng từ hộ gia đình và cơ sở sản xuất và chất thải nguy hại. Những loại chất thải này
nếu được tái chế, tái sử dụng và xử lý một cách hợp lý sẽ là nguồn tài nguyên vô cùng quý
giá phục vụ lại quá trình sinh hoạt và sản xuất của con người, hướng đến phát triển bền
vững. Báo cáo này xoay quanh chính sách quản lý chất thải tại Thụy Điển – một trong
những đất nước đứng đầu trong việc quản lý chất thải với một con số ấn tượng – 99% chất
thải rắn từ hộ gia đình được tái chế để tạo ra năng lượng và vật chất mới. Trong khi đó,
Việt Nam là một nước đang phát triển, bước đầu hình thành các chính sách về quản lý môi
trường đặc biệt là quản lý về chất thải rắn. Trong báo cáo này sẽ trình bày về hiện trạng
quản lý chất thải rắn tại Tp.Hồ Chí Minh, thành phố năng động và phát triển nhất Việt
Nam, so sánh chính sách này với Thụy Điển đồng thời rút ra các bài học kinh nghiệm về
quản lý chất thải rắn cho Tp.Hồ Chí Minh.
I.2. Giới thiệu về tiểu luận
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu chính sách quản lý chất thải tại Thụy Điển, chính sách “Không chất thải” mà
Thụy Điển áp dụng, so sánh và rút kinh nghiệm tại Tp.Hồ Chí Minh.
Nội dung của tiểu luận
+ Nêu hiện trạng quản lý và thực hiện chính sách quản lý chất thải rắn tại Thụy Điển trong cả
hai lĩnh vực sinh hoạt và công nghiệp;
+ Giới thiệu chính sách “không chất thải” mà Thụy Điển đang là thành viên chủ chốt;
+ Khung pháp lý phục vụ cho việc thực hiện chính sách “không chất thải”, kết quả thực hiện
đến năm 2011, đánh giá chính sách này theo thuyết EM và chương trình nghị sự Agenda
21;
+ Nêu hiện trạng quản lý chất thải rắn tại Tp.Hồ Chí Minh, khung pháp lý thực hiện;
+ So sánh với chính sách quản lý của Thụy Điển và rút ra bài học tại Tp.HCM.
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận:
+ Chính sách quản lý chất thải sinh hoạt và công nghiệp tại Thụy Điển;
+ Chính sách “Không chất thải” được áp dụng tại Thụy Điển;
+ Chính sách quản lý chất thải rắn sinh hoạt và công nghiệp tại Tp.Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu
+ Tìm kiếm, dịch và đọc tài liệu nghiên cứu về chính sách quản lý chất thải rắn tại Thụy
Điển;
+ Thu thập hiện trạng về quản lý chất thải rắn tại Tp.Hồ Chí Minh;
+ Tổng hợp các số liệu phù hợp, viết báo cáo.
II. Giới thiệu chính sách
II.1. Giới thiệu về Thụy Điển
Thụy Điển
+
Diện tích : 449.964 km
2
+
Dân số : 8,9 triệu
+
Thủ đô : Stockholm
+
Ngôn ngữ chính : Tiếng Thụy Điển
+
Quốc khánh : ngày 06/06 ( 1809)
+
Đơn vị tiền tệ : Sek (1 sek = 0,15$ USD)
Thụy Điển là đất nước có diện tích lớn thứ năm Châu Âu với hơn 9 triệu dân. 1/2 diện tích của
Thuỵ Điển được bao phủ bởi rừng và hệ thống sông ngòi. Người dân Thuỵ Điển hầu hết sinh
sống ở các đô thị hoặc dọc theo bờ biển.
Khí hậu Thụy Điển về mùa hè ở miền Bắc và miền Nam không khác nhau lắm, ánh nắng kéo dài
sưởi ấm miền bắc. Ở cực Bắc trong vài tuần lễ mặt trời không lặn, sáng cả ngày lẫn đêm. Mùa
thu thường đến chậm và khá ấm, mùa đông thì giá lạnh và kéo dài, tuyết phủ từ tháng mười đến
tháng tư. Mùa xuân vào tháng hai ở miền nam và tháng năm ở miền bắc.
II.2. Các vấn đề về chất thải rắn mà Thụy Điển cần giải quyết
II.2.1. Hiện trạng về quản lý chất thải rắn của Thụy Điển
Hệ thống thu gom
Hệ thống thu gom chất thải ở Thụy Điển là trên toàn quốc. Có hai hệ thống thu gom khác nhau,
một cho các hộ gia đình và một cho ngành công nghiệp - công ty, bệnh viện, nhà hàng,…
+ Thu gom từ các hộ gia đình là một hệ thống “thu gom mang đi”. Các hộ gia đình và chủ
nguồn thải khác phải phân loại tại nguồn các dòng chất thải như: kim loại, nhựa cứng nhắc,
nhựa dẻo, giấy, thủy tinh, chai PET, chất thải nguy hại, chất thải hữu cơ, báo chí và các loại
giấy như thư từ, tạp chí. Sau đó, họ đưa các loại chất thải có thể tái chế được đến các trạm thu
gom các vật liệu tác chế miễn phí. Hầu hết các trạm đều có thùng chứa riêng biệt cho từng
loại vật liệu đóng gói. Hiện tại trên cả nước Thụy Điển có tổng cộng khoảng 7.700 trạm tái
chế. Chất thải còn lại được thu gom 2 tuần/1 lần đối với hộ gia đình nhỏ và 1 tuần/1 lần đối
với hộ gia đình lớn. Ngoài ra, tại Thụy Điển còn thiết kế các máy tự động để đổi các vỏ chai
đồ uống và gửi lại tiền cho khách hàng tại các cửa hàng và những nơi thuận tiện. Những vỏ
chai đồ uống có thể đổi tiền tại các trạm này có thể là chai thủy tinh, chai PET và các lon
nhôm. Chai thủy tinh, chai PET lớn (1,5 và 2 lít) được tái sử dụng trong khi đó lon nhôm và
chai PET nhỏ được tái chế.
+ Lượng chất thải phát sinh lớn nhất tại Thụy Điển được tạo ra từ các ngành công nghiệp. Như
một quy tắc cụ thể, chất thải từ các ngành công nghiệp lớn được quản lý tại nơi sản xuất. Chất
thải này thường là đồng nhất và do đó hiếm khi cần phân loại. Các công ty này thường chọn
một trung tâm tái chế tại thành phố của công ty đó để lưu chứa và tái chế chất thải.
Thu gom và xử lý từng loại chất thải
Đối với các loại chất thải khác nhau được các tổ chức khác nhau chuyên về chất thải đó thu gom
và tái chế.
Chính quyền hoặc các công ty dịch vụ đô thị chuyên trách về chất thải quản lý chất thải hộ gia
đình, trong khi đó chất thải điện – điện tử do chính quyền chịu trách nhiệm thu gom. Chính
quyền có thể mở rộng trách nhiệm của mình bằng cách tham gia tình nguyện trong quá trình thu
gom và vận chuyển chất thải công nghiệp nguy hại. Hầu hết các loại chất thải này phát sinh từ
quá trình sản xuất công nghiệp và loại chất thải này được công ty hoặc tổ chức có chứng chỉ
hành nghề mới được thu gom để tránh cho việc phát tán chất ô nhiễm ra môi trường.
Tổng cục môi trường của Thụy Điển kết hợp với một số công ty thành lập tổ chức nhằm thu gom
và tái chế pin. Trong khi đó, chất thải từ quá trình sản xuất của một nhà máy thuộc trách nhiệm
xử lý của nhà máy đó, điều này chứng tỏ nhà máy sản xuất phải kèm theo công nghệ tái chế và
xử lý chất thải.
Các công ty tái chế
Để đáp ứng với các điều luật đưa ra từ luật pháp Thụy Điển, cộng đồng các nhà sản xuất đã hình
thành các công ty vật liệu, các công ty này chịu trách nhiệm pháp lý đại diện cho các doanh
nghiệp tái chế và xử lý chất thải do chính các doanh nghiệp phát sinh và hoạt động theo hình
thức phi lợi nhuận.
Các công ty vật liệu về các chất thải như thủy tinh, giấy, kim loại, giấy carton, nhựa gồm các
công ty như sau:
+ Plastkretsen được đồng sở hữu bởi các nhà sản xuất và nhập khẩu chất độn, nhựa, 60%
thuộc về PIR – Hiệp hội thông tin Nhựa Thụy Điển – đại diện cho ngành công nghiệp
nhựa, 30% thuộc các tổ chức trong lĩnh vực chất độn và khu dịch vụ bán lẻ, 10% thuộc
Viện Dầu Khí Thụy Điển.
+ MetallKretsen được đồng sở hữu của 10 công ty và tổ chức cho các nhà sản xuất bao bì
kim loại. MetallKretsen chịu trách nhiệm tái chế kim loại trừ các lon có thể tái sử dụng
được trả lại cho các nhà sản xuất.
+ Svensk Kartongåtervinning thuộc sở hữu của 16 công ty chuyên sản xuất nguyên liệu.
+ Returwell có 40% thuộc hiệp hội về giấy lót gợn sóng của Thụy Điển, còn lại là các công
ty sản xuất giấy.
+ Svensk GlasÅtervinning đồng sở hữu bởi các công ty thực phẩm và hàng gia dụng và
công ty này độc lập về chi tiêu, quản lý.
+ Ngoài ra, còn có các công ty như Förpackningsinsamlingen và Repa.
Förpackningsinsamlingen là tổ chức dịch vụ của các công ty nguyên vật liệu được thành
lập từ năm 1994, có trách nhiệm phối hợp các mặt hàng mang lại lợi ích cho các công ty,
thỏa thuận với các cơ quan địa phương, và thông tin truyền thông. Repa đăng ký và thu
phí từ các công ty, nhà cung cấp chất độn, những khoản phí này được trả cho chi phí thu
gom và vận chuyển chất thải.
Sơ đồ tổ chức các công ty vật liệu như sau:
Các công ty vật liệu thuê các nhà thầu phụ khác nhau tại Trung ương và địa phương nhằm đảm
bảo hệ thống thu gom hoạt động trên 1 diện rộng.
Ngoài ra, còn có các công ty tái chế quản lý trạm thu chai tự động tại các vị trí công cộng chịu
trách nhiệm quy định hệ thống tiền trả lại cho các vỏ chai nước uống như lon nhôm và chai PET.
Các chất thải không có khả năng tái chế được xử lý bằng phương pháp đốt và chôn lấp.
Chi phí xử lý chất thải rắn của hộ gia đình
Chất thải sinh hoạt hữu cơ
Việc quản lý chất thải rắn sinh hoạt và chi phí quản lý chất thải rắn được thiết lập bởi chính
quyền địa phương, chi phí này được trả cho các công ty thu gom, các trung tâm tái chế nhận các
chất thải cồng kềnh, chất thải nguy hại và xử lý chất thải rắn. Phí quản lý chất thải này được thu
nhằm khuyến khích kinh tế đối với hộ gia đình xử lý chất thải rắn của họ một cách phù hợp. Một
gia đình bình thường có thể không bị thu tiền nếu chất thải phát sinh dưới mức quy định. Chính
quyền địa phương được phép thu phí tùy thuộc vào số lượng chất thải rắn phát sinh, tần suất thu
gom chất thải. Bảng sau trình bày phí xử lý bằng các phương pháp khác nhau đối với chất thải
rắn:
Phương pháp xử lý Phí xử lý/tấn (Euro)
Chôn lấp 70 – 120
Đốt 30 – 60
Phương pháp sinh học 40 – 100
Nguồn: Cơ quan quản lý chất thải rắn Thụy Điển, 2005
Mỗi hộ gia đình trung bình phải trả 160 Euro trên 1 năm với tần suất thu gom 2 tuần/1 lần. vào
năm 2003, mỗi hộ gia đình chỉ phải trả 130 Euro trên 1 năm với tần suất thu gom 2 tuần/1 lần.
Phí trên đã bao gồm thuế giá trị gia tăng và thuế về chất thải. Sự gia tăng chi phí thu của hộ gia
đình là do có những cải tiến khi thu gom và xử lý cả chất thải nguy hại của hộ gia đình. Một lý
do khác nữa là do cải thiện công nghệ xử lý và cải thiện môi trường nơi tiếp nhận chất thải.
Chất thải có thể tái chế từ hộ gia đình
Trách nhiệm về chất thải bao bì và giấy thuộc về các nhà sản xuất, họ phải trả phí môi trường để
xử lý các loại chất thải mà họ phát sinh, tất nhiên số tiền họ phải trả sẽ được thêm vào giá sản
phẩm. Trong năm 2003, tiền cho các sản phẩm bao bì và giấy cho mỗi hộ gia đình khoảng 20 –
40 Euro/năm, số tiền này được gửi trả lại các hộ gia đình khí họ đem các bao bì gửi trả lại cho
các nhà sản xuất thông qua các thùng tự động được đặt tại các nơi công cộng. Ví dụ, đối với các
sản phẩm nhôm, trong giá sản phẩm đã bao gồm 0,05 Euro cho lon nhôm, chi phí này được gửi
trả lại khách hàng khi họ đem lon nhôm đến máy tự động. Đối với các sản phẩm khác cũng
tương tự.
II.2.2.Chính sách “Không chất thải”
Không chất thải là một triết lý mà khuyến khích việc thiết kế lại của vòng đời tài nguyên để tất
cả các sản phẩm đều được tái sử dụng. Chất thải rắn gửi đến các bãi chôn lấp và lò đốt là tối
thiểu. Một định nghĩa khác không chất thải làm việc phát sinh chất thải bằng không, thường được
trích dẫn bởi các chuyên gia trong lĩnh vực có nguồn gốc từ một nhóm công tác của Liên minh
Quốc tế Xử lý chất thải Zero, vào năm 2004.
Không chất thải là một mục tiêu đó là đạo đức, kinh tế, hiệu quả và có tầm nhìn xa trông rộng, để
hướng dẫn người dân trong việc thay đổi lối sống và thực hành của họ để cạnh tranh với các chu
kỳ thiên nhiên bền vững, nơi mà tất cả các loại phế liệu đã được thiết kế để trở thành nguồn lực
cho người khác sử dụng. Không chất thải có nghĩa là thiết kế và quản lý sản phẩm và quy trình
có hệ thống tránh và loại bỏ khối lượng và độc tính của chất thải và vật liệu, bảo tồn và phục hồi
tất cả các nguồn tài nguyên. Thực hiện không chất thải sẽ loại bỏ tất cả những ảnh hưởng đến
môi trường đất, nước hoặc không khí là một mối đe dọa đối với hành tinh, động vật, con người
hoặc sức khỏe cây trồng.
Trong ngành công nghiệp quá trình này liên quan đến việc tạo ra các mặt hàng sản phẩm chất
thải truyền thống, về cơ bản làm cho kết quả đầu ra cũng là đầu vào cho các ngành công nghiệp
tương tự hoặc khác nhau. Một ví dụ có thể là chu kỳ của một chai sữa thủy tinh. Đầu vào (hoặc
nguồn tài nguyên) là silica cát, được hình thành vào kính và sau đó vào một chai. Chai này được
đầy sữa và phân phối đến người tiêu dùng. Tại thời điểm này, phương pháp chất thải bình thường
sẽ thấy chai xử lý trong một bãi chôn lấp hoặc tương tự. Tuy nhiên, với một phương pháp không
chất thải, chai có thể được bán với một khoản tiền gửi, được trả lại cho người mang khi mua lại.
Chai này được sau đó rửa sạch, khử trùng, nạp lại sữa, và bán lại. Các chất thải vật liệu duy nhất
là nước rửa, và đã được giảm thiểu thất thoát năng lượng. Không chất thải có thể đại diện cho
một sự thay thế kinh tế để hệ thống chất thải, nguồn lực mới liên tục cần thiết để giảm thiểu lãng
phí nguyên liệu.
Hướng đến sự phát triển bền vững chất thải, chính sách không chất thải không những giảm thiểu
tối đa chất thải rắn phát sinh trong quá trình sinh hoạt và sản xuất của con người mà còn tiết
kiệm nguồn tài nguyên sử dụng, giảm thiểu các tác động đến môi trường đem lại một môi trường
sống xanh sạch đẹp. Chính sách “không chất thải” được áp dụng tại Châu Âu và trong khuôn khổ
chỉ định chất thải của Châu Âu đòi hỏi các quốc gia thành viên áp dụng chính sách “không chất
thải” và phải xây dựng kế hoạch giảm chất thải với mục tiêu giảm thiểu chất thải tới năm 2020.
Thụy Điển là một quốc gia tiên phong trong quản lý chất thải rắn đặc biệt trong việc áp dụng
chính sách không chất thải và đạt được những kết quả ấn tượng.
II.2.3. Mục tiêu quản lý chất thải của Thụy Điển
Chất thải phải được quản lý theo cách có thể đạt được lợi ích tối đa cho môi trường và xã hội.
Tất cả mọi người đều tham gia trong nỗ lực này bao gồm: các nhà sản xuất, các doanh nghiệp,
các thành phố và hộ gia đình. Các thành phố chịu trách nhiệm cho chất thải rắn sinh hoạt, các
nhà sản xuất chịu trách nhiệm cho sản phẩm của họ và các nhà khai thác trong các lĩnh vực chịu
trách nhiệm cho của tất cả các chất thải mà không phải là hộ gia đình.Các hộ gia đình chịu trách
nhiệm phân loại và để vào các nơi khác nhau. Các hộ gia đình cũng chịu trách nhiệm thực hiện
quản lý chất thải do thành phố trực thuộc Trung ương quy định. Những mục tiêu dài hạn cho việc
quản lý chất thải tại Thụy Điển như sau:
+ Đến năm 2015, chất thải thực phẩm được giảm ít nhất 20% so với năm 2010;
+ Đến năm 2015, ít nhất 40% chất thải thực phẩm từ hộ gia đình, nhà cung cấp suất ăn, mặt
bằng bán lẻ và nhà hàng sẽ được xử lý sinh học để cung cấp phân bón và năng lượng;
+ Đến năm 2015, ít nhất 60% lượng photpho ô nhiễm trong nước thải sẽ được xử lý và sử
dụng trên các vùng đất sản xuất, trong đó có ít nhất 1/2 nên được sử dụng trên đất canh tác;
+ Bằng cách tái sử dụng và tái chế, chất thải không nguy hại được xử lý ít nhất 70% chất thải
vào năm 2020;
Chất thải được quản lý theo hệ thống phân cấp chất thải theo thứ tự ưu tiên như sau:
+ Giảm thiểu chất thải;
+ Chất thải có thể tái sử dụng;
+ Chất thải có thể tái chế;
+ Chất thải phục hồi - chẳng hạn như sử dụng chất thải tạo ra năng lượng phục hồi;
+ Xử lý chất thải.
Các phương pháp xử lý quan trọng nhất của chất thải được lựa chọn là:
+ Tái chế vật liệu;
+ Xử lý sinh học
+ Xử lý chất thải để tạo ra năng lượng
+ Chôn lấp;
Chất thải nguy hại có thể được xử lý với một hoặc nhiều phương pháp, tùy thuộc vào đặc tính
của chất thải.Tái chế bao bì, giấy, phế liệu từ các thiết bị điện và điện tử (WEEE) và pin giảm tác
động đến môi trường và tiết kiệm năng lượng và tài nguyên.
Tái chế sinh học được thực hiện thông qua quá trình kỵ khí hoặc làm compost. Quá trình kỵ khí
sản xuất khí sinh học có thể được sử dụng như một nhiên liệu. Quá trình kỵ khí cũng sản xuất
chất sinh dưỡng tuyệt vời. Quá trình compost sản xuất phân bón lâu dài được sử dụng như người
canh tân đất trong vườn, công viên. Tái chế sinh học như vậy đóng vai trò sinh học và trả lại chất
dinh dưỡng cho đất.
Xử lý chất thải để sản xuất năng lượng là một giải pháp hiệu quả và phương pháp an toàn môi
trường cho sản xuất năng lượng từ chất thải. Nó cung cấp cả nhiệt và điện. Xử lý chất thải để tạo
ra năng lượng là một phương pháp rất thích hợp cho chất thải mà không có thể được xử lý bằng
bất kỳ cách nào khác.
Chôn lấp là một phương pháp xử lý chất thải mà không thể được tái chế.Chôn lấp có nghĩa là
chất thải được lưu trữ trong một cách đó là an toàn cho dài hạn và phương pháp xử lý này được
điều khiển bởi một quy định nghiêm ngặt khuôn khổ. Chôn lấp của hữu cơ hoặc chất thải dễ cháy
là bị cấm.
Các nhà chức trách địa phương có thể lựa chọn làm thế nào để tổ chức quản lý chất thải. Tùy
chọn này cho Chính phủ, thành phố trực thuộc Trung ương tự được quy định trong hiến pháp
pháp luật. Các nhà chức trách địa phương có thể lựa chọn hệ thống quản lý và các chủ trương,
thành phố trực thuộc Trung ương,riêng biệt hoặc cùng với các thành phố khác.Hợp tác cũng có
thể có trong ủy ban hay một chính phủ liên bang địa phương. Một số chính quyền địa phương
cũng hợp tác các vấn đề cụ thể, chẳng hạn như xử lý chung. Để chính quyền địa phương có hợp
tác là một giải pháp tự nhiên để đạt được tốt nhất có thể lợi ích môi trường và xã hội, để đạt
đượcchi phí quản lý chất thải hiệu quả và để đảm bảo thẩm quyền cần thiết, mang lại lợi ích cả
người dân và môi trường. Trong 75% số lượng thành phố Thụy Điển, các công ty tư nhân, quản
lý hộ gia đình thu gom chất thải, trong khi trong phần còn lại các thành phố cung cấp dịch vụ
này. Chất thải được thực hiện xử lý bởi các thành phố hoặc thường một doanh nghiệp, thành phố
trực thuộc Trung ương hoặc đôi khi một công ty tư nhân.
II.2.4. Cơ quan quản lý chất thải của Thụy Điển
Avfall Sverige – Cơ quan quản lý chất thải Thụy điển là tổ chức thực hiện quản lý chất thải rắn.
Thành viên của cơ quan này bao gồm các chính quyền địa phương và các hiệp hội chính quyền
địa phương và các công ty tư nhân là thành viên liên quan. Tổng cộng, Avfall Sverige có khoảng
400 thành viên và nhiệm vụ chính là đại diện và phát triển thành viên bằng cách tạo ra mạng
lưới, cung cấp thông tin,và gây ảnh hưởng đến các nhà hoạch định quyết định của mỗi địa
phương.
Avfall Sverige dựa trên một biểu hiện trách nhiệm với xã hội đối với chính quyền địa phương và
người dân. Mục tiêu cụ thể của chính sách “Không chất thải” của Avfall Sverige là phá vỡ các
mối quan hệ giữa chất thải và tăng trưởng để đạt được mục tiêu rõ ràng hướng tới năm 2020 và
đảm bảo lâu dài cho tầm nhìn tương lai.
Các chính quyền thành phố bảo lãnh quản lý chất thải bền vững lâu dài cho lợi ích công cộng và
công dân.Avfall Sverige chăm sóc quyền lợi của các thành viên trong quản lý chất thải bao gồm
tách,thu gom, tái chế, xử lý chất thải, cũng như các vấn đề liên quan đến hành chính, kinh tế,
thông tin,quy hoạch, đào tạo và phát triển.
II.3. Giới thiệu chính sách quản lý chất thải rắn tại Thụy Điển
II.3.1. Khung pháp lý
Chính sách quản lý chất thải rắn của Thụy Điển dựa trên khung pháp lý sau
- Chính sách môi trường của Châu Âu (part IV.4 Waste – EU environmental policy)
- Hệ thống luật môi trường của Thụy Điển (The Swedish Environmental Code – 1/1999)
- Chính sách môi trường của Thụy Điển (Sweden’s environmental policy)
Những thay đổi lớn trong các luật, pháp lệnh và các quy định quản lý ngành công nghiệp
chất thải.
- Năm 1999
• Các luật môi trường có kết hợp chỉ thị, quy định;
- Năm 2000
• Dự thảo thuế SEK 250/tấn chất thải đến bãi chôn lấp;
• Chính quyền không còn phải tự chịu trách nhiệm đối với loại chất thải khác hơn là chất
thải sinh hoạt.
- Năm 2001
• Chỉ thị quy định về bãi chôn lấp;
• Chỉ thị quy định trách nhiệm của nhà sản xuất cho chất thải từ các thiết bị điện và điện tử
(WEEE).
- Năm 2002
• Thuế chất thải đến bãi chôn lấp tăng đến SEK288/tấn.
• Chỉ thị về chất thải với danh sách chất thải mới.
• Lệnh cấm chôn lấp chất thải dễ cháy.
• Chỉ thị về đốt rác thải. Áp dụng trực tiếp cho các cơ sở mới.
- Năm 2003
• Thuế chất thải đến bãi chôn lấp tăng đến SEK370/tấn
• Chính phủ dự luật 2002/03: 117 "Một xã hội không độc hại và tuần hoàn hiệu quả nguồn
tài nguyên" được công bố. Quốc hội tranh luận và bỏ phiếu về dự luật của chính phủ.
- Năm 2004
• Giải thích rõ ràng trách nhiệm của người giữ chất thải, giới thiệu trong chương 15 §
5.Môi trường luật.
• Quy định và lời khuyên chung về quản lý chất dễ cháy và chất thải hữu cơ .
• Thay đổi các chỉ thị liên quan đến trách nhiệm của nhà sản xuất đóng gói và chất thải
giấy.
- Năm 2005
• Lệnh cấm chôn lấp chất thải hữu cơ.
• Mục tiêu môi trường Thụy Điển: lượng chất thải đến bãi chôn lấp, không bao gồm khai
thác mỏ chất thải, phải được giảm ít nhất 50% so với năm 1994. (Theo các số liệu thống
kê trong năm 2003 cho chất thải hộ gia đình)
• Chỉ thị mới về trách nhiệm sản xuất chất thải từ các thiết bị điện và điện tử (WEEE) đã có
hiệu lực vào ngày 13/8. Các chỉ thị trước đó tiếp tục áp dụng cho ánh sáng bóng đèn và
các nguồn ánh sáng.
• Chỉ thị và các quy định về tiêu huỷ chất thải hiệu lực từ ngày 28/12/2006
• Thuế đối với chất thải sinh hoạt sẽ tạo ra năng lượng đốt đã được giới thiệu vào ngày 1/7.
• Thuế chất thải đến bãi chôn lấp tăng đến SEK435/tấn.
• Các chỉ thị mới về yêu cầu đối với tiếp nhận chất thải tại các bãi chôn lấp, và các quy
định về nội dung được đặt xuống trong một thành phố trực thuộc Trung ương, chỉ thị
1013/2006 về vận chuyển chất thải có hiệu lực.
- Năm 2007
• Hướng dẫn về các khái niệm của chất thải sinh hoạt từ Cơ quan bảo vệ môi trường Thụy
Điển.
• Giới thiệu trách nhiệm môi trường cho các nhà khai thác, và tăng pháp luật về tội phạm
môi trường.
• Thành phố có khả năng tham gia tự nguyện về trách nhiệm chất thải nguy hại khác hơn
so với chất thải hộ gia đình được bãi bỏ Ngày 01/07.
• Mới chỉ thị về hoạt động môi trường có hại và bảo vệ sức khoẻ mới cấp phép và báo cáo
ruột thừa 2008
• Pháp luật về mua sắm công có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 1.
• Tất cả các bãi chôn lấp mở phải theo pháp lệnh và các quy định để chôn lấp.
• Thực hiện yêu cầu trên hệ thống thu gom để đóng gói một số loại giấy như tờ báo, và yêu
cầu ủy quyền chạy như hệ thống thu gom chuyên nghiệp. Sửa đổi được đề xuất để đi vào
buộc vào ngày 01 Tháng Chín.
• Chỉ thị khung về chất thải từ Cộng đồng Châu Âu.
• EC quy định với các chỉ thị liên quan đến xuất khẩu sang một số nước nhất định để thu
hồi lãng phí.
• EC quy định với các chỉ thị liên quan đến một lệnh cấm vận xuất khẩu của thủy ngân EU.
- Năm 2009
• Quy định mới liên quan đến pin mất hiệu lực từ ngày 01 tháng 1.
• Quy định mới về chất thải từ khai khoáng ngành công nghiệp. Mối quan tâm chỉ thị chất
thải từ thăm dò, khai thác, chế biến hoạt động hoặc lưu trữ tài nguyên khoáng sản,và chất
thải từ hoạt động khai thác đá.
- Năm 2010
• Thuế tiêu hủy đối với chất thải gia đình bãi bỏ vào ngày 01/10/2010.
• Sổ tay mới từ Cơ quan Bảo vệ Môi trường Thụy Điển về tái chế chất thải tại các nhà
máy.
• Sửa đổi quy định cho phép Cơ quan Bảo vệ môi trường Thụy Điển đàm phán thỏa thuận
thủ tục đăng ký ít nghiêm ngặt hơn về vận chuyển chất thải các quận vùng biên giới giữa
Thụy Điển, Phần Lan và Đan Mạch.
• Sửa đổi quy định về khí sinh học để có thể bao gồm khí bãi rác. Miễn thuế đối với khí
sinh học vận chuyển trong đường ống. Việc miễn thuế được áp dụng cho tất cả các loại
khí đốt theo thỏa thuận với khách hàng.
• Thuế phân bón được bãi bỏ vào ngày 1/1/2010.
• Các bảo hiểm về thiệt hại môi trường và khử nhiễm được bãi bỏ Ngày 01 tháng một năm
2010.
• Pháp luật về tiêu chuẩn bền vững cho nhiên liệu sinh học. Thực hiện Chỉ thị 2009/28/EC.
• Sửa đổi quy định từ Cơ quan bảo vệ môi trường Thụy Điển về nhà máy lớn đốt rác và
chất thải để sản xuất năng lượng đốt, theo thứ tự sửa đổi bổ sung 2002:26 NFS và NFS
2002:28.
• Sửa đổi quy định từ Cơ quan Bảo vệ Môi trường Thụy Điển về nhu cầu cho các bãi chôn
lấp chất thải độc hại cũng như các bãi chôn lấp chất thải không nguy hại để tập trung
quản lý và báo cáo dữ liệu khí tượng, sửa đổi NFS 2004:10.
• Mục tiêu quốc gia để tái chế tối thiểu là 35% chất thải thực phẩm từ các hộ gia đình, nhà
hàng, nhà bếp quy mô lớn, và các cửa hàng thông qua xử lý sinh học từ 2010.
• Mục tiêu quốc gia để phục hồi tối thiểu là 50% chất thải sinh hoạt thông qua vật liệu tái
chế, bao gồm cả xử lý sinh học vào năm 2010.
• Mục tiêu quốc gia để tái chế tất cả chất thải thực phẩm và tương đương với chất thải từ
các ngành công nghiệp thực phẩm, thông qua xử lý sinh học vào năm 2010.
• Khung EU sửa đổi Chỉ thị về Chất thải được đưa vào tổ chức không muộn
hơn12/12/2010
• Các quy định mới (EC) 1069/2009 sản phẩm phụ của động vật, áp dụng từ tháng 3/2011.
• Quy định hình phạt mới cho xả rác có hiệu lực từ ngày 1/7.
• Luật về chất thải mới sẽ có hiệu lực trong pháp luật của Thụy Điển thông qua những thay
đổi trong Hệ thống luật môi trường, chương 15 (có hiệu lực ngày 09/7) và thu gom chất
thải mới và quy định chôn lấp (SFS 2011:927, hiệu lực ngày 10/8).
- Năm 2013
• Vào ngày 12/12, hạn chót để thành viên EU sẽ thành lập chương trình ngăn ngừa chất
thải quốc gia để giảm thể tích chất thải và giảm bớt tính độc hại của chất thải. Chương
trình sẽ là một phần của quy hoạch chất thải để phù hợp với chỉ thị hoặc chương trình
chính sách môi trường khác. Các yêu cầu được đưa ra trong Khuôn khổ Chỉ thị chất thải
2008/98/EC
- Năm 2014
• Chất thải có chứa tối thiểu là 0,1% về khối lượng thủy ngân và không được chôn lấp theo
quy định cho phép trong Bộ luật môi trường, hoặc với quy định trong luật này sẽ được
chôn lấp bởi phương tiện ghi trong thu gom chất thải và Pháp lệnh Xử lý (với một số
trường hợp ngoại lệ được đưa ra trong quy định (EC)1108/2008).
- Năm 2015
• Đến năm 2015, thời điểm cuối cùng, hội đồng các thành viên EU phải đưa ra quy định
khả thi về phân loại ít nhất là giấy, kim loại, nhựa và thủy tinh từ công nghệ, môi trường,
kinh tế. Các yêu cầu được đặt ra trong Chỉ thị khung về chất thải.
- Năm 2020
• EU có mục tiêu giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính 20% vào năm 2020, so với mức
phát thải ở các năm 1990. Quốc Hội Thụy Điển đã có giảm lượng khí thải của Thụy Điển
40% so với năm 1990. Tổng thể mục tiêu là sản xuất tổng cộng 20% năng lượng tái tạo
trong EU và 10% của tất cả nhiên liệu phương tiện sẽ được cung cấp từ các nguồn tài
nguyên năng lượng tái tạo.
• Chỉ thị khung chất thải bao gồm mục tiêu tái chế mới cho các nước thành viên. Đến năm
2020, 50% của tất cả các kim loại, giấy, nhựa và chất thải sinh hoạt, thủy tinh và chất thải
tương tự sẽ được tái sử dụng hoặc thu hồi. Đối với chất thải xây dựng và phá hủy mục
tiêu là 70%.
II.3.2. Các chương trình chính sách cụ thể được đặt ra cho chính sách “không chất thải”
Các chương trình và chính sách
Ngăn chặn phát sinh chất thải là bước đầu của hệ thống phân cấp chất thải của EU. Nó cũng là
một ưu tiên trong mục tiêu môi trường quốc gia và trong kế hoạch quản lý chất thải của quốc gia.
Ở Thụy Điển, phục hồi vật liệu, năng lượng và chất dinh dưỡng từ chất thải, cung cấp các lợi ích
lớn về môi trường nhưng có thể đạt được nhiều hơn những mục tiêu trên. Lợi ích môi trường lớn
hơn nếu một sản phẩm không bao giờ được sản xuất hơn nếu nó được sản xuất, sử dụng và cuối
cùng tái chế. Các thành phố của Thụy Điển đã chấp nhận một trách nhiệm lớn để giảm chất thải
và số lượng các chất độc hại trong chất thải. Một báo cáo từ Avfall Sverige cho rằng Xử lý chất
thải của Thụy Điển cung cấp các ví dụ về các biện pháp có thực sự thành công trong việc giảm
đáng kể lãng phí số lượng:
• Kretsloppsparken Alelyckan ở Gothenburg ngăn chặn 360 tấn chất thải mỗi năm bởi vì
sản phẩm có thể được tái sử dụng thay vì loại bỏ.
• Kiruna làm giảm chất thải thực phẩm trong nhà ăn trường học bằng cách loại bỏ các khay
thức ăn - học sinh có thể không còn mất nhiều thức ăn mỗi lần.
• Bjurhovda học tại Västerås nhận đượcgiải thưởng cho những nỗ lực của mình để giảm số
lượng thức ăn ném đi trong căn tin của trường. Khi dự án bắt đầu, nhà trường đã ném đi
10 kg thức ăn hàng ngày, một năm sau đó, con số này là xuống đến 6,8 kg hàng ngày.
Trung bình hơn một năm, chất thải thực phẩm được giảm 640 kg, dẫn đến cả hai tiết kiệm
kinh tế và môi trường thấp hơn tác động môi trường.
• Gästrike Återvinnare nhận được rất nhiều sự tham gia vào chiến dịch giảm thiểu sự lãng
phí. Tất cả xe thu gom chất thải của thành phố diễu hành qua trung tâm thị trấn để chứng
minh lượng chất thải phát sinh trong Gävle.
• Gävle cũng đang chạy dự án familjer Hållbara (Gia đình bền vững), trong đó một số gia
đình được giao nhiệm vụ thay đổi lối sống của họ trong một hướng nhận thức môi trường
cho một năm. Dự án tập trung vào năng lượng, du lịch, thực phẩm và tái chế.
• Gothenburg đang chạy một dự án tương tự, Leva livet (Live Life). Gia đình giảm thức ăn
lãng phí bằng 1/4, báo chí và tạp chí bằng 1/10 và giảm 40% lượng chất thải trong thùng
rác ban đầu trong suốt quá trình của dự án.
Giảm thiểu chất thải là một ưu tiên hàng đầu của thành viên của Avfall Sverige. Triết lý này
được minh họa tầm nhìn dài hạn - "Không chất thải" - được thông qua tại cuộc họp thường niên
2011. Tầm nhìn bao gồm hai mục tiêu dài hạn cho năm 2020 a) phá vỡ các mối quan hệ giữachất
thải và tăng trưởng, b) đạt được rõ ràng sự phát triển mạnh mẽ trong hệ thống quản lý chất thải.
Các thành phố là đơn vị chủ chốt và tầm nhìn quốc gia cho rằng các thành phố có thể điều khiển
quá trình chuyển đổi và cam đoan cho việc quản lý chất thải bền vững lâu dài.
Các công cụ kinh tế
Bên cạnh các dự án được thực hiện nhằm đảm bảo cho chính sách không chất thải được thực
hiện, còn có các công cụ kinh tế được áp dụng nhằm tăng hiệu quả của chính sách không chất
thải được trình bày cụ thể trong bảng sau:
Công cụ kinh tế Tác động Những quy định hỗ trợ
1 Chi phí trực tiếp từ hộ dân
phát sinh chất thải
Tăng việc giảm thiểu chất
thải, tái chế hoặc làm
compost tại nhà thay vì xử
phạt
+ Quy định bắt buộc tham
gia tái chế;
+ Cung cấp các đề án liên
quan;
2 Thuế chôn lấp Thúc đẩy tái chế thay vì chôn
lấp
+ Bắt buộc tái chế, hướng
dẫn các loại chất thải tái
chế, chôn lấp cấm với một
số loại chất thải.
3 Thuế về vật liệu thô Thúc đẩy tái chế + Quy định về xử lý các loại
bao bì chất thải
4 Phí sản phẩm Thúc đẩy tái chế + Quy định các loại chất
thải bị cấm chôn lấp;
5 Hoàn lại tiền gửi Thúc đẩy tái chế + Quy định các loại chất
thải bị cấm chôn lấp;
6 Thuế xử lý chất thải bằng
phương pháp đốt
Thúc đẩy tái sử dụng chất thải
và tái chế
+ Quy định mục tiêu tái chế
và thu gom
II.3.3. Sự thay đổi hệ thống thu gom và vận chuyển chất thải đặt ra nhằm thực hiện chính sách
“không chất thải”
Có nhiều hệ thống khác nhau để thu gom và vận chuyển chất thải hộ gia đình. Các chất thải hộ
gia đình được cho vào các thùng rác và túi có thể được thu gom hoặc như là một phần nhỏ hỗn
hợp dành cho xử lý chất thải để sản xuất năng lượng hoặc các phần phân đoạn riêng biệt - một
cho chất thải thực phẩm và chất thải dễ cháy. Khoảng 30 thành phố đã giới thiệu về hệ thống thu
gom lề đường của bao bì và giấy từ ngôi nhà một gia đình. Chất thải hỗn hợp dễ bắt lửa từ một
gia đình, nhà là trong hầu hết các trường hợp thu thập được trên 190 lít thùng bánh xe và làm
trống mỗi tuần. Ngoài ra còn có một số túi khác nhau và kích thước thùng rác được làm trống
trong khoảng thời gian khác nhau. Chất thải thường được thu gom từ khối căn hộ mỗi tuần.
Các hệ thống phổ biến nhất để thu gom chất thải đã phân loại tại nguồn là cho vào thùng rác có
ngăn riêng biệt - một cho chất thải sinh học và một cho chất thải dễ cháy, hoặc phân loại thủ
công. Phân loại theo thủ công, yêu cầu hộ gia đình tách chất thải vào túi màu khác nhau được đặt
trong cùng một thùng. Các túi sau đó được phương tiện thu gom đến một cơ sở phân loại thủ
công, nơi các túi được tách ra tự động cho việc đúng quy trình.
Xe tải có thùng chứa hàng phía sau vẫn là phương tiện thu gom chất thải phổ biến nhất, nhưng
công nghệ cho các phương tiện đa ngăn đã được phát triển và trở thành phổ biến hơn, mặc dù xe
có phụ tải vẫn đóng góp thêm một phần số lượng xe cho các nhà khai thác xe.
Sự gia tăng của phương tiện sử dụng khí sinh học làm nhiên liệu, mà chính quyền địa phương có
thể kiểm soát thông qua thủ tục mua bán (procurement requirement). Ngoài ra, một số thành phố
sử dụng nhiên liệu khác thay thế như RME, cũng như sử dụng động cơ có thể dùng các loại
nhiên liệu khác nhau để giảm tỉ lệ carbon.
Thu gom trước đây là chủ đề để tạo công ăn việc làm cho nhiều người. Việc nâng nặng hàng
ngày là một phần của công việc và công việc thu gom chất thải yêu cầu người công nhân phải có
thể lực tốt. Vì điều kiện làm việc ổn định nhưng không nhiều người thu gom chất thải có thể trụ
lại tới tuổi nghỉ hưu trung bình quốc gia. Ngày nay, tình hình có nhiều thay đổi, túi được thay thế
bằng các thùng hoặc các loại container. Quy trình xử lý chất thải thủ công đang được thay thế
bằng hệ thống công nghệ tự động mới, chẳng hạn như hệ thống hút chân không rác thải (refuse
vacuum systems) và hệ thống thùng chứa ngầm. Cả hai hệ thống đang gia tăng, đặc biệt là ở
thành phố lớn. Một trong nhiều lợi ích là không yêu cầu xử lý thủ công nặng nhọc.
Từ quan điểm của sức khỏe nghề nghiệp và an toàn, hệ thống thu gom chân không là một hệ
thống tốt kể từ khi nó được niêm phong và hoàn toàn tự động. Đây là loại hệ thống thu gom làm
giảm sự cần thiết cho vận chuyển chất thải, đặc biệt là trong khu dân cư. Có hai loại hệ thống thu
gom chân không, một hệ thống thu gom cố định và một hệ thống thu gom di động.
Với hệ thống thu gom cố định, chất thải được thu gom với không khí trong một hệ thống chân
không tự động. Nó được vận chuyển thông qua ống ngầm được nối với thùng chứa lớn đặt ở cuối
đường ống. Với kỹ thuật này, chất thải có thể được vận chuyển một khoảng cách của hai cây số
từ đầu vào. Số lượng các thùng chứa thay đổi và phụ thuộc một phần vào số lượng các phân đoạn
thu gom, phần còn lại phụ thuộc vào thể tích chất thải. Các thùng chứa được thu gom bởi các xe
nâng móc.
Hệ thống thu gom chân không di động cũng sử dụng không khí để thu gom chất thải, nhưng ở
đây các kỹ thuật chân không nằm trong xe. Bể chứa được đặt dưới mỗi đầu vào, các bể được kết
nối thông qua một hệ thống đường ống ngầm, một điểm lắp ghép như vậy có thể được đặt ở một
khoảng cách tối đa là 300m từ các bể. Phương tiện kết nối với các điểm lắp ghép để đổ rác vào,
hệ thống chân không được bật và chất thải từ các bể lưu trữ khác nhau tới điểm lắp ghép và lên
xe. Hệ thống thu gom chân không di động yêu cầu xe chuyên dụng.
Một hệ thống thu gom khác ngày càng gia tăng là hệ thống container ngầm. Đặt container lớn
hơn dưới lòng đất làm giảm không gian cần trên mặt đường. Nhiệt độ dưới mặt đường tương đối
thấp, có thể ngăn chặn mùi, và các container được dễ dàng làm trống với phương tiện là xe nâng
móc. Cũng có nhiều container ngầm được làm trống với thùng xe phía trước. Kể từ khi các thùng
chứa ngầm chứa khối lượng lớn hơn, số lượng xe vận chuyển có thể được giảm.
II.3.4. Phân tích vai trò nhóm liên đới trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách –
“không chất thải”
- Nhóm động lực chính thúc đẩy việc thực hiện chính sách:
• Hội đồng chung Châu Âu;
• Cơ quan môi trường châu Âu;
• Cơ quan môi trường Thụy Điển;
• Hiệp hội môi trường Thụy Điển;
• Chính phủ Thụy Điển;
- Nhóm gánh chịu những hậu quả xấu từ chính sách:
• Các doanh nghiệp: chính sách tạo áp lực cho các doanh nghiệp phải đầu tư nhiều hơn vào
nghiên cứu các loại vật liệu có thể tái chế, tái sử dụng
• Nhà kinh tế thu lợi từ lĩnh vực thu gom phế liệu: khi lượng rác thải giảm đồng nghĩa với
lượng phế liệu thu gom sẽ giảm cạnh tranh nhiều hơn giữa các đơn vị thu gom phế
liệu, ảnh hưởng đến đời sống của họ…
• Công nhân trong hệ thống thu gom rác thủ công: chính sách giảm thiểu chất thải đồng
nghĩa với công nghệ phát triển công việc của người được thay bằng máy móc dẫn đến
số lượng công nhân trong dây chuyền thu gom rác sẽ giảm thất nghiệp tăng.
• Chủ nguồn thải:
- Nhóm hưởng lợi:
• Người dân;
• Các nhà môi trường;
• Vác nhà khoa học;
• Các nhà tài trợ cho kỹ thuật, máy móc;
• Các công ty thu gom, vận chuyển và xử lý;
• Các đơn vị cung cấp thiết bị kỹ thuật công nghệ…
II.4. Kết quả đạt được vào năm 2010
- Chất thải sinh hoạt
Trong năm 2010, số lượng chất thải sinh hoạt giảm vào năm thứ hai liên tiếp. Số lượng chất thải
sinh hoạt được xử lý là khoảng 4.363.880 tấn, giảm 2,7% so với năm 2009. Trung bình mỗi cư
dân Thụy Điển thải ra 463 kg rác sinh hoạt trong năm 2010 so với 480 kg rác/người trong năm
2009.
Có thể còn quá sớm để rút ra kết luận dài hạn cho sự suy giảm khối lượng chất thải hai năm qua.
Tại Thụy Điển 1% chất thải sinh hoạt đã được chôn lấp vào năm 2010, giảm 33% so với 2009.
Mục tiêu chính sách là tái chế ít nhất 50% chất thải sinh hoạt, bao gồm cả xử lý sinh học, đến
năm 2010 cơ bản đáp ứng. Tổng cộng có 49,2% chất thải sinh hoạt được tái chế và xử lý sinh
học; 48,7% là chất thải phục hồi năng lượng.
Chất thải nguy hại chiếm 1,2% tổng lượng chất thải sinh hoạt, tăng 13% so với năm 2009. Xử lý
sinh học của chất thải thực phẩm, trừ nhà sản xuất phân hữu cơ, tăng 20% tương đương 214.300
tấn trong năm 2010.
Xử lý kỵ khí tăng 21% so với năm 2009. Xử lý bằng phương pháp làm compost giảm vì áp dụng
xử lý chất thải để tạo năng lượng thay cho việc xử lý chất thải bằng phương pháp compost.
Khối lượng chất thải thu gom bao gồm cả rác cồng kềnh từ 2006 đến năm 2010 (tấn)
Loại 2006 2007 2008 2009 2010
Rác trong thùng
và túi
2,234,300 2,211,900 2,226,700 2,167,800 2,152,000
Rác cồng kềnh 1,237,200 1,227,400 1,421,100 1,498,400 1,518,000
Trung bình lượng rác phát sinh (Kg/người)
Rác trong thùng
và túi
245 241 241 232 229
Rác cồng kềnh 136 134 154 160 161
Nguồn: Avfall Web/Avfall Sverige - 2011
!"#$
2006 2007 2008 2009 2010
Chất thải nguy
hại
38,980 40,880 43,320 45,380 51,430
Vật liệu tái chế 1,657,520 1,737,720 1,657,840 1,588,600 1,559,600
Xử lý sinh học 469,880 561,300 597,280 617,680 587,170
Chất thải để tạo
năng lượng
2,107,800 2,190,980 2,292,970 2,173,000 2,123,680
Chôn lấp 226,000 188,490 140,250 63,000 42,000
Tổng 4,500,220 4,717,370 4,731,660 4,485,660 4,363,880
%# !"&'(')$
2006 2007 2008 2009 2010
Chất thải nguy hại 4,3 4,5 4,7 4,9 5,5
Vật liệu tái chế 181,9 189,2 179,1 169,9 165,6
Xử lý sinh học 51,8 81,1 64,5 68,1 62,4
Chất thải để tạo
năng lượng
231,3 238,6 247,7 232,6 225,5
Chôn lấp 24,8 20,3 15,2 6,7 4,5
Tổng 493,8 513,7 511,2 480,2 463,5
%# !"*$
2006 2007 2008 2009 2010
Chất thải
nguy hại
0,9 0,9 0,9 1,0 1,2
Vật liệu tái
chế
36,8 36,8 35 35,4 35,7
Xử lý sinh
học
10,4 11,9 12,6 13,8 13,5
Chất thải để
tạo năng
lượng
46,8 46,4 48,5 48,4 48,7
Chôn lấp 5,0 4,0 3,0 1,4 1,0
Tổng 100 100 100 100 100
- Chất thải nguy hại
Trong năm 2010, 51.430 tấn chất thải nguy hại được thu gom từ các sinh hoạt. Trung bình mỗi
người Thụy Điển đã thải 5,5 kg chất thải nguy hại. Số lượng này bao gồm cả 25.030 tấn gỗ đã
ngâm tẩm và 4.370 tấn amiăng. Chất thải nguy hại chiếm 1,2% chất thải sinh hoạt.
Chất thải nguy hại gây độc hại, gây ung thư, ăn mòn, độc hại cho sinh thái, nhiễm trùng hoặc dễ
cháy. Các chất nguy hại có thể chỉ tồn tại mộy lượng cực kỳ nhỏ trong một số sản phẩm, nhưng
chúng có thể gây thiệt hại đáng kể nếu không xử lý. Do đó, quan trọng là chất thải nguy hại phải
được tách ra khỏi các chất thải khác và xử lý đúng cách.
Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm quản lý chất thải nguy hại từ sinh hoạt. Trách nhiệm
bao gồm thu gom, vận chuyển, và xử lý.
Các sinh hoạt phải tách chất thải nguy hại khỏi chất thải thông thường. Hầu hết các chính quyền
địa phương quy định nghĩa vụ này từ rất lâu. Nhưng ở cấp quốc gia thì Thụy Điển thiếu theo dõi
hệ thống xử lý chất thải nguy hại từ các ngành công nghiệp và doanh nghiệp. Do đó số liệu thống
kê chất thải nguy hại từ ngành công nghiệp có độ chính xác thấp. Theo số liệu thống kê chính
thức chất thải của Thụy Điển từ Cơ quan Bảo vệ Môi trường Thụy Điển báo cáo EU thì sinh hoạt
và doanh nghiệp thải ra 2,3 triệu tấn chất thải nguy hại trong năm 2008, kể cả xe phế liệu và rác
thải điện tử. Trong đó sinh hoạt chiếm 15% tổng lượng chất thải nguy hại năm 2008.
PIN
Một trách nhiệm mới cho nhà sản xuất pin có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2009 quy định
nhà sản xuất pin chịu trách nhiệm về việc thu gom, tái chế và xử lý tất cả các pin bán ra thị
trường. Nhà sản xuất cũng chịu trách nhiệm về thông tin đến toàn quốc. El-Trong năm 2010,
2.260 tấn pin rời và 490 tấn pin theo máy được thu gom, trung bình mỗi cư dân Thụy Điển thải
bỏ 290 gram pin, tăng 60 % so với năm 2009, số tăng thêm này là do một khoảng thời gian trong
báo cáo từ các thành phố cùng với việc áp dụng thỏa thuận mới với các nhà sản xuất. Trong năm
2010, 7.000 tấn của accu xe hơi được thu gom,trung bình 0,7 kg/người - Tăng 30% so với năm
trước. Tất cả các pin thu thập được đưa về trung tâm và tách dựa bằng phương pháp hóa học
trước khi được đem đi phục hồi, tiêu hủy CTNH:
• Accu xe được gửi để tái chế và chì được sử dụng trong accu xe hơi mới.
• Pin có chứa niken / cadmium gửi cho xử lý, cadmium được tái sử dụng để sản xuất pini là pin
sử dụng trong ngành công nghiệp còn nickel được thu hồi làm thép.
• Pin có chứa thủy ngân cũng được gửi tái chế. Thủy ngân không thu hồi mà phải trích xuất thủy
ngân khỏi pin để và xử lý an toàn.
• Pin chứa Lithium được thu hồi coban, sử dụng như là một chất phụ gia trong ngành công
nghiệp thép.
Biểu đồ: Lượng pin nhỏ thu gom từ 1999-2010
CHẤT THẢI ĐIỆN VÀ ĐIỆN TỬ (WEEE)
Trong năm 2010, 143.830 tấn chất thải điện tử (WEEE) được thu gom, bằng năm 2009. Trung
bình 15,3 kg rác thải điện tử/người so với 15,4 kg/người trong năm 2009. Khối lượng rác có
giảm là do các sản phẩm điện tử ngày càng nhỏ hơn được trở nên nhỏ hơn và cân nặng ít hơn,
nhưng số lượng lại tăng thêm rất nhiều.
Kể từ khi áp dụng chính sách nhà sản xuất và chính phủ Thụy Điển hợp tác trong quản lý WEEE.
Trong năm 2001, Avfall Sverige – Cơ quan Quản lý chất thải Thụy Điển, Hiệp hội các nhà chức
trách địa phương và khu vực Thụy Điển (Salar), và nhà sản xuất thiết bị điện, El-Kretsen, xây
dựng hệ thống "El-retur". Theo đó, các tổ chức địa phương chịu trách nhiệm thu gom WEEE từ
sinh hoạt, trong khi các nhà sản xuất chịu trách nhiệm xử lý. Avfall Sverige và El-Kretsen cộng
tác với một số chính quyền địa phương về các dự án khác nhau của chất thải từ thiết bị điện và
điện tử (WEEE) cùng phát triển các hệ thống thu gom. Một trong những hệ thống thu gom là sử
dụng container nhỏ được đặt trong các cửa hàng và những nơi công cộng khác. Hiện tại có
khoảng tất cả hơn 100 container thu gom nằm trên đất nước Thụy Điển.
WEEE được tiền xử lý thông qua phân loại và tháo nhỏ trước khi nó được gửi cho xử lý. Tiền xử
lý được thực hiện một cách có kiểm soát, và sau đó chuyển đến xử lý cuối cùng hoặc tái chế.
Thành phần có chứa chất độc hại, tức là chất thải nguy hại, được xử lý tại cơ quan xử lý có chức
năng. Vỏ nhựa trong chất thải được đốt thành năng lượng và kim loại được tái chế trong các nhà
máy luyện kim. Thu hồi đồng, nhôm và sắt để sử dụng làm nguyên liệu cho sản phẩm mới. Máy
vi tính, điện thoại di động và các sản phẩm chứa một lượng nhỏ kim loại quý cũng được thu hồi;
Ví dụ, một số thẻ mạch in có thể chứa vàng hoặc bạc. Đèn huỳnh quang chứa thủy ngân thì tách
bột huỳnh quang và thủy ngân để tái sử dụng trong sản xuất bóng đèn mới. Thủy tinh được làm
sạch và tái sử dụng làm chai lọ. Đôi khi các sản phẩm điện tử cũ tặng cho các tổ chức từ thiện
của những quốc gia khác.
Biểu đồ : Lượng rác điện tử thu gom từ 2003-2010
VẬT LIỆU TÁI CHẾ
Vật liệu tái chế tính cả phương pháp sinh học là 2146770 tấn vào năm 2010. Quốc Hội Thụy
Điển đã đề ra mục tiêu có ít nhất 50% chất thải sinh hoạt dùng để tái chế vật liệu, bao gồm cả xử
lý sinh học, vào năm 2010. Thực tế đạt 49,2% trong năm 2010. Một phần của vật liệu tái chế bao
gồm chất thải điện tử, pin và rác cồng kềnh thu gom kim loại được 312.630 tấn bằng 33,2 kg/
người. Năm 2010 khoảng 159.050 tấn kim loại đã được giảm xuống nhờ tái chế. Số liệu thống kê
lượng bao bì và giấy tái chế năm 2010 chưa được công bố do đó không thể so sánh với những
năm trước. Avfall Sverige – đang áp dụng một chiến dịch quốc gia cho vật liệu tái chế năm
2010-2011. Mục tiêu của chiến dịch là để nâng cao kiến thức về tái chế vật liệu.
Vật liệu tái chế năm 2010
Tấn Kg/ngưởi
Giấy văn phòng 132,000 14
Chất thải điện và điện tử 117,100 12,4
Tủ lạnh 26,730 2,8
Pin rời 2,750 0,3
Pin trong thiết bị 7,000 0,7
Kim loại từ chất thải sinh hoạt 159,050 18,9
Kết quả thu gom giấy và các loại thùng từ chất thải sinh hoạt năm 2010
Tấn Kg/người
Giấy 396,300 42,1
Thùng carton 111,880 11,9
Thùng kim loại 15,820 1,7
Thùng plastic 41,150 4,4
Chai thủy tinh 178,820 18,8
Vật liệu tái chế từ sinh hoạt từ 2006 – 2010 (Tấn)
2006 2007 2008 2009 2010
Giấy 483,000 474,000 459,000 420,000 -
Giấy văn
phòng
153,000 164,000 158,000 118,000 132000
Thùng carton 486,790 504,000 482,000 479,700 -
Thùng plastic 33,700 35,300 32,660 33,400 -
Chai thủy tinh 42,130 49,120 50,310 44,430 -
Chất thải điện
điện tử
159,000 171,100 174,170 177,300 -
Tủ lạnh 121,900 129,700 122,900 117,770 117,100
Pin 28,000 30,500 28,800 28,080 26,730
Kim loại từ
chất thải sinh
hoạt
150,000 180,000 152,000 169,920 9,750
Tổng 1,657,520 1,737,720 1,657,840 1,586,600 1,559,600
Kg/người 181,9 189,2 179,1 169,9 165,5
Biểu đồ : Vật liệu tái chế từ rác thải sinh hoạt
PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SINH HỌC
Trong năm 2010, 587.170 tấn chất thải sinh hoạt được xử lý bằng quá trình kỵ khí hoặc làm
compost, giảm 4,9% so với năm 2009. 13,5% tổng số chất thải sinh hoạt được xử lý sinh học.
Việc giảm lượng chất thải từ các nhánh và cành cây lớn được xử lý để tạo năng lượng thay vì để
ủ phân, quan điểm này được coi là tốt hơn cho nguồn tài nguyên và môi trường.
Hệ thống thu gom và xử lý chất thải thực phẩm tăng 20% so với năm 2009. Theo một khảo sát
của Avfall Sverige thực hiện, 163 thành phố thực hiện phân loại rác. Trong đó khoảng 20 thành
phố chỉ thu thập chất thải thực phẩm từ các nhà hàng, nhà bếp quy mô lớn. Cuộc khảo sát cũng
cho thấy có thêm khoảng 70 thành phố đang có kế hoạch giới thiệu hệ thống phân loại tại nguồn.
Theo Avfall Sverige tính toán, ước tính khoảng 24% chất thải thực phẩm được xử lý sinh học
trong năm 2010. Phân tích chất thải sinh hoạt cho thấy rằng một gia đình thải khoảng 90 kg chất
thải thực phẩm/người/ năm. Chất thải thực phẩm cũng được thu gom từ các nguồn như các
trường học và khách sạn. Chất thải thực phẩm chủ yếu bao gồm trái cây và thực vật thừa, nhưng
theo báo cáo từ cục Quản lý thực phẩm quốc gia cho thấy rằng một phần lớn là có thể dùng làm
thức ăn, hơn 50 kg/người/năm.
Phổ biến nhất là chương trình phân loại rác tại nguồn, trong nhà sử dụng hai thùng riêng biệt,
một cho chất thải thực phẩm và một cho chất thải dễ cháy. Một hệ thống khác là hệ thống phân
loại bằng thị giác sử dụng túi màu khác nhau được đưa vào cùng một container. Thông qua phân
hủy kỵ khí, khí sinh học bao gồm khí methane và CO2. Biogas là năng lượng tái tạo và có thể
được sử dụng, sau khi làm sạch có thể làm nhiên liệu để sưởi ấm. Các khí sinh học sản xuất từ
phân huỷ chất thải tương ứngvới hơn 30 triệu lít xăng/năm. Phân hủy Kỵ khí cũng sản xuất ra
một loại phân bón tuyệt vời với hàm lượng dinh dưỡng cao.
Tấn 2006 2007 2008 2009 2010
Phân hủy
hiếu khí
283,730 356,090 405,580 535,930 661,620
Compost 452,390 515,290 568,700 630,500 566,210
Tổng quá
trình xử lý
sinh học
736,120 871,380 974,280 1,166,430 1,229,840
Chất thải
thực phẩm
1134,990 166,810 162,680 178,770 214,230
Tổng khối
lượng chất
272,730 336,100 389,350 498,720 582,750
thải sinh hoạt
được xử lý
sinh học
Phân bón 272,730 336,100 389,350 498,720 582,750
Khí gas 181,270 228,810 280,000 317,440 328,110
Khí cho
phương tiện
(MWh)
106,430 149,230 204,720 262,600 264,680
Điện năng
(MWh)
1,680 1,230 700 0 0
Đốt(MWh) 63,600 67,960 48,740 41,280 50,980
Tổng (MWh) 181,270 218,410 254,160 303,870 315,660
Biểu đồ
CHẤT THẢI ĐỂ SẢN XUẤT NĂNG LƯỢNG
Trong năm 2010, 2.123.680 tấn chất thải sinh hoạt được xử lý bằng cách đốt rác thu hồi năng
lượng. Số lượng giảm gần 50.000 tấn so với năm 2009. Nếu chia cho dân số Thụy Điển, khoảng
225,5 kg rác sinh hoạt mỗi người thải ra được thiêu hủy. Xử lý chất thải để tạo năng lượng cấp
ứng với 48,7% tổng số lượng của chất thải sinh hoạt được xử lý. Xử lý chất thải đã trở nên ngày
càng quan trọng trong hệ thống sưởi ấm tại Thụy Điển.Trong tổng số 14,4 GW h năng lượng
được sản xuất bằng phương pháp đốt, trong đó 12,6GW h được sử dụng để sưởi ấm và 1,8 GW h
tạo điện. Một nghiên cứu về châu Âu Xử lý chất thải để Sản xuất năng lượng cho thấy rằng Thụy
Điển có tỷ lệ cao nhất trong phục hồi năng lượng từ chất thải. Ngoài chất thải sinh hoạt,
2.977.000 tấn chất thải khác cũng được xử lý, chủ yếu là chất thải công nghiệp. Chất thải sinh ra
từ việc tiêu huỷ bao gồm tro đáy lò, 15-20% tính theo trọng lượng chất thải đã xử lý, và khí thải
là 3-5% tính theo trọng lượng. Một số tro đáy được chôn lấp, trong khi các sỏi xỉ có thể được sử
dụng như sỏi làm đường, công trình xây dựng . Có 30 nhà máy đốt rác sinh hoạt ở Thụy Điển và
sẽ tiếp tục mở rộng vào năm 2011.
Nhập khẩu chất thải để thu hồi năng lượng đã tăng lên trong những năm gần đây. Trong năm
2010, Thụy Điển nhập khẩu 104.000 tấn rác sinh hoạt. Tổng số rác nhập khẩu thu hồi năng lượng
là 748.000 tấn.
Biểu đồ
CHÔN LẤP
Trong năm 2010, 42.000 tấn rác thải sinh hoạt đem đi chôn lấp. Số lượng giảm khoảng 21.000
tấn, 33% so với năm 2009. Nghĩa là 1,0% chất thải sinh hoạt đã được chôn lấp. Trong năm 2010,
tổng cộng 1.271.000 tấn chất thải đã được chôn lấp tại các bãi chôn lấp thành phố, tăng 240.000
tấn so với Năm 2009. Chôn lấp là phương pháp xử lý được sử dụng cho các chất thải mà không
có thể được xử lý khác như gạch , bê tông.
Năm 1994, Avfall Sverige bắt đầu thu thập số liệu thống kê rác sinh hoạt thải vào các bãi chôn
lấp. Kể từ đó, lượng chất thải chôn lấp giảm 97%.
Vào ngày 31/12/2008, nhiều quy định nghiêm ngặt của EU liên quan đến quá trình chôn lấp đã
có hiệu lực, và gần như một nửa của tất cả các bãi chôn lấp đã bị đóng cửa.
Trong năm 2010, chất thải sinh hoạt đã được chôn tại 76 bãi chôn lấp. Hầu hết các bãi chôn lấp
chất thải không nguy hại, khoảng 300 GW h được sản xuất từ khí bãi rác thu hồi tại 57 nhà máy
quản lý chất thải, trong đó 262 GW h được sử dụng làm năng lượng. 20 GWh điện và 242 GW h
dưới dạng nhiệt.
Biểu đồ
CHẤT THẢI KHÁC TRONG CHẤT THẢI HỘ GIA ĐÌNH
Các ngành công nghiệp có trách nhiệm quản lý chất thải ngoài rác sinh hoạt. Rác xử lý bằng bãi
chôn lấp hoặc năng lượng thu hồi từ thiêu đốt. Chất thải từ xây dựng, cải tạo, xây dựng lại hoặc
phá hủy các tòa nhà, hoặc từ dự án cảnh quan rộng rãi hơn không thuộc trách nhiệm của đô thị
thu gom hoặc xử lý nếu được xem là rác sinh hoạt. Một số chất thải xây dựng và được phân loại
là chất thải nguy hiểm do có chứa amiăng, gỗ ngâm tẩm phải được xử lý phù hợp. Theo thống kê
chất thải của EU, mỗi quốc gia thành viên phải báo cáo số liệu thống kê của đất nước hai năm
một lần. Các số liệu thống kê gần đây nhất được báo cáo trong năm 2010 và mô tả tình hình
trong năm 2008, khoảng 98 triệu tấn chất thải công nghiệp, trong đó có khoảng 93 triệu tấn chủ
yếu phát sinh từ ngành công nghiệp khai thác mỏ.
Trong tổng số chất thải, 76% đã được chôn lấp và 12 % được tái chế - bao gồm cả phân hủy kỵ
khí. Trong đó 10 % được sử dụng làm nhiên liệu và 2% được phát thải là nước rỉ rác, bụi từ việc
tiêu huỷ. Chất thải Khai khoáng chiếm phần lớn trong tổng số lượng chất thải, hơn 58 triệu tấn.
Lượng rác còn lại được xử lý như sau:
• 42% tái chế