CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THANH TRA
1. Khái niệm và đặc điểm của thanh tra
a. Khái niệm
Theo tiếng Latinh, thanh tra có nghĩa là "nhìn vào bên trong", chỉ một sự kiểm
tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một đối tượng nhất định;
Theo Từ điển tiếng Việt, "Thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của
địa phương, cơ quan, xí nghiệp";
Theo Từ điển pháp luật Anh- Việt, thanh tra là "sự kiểm soát, kiểm kê đối với
đối tượng bị thanh tra";
Theo Từ điển Luật học, thanh tra "là sự tác động của chủ thể đến đối tượng
đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất định".
Với những nghĩa trên đây, thanh tra bao hàm trong đó nghĩa kiểm soát nhằm
xem xét và phát hiện, ngăn chặn những gì trái với qui định. Ngoài ra, thanh tra còn
được hiểu là sự xem xét, kiểm soát, kiểm tra thường xuyên, định kỳ nhằm rút ra
những nhận xét, kết luận cần thiết để kiến nghị với các cơ quan nhà nước nhằm khắc
phục những nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước. Hoạt động thanh tra do cơ quan Thanh tra nhà nước thực hiện.
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra
nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành
1
pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc
ngành, lĩnh vực đó.
Bộ máy tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ của thanh tra nhà nước sẽ được
nghiên cứu kỹ ở chương 3.
b. Đặc điểm của thanh tra
* Tính quyền lực nhà nước
Là một chức năng của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác
động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản
lý. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra gắn bó chặt chẽ với tính quyền
uy - phục tùng - một đặc tính quan trọng của quản lý nhà nước. Quyền lực nhà nước,
trên thực tế luôn thuộc về một tổ chức nhất định, không thể có quyền lực nếu không
gắn với một tổ chức cụ thể. Nói về quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra cũng
có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Đối với
các quốc gia trên thế giới, chủ thể tiến hành thanh tra luôn là cơ quan nhà nước, dù
mô hình tổ chức thanh tra có khác nhau.Vì vậy, thanh tra phải được nhà nước sử dụng
như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý, bởi theo Lênin, thanh tra mà
thiếu quyền lực là thanh tra suông. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra
được thể hiện ở những mặt sau đây:
- Ra các quyết định bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng bị thanh tra về
những vấn đề đã bị thanh tra phát hiện và xử lý;
- Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra; yêu cầu truy cứu
trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật;
- Trong những trường hợp cần thiết, trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế
nhà nước.
Ngoài ra, tính quyền lực nhà nước của thanh tra còn được cụ thể hoá ở chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức thanh tra; phương thức tiến hành thanh
tra; xử lý kết quả thanh tra; trong mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối tượng
thanh tra cũng như trong sự phối hợp giữa các tổ chức thanh tra nhà nước theo cấp
hành chính và theo ngành, lĩnh vực. Hoạt động thanh tra đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ
2
tính quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, có như vậy mới phát huy hiệu quả
của thanh tra.
* Tính khách quan
Bản chất của thanh tra là xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và
cá nhân nhằm đưa ra kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố
tích cực, phòng ngừa, xử lý vi phạm góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì thế, hoạt động thanh tra phải mang tính
khách quan. Tính khách quan của hoạt động thanh tra được biểu hiện ở chỗ mọi hoạt
động thanh tra đều dựa trên cơ sở pháp luật và phải tuân theo pháp luật. Pháp luật về
nguyên nghĩa là ý chí của giai cấp cầm quyền (ý chí nhà nước). Nhà nước đặt ra pháp
luật và pháp luật là công cụ để nhà nước thực hiện quản lý xã hội. Theo đó, mọi hoạt
động của cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động của thanh tra nói riêng đều phải
dựa trên cơ sở pháp luật, bởi nếu hoạt động thanh tra mà không dựa trên cơ sở pháp
luật thì nó sẽ mất đi tính công minh, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước.
* Tính độc lập tương đối
Tính độc lập tương đối là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra.
Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ quan quản lý nhà nước tự
tiến hành, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một cơ quan chuyên trách.
Vì vậy, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, ngoài việc đảm bảo sự phối kết
hợp nhịp nhàng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, hoạt động thanh tra còn
có tính độc lập tương đối trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Điều này được thể hiện ở
chỗ, các tổ chức thanh tra được phép tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trên các lĩnh
vực kinh tế - xã hội theo thẩm quyền đã được pháp luật qui định. Trên cơ sở kết quả
thanh tra, ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các qui định của pháp luật
về thanh tra, chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra của mình.
Tính độc lập của thanh tra chỉ là tương đối bởi vì, hoạt động thanh tra ngoài
việc căn cứ vào pháp luật, chính sách hiện hành còn xuất phát từ thực tế cuộc sống,
phải đặt sự vật, hiện tượng trong sự phát triển biện chứng với quan điểm khoa học,
3
khách quan, lịch sử, cụ thể. Tính độc lập của hoạt động thanh tra cũng khác với tính
độc lập trong xét xử của toà án bởi vì:
- Thanh tra xem xét mọi việc không chỉ căn cứ vào tính hợp pháp mà còn căn
cứ vào tính hợp lý; Trong khi đó hoạt động xét xử của toà án độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật.
- Không phải mọi hoạt động thanh tra đều mang tính tài phán; còn hoạt động
của toà án đều mang tính chất tài phán (xét xử).
- Trong hoạt động thanh tra, về nguyên tắc, người có quyền quyết định cuối
cùng trong việc xử lý kết quả thanh tra là thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước; Còn
trong hoạt động xét xử, người có thẩm quyền quyết định cuối cùng là Hội đồng xét
xử.
* Thanh tra luôn gắn với quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước và thanh tra có điểm chung là nhân danh quyền lực nhà
nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng quản lý. Hơn nữa, với tư cách là một
chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, thanh tra gắn liền với hoạt động quản lý
nhà nước. Về vấn đề này, Lênin đã viết: "Quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý
và thanh tra là một chứ không phải là hai". Như vậy, quản lý nhà nước và thanh tra có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Thanh tra chỉ xuất hiện khi có nhà nước và ở đâu có
quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra.Trong mối quan hệ này, quản lý nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (thể hiện ở việc xác định đường lối,
chủ trương, qui định thẩm quyền của các cơ quan thanh tra; sử dụng các kết quả,
thông tin từ phía các cơ quan thanh tra). Hơn nữa, hoạt động chấp hành của quản lý
nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình chấp hành các văn
bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Tuy nhiên, xét về mặt cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh thanh tra
chỉ là phương tiện, công cụ để quản lý nhà nước.
Ngoài ra, với tư cách là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra bị ràng
buộc, chế ước bởi quản lý nhưng đồng thời lại tác động trở lại, góp phần điều chỉnh
cách thức, phương pháp quản lý của chủ thể quản lý. Nhờ có thanh tra mà mục đích
của quản lý được đảm bảo. Thực tế cho thấy rằng, một thể chế hành chính và cơ chế
4
quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ và kém hiệu quả nếu thiếu thanh tra. Hoạt động có
tính hiệu quả của thanh tra sẽ ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tuỳ tiện, thiếu kỷ
cương trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
2. Vai trò và ý nghĩa của công tác thanh tra
a. Vai trò của thanh tra
Thanh tra là nội dung không thể thiếu của quản lý nhà nước, là giai đoạn cuối
cùng trong chu trình quản lý, có vai trò kiểm định, đánh giá hiệu quả của quản lý nhà
nước. Qua thanh tra để có các kiến nghị khắc phục những sơ hở, yếu kém, đề xuất
những biện pháp đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý, sửa đổi cơ chế, chính sách
nhằm quản lý tốt hơn, hiệu quả hơn. Chính vì vậy, trong hoạt động quản lý nhà nước
phải có thanh tra và thanh tra phải phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước. Ở đâu có
quản lý nhà nước thì ở đó phải có thanh tra. Quản lý nhà nước mà không có thanh tra
sẽ dẫn tới quan liêu và xa rời thực tiễn.
Thanh tra làm cho chu trình quản lý nhà nước được khép kín, các hoạt động
ban hành và tổ chức thực hiện quyết định quản lý được gắn bó chặt chẽ hơn, từ việc
xem xét, đánh giá, kiểm chứng việc thực hiện các chủ trương, chính sách của đối
tượng bị quản lý, đến việc đề xuất các biện pháp hoàn thiện chủ trương, chính sách,
nâng cao hiệu quả quản lý của chủ thể. Đó là quy trình, quy luật tất yếu trong bất cứ
hoạt động quản lý của Nhà nước nào. Để thực hiện đổi mới kinh tế và cải cách nền
hành chính quốc gia thì vai trò của công tác thanh tra ngày càng cần thiết và quan
trọng để quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò này
được thể hiện ở các nội dung sau:
- Thứ nhất, Thanh tra là phương thức bảo đảm trật tự, kỷ cương trong quản lý,
góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với chức năng giám sát hoạt động
của các đối tượng bị quản lý, bao gồm giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật,
chức trách, nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước và công chức nhà nước; việc
chấp hành chính sách, pháp luật của các tổ chức, cá nhân và các đối tượng khác chịu
sự quản lý của Nhà nước; thanh tra kịp thời phát hiện những sai phạm và có biện pháp
xử lý. Với chức năng, nhiệm vụ xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các
quyết định hoặc hành vi hành chính của cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực
5
hiện chính sách, pháp luật, cũng như trách nhiệm và quyền hạn được giao; kết luận và
xử lý kịp thời những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức
nhà nước góp phần bảo đảm trật tự kỷ cương trong quản lý, làm trong sạch bộ máy
nhà nước Trong điều kiện nước ta thực hiện quá trình đổi mới mà trọng tâm là đổi
mới về kinh tế thì vai trò của công tác thanh tra ngày càng cần thiết và quan trọng để
quản lý nền kinh tế thị trường hoạt động ngày càng có hiệu quả .
- Thứ hai, việc thanh tra còn nhằm mở rộng và bảo đảm cho quyền dân chủ của
nhân dân được thực thi một cách nghiêm minh. Theo lý thuyết, quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, cho nên Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mọi người dân, tạo mọi điều kiện cho họ thực hiện các quyền về dân
chủ - chính trị của mình như: quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quyền
tự do lập hội, tự do ngôn luận, quyền khiếu nại, tố cáo Do đó, pháp luật Việt nam
không chỉ ghi nhận các quyền của cong dân mà còn ghi nhận các cơ chế đảm bảo
thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện như quyền kiểm tra, giám sát thông qua hoạt động của các cơ quan
nhà nước do mình bầu ra, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp mà mình
là thành viên và các Ban Thanh tra nhân dân
Mặt khác, việc xem xét, kết luận và kiến nghị giải quyết khiếu nại, tố cáo, các
tổ chức Thanh tra giúp Đảng và Nhà nước phát hiện kịp thời những vi phạm của cán
bộ, công chức, loại trừ những biểu hiện quan liêu, cửa quyền, mất dân chủ, thiếu công
bằng, xa rời lợi ích của nhân dân, từ đó có các biện pháp xử lý, khắc phục, góp phần
xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, hoạt động Thanh tra còn
nhằm tìm ra những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, phát hiện những nội dung
chưa phù hợp với yêu cầu thực tế khách quan, từ đó có các biện pháp sửa đổi, bổ
sung, khắc phục kịp thời có ý nghĩa tích cực trong việc củng cố trật tự, kỷ cương,
hoàn thiện cơ chế quản lý. Tuy nhiên, cũng phải hiểu rằng chỉ phát hiện, tìm kiếm sai
phạm, sơ hở, yếu kém trong quản lý thì chưa đủ, mà Thanh tra còn phải phát hiện và
khẳng định, đồng thời tạo điều kiện cho những nhân tố mới, cơ chế mới nảy sinh phát
triển. Có như vậy thì hiệu quả công tác quản lý mới đáp ứng được yêu cầu phát triển
của thực tiễn.
6
- Thứ ba, khi xem xét vai trò của Thanh tra trong các giai đoạn lịch sử cho
thấy, vai trò quan trọng nữa của Thanh tra là nhằm thực hiện tham mưu cho các cấp
chính quyền trong giải quyết khiếu nại hành chính, nhất là trong việc thực hiện nhiệm
vụ theo dõi, đôn đốc các cấp, các ngành trong việc tiếp công dân, nhận các khiếu nại,
tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo và thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và quản lý
nhà nước từ sau khi đổi mới đến nay, Quốc Hội đã ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo
vào năm 1998 và tiếp tục sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004, năm 2005 nhằm điều
chỉnh một cách toàn diện về khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho
phù hợp hơn với thực tiễn giải quyết khiếu nại, tố cáo và quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của đất nước.
Như vậy, vai trò của thanh tra trong hoạt động quản lý nhà nước ngày càng có
sự điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển ở nước ta hiện nay, nhất là
trong điều kiện chúng ta thực hiện Chương trình cải cách bộ máy nhà nước, trong đó
có các cơ quan thanh tra. Tuy nhiên, trên thực tế có những cơ quan Thanh tra nhiều
khi không đưa ra được những kết luận như yêu cầu của xã hội vì cách làm còn mang
tính “chiếu lệ”, chưa thiết thực, và thiếu khách quan; mặt khác do thành viên của
Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên còn chưa được chọn lọc kỹ càng, chưa bao gồm
những người đủ đức đủ tài để đưa ra những kết luận có sức thuyết phục cao, khiến
cho cơ sở được thanh tra phải “tâm phục khẩu phục”.
Thực tế những năm vừa qua cho thấy nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân
công dân đã từng lập nhiều thành tích, được tặng thưởng nhiều huân chương, thậm
chí được phong danh hiệu anh hùng nhưng sau đó ít lâu lại mắc những sai phạm
nghiêm trọng bị đưa ra truy tố và xử lý trước pháp luật. Nếu việc thanh tra những cơ
sở này được làm tốt thì đã giúp cho người lãnh đạo tránh được những sai phạm dẫn
tới hậu quả đáng tiếc về sau.
Từ những bài học kinh nghiệm thực tế đó, muốn nâng cao hiệu quả của công
tác thanh tra thì trước hết cán bộ thanh tra phải công tâm và có năng lực, có cách làm
thích hợp, khách quan, trung thực, không vì đánh giá cao thành tích, mà xem nhẹ
những thiếu sót, khuyết điểm và ngược lại. Đi đôi với việc kiểm tra, giám sát thường
7
xuyên, còn cần thanh tra bất thường, không cần thiết phải thông báo cho cơ sở biết
trước để bảo đảm tính khách quan của thanh tra.
b. Ý nghĩa của thanh tra
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thanh tra 2010 thì mục đích của hoạt động
thanh tra là:“ phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và
xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy
định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”.
Như vậy, hoạt động thanh tra là nhằm điều chỉnh cách thức, phương pháp quản
lý của các cơ quan quản lý nhà nước, với ý nghĩa là bảo vệ mục đích của quản lý nhà
nước, tạo điều kiện cho công dân thực hiện tốt các quyền của mình trên thực tế.
Hoạt động thanh tra được thực hiện bởi chủ thể quản lý nhà nước - nhân danh
quyền lực nhà nước . Điều này nhằm xác nhận về mặt pháp lý tính chất nhà nước của
tổ chức Thanh tra. Vì vậy, Thanh tra được coi là công cụ có hiệu quả của Nhà nước
trong việc thực hiện chức năng của quản lý. Do đó, quyền lực của thanh tra là một bộ
phận không thể thiếu của quyền lực nhà nước, chỉ có thông qua hoạt động thanh tra,
quyền lực nhà nước mới được thực hiện, nền dân chủ nhân dân mới được bảo đảm.
Chính vì vậy, mục đích hàng đầu của thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ của cơ
quan nhà nước, của tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó, quá trình thanh tra cũng tạo ra
những yếu tố tích cực, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, trong chính sách,
pháp luật, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp khắc phục kịp thời, kể
cả các biện pháp nhằm sửa đổi, bổ sung những cơ chế, chính sách, quy định hiện hành
và việc ban hành mới những quy định cần thiết, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý,
hoàn thiện chính sách, pháp luật, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước
Ví dụ, thông qua hoạt động thanh tra trong công tác tiếp dân, các cơ quan tiếp
nhận khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị
thanh tra nhằm xem xét ra quyết định, kết luận giải quyết hoặc trả lời cho công dân
8
biết theo đúng thời hạn quy định của pháp luật. Đồng thời, công tác tiếp dân cũng
nhằm hướng dẫn người dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật và cũng
là một biện pháp quan trọng và thiết thực để củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước. Tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo là một kênh thông tin
quan trọng để kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ. Muốn vậy người lãnh đạo qua công
tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ nắm bắt được đầy đủ thông tin, kiểm tra,
đánh giá chính xác cán bộ của mình.
Bên cạnh đó, việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng là một kênh
thông tin để đánh giá tính khả thi của các chính sách, hiệu quả quản lý nhà nước.
Đánh giá chính sách là việc xem xét, nhận định về giá trị các kết quả thu được khi
thực thi chính sách. Đánh giá chính sách được tiến hành trên cơ sở một chính sách đã
được hoạch định, thực thi và có sự phản ánh kết quả trở lại.
Trên cơ sở các thông tin thu được qua việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo, các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà quản lý có được các thông tin
về kết quả triển khai thực hiện các mục tiêu của chính sách, có căn cứ để xác định
xem việc tồn tại chính sách có hợp lý hay không, kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện chính sách và tìm kiếm các biện pháp quản lý thích hợp và hiệu lực để
thực thi chính sách đó.
Hoạt động tiếp công dân của cơ quan thanh tra còn tạo điều kiện cho nhân dân
thực hiện quyền tự do, dân chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc,
xung đột trong xã hội, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền tự do, dân chủ tạo
nên một xã hội hài hòa, xã hội công dân.
3. Hình thức và phương pháp thanh tra
a. Hình thức thanh tra
Hình thức thanh tra là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động thanh tra. Có
nhiều hình thức thanh tra khác nhau, điều này phụ thuộc vào các cách phân loại khác
nhau hay còn gọi là phụ thuộc vào các căn cứ phân loại khác nhau.
* Căn cứ vào phạm vi, quy mô của cuộc thanh tra có: Thanh tra diện rộng,
thanh tra diện hẹp.
- Thanh tra diện rộng
9
Thanh tra diện rộng là hình thức thanh tra thường được áp dụng khi tiến hành
thanh tra một cơ quan, một ngành hay một lĩnh vực quản lý để đánh giá kết quả hoạt
động một cách tổng thể, toàn diện trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp
luật hoặc cơ chế quản lý để phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai phạm, đổi mới
hoạt động nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước của cơ quan, một
ngành hay lĩnh vực đó.
Thanh tra diện rộng là hình thức thanh tra có phạm vi, quy mô rất rộng lớn.
Cho nên, để bảo đảm hoạt động thanh tra có hiệu quả, cơ quan thanh tra cấp trên phải
thực hiện sự chỉ đạo thống nhất về mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, lực
lượng và thời gian thực hiện thanh tra.
Thanh tra diện rộng có tác dụng không chỉ để chấn chỉnh, đổi mới trực tiếp một
cơ quan, một ngành hay một lĩnh vực mà còn có tác dụng rất quan trọng để các cơ
quan, người có thẩm quyền chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô.
- Thanh tra diện hẹp (chuyên đề, vụ việc)
Thanh tra diện hẹp là hình thức thanh tra chỉ tập trung vào một chuyên đề hoặc
một vụ việc cụ thể nhất định nào đó để phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai
phạm trong chuyên đề, vụ việc đó nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà
nước của cơ quan, của ngành, lĩnh vực.
Khác với thanh tra diện rộng, thanh tra chuyên đề, vụ việc có phạm vi, quy mô
hẹp hơn và có đối tượng, nội dung cụ thể, rõ ràng hơn, tính chất của vụ việc rõ hơn.
Vì thế, cơ quan (người có thẩm quyền thanh tra) cũng dễ dàng hơn trong việc xác
định trọng tâm, trọng điểm cần thanh tra và thời gian thanh tra cũng thường ngắn hơn.
* Căn cứ vào chương trình thanh tra có: Thanh tra theo kế hoạch; thanh tra
thường xuyên, thanh tra đột xuất.
- Thanh tra theo kế hoạch
Là hình thức thanh tra được tiến hành theo kế hoạch đã được phê duyệt. Kế
hoạch thanh tra là văn bản xác định nhiệm vụ chủ yếu về thanh tra của cơ quan thực
hiện chức năng thanh tra trong 01 năm do Thủ trưởng cơ quan thực hiện chức năng
thanh tra xây dựng để thực hiện định hướng chương trình thanh tra và yêu cầu quản lý
của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp.
10
Kế hoạch thanh tra cần được dựa trên các căn cứ sau:
+ Yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cấp, ngành cần tiến hành thanh tra để phục
vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp, ngành đó;
+ Những vấn đề bất cập, bức xúc mà quá trình thanh tra trong kỳ kế hoạch
trước đã phát hiện nhưng chưa được giải quyết hoặc chưa được giải quyết dứt điểm;
+ Những vấn đề do đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân; đơn kiến nghị, đề
nghị của các cơ quan, tổ chức chuyển đến nhưng chưa được giải quyết dứt điểm vào
kỳ kế hoạch trước.
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp có trách nhiệm phê duyệt
chương trình, kế hoạch thanh tra. Thanh tra theo kế hoạch có tác dụng tạo điều kiện
thuận lợi để đoàn thanh tra có sự chuẩn bị một cách tốt nhất cho việc thanh tra về lực
lượng tiến hành, thời gian, tài liệu liên quan, thu thập thông tin, khảo sát thực tế…
nhằm bảo đảm cho cuộc thanh tra đạt hiệu quả cao nhất.
- Thanh tra thường xuyên: được tiến hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
- Thanh tra đột xuất: Là hình thức thanh tra được tiến hành khi phát hiện cơ
quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc theo yêu cầu của việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
quyết định.
Thanh tra đột xuất thường gắn với những vấn đề cấp thiết, bức xúc nhằm kịp
thời phát hiện, chấn chỉnh những sai phạm để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
* Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của hoạt động thanh tra có: Thanh tra kinh
tế - xã hội; thanh tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra công vụ.
- Thanh tra kinh tế - xã hội
Là hình thức thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật trong lĩnh vực kinh
tế, xã hội nhằm kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai phạm để nâng cao
hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế và xã hội.
Thanh tra kinh tế - xã hội được thực hiện là do:
+ Yêu cầu, nhiệm vụ của quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội;
+ Đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân về vấn đề kinh tế - xã hội;
11
+ Yêu cầu, kiến nghị, đề nghị của cơ quan, tổ chức.
- Thanh tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
Là hình thức thanh tra được tiến hành đối với cơ quan, người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, tố cáo để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai
phạm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của nhà nước, của cá nhân, cơ quan, tổ chức và nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý
nhà nước.
Thanh tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có thể tiến hành đối với một hoặc
một số hoặc tất cả các nội dung của quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo như: công
tác tổ chức tiếp công dân; tiếp nhận và xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo; giải quyết
khiếu nại, tố cáo; thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo và
công tác quản lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo.
- Thanh tra công vụ
Thanh tra công vụ là hình thức thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
theo quy định của pháp luật luôn luôn gắn liền với cơ quan, người có thẩm quyền để
kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai phạm của đối tượng quản lý nhằm
nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bất kỳ cơ quan, người có thẩm quyền quản lý nào đều cần có kế hoạch thanh
tra đối tượng quản lý trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật. Ngoài kế hoạch đã được xác định, cơ quan, người có thẩm quyền quản lý
có thể tiến hành thanh tra đột xuất nếu thấy cần thiết hoặc là trách nhiệm của cơ quan,
người có thẩm quyền do đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân; yêu cầu, kiến nghị
của cơ quan, tổ chức.
b. Phương pháp thanh tra
Phương pháp thanh tra là cách thức, biện pháp mà cơ quan, người có thẩm
quyền sử dụng để thực hiện hoạt động thanh tra nhằm đạt được mục đích đề ra.
Việc sử dụng cách thức, biện pháp để thực hiện hoạt động thanh tra tuỳ thuộc
vào đặc điểm, tính chất của vụ việc, của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng của
thanh tra; đồng thời còn tuỳ thuộc vào khả năng nghiệp vụ của cơ quan, người có
12
thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh tra. trong hoạt động thanh tra thường sử dụng
các phương pháp chủ yếu sau đây:
* Thu thập thông tin, hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan
Đây là phương pháp không thể thiếu đối với cơ quan, người có thẩm quyền
thực hiện hoạt động thanh tra. Phương pháp này bao gồm các công việc sau đây:
- Nghiên cứu văn bản pháp luật: là phương pháp rất cần thiết, vì văn bản pháp
luật là cơ sở pháp lý để thực hiện giám sát, kiểm tra, thanh tra. Nếu không nghiên cứu
văn bản pháp luật thì không xác định được hoạt động của đối tượng giám sát, kiểm
tra, thanh tra đúng hay sai và không đưa ra được kết luận cần thiết về vụ việc được
giám sát, kiểm tra, thanh tra.
Nghiên cứu văn bản pháp luật đòi hỏi phải nắm được tinh thần, nội dung và ý
nghĩa của văn bản, của từng chương, mục, điều, khoản.
- Nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan: là phương pháp cũng rất
cần thiết, vì hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan chính là những dữ liệu về vụ việc
được giám sát, kiểm tra, thanh tra. Nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan
giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra biết được nội
dung vụ việc để từ đó đối chiếu với các quy định của pháp luật có liên quan.
* Nghiên cứu, so sánh, thống kê các dữ liệu
Nghiên cứu, so sánh, thống kê các dữ liệu để phát hiện những nội dung hợp lý,
bất hợp lý, logic, phi logic…, từ đó yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình (có thể bằng
văn bản hoặc trực tiếp).
* Thu thập ý kiến từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức
Chủ thể thanh tra không chỉ thu thập thông tin, tài liệu từ đối tượng thanh tra
mà cần thu thập thông tin, tài liệu từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Bởi vì,
những cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có thể có những thông tin, tài liệu rất giá trị về
vụ việc được thanh tra.
Để thực hiện tốt điều này, chủ thể thanh tra cần tạo lập mối quan hệ tốt, sẵn
sàng lắng nghe những ý kiến từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, chủ thể
thanh tra cũng cần chắt lọc được những thông tin, tài liệu thu thập được, vì không
phải mọi ý kiến từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức đều đúng và khách quan.
13
* Tham vấn ý kiến của các nhà chuyên môn
Chủ thể thanh tra không thể am hiểu tường tận mọi lĩnh vực được thanh tra. Vì
vậy, để làm cho hoạt động thanh tra đạt hiệu quả, rất có thể chủ thể thanh tra phải
tham vấn ý kiến của các nhà chuyên môn. Ý kiến của các nhà chuyên môn sẽ làm cho
chủ thể thanh tra hiểu được nguyên lý, bản chất của vụ việc.
* Thuyết phục đối tượng thanh tra tích cực hợp tác với chủ thể thanh tra
Sự hợp tác của đối tượng thanh tra là yếu tố quan trọng để cuộc thanh tra có
hiệu quả. Trường hợp khá phổ biến là đối tượng thanh tra không thực sự hợp tác,
không muốn hợp tác, thậm chí tìm mọi biện pháp để đối phó với việc thanh tra. Vì
vậy, chủ thể thanh tra có nhiệm vụ thuyết phục sự hợp tác tích cực của đối tượng
thanh tra.
Chủ thể thanh tra cần làm cho đối tượng thanh tra hiểu rõ rằng mục đích của
cuộc thanh tra là cùng với đối tượng thanh tra chấn chỉnh những bất cập, hạn chế
trong quản lý nhà nước để nâng cao hiệu quả của quản lý. Sự hợp tác của đối tượng
thanh tra bao giờ cũng được đánh giá cao hơn là không hợp tác và là tình tiết để xem
xét giảm trách nhiệm của đối tượng thanh tra.
* Chất vấn đối tượng thanh tra
Chất vấn đối tượng thanh tra là phương pháp mà chủ thể thanh tra lấy thông tin
về vụ việc bằng cách đặt ra câu hỏi để đối tượng thanh tra trả lời. Đồng thời thông qua
chất vấn, chủ thể thanh tra cảm nhận, đánh giá thái độ của đối tượng thanh tra để góp
phần làm cho cuộc thanh tra đạt hiệu quả.
Những yêu cầu đặt ra để việc chất vấn có hiệu quả là:
- Chủ thể thanh tra phải nắm chắc những vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn
được thanh tra.
- Chủ thể thanh tra phải tìm hiểu, nghiên cứu kỹ về vụ việc được thanh tra.
- Chủ thể thanh tra phải có phương pháp (nghệ thuật) đặt câu hỏi thích hợp.
- Chủ thể thanh tra phải lựa chọn thời gian thích hợp để chất vấn đối tượng
thanh tra.
* Xử lý kịp thời, đúng pháp luật những hành vi gây cản trở đến hoạt động
thanh tra
14
Đây là phương pháp không thể thiếu trong trường hợp có hành vi gây cản trở
hoạt động thanh tra. Chủ thể thanh tra cần áp dụng những biện pháp cần thiết mà
pháp luật cho phép để làm cho cuộc thanh tra đạt hiệu quả. Những biện pháp cần thiết
được áp dụng như: xử phạt vi phạm hành chính; yêu cầu người có thẩm quyền tạm
giữ tiền, đồ vật, giấy phép được cấp hoặc sử dụng trái pháp luật…
4. Công cụ thanh tra
Công cụ thanh tra là những phương tiện mà chủ thể thanh tra sử dụng để thực
hiện hoạt động thanh tra mà nếu thiếu những công cụ này thì hoạt động thanh tra
không thể đạt kết quả. Các loại công cụ thanh tra bao gồm:
a. Văn bản pháp luật
Văn bản pháp luật là công cụ rất quan trọng của hoạt động thanh tra. Bởi vì
đây là cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động thanh tra. Nếu không có văn bản pháp
luật thì không thể thực hiện hoạt động thanh tra; không thể đưa ra được kết luận đúng
sai về vụ việc.
b. Kế hoạch thanh tra
Kế hoạch thanh tra là những chương trình hành động cụ thể của cơ quan, người
có thẩm quyền thanh tra đã được cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt, thông qua.
Công cụ này vừa là nhiệm vụ vừa mang tính chất định hướng cho hoạt động của chủ
thể thanh tra.
c. Hồ sơ, tài liệu về vụ việc
Đây cũng là công cụ không thể thiếu của hoạt động thanh tra. Hồ sơ, tài liệu về
vụ việc giúp cho chủ thể thanh tra hiểu được nội dung, bản chất của vụ việc để từ đó
đưa ra những kết luận và quyết định hoặc đề nghị biện pháp xử lý thích hợp.
Chủ thể thanh tra cần thu thập đầy đủ hồ sơ, tài liệu về vụ việc bằng cách: yêu
cầu đối tượng thanh tra cung cấp; đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp;
trực tiếp khảo sát, nghiên cứu;…
d. Biên bản, mẫu văn bản trong quá trình thực hiện thanh tra
Việc thanh tra cần được ghi thành biên bản hoặc ra những văn bản nhất định để
bảo đảm giá trị pháp lý của hoạt động thanh tra đã thực hiện. Vì vậy, chủ thể thanh tra
cần sử dụng biên bản, những mẫu văn bản đã được xác định.
15
5. Mối quan hệ và sự khác biệt giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra,
giám sát
Xuất phát từ nguyên tắc mang tính bản chất của nhà nước ta là xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước thực
hiện quyền lực của mình. Quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia nhưng
có phân công phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Vì vậy trong cơ chế hoạt động của mình, các cơ quan nhà nước ngoài việc phải
thường xuyên tự kiểm tra hoạt động của mình còn phải chịu sự giám sát, kiểm tra,
thanh tra của các cơ quan khác trong, ngoài hệ thống và sự giám sát của nhân dân.
Giám sát là khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà
nước, các cơ quan tư pháp, các tổ chức xã hội và mọi công dân nhằm đảm bảo sự
tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Như vậy,
hoạt động giám sát chủ yếu được thực hiện ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc;
hoạt động này được tiến hành bởi Quốc Hội, HĐND các cấp, các cơ quan tư pháp và
toàn thể nhân dân thông qua hoạt động thực hiện chức năng, thẩm quyền do pháp luật
qui định.
Kiểm tra là khái niệm rộng, được hiểu theo hai góc độ:
Thứ nhất, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên
với cơ quan nhà nước cấp dưới (trong mối quan hệ trực thuộc) nhằm xem xét, đánh
giá mọi mặt hoạt động của cấp dưới khi thấy cần thiết hoặc trong trường hợp cần
kiểm tra một vấn đề cụ thể nào đó. Vì vậy khi tiến hành kiểm tra, cơ quan cấp trên
hoặc thủ trưởng cơ quan có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế kỷ luật, biện
pháp bồi thường thiệt hại vật chất hoặc áp dụng các biện pháp tác động tích cực với
đối tượng bị kiểm tra như động viên khen thưởng về vật chất hoặc tinh thần.
Thứ hai, kiểm tra là hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội như kiểm tra
của Đảng, kiểm tra, giám sát của các tổ chức xã hội đối với hoạt động hành chính nhà
nước. Hoạt động kiểm tra này ít mang tính quyền lực nhà nước và không trực tiếp áp
dụng các biện pháp cưỡng chế mà chỉ áp dụng các biện pháp tác đông mang tính xã
hội.
16
Từ quan niệm trên, cụ thể là các mối quan hệ giữa hoạt động thanh tra và kiểm
tra, giám sát như sau:
Thứ nhất, nhà nước tự kiểm soát hoạt động của mình bằng các hình thức:
- Các cơ quan quyền lực nhà nước giám sát hoạt động của các cơ quan hành
pháp, tư pháp;
- Cơ quan tư pháp kiểm soát cơ quan hành pháp;
- Cơ quan hành pháp tự kiểm soát thông qua hoạt động kiểm tra nội bộ; thanh
tra, kiểm tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới; thanh tra việc thực hiện
pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân…
Thứ hai, nhân dân giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua hệ
thống cơ quan dân cử, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng; giám sát trực tiếp
ở cơ sở thông qua tổ chức thanh tra nhân dân, qua hoạt động khiếu nại, tố cáo…
Từ sự phân tích trên đây, có thể nhận thấy rằng: hoạt động giám sát, kiểm tra,
thanh tra có mối quan hệ ràng buộc, tương hỗ, phối hợp với nhau khi thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên có thể phân các hoạt động này thành hai loại:
- Hoạt động kiểm tra, thanh tra trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà
nước: đó là hoạt động kiểm tra của cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành
chính cấp dưới; là hoạt động thanh tra nhà nước (Thanh tra Chính phủ, Tỉnh, Huyện)
và hoạt động thanh tra chuyên ngành;
- Hoạt động giám sát từ bên ngoài hướng vào các cơ quan hành chính nhà
nước: đó là hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; hoạt động
giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên; hoạt động giám sát của
nhân dân đối với bộ máy hành chính nhà nước.
Bên cạnh mối quan hệ tác động đó hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát có
những điểm khác biệt cơ bản
- Về chủ thể:
Chủ thể thanh tra có phạm vi hẹp hơn và mang tính chuyên trách chủ yếu được
thực hiện bởi các cơ quan thanh tra và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra. Chủ thể kiểm tra có phạm vi rộng hơn và thường gắn với sự kiểm tra của nhà
17
quản lý đối với đối tượng quản lý. Chủ thể giám sát rộng hơn nữa bao gồm: hệ thống
cơ quan quyền lực, tổ chức Đảng, tổ chức chính trị xã hội và toàn thể nhân dân.
- Về hoạt động
Hoạt động của thanh tra được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp
luật quy định và mang tính nghiệp vụ cao. Hoạt động giám sát được thực hiện thường
xuyên liên tục bằng rất nhiều hình thức khác nhau. Hoạt động kiểm tra cũng được
thực hiện thường xuyên liên tục và thường là đơn giản hơn thanh tra
II. HOẠT ĐỘNG THANH TRA
1. Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thanh tra
Nguyên tắc trong hoạt động thanh tra là những tư tưởng chủ đạo, những tiêu
chuẩn hành động mà các cơ quan nhà nước, các tổ chức, công dân cũng như đối
tượng của thanh tra phải tuân theo trong quá trình thanh tra.
Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra chỉ đạo và chi phối các mối quan hệ
trong thanh tra nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh tra đạt được mục đích đề ra.Theo
điều 7 Luật Thanh tra 2010 xác định nguyên tắc hoạt động thanh tra bao gồm: “ Tuân
theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp
thời. Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các
cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường
của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra”.
Như vậy, quy định trên là những tư tưởng chỉ đạo làm nền tảng cơ bản, mang
tính xuyên suốt đối với hoạt động thành tra được quy định trên cơ sở kế thừa và phát
huy những nguyên tắc của hoạt động thanh tra đã được Đảng và Nhà nước xác định
từ trước tới nay. Theo đó, các nguyên tắc cơ bản của thanh tra bao gồm:
a. Bảo đảm pháp chế trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của hoạt
động thanh tra
Một trong những nguyên tắc cơ bản của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước
ta là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc pháp chế là nhằm bảo đảm
cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt đối, không có một thực thể nào đứng trên
pháp luật hay đứng ngoài pháp luật. Nguyên tắc pháp chế phải được thể hiện ở việc
18
chấp hành pháp luật cả từ phía các cơ quan nhà nước và từ phía các cá nhân, tổ chức
là đối tượng chịu sự quản lý của Nhà nước.
Yêu cầu trước tiên đối với hoạt động thanh tra là phải tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc này thể hiện quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”. Thanh tra là công cụ quản lý hữu
hiệu của Nhà nước, vì về mặt lý thuyết “Ở đâu có quyền lực thì ở đó có thanh tra”. Vì
vậy, hoạt động thanh tra phải được tiến hành trước hết bởi các quy định của pháp luật;
phải tuân thủ các quy định của pháp luật - Luật Thanh tra và các văn bản pháp luật có
liên quan. Thanh tra viên và những người có thẩm quyền không được lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn cho đối
tượng bị thanh tra. Trường hợp các hành vi thanh tra vượt quá phạm vi, thẩm quyền
cho phép trong quyết định thanh tra hoặc cố ý kết luận sai sự thật, xử lý vụ việc trái
pháp luật, bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật đều không phù hợp với
nguyên tắc này.
Để bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
nội dung của hoạt động thanh tra phải bảo đảm việc tuân thủ đúng quy định của pháp
luật có liên quan:
- Hoạt động thanh tra phải được thực hiện theo phương thức thành lập Đoàn
thanh tra hoặc thông qua thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra
chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập.
- Thời hạn mỗi cuộc thanh tra phải tuân thủ trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Đó là mỗi cuộc thanh tra không quá 30 ngày, trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài,
nhưng không quá 60 ngày.
- Người có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch thanh tra hàng năm và quyết định
các cuộc thanh tra cụ thể.
- Đoàn thanh tra có Trưởng đoàn và các thành viên hoạt động theo nhiệm vụ,
quyền hạn được pháp luật quy định.
Như vậy, bảo đảm việc tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, về
nguyên tắc hoạt động của Thanh tra là không được vi phạm những điều cấm của pháp
19
luật khi thanh tra, kiểm tra, bảo đảm cho đối tượng bị thanh tra nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, không phải lúc nào, ở đâu pháp
luật cũng được thực thi nghiêm chỉnh. Sự vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ còn là một
vấn đề thực tế cần được giải quyết một cách liên tục, nhanh chóng. Để giải quyết, Nhà
nước đã áp dụng các biện pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế hanh vi của
đối tượng vi phạm, cho nên mọi biện pháp thực hiện đều cần đến công tác thanh tra.
Chỉ có qua thanh tra mới có thể đánh giá được một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đó
chấp hành pháp luật như thế nào, có vi phạm pháp luật hay không, vi phạm ở mức độ
nào Từ đó mới có thể đề ra những biện pháp xử lý thích hợp. Do vậy, thanh tra
chính là phương thức bảo đảm pháp chế, ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi
vi phạm pháp luật.
b. Bảo đảm tính chính xác, khách quan, trung thực của hoạt động thanh tra
Khi xem xét vai trò của Thanh tra trong mối quan hệ với kiểm tra, giám sát
thực hiện quyền lực nhà nước và vai trò của Thanh tra trong phòng, chống tham
nhũng và giải quyết khiếu nại, tố cáo đã cho thấy:
Thứ nhất, Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, đó là hoạt
động tự kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật và các quyết định
quản lý trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước các cấp, trên cơ sở hệ thống
Thanh tra được tổ chức theo mô hình: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, Thanh tra
tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện. Ngoài ra có các cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành. Vì vậy, hoạt động Thanh tra luôn gắn với cơ quan
quản lý nhà nước, cho nên đối tượng thanh tra rộng hơn và trực tiếp hơn so với đối
tượng của từng chủ thể kiểm tra, giám sát.
Hai là: Hoạt động thanh tra của các cơ quan Thanh tra là nhằm hỗ trợ tốt hơn
cho hoạt động kiểm tra, giám sát. Qua đó phát hiện các vi phạm để xử lý theo thẩm
quyền của mình và phục vụ cho hoạt động kiểm tra, giám sát nói chung của xã hội.
Chính vì vậy, Thanh tra được coi là “tai mắt” của cấp trên, có vai trò như một bộ phận
của quản lý nhà nước. Vì thế hoạt động thanh tra là nhằm điều chỉnh cách thức,
phương pháp quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước, bảo vệ mục đích của quản lý
20
nhà nước nên được thực hiện bởi chủ thể quản lý nhà nước - nhân danh quyền lực nhà
nước. Điều này cũng nhằm xác nhận về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức
Thanh tra, do đó, Thanh tra được coi là công cụ có hiệu quả của Nhà nước trong việc
thực hiện chức năng của quản lý. Khi một cơ quan cấp trên ban hành một chủ trương,
chính sách nào đó, thanh tra sẽ giúp cơ quan này biết được việc triển khai thực hiện
chủ trương, chính sách đó ở cấp dưới, mà còn biết được tình hình những sơ hở, khiếm
khuyết hoặc những nội dung quản lý của đại phương chưa sát với chủ trương, chính
sách đó cũng như tình hình thực tế ở địa phương; đồng thời thanh tra còn giúp cho địa
phương kịp thời sửa chữa uốn nắn nếu làm sai hoặc làm chậm.
Vì vậy, những thông tin Thanh tra cung cấp cho cơ quan cấp trên, cho người
lãnh đạo đòi hỏi có độ chính xác, trung thực cao cũng như tính khách quan của đời
sống xã hội. Tuy nhiên, để những thông tin có độ chính xác đó, đòi hỏi thái độ của
người thanh tra viên phải có tính cẩn trọng, tỉ mỉ khi xem xét một cách thấu đáo và
đánh giá vụ việc thanh tra một cách khách quan, trung thực mà không thể áp đặt ý chí
chủ quan của mình vào việc kết luận vụ việc thanh tra.
Theo Hồ Chủ Tịch: “Thái độ của người cán bộ thanh tra phải cẩn thận.
- Nghe không được thiên lệch, nghe một bên, nên nghe người này, nghe người
kia.
- Phải khách quan. Chớ do ý muốn mà suy đoán chủ quan của mình.
- Chống quan liêu: Thanh tra muốn biết, muốn thấy, muốn hiểu rõ sự thật ở cơ
quan, ở địa phương nào đấy phải đến tận nơi nghe ngóng, tìm tòi, chịu khó. Quan
liêu sẽ không làm được nhiệm vụ
Phải cẩn thận khách quan, điều tra, nghiên cữu kỹ lưỡng, chịu khó”
1
.
Sự phản ánh của thanh tra đòi hỏi tính chính xác, khách quan, song không thể
phản ánh một cách đơn giản tình hình vụ việc thực tế, mà sự phản ánh phải mang tính
chắt lọc, được xem xét thông qua những phân tích, đánh giá cùng với những kiến
nghị đề xuất phù hợp.
c. Bảo đảm tính dân chủ, công khai trong hoạt động thanh tra
1
. Một số văn kiện về công tác thanh tra: Huấn thị của Hồ Chủ Tịch về công tác thanh tra tại
Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc ngày 19/04/1957, tr 7- 10.
21
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng đã nhấn mạnh việc
“định kỳ kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công
chức yếu kém và thoái hóa”. Nghị quyết cũng xác định một trong những biện pháp
đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng là phải “tăng cường thanh tra, kiểm tra,
kiểm kê, kiểm soát, bảo đảm tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách nhà nước,
tài sản công, tài chính đảng, đoàn thể, tài chính các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ
do nhân dân đóng góp và do nước ngoài viện trợ”.
Theo đó, việc tiến hành thanh tra phải được thực hiện thường xuyên, công
khai, bảo đảm tính minh bạch trong công tác thanh tra, nhất là đối với lĩnh vực tài
chính của các cơ quan, tổ chức Đảng, Nhà nước. Tính công khai, minh bạch phải
được thể hiện ở những nội dung sau:
- Trong quá trình thanh tra, người tiến hành thanh tra phải thông báo cho đối
tượng thanh tra về những nội dung thanh tra và kết luận thanh tra;
- Phải bảo đảm các quyền của đối tượng thanh tra trong việc giải trình những
nội dung liên quan, khiếu nại, tố cáo về quyết định thanh tra, quyết định xử lý về
thanh tra, hành vi của Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên và các thành viên khác
của Đoàn thanh tra, Thủ trưởng cơ quan thanh tra ;
- Bảo đảm yêu cầu không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ
chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.
Như vậy, nguyên tắc dân chủ, công khai minh bạch là một trong những nguyên
tắc nhằm bảo đảm cho hoạt động thanh tra nói riêng, hoạt động thanh tra, kiểm tra,
giám sát nói chung thực hiện được mục đích xem xét, đánh giá việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức cũng như cá nhân, nhằm bảo đảm cho
hoạt động quản lý nhà nước ngày càng tốt hơn, mà không phải là làm cản trở, đình trệ
hoạt động của các cơ quan, tổ chức vị thanh tra. Bên cạnh đó việc xác định nguyên
tắc này còn nhằm ngăn ngừa hạn chế tình trạng thanh tra trùng lặp, kéo dài, sách
nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng bị thanh tra.
d. Bảo đảm tính trách nhiệm trong việc phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật của các cơ quan, cá nhân thanh tra
22
Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành, quản lý mà thiếu sự thanh tra thì đó chính là nguyên nhân của bệnh quan
liêu, dẫn đến tham ô, lãng phí. Ngay từ năm 1945, trong Sắc lệnh số 64-SL của Hồ
Chủ Tịch ký ngày 23/11/1945 về thành lập Ban Thanh tra đặc biệt đã có quy định
quyền hạn của Ban Thanh tra đặc biệt là: “đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào
trong Uỷ ban nhân dân hay của Chính phủ đã phạm lỗi”. Sắc lệnh số 138b-SL ngày
18/12/1949 về việc thành lập Ban Thanh tra Chính phủ có quy định nhiệm vụ của
Ban là “thanh tra các nhân viên Uỷ ban kháng chiến hành chính và viên chức về
phương diện liêm khiết”. Tại Sắc lệnh số 261-SL ngày 28/3/1956 về việc thành lập
Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ có giao nhiệm vụ “thanh tra việc thực hiện
kế hoạch nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản nhà nước, chống phá hoại, tham ô,
lãng phí”.
Luật Thanh tra 2010 cũng quy định trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản
lý nhà nước: Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh,
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra, xử lý kịp thời các kết luận, kiến nghị
của cơ quan thanh tra nhằm thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ của các cơ
quan, tổ chức cá nhân theo thẩm quyền quản lý Nhà nước; giải quyết khiếu nại theo
quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo; phòng ngừa và chống tham nhũng theo
quy định của pháp luật về chống tham nhũng; phát hiện những sơ hở trong cơ chế,
chính sách, pháp luật và trong công tác quản lý để kiến nghị với các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục hoặc sửa đổi, bổ sung ban hành mới các
văn bản pháp luật, góp phần nâng cao quản lý Nhà nước.
Luật Thanh tra năm 2010 đã cụ thể hóa trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá
nhân là đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động
thanh tra:
23
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra có trách nhiệm thực hiện yêu
cầu, kiến nghị, quyết định về thanh tra, có quyền giải trình về nội dung thanh tra, có
quyền và trách nhiệm khác theo quy định khác của pháp luật
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh
tra phải cung cấp đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của người ra quyết định thanh tra,
Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra
chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn thanh tra và phải
chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin, tài liệu đã cung cấp; có
quyền và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
Để thực hiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, pháp luật cũng quy định cơ quan thanh
tra trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan
công an, Viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc phòng ngừa, phát hiện,
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.
Riêng về Thanh tra nhân dân, trách nhiệm của UBND xã, phường, thị trấn.
Đặc biệt, Ban Thanh tra nhân dân sẽ do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cùng Chính phủ quy định cụ thể hoạt
động, trong đó nói rõ quyền hạn, việc lựa chọn, giới thiệu, bầu, phê chuẩn các Ban
Thanh tra nhân dân đối với từng loại hình Thanh tra nhân dân.
Như vậy, việc phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi sai phạm của
cá nhân, cơ quan có trách nhiệm, của các cá nhân, tổ chức là đối tượng bị quản lý sẽ
bảo đảm trật tự, kỷ cương pháp luật trong hoạt động quản lý. Mặt khác, việc tìm ra
những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, phát hiện những nội dung chưa phù
hợp với yêu cầu thực tế khách quan, từ đó có các biện pháp sửa đổi, bổ sung, khắc
phục kịp thời có ý nghĩa tích cực trong việc củng cố trật tự, kỷ cương, hoàn thiện cơ
chế quản lý. Tuy nhiên, việc phát hiện, tìm kiếm sai phạm, sơ hở, yếu kém trong quản
lý cũng chưa đủ, mà thanh tra còn phải phát hiện và khẳng định, đồng thời tạo điều
kiện cho những nhân tố mới, cơ chế mới nảy sinh phát triển. Có như vậy thì hiệu quả
công tác quản lý mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của thực tiễn, điều này được
thể hiện ở những nội dung sau:
24
Một là, hoạt động thanh tra (dù được thực hiện bằng phương thức gì, do cơ
quan nào tiến hành) phải thể hiện tính kỷ cương pháp luật. Bởi vì, sự hiện diện của
các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát là nhằm nhắc nhở tới mọi đối tượng chịu sự
thanh tra, kiểm tra, giám sát rằng: pháp luật phải được tuân thủ. Sự thanh tra, kiểm tra,
giám sát định kỳ, thường xuyên hay đột xuất luôn tạo ra một “sức ép” thường trực lên
các đối tượng và nhờ đó đã hạn chế sự vi phạm pháp luật. Vì vậy, thanh tra, kiểm tra,
giám sát không chỉ thực hiện chức năng bảo đảm pháp chế mà còn thực hiện chức
năng tìm hiểu, giúp đỡ, định hướng cho các đối tượng thực hiện đúng các quy định
của pháp luật, nhất là đối với một Nhà nước chuyển từ mô hình kinh tế tập trung sang
Nhà nước đảm nhận vai trò dịch vụ công. Khi đó, các cơ quan có chức năng thanh tra,
kiểm tra, giám sát sẽ thực sự trở thành một trong những địa chỉ tin cậy của mọi thành
phần kinh tế để có thể nhận được những khuyến nghị, những chỉ dẫn bảo đảm cho
hoạt động của mình đúng pháp luật.
Hai là, trong quá trình thanh tra, các đánh giá, kết luận và kiến nghị có thể đưa
ra những phân tích sâu sắc, đầy đủ nhất các nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính
chất, mức độ của một hành vi vi phạm, song các giải pháp được đưa ra không chỉ
hướng vào việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật phát hiện được, mà nó còn có tác
dụng khắc phục các kẽ hở của chính sách, pháp luật, nhằm ngăn ngừa những phát
sinh những vi phạm pháp luật tương tự xảy ra.
Ba là, hoạt động thanh tra dù là loại hình nào cũng luôn luôn có tính định
hướng và tính xây dựng. Vai trò phòng ngừa của thanh tra được đề cập ở đây là vai
trò phòng ngừa mang tính chủ động. Trong rất nhiều trường hợp, thông qua hoạt động
thanh tra mà có thể dự báo được một hành vi vi phạm pháp luật sẽ xảy ra trong tương
lai nếu không có sự chấn chỉnh, không có sự định hướng lại cho các đối tượng một
cách kịp thời.
Tóm lại, hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là cội nguồn của quyền
lực nhà nước. Nhà nước có nghĩa vụ chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân, tạo mọi điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia
quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Ngoài ra, nhân dân là người giám sát các hoạt
25