LỜI MỞ ĐẦU
Vương quốc Chăm Pa (tiếng Chăm: Campapura - đô thị Chăm;
hay Nagara Campa xứ sở Chăm), là một quốc gia độc lập, tồn tại liên tục qua
các thời kỳ từ năm 192 đến năm 1832 qua các tên gọi Lâm Ấp, Hoàn
Vương, Chiêm Thành và cuối cùng là Panduranga-Chăm Pa trên phần đất nay
thuộc miền Trung Việt Nam.
Cương vực của Chăm Pa lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành
Sơn ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía Nam và từ biển Đông cho đến tận
miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay. Văn hóa Chăm Pa chịu ảnh hưởng
của văn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đã từng phát triển rực rỡ với những
đỉnh cao nghệ thuật là phong cách Đồng Dương và phong cách Mỹ Sơn A1 mà
nhiều di tích đền tháp và các công trình điêu khắc đá, đặc biệt là các hiện vật có
hình linga vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay cho thấy ảnh hưởng của Ấn
giáo và Phật giáo là hai tôn giáo chính của chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa.
Chăm Pa hưng thịnh nhất vào thế kỷ thứ 9 và 10 và sau đó dần dần suy
yếu dưới sức ép Nam tiến của các vương triều Đại Việt từ phía Bắc và các cuộc
chiến tranh với Đế quốc Khmer. Năm 1471, Chăm Pa chịu thất bại nặng nề
trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ miền bắc vào Đại Việt. Phần lãnh
thổ còn lại của Chăm Pa tiếp tục bị các chúa Nguyễn thôn tính lần hồi và đến
năm 1832 toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam.
Di sản của nghệ thuật của Champa để lại ngày nay gồm điêu khắc đá
Ch amp a , kiến trúc Champa, hội họa Ch amp a và âm nhạc Champa, trong đó nổi
bật nhất là kiến trúc và điêu khắc trong các tháp Ch amp a . Ở những nội dung
chính phía sau, nhóm tập trung vào tìm hiểu nghệ thuật điêu khắc Chămpa.
I. Giới thiệu vài nét về vương quốc Chămpa
1. Lịch sử vương quốc Chămpa :
_Lịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu
chính:
• Các di tích còn lại bao gồm các công trình đền tháp xây bằng gạch còn
nguyên vẹn cũng như đã bị phá hủy và cả các công trình chạm khắc đá.
• Các văn bản còn lại bằng tiếng Chăm và tiếng Phạn trên các bia và bề
mặt các công trình bằng đá.
• Các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc, các văn bản ngoại giao, và
các văn bản khác liên quan còn lại.
_Dân tộc chính của Chăm Pa là tộc người Chăm được chia thành hai
nhóm: Chăm ở phía Bắc và Chăm ở phía Nam. Nhóm Nam Chăm thuộc bộ tộc
Cau (Kramuta Vanusa) và Nhóm Bắc Chăm thuộc bộ tộc Dừa (Naeikela
Vanusa). Hai bộ tộc này vừa liên minh với nhau, vừa cạnh tranh nhau quyền
đứng đầu Vương quốc Chăm Pa.
_Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất
liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ 1 và
thứ 2 trước Công nguyên.
_Văn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực
ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được
chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Sa Huỳnh có đặc
điểm văn hóa thời đại Đồng Thau rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện
qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Các nghiên cứu khảo cổ học của
các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn
ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ.
-Theo sử liệu Trung Quốc, Vương quốc cổ Chăm Pa đã được biết đến đầu
tiên với sự ra đời và tồn tại của Vương triều Sinhapura hay còn gọi là Vương
quốc Lâm Ấp mà vị vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu
vực Huế ngày nay.
2
2. Lãnh thổ Chămpa
-Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 15, lãnh thổ của vương quốc Chăm Pa có
nhiều biến động về biên giới phía bắc với Đại Việt. Lãnh thổ Chăm Pa ban đầu
là vùng mà ngày nay bao gồm các tỉnh từ Quảng Bình, Quảng Trị cho đến Ninh
Thuận, Bình Thuận
-Vương quốc Chăm Pa trong lịch sử bao gồm bốn địa khu với tên gọi xuất
phát từ lịch sử Ấn Độ. Vị trí và lãnh thổ của các khu vực này như sau:
+ Amaravati: Nay là thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi
+ Vijaya: Thủ phủ cũng là thành phố cùng tên Vijaya mà trong sách sử
của người Việt gọi là Chà Bàn Địa khu này là toàn bộ khu vực tỉnh Bình
Định ngày nay.
+ Kauthara: Thủ phủ là thành phố Kauthara, nay là Nha Trang thuộc
tỉnh Khánh Hòa. Địa khu này bao gồm hai tỉnh mà ngày nay là Khánh Hòa
và Phú Yên
+ Panduranga: Thủ phủ là thành phố Panduranga ngày nay là thị xã
Phan Rang thuộc tỉnh Ninh Thuận. Địa khu này bao gồm hai tỉnh mà ngày nay
là Ninh Thuận và Bình Thuận.
3. Tôn giáo Chămpa
-Trước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh phục năm 1471, tôn giáo chính
của người Chăm là Ấn độ giáo. Ấn độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Si-va giáo,
tức là đạo thờ thần Shiva. Biểu tượng chính của tôn giáo Si-va của người Chăm
+ Linga (hay còn gọi là lingam) là một cột trụ có hình dương vật đại
diện cho Shiva. Các vua Chăm thường xuyên dựng và cúng các linga bằng đá
để thờ ở trung tâm các đền tháp của hoàng gia. .
+ Mukhalinga là một linga mà trên đó có vẽ hoặc chạm hình ảnh
Shiva dưới dạng hình người hay hình khuôn mặt.
+ Jatalinga là một linga mà trên đó chạm phong cách điển hình của
Shiva là kiểu tóc búi.
+ Linga phân tầng là một cột linga chia làm ba phần đại diện cho ba
thể (trimurti) của thượng đế trong Ấn giáo: phần dưới cùng, là một khối hình
3
lập phương, tượng trưng cho Brahma; phần ở giữa, là một hình lăng trụ tám
mặt, đại diện cho Vishnu; và phần trên cùng, có hình tròn, đại diện cho Shiva.
+ Kosa là một khối kim loại hình trụ được sử dụng để che phủ cho
linga. Việc hiến tế một kosa để trang trí cho linga là một nét đặc trung độc đáo
của đạo Si-va của người Chăm.
II. Nghệ thuật điêu khắc Chămpa
1. Khái niệm
• Điêu khắc là một môn nghệ thuật mà người nghệ sĩ tác động
vào những hình khối gọn gàng, tinh tế nhất nhằm thể hiện 1
hay nhiều ý nghĩa của tác phẩm. Có thể là tượng đài (tượng
đồng, đá, bê tông, ), có thể là biểu tượng (con sư tử
vàng ở Lasvegas chẳng hạn), có thể là bích trương (hàng
loạt bích trương ở Mêhicô là tác phẩm của các nhà điêu khắc
chứ không phải họa sỹ) hay các phù điêu thạch cao (đền
Parthenol), đồng, điêu khắc tồn tại trong không gian 3
chiều. Điêu khắc gồm 2 thể loại chính: phù điêu, tượng tròn
.
• Điêu khắc đá Chămpa có hai loại hình chính là phù điêu và
tượng có chủ đề về thần voi, sư tử, chim thần Garuda, vũ nữ
Apxara, thần Visnu, thần Siva
o Tượng là một tác phẩm điêu khắc nhằm thay thế một
cách đại diện một người, một con vật, hoặc một sự
kiện, thông thường thực hiện ở kích thước thật hoặc
có thể lớn hơn phân biệt với tượng bán thân .
o
o Phù điêu là: Là hình thức đắp nổi hoặc khoét lõm với
chiều dài, rộng là thực còn phần nổi mang tính ươc lệ
về khối.
o Phù điêu 9 vị thần : Cho đến nay, đây là bức phù điêu
duy nhất về loại hình này được tìm thấy ở Champa.
Với lối thể hiện: Vị thần thứ nhất ngồi trên xe ngựa
kéo và một vị thần ngồi trên bệ, còn các vị thần khác
đều cưỡi trên một con vật được coi là vật cưỡi của
thần. Trừ vị thần thứ nhất ngồi trên xe 7 ngựa kéo,
còn các vị thần khác, những con vật được coi là vật
cưỡi của thần được điêu khắc ngay dưới bệ thần ngồi
(các vị thần không trực tiếp cưỡi lên nó).
4
o Mặc dù ở Champa đã tiếp thu Ấn Độ giáo, mà Ấn Độ
giáo cho rằng tất cả hành động kể cả hành động của
thượng đế, cũng đều biểu thị ba khuynh hướng: sáng
tạo, bảo tồn, hủy diệt, và được qui tụ thành ba đấng
tối cao Brahma (thần sáng tạo) Visnu (thần bảo vệ),
thần Siva (thần hủy diệt), được gọi là “Tam vị nhất
linh”, nhưng qua bức phù điêu này, chứng tỏ tín
ngưỡng đa thần vẫn tồn tại ở Champa.
2. Những hình tượng thường thấy trong điêu khắc Chămpa
o Thần Indra
Được thể hiện ở tư thế ngồi ở 2 chân xếp bằng trên một cái bệ, đầu vị vỡ,
bàn tay trái để úp lên đầu gối trái; bàn tay phải đặt ngữa trên đầu gối phải, và
cầm một vật (lưỡi tầm sét). Ở bệ có một hình voi đang phủ phục. Theo thần
thoại Ấn Độ, Indra là vị thần đứng đầu các vị thần, vật cưỡi của thần là voi.
o Bò Nandin
Theo thần thoại Ấn Độ thì kiếp trước của thần Siva là con bò. Sau khi
Siva hóa thân thành người thì con bò là vật cưỡi của thần Siva. Do vậy quan
niệm của Ấn Độ giáo thì con bò là vật cưỡi của thần Siva, cho nên tượng bò
Nandin thường gắn với thần Siva.Trong điêu khắc đá Champa, khá nhiều tượng
bò Nandi được thể hiện dưới dạng tượng tròn và ở tư thế nằm.
o Chim thần Garuda
Là vật cưỡi của thần Visnu, loại hình này khá phổ biến trong điêu khắc đá
Champa. Vì mẹ của loài rắn Naga đã giết mẹ của loài chim thần Gadura, do đó
giữa hai loài này có mối thù truyền kiếp, vì thế chim thần Garuda thường bắt
hoặc giết loài rắn Naga, đề tài này được thể hiện trong điêu khắc đá Champa
khá phổ biến.
o Sư tử
. Sư tử là con vật không có ở Champa nhưng vua chúa Champa lại dùng
sư tử biểu hiện cho vương quyền. Theo quan niệm của người Chăm sư tử biểu
tượng cho quý tộc, cho sức mạnh vì theo truyền thuyết, sư tử là một trong mười
kiếp hóa thân của thần Vishnu và đã giết được quỷ Hiraya Kapipu.Sư tử
Champa thường được tạo thân hình vạm vỡ với các tư thế đứng, ngồi, quỳ, phổ
biến là tư thế đứng. Nghệ nhân thể hiện sư tử không hoàn toàn đúng theo đời
thường nhưng lại được mang rất nhiều đồ trang sức. Hầu hết sư tử đều là sư tử
đực, hình thức thể hiện ở hai dạng phù điêu nổi và tượng tròn, tất cả đều ở tư
thế đứng với hai biến thể: loại thứ nhất chân phải bước lên, khớp gối hơi gấp
cong chân trái duỗi thẳng, loại kia thì ngược lại.
5
o Voi
Là hình tượng khá phổ biến và sớm có mặt trong nghệ thuật điêu khắc
Champa trên mọi loại hình. Ngoài yếu tố là con vật quen thuộc có nhiều trên
địa bàn cư trú, được sớm thuần dưỡng, thì voi cũng là biểu tượng của vật linh
trong Ấn Độ giáo. Voi là vật cưỡi của thần Indra (thần sấm sét, thần chiến
tranh hay thần hộ mệnh) gọi chung là Dikapala.
.
o Vật trang trí gắn ở góc tháp
Đây là hình tượng một mảng mây. Mây là một biểu tượng “không giới”
nơi ngự trị của các vị thần linh, mô típ này cũng khá phổ biến ở điêu khắc
Champa. Hình ngọn lửa thường gắn ở đỉnh tháp thường gắn ở góc tháp. Lửa là
yếu tố liên quan nhiều đến thần thoại và tôn giáo. Thần thoại Ấn Độ gọi thần
lửa là A-nhi, (Agni) lửa cũng là hình thức khởi phát của thần Siva.
o Thần Siva
Trong các điêu khắc Chăm, vị thần được thờ phổ biến nhất là Siva - một
trong ba vị thần tối cao. Người Chăm tiếp thu văn hóa Ấn Độ giáo, tôn thờ thần
Siva, vị thần đầy quyền năng. Thần Siva theo tiếng Phạn là “tốt lành”, được gọi
là thần Hủy diệt, hủy diệt cái cũ để sáng tạo ra cái mới.
Ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm, Đà Nẵng có những bức phù điêu nữ thần
Uma, vợ hay thần nữ của Siva, gọi là Bhagavati, được sùng kính ở vương quốc
Chămpa, là Mẹ Xứ sở hay Pô Nưgar.
o Nữ thần Devi
Được tạo tác bán thân, tóc búi kiểu hình tháp, lông mày liền nhau, mắt mở
to, sống mũi thẳng, cân đối, miệng hơi nở nụ cuời tạo nên khuôn mặt xinh đẹp,
hài hòa, tượng để hở bộ ngực tròn căng sức sống nhưng lại tạo nên một cảm
giác thánh thiện.
Theo truyền thuyết, nữ thần Devi có tên Champa là Rija Kula Hara Devi,
là vợ của vua Indravarman II, người sáng lập triều đại Đồng Dương, triều đại
Phật giáo vào thế kỷ thứ IX. Vì Devi có công với đất nước, đặc biệt là thường
giúp đỡ những người nghèo, cô nhi quả phụ, nên sau khi mất bà được phong
thần và được vua Jaya Shinhavarman I dựng tháp thờ.
o Nữ thần Laksmi-vợ thần Visnu
Trong nghệ thuật điêu khắc Chăm ta bắt gặp tượng Laksmi trong nhiều
tư thế, phổ biến là tư thế ngồi trên mình rắn Naga, có đến 13 đầu rắn vây
6
quanh. Nữ thần có 4 cánh tay, ba cánh với các biểu tượng: cầm hình con ốc,
chĩa ba và cây chùy. Tượng Laksmi thường ở trần, với hai bầu vú căng tròn.
o Hình tượng những người cầu nguyện và tu sĩ
Có thể đây là hình tượng của những tu sĩ theo Ấn Độ giáo hoặc cũng có
thể là tu sĩ của phái Mật Tông. Riêng tượng thể hiện người đang khấn niệm, có
lẽ là tu sĩ của phái Mật Tông.
o Tượng người
Đầu tượng bị mất, cổ đeo tràng hạt, tay trái bị vỡ mất hoàn toàn, tượng thể
hiện ở tư thế ngồi hai chân xếp vào nhau, lòng bàn chân ngữa, hai tay đặt lên
hai đầu gối. Đây có thể là một thầy tu đang ngồi thiền.
o Tượng phật
Đầu đội miện ba tầng, tay đeo trang sức chuỗi ngọc. Phật được thể hiện ở
tư thế ngồi, hai chân bắt chéo nhau, chân phải đặt lên chân trái, tay trái đặt phía
trước bụng, lòng bàn tay ngữa, tay phải giơ lên ngang ngực, lòng bàn tay
hướng về phía trước. Điêu khắc Phật giáo ở Đồng Dương (Inđrapura) tạo nên
cả một phong cách Đồng Dương. Đây là cả một thánh đường Phật giáo: Có
tượng Phật, tượng các vị La Hán và các tu sĩ. Đặc biệt tượng các vị môn thần
được coi là đẹp nhất và độc đáo nhất.
3. Vũ điệu cung đình trong các tác phẩm điêu khắc
_Trong nghệ thuật điêu khắc đá Chămpa, hình tượng người múa được
khắc tạc nhiều. Loại hình này thường được gắn ở trán cửa hay trên các dải băng
trang trí của những ngôi tháp Chàm… Bình Định từng là một trong những
trung tâm lớn của vương quốc Chămpa cổ (trung tâm Vijaya). Nằm chung
trong truyền thống của nền văn hóa này, giống như những nơi khác, hầu hết các
tượng đều thể hiện những điệu múa mang hình thái tôn giáo, tín ngưỡng (các
thần) và múa cung đình (lễ nghi, chúc tụng, đón khách). Bên cạnh các điệu vũ
của thần Siva, nữ thần Uma, nữ thần Sarasvati… thì vũ điệu tiên nữ Apsara
cũng là một hình tượng quen thuộc mà chúng ta thường bắt gặp.
7
4. Cảm hứng phồn thực trong điêu khắc Chămpa
+ Ở Việt Nam có rất nhiều hình thức tín ngưỡng khác nhau như tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng thờ mẫu, tín ngưỡng phồn thực,…Các
hình thức tín ngưỡng ấy có cùng đặc điểm chung đều mang đặc trưng của văn
hóa nông nghiệp với những ý nghĩa: tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên
nhiên , hài hòa âm dương (thể hiện ở các đối tượng thờ cúng: Trời-Đất, Tiên-
Rồng, ), đề cao phụ nữ,…
+ GS.VS.TSKH Trần Ngọc Thêm trong công trình “Tìm về bản sắc văn
hoá Việt Nam” cho rằng: Tín ngưỡng phồn thực-tín ngưỡng cầu mong cho sự
sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người .
+T.S Lê Văn Chưởng trong “Cơ sở văn hóa Việt Nam” cũng đưa ra khái
niệm: Tín ngưỡng phồn thực là sự tôn sùng và tin tưởng về sự sinh sôi nảy nở
nhiều. Tín ngưỡng phồn thực là một biểu hiện của triết lý truyền sinh, nó ở
trong quĩ đạo tư duy lưỡng hợp.
+ Tóm lại: “Tín ngưỡng phồn thực là một hình thức tín ngưỡng dân
gian thể hiện sự cầu mong, ước vọng về sự sinh sôi nảy nở, no đủ, sinh tồn của
tự nhiên và con người và được thể hiện dưới các hình thức biểu hiện mang tính
phô diễn dưới dạng âm dương, đực cái”
+ “phồn thực” phải được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ là giao hòa
đực cái, sự sinh sôi nòi giống hay biểu đạt tính tượng trưng của giao hòa nam
nữ mà còn là sự mong muốn, khát khao cuộc sống no đủ, đông đúc, cuộc sống
được sinh sôi, nảy nở, mùa màng tươi tốt, cây cỏ xanh tươi, hoa quả nặng trĩu
cành. Do đó con người đã mượn cái sinh sôi để mong muốn một cuộc sống tốt
đẹp hơn. Để thực hiện ước vọng, mong muốn của minh con người không còn
cách nào khác là thần thánh hóa, gắn nó với yếu tố tâm linh và hình thức tín
ngưỡng này được các biểu hiện dưới các biểu tượng, các trò chơi và các trò
diễn được lưu truyền trong dân gian. Và cứ thế, tín ngưõng phồn thực cứ tồn tại
như một bộ phận của văn hóa dân gian và được xem như văn hóa tâm linh
- Ngay từ đầu, duy trì và phát triển sự sống đã là một nhu cầu bức thiết của
con người. Đối với văn hóa nông nghiệp, hai việc này lại càng bội phần hệ
trọng. Để duy trì cuộc sống, cần cho mùa màng tươi tốt. Để phát triển sự sống,
cần cho con người sinh sôi. Ở loại hình văn hóa nông nghiệp, hai hình thức sản
xuất lúa gạo và snả xuất con người để kế tục dòng giống này có bản chất giống
nhau. Đó là sự kết hợp của hai yếu tố khác loại (đất và trời, mẹ và cha). Từ một
thực tiễn chung này, tư duy của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á nói chung và
Nam Á nói riêng, đã phát triển theo hai hướng: những trí tuệ sắc sảo đi tìm qui
8
luật khoa học để lý giải hiện thực và họ đã xây dựng được triết lý âm dương.
Những trí tuệ bình dân nhìn thấy ở thực tiễn đó một sức mạnh siêu nhiên, bởi
vậy mà sùng bái nó như thần thánh kết quả là xuất hiện tín ngưỡng phồn thực
- Người Chăm cũng là cư dân nông nghiệp lúa nước nên họ rất coi trọng
tín ngưỡng phồn thực. Hình thức tín ngưỡng phồn thực của người Chăm cũng
như người Việt đều dựa trên quan niệm âm dương lưỡng hợp rất rõ nét. Đối với
cư dân Chăm ước vọng về sự sinh sôi nảy nở được phát triển thành một tinh
thần phồn thực thể hiện khắp các mặt trong đời sống như phong tục tập quán, lễ
hội… Linga và yoni được tôn thờ như hai vị thần, hai nguyên lý khởi nguyên
của vũ trụ phân biệt và hòa hợp với nhau để sinh ra vạn vật. Nó được xem như
tư tưởng chủ đạo trong văn hóa Chăm. Đồng thời nó cũng là một nét văn hóa
độc đáo trong đời sống văn hóa của họ.
- Ngoài hình tượng yoni gắn liền với hình tượng linga trong các bệ thờ,
dòng âm tính trong điêu khắc Chăm còn thể hiện những phù điêu các vũ nữ
Apsara, tượng vũ nữ Aprasa với hình ảnh bầu ngực rất lớn nhưng bụng thon thể
hiện khát vọng về sự dồi dào, sinh sôi và no đủ của người Chăm.
- Ápsara tiềng Phạn có nghĩa là dòng suối mát. Ápsara chỉ một trong
những vị nữ thần sông suối, cây sỏ xinh đẹp sống ở thiên đường Indra Theo
truyền thuyết, Apsara được coi như là nữ thần biên giới, là vũ nữ của thần
Indra, chuyên múa hát và dâng hoa cho các vị thần. Apsara có biệt tài ca hát,
nhảy múa có nghệ thuật yêu đương, là người bạn hay người yêu của mục đồng
thiên giới Gandhawa, đặc biệt có tài khêu gợi tình dục, thậm chí phá được phép
tu khổ hạnh của các tu sĩ đắc đạo và làm xiêu lòng biết bao thần thánh.
- Những vị thần này được coi là những thiên thần múa hát trên trời, dâng
hương hoa để khánh chúc thần linh. Hình tượng này khá phổ biến trong nghệ
thuật điêu khắc Champa. Đặc biệt là tượng Apsara được thể hiện với tư thế
quỳ, hai tay đang chấp một búp hoa hoặc một loại quả, với động tác dâng cúng
thần linh, bên cạnh là hình đám mây. với khuôn mặt đầy nét nhân chủng Chăm,
môi dày, cằm không bạnh, lông mày tỉa nhỏ, cánh mũi thanh thoát. Đặc biệt bộ
ngực trần vẫn giữ vẻ trinh nguyên, không mang vẻ trần tục như tượng các vũ
nữ Ấn Độ, hay thật nặng nề như ngực tượng vũ nữ Khơme
- Theo truyền thuyết Chămpa, tiên nữ Apsara là vũ nữ chuyên múa hát
trên cõi trời do thần Indra (thần sấm sét) cai quản. Vũ nữ Apsara với khuôn mặt
đầy đặn, đầu đội mũ Mrần kiểu Kirata – Mukata có nhiều tầng với hai mắt mở
to, sóng mũi cao và nở rộng đó là đặc trưng của điêu khắc Chămpa. Đi sâu vào
bức tượng, ngắm nhìn, cố lọc ra những gì tưởng chừng như không hợp lý, nhịp
điệu của cơ thể giúp cho chúng ta đi vào bên trong của sự kỳ diệu ấy. Toàn bộ
khối hình của người vũ nữ là hai hình tam giác đối đỉnh nhau tạo nên một cảm
giác cân đối nhưng chông chênh. Các đường lượn của tay và đùi tạo thành các
đường gấp khúc uyển chuyển. Với cánh tay dài nõn nà mà có thể nói là quá khổ
9
uốn cong thành một động tác tưởng chừng như là phi lý, nhưng chính cánh tay
trái này làm thành một đường lượn kết nối hai phần của bức tượng, làm hai
khối trở nên mềm mại và tinh tế hơn.
- Qua vũ nữ Apsara trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa đã tiếp thu văn
hóa Ấn Độ một cách sáng tạo những yếu tố truyền thống văn hóa dân tộc.
Thông qua cải tiến những họa tiết vốn có và bổ sung thêm những yếu tố mới đã
góp phần làm phong phú về mặt nghệ thuật văn hóa dân tộc. Tuy nhiên sự tiếp
thu đó mang tính cách dung nạp rồi sau đó bản địa hóa, địa phương hóa trở
thành cái riêng của mình
.
- Qua các pho tượng trên cho thấy tín ngưỡng phồn thực của người
Chăm không chỉ mang tính bản địa mẫu hệ mà còn thể hiện chất dương tính
phụ hệ, không chỉ đơn thuần là tín ngưỡng dân gian mà còn gắn liền, đi đôi với
tôn giáo, ảnh hưởng đậm nét của tôn giáo. Có lẽ đây chính là nét riêng biệt và
độc đáo nhất của tín ngưỡng phồn thực Chăm.
5. Con trâu trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa
- Con trâu là động vật quen thuộc đối với các cư dân vùng Nam Á và Đông
Nam Á. Từ ngàn xưa, những cư dân cổ vùng nầy đã biết thuần hóa những con
trâu sống nơi hoang dã thành trâu nhà, sử dụng sức mạnh của trâu vào việc cày
bừa, kéo gỗ Gắn bó với loài người, trâu đã trở thành vật tổ hoặc biểu tượng
của một số dân tộc. Cũng như các cư dân cổ sống ở vùng đồng bằng Việt
Nam , người Chăm biết trồng lúa nước, biết dùng sức kéo của trâu để cày bừa.
Theo tín ngưỡng của họ, con bò được coi trọng hơn trâu, bởi nó là con vật
cưỡi của thần Siva - vị thần Hủy diệt và Sáng tạo; hình tượng con trâu xuất
hiện ít hơn, song vẫn có một vị trí đáng kể trong điêu khắc Chăm.Tại Bảo tàng
Điêu khắc Chăm Đà Nẵng đang trưng bày một pho tượng Yama ngồi trên một
chiếc bệ (ký hiệu 3.4) pho tượng nầy được tìm thấy tại khu tháp Mỹ Sơn, chiếc
bệ được chạm những đường kỷ hà giật cấp, phía trước thể hiện một con trâu,
theo thần thoại Ấn Độ, Yama là Thần Chết, vị thần trông coi hướng Nam trong
các Dikpakala (Thần Phương hướng), vật cưỡi của Thần là con trâu.
+Yama (Mỹ Sơn)
+Yama (Quá Giáng)
+Dvarapala Đồng Dương
10
III. Những họa tiết hoa văn phổ biến trong điêu khắc Chăm
1. Họa tiết hoa văn hình cúc
_Hoạ tiết hoa văn hình hoa cúc được người Chăm thể hiện nhiều trong
kiến trúc đền tháp và trong điêu khắc. Trên tác phẩm đài thờ Mỹ Sơn E1 (thế
kỷ VII-VIII), ở tại Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng, những đường viền
chung quanh phần trên đài thờ là những dải hoa cúc, lá và hoa được cách điệu
khá tinh tế, hoa thường thể hiện 4 cánh, chính giữa có nhị hoa, tuy thời gian và
mưa gió đã bào mòn khá nhiều, nhưng nét chạm vẫn còn khá rõ. Trên lanh tô
của một cửa tháp ở nhóm tháp Mỹ Sơn A1 (thế kỷ X), dải hoa cúc lại được
chạm khắc một cách sắc sảo hơn, hoa có dạng hình tròn, chung quanh là lá và
thân cây được cách điệu một cách mềm mại, mang tính đối xứng, ở chính giữa
hoa có nhị hoa và nhiều cánh hoa lại chụm lại với nhau, giống như hoa đang ở
độ búp mới xoè nở.
2. Họa tiết hoa văn hình hoa sen
_Hoạ tiết hoa văn hình hoa sen được thể hiện khá nhiều trong điêu khắc
và kiến trúc Chăm, gần như ở hầu khắp các phong cách nghệ thuật. Trong tác
phẩm Đản sinh thần Brama ở phòng Mỹ Sơn, thể hiện thần Visnu cầm một cây
sen đang nở, phía trên hoa đã nở xoè với nhiều cánh, thần Brama ngồi trên các
cánh sen, hoa sen được cách điệu. Trên các đài thờ như đài thờ Trà Kiệu (thế
kỷ X), đài thờ nữ thần Uroja (thế kỷ XII), hoa sen được cách điệu bao quanh
phần đế các đài thờ với những cánh hoa rất lớn, được chạm sắc sảo, đường nét
các gờ nổi rõ. Trên đài thờ Vũ nữ Trà Kiệu hoa sen lại được cách điệu mạnh
mẽ hơn, tạo thành các đường gờ lớn nhỏ, nhìn kỹ chúng ta mới biết được đó
chính là búp sen, các vũ nữ đứng tựa lưng vào các cánh sen múa hát uyển
chuyển, tạo nên một cảnh quang sinh động, có giá trị cao về nghệ thuật.
11
3. Họa tiết hoa văn hình dây
+ Hoạ tiết hoa văn hình hoa dây được khắc chạm khá nhiều trên các đền
tháp, kể cả trên gạch và trên đá, cũng như trong các tác phẩm điêu khắc lớn
nhỏ. Hoa dây thường thể hiện trên các trụ cửa và thể hiện trên các tháp ở
Khương Mỹ. Gọi là hoa dây vì hoa, lá và thân hoà quyện vào với nhau rất khó
phân biệt, các nét chạm khá sắc sảo, tinh tế tạo thành một dải dài từ trên thân
tháp xuống đến chân đế tháp, hoặc từ trên xuống dưới của một trụ cửa.
4. Họa tiết hoa văn hình con sâu
+Gọi là hình con sâu vì các hoạ tiết hoa văn trông giống hình con sâu
đo. Những hoạ tiết hoa văn này thường thấy trong các tác phẩm kiến trúc đền
tháp và điêu khắc Đồng Dương, thuộc phong cách nghệ thuật Đồng Dương (thế
kỷ IX). Tuy nhiên, nếu nhìn thật kỹ và phân tích chúng ta thấy rằng đây cũng
chính là những dải hoa dây được chạm trổ một cách khá rối rắm.
5. Họa tiết hoa văn hình sóng nước hay ngọn lửa
_Hoạ tiết hoa văn hình song nước hay ngọn lửa thường bắt gặp nhiều
trong các tác phẩm điêu khắc và kiến trúc thuộc phong cách nghệ thuật
Tháp Mẫm (thế kỷ XII-XIV). Trên các lanh tô của các đền tháp ở Tháp
Mẫm (Bình Định) thường thể hiện các diềm trang trí hình ngọn lửa hay
hình song nước, xen kẽ với nó là hình các mặt nạ Kala hay các con khỉ.
Thật ra đây cũng là hình ảnh các hoa và lá cũng như than cây được cách
điệu khá đặc biệt, không mềm mại như ở phong cách Mỹ Sơn hay
Khương Mỹ, không rối rắm như ở phong cách Đồng Dương, mà lại thô
ráp, to bè, nhìn trông giống như hình một ngọn lửa đang cháy hay hình
một đợt sóng cuộn lên ào ạt, thể hiện sức mạnh, sức sống tràn trề, mang
tính cách mạnh mẽ.
6. Họa tiết hoa văn hình học
12
+Đó là các hình tam giác, hình thoi, hình vuông, hình chữ nhật, hình
viên bi (hình tròn)…thể hiện qua những diềm hoa văn viền quanh các tác phẩm
điêu khắc.
7. Họa tiết hoa văn hình động vật
+ Hoạ tiết hoa văn hình động vật thường trang trí các mặt nạ Kala,
Makara, hình ảnh các chú khỉ vui nhộn…với cách trang trí như vậy cũng tạo
cho các tác phẩm điêu khắc Chăm những nét đẹp hiếm thấy, những ấn tượng
khác lạ trong nghệ thuật, tuy nhiên hình ảnh các loài động vật cũng đã được
cách điệu hoá cao.
Những ảnh hưởng từ bên ngoài khi vào Chăm Pa đều bị biến đổi theo
những phong cách truyền thống Chăm. Những tác phẩm điêu khắc khi vào
Chăm Pa đều có xu hướng tượng tròn hoá, hoành tráng hoá theo xu hướng của
chủ nghĩa ấn tượng, không theo lối tả thực.
IV. Nghệ thuật điêu khắc Chăm được thể hiện trong quần thể kiến
trúc
- Trong di sản văn hoá người Chăm hiện nay nổi bật nhất là hệ thống đền
tháp, điêu khắc, tượng thờ, thành quách, bia kí…Hầu hết từ Miền Trung cho
đến Tây Nguyên, nơi nào có người Chăm sinh sống thì họ đều xây dựng đền
tháp để thờ thần. Điều đó cho ta thấy tầm quan trọng đền tháp đối với người
Chăm. Thế nhưng hiện nay, trong tổng số khoảng 250 di tích đã được người
Pháp thống kê, chỉ còn 20 nhóm đền tháp với 40 công trình còn tạm đứng
vững.
- Điều đáng chú ý trước tiên, là các tác phẩm điêu khắc Chăm, tưởng như
chỉ giới hạn ở các pho tượng và phù điêu bằng đá sa thạch, ngoại trừ những bức
tượng Phật, hoặc tượng thần Ấn Độ giáo hiếm hoi được đúc bằng đồng mun
(đôi khi được đúc ở tận Sri Lanka, như bức tượng Phật tìm thấy ở Đồng Dương
(thế kỷ 8-9), thực ra, nghệ thuật điêu khắc Chăm còn được thể hiện ngay trên
vật liệu gạch nung, ở mặt tiền của các ngôi tháp. Các bức phù điêu được chạm
khắc thẳng trên gạch nung. Đó cũng là một trong những nét đặc thù của nghệ
thuật Chăm, cho phép ta phân biệt dễ dàng các tác phẩm kiến trúc và điêu khắc
Chăm với các tác phẩm Khơme và Ấn Độ.
- Điểm thứ hai, đáng chú ý, là các tác phẩm điêu khắc Chăm tạc trên đá sa
thạch (grès), tỏ ra không được mịn màng, sắc nét, bằng những tác phẩm điêu
khắc ở Angkor, hay ở các đền tháp của người Ấn Độ, mặc dầu chất liệu của
loại đá có hạt to này, qua thời gian, dãi dầu nắng, mưa, sương, gió, vẫn có một
vẻ đẹp riêng, đường nét và nhịp điệu của các pho tượng lại rất sinh động, uyển
chuyển.
13
V. Thánh địa Mỹ Sơn và Viện Cổ Chàm
1. Thánh địa Mỹ Sơn
a. Giới thiệu sơ lược về Thánh địa Mỹ Sơn
- Trong các di chỉ còn tồn tại cho đến ngày nay, Mỹ Sơn là quần thể kiến
trúc có niên đại xưa nhất và quan trọng nhất, vì còn giữ được khá nguyên vẹn
các di tích, ngược lại với Đồng Dương đã bị san bằng bởi một trận bom B52
của Mỹ vào năm 1969.
- Mỹ Sơn là một “thánh địa” thờ thần Siva (Ấn Độ giáo), do vua
Bhadravarman I sáng lập vào cuối thế kỷ 4. Chính ở đây, mà người ta đã tìm
thấy nhiều tượng thần Siva rất đẹp. Trong tín ngưỡng của người Chăm, thần
Siva đóng một vai trò quan trọng hàng đầu. Biểu tượng của thần Siva, là cái
linga, bộ phận sinh dục của đàn ông, mà nguồn gốc là từ trong tục thờ cúng các
hòn đá hình trục, phổ biến trong dân gian từ thời thượng cổ ở khắp vùng Đông
Nam Á.
b. Những tác phẩm điêu khắc ở thánh địa Mỹ Sơn
- Những tác phẩm điêu khắc tìm thấy ở Tháp Mẫm, có niên đại muộn hơn
(thế kỷ XII-XIII). Hình dạng , tỷ lệ, và phong cách của các mô-típ trang trí ở
đây trông thô hơn hẳn, so với nghệ thuật ở các thời kỳ trước. Có một cái gì đó
như một sự suy đồi về phong cách. Những mô-típ thú vật thần thoại này làm
cho người ta không khỏi nghĩ đến những mô-típ điêu khắc bằng gốm nung khai
quật được gần đây ở di chỉ hoàng thành Thăng Long.
- Ở mỗi dân tộc, mỗi đất nước đều có bề dày lịch sử và bề rộng của không
gian xã hội. Cũng vậy, cư dân Chăm đã có một vương quốc với một nền văn
minh cổ đại. Lớp bụi hàng trăm năm của thời gian vẫn không xoá nhoà hình
ảnh của vương quốc Chămpa cổ, vốn là một hiện tượng lịch sử văn hoá độc
đáo. Bởi lẽ đến nay, những công trình kiến trúc, điêu khắc cổ và kể cả nghề
14
luyện kim đã để lại rất nhiều hiện vật tiêu biểu cho thời kỳ hưng thịnh của cư
dân Chăm.
- Nghệ thuật điêu khắc Chămpa đã đi sâu vào lòng người, sớm nhất vào
khoảng đầu thế kỷ 7, đã gây nên những ấn tượng khá sâu sắc tới nhiều người
trong và ngoài nước. Có thể nói công phát hiện đầu tiên là của các học giả, nhà
nghiên cứu Pháp như: Parmentier, Agmonier, G. Maspero. Tuy số nhà nghiên
cứu không nhiều, nhưng với nghệ thuật điêu khắc độc đáo và phong cách gắn
với sắc thái dân tộc đã đóng góp một phần nào vào kho tàng văn hóa của nhân
loại. Điêu khắc Champa nói riêng, nghệ thuật Champa nói chung đã hình
thành, hưng thịnh và suy tàn trong vòng 10 thế kỷ từ thế kỷ VII đến thế kỷ
XVI.
2. Viện Cổ Chàm
- Viện Cổ Chàm tai Đà Nẵng hiện tại có khoảng gần 2.000 hiện vật lớn
nhỏ, trong đó có gần 500 hiện vật đang trưng bày bên trong nhà Bảo tàng (được
phân chia thành các phòng trưng bày gồm: Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương,
Tháp Mẫm và các hành lang Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum,
Quảng Bình và Bình Định), một số hiện vật trưng bày ngoài sân vườn và hơn
1200 hiện vật hiện đang lưu giữ trong kho. Hầu hết các tác phẩm điêu khắc
hiện có tại bảo tàng là những tác phẩm nguyên bản trên 3 chất liệu chính là sa
thạch, đất nung và đồng, phần lớn là sa thạch, có niên đại từ thế kỷ VII đến thế
kỷ XV thuộc nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau.
- Đến bảo tàng, ta như thấy lại quá khứ vàng son của một dân tộc mà lòng
say mê và khả năng sáng tạo nghệ thuật đều ở một trình độ rất cao. Thế giới
thần linh kỳ bí, những câu chuyện bằng hình ảnh, các biểu tượng tôn giáo,
đường cong thân thể các vũ nữ, những bầu ngực căng tròn, nụ cười phảng phất
nét thời gian tất cả đều sống động, chi tiết và gợi cảm vô cùng.
- Bảo tàng Chàm trưng bày theo các khu vực chính như sau:
+Khu vực Mỹ Sơn, Quảng Nam và Quảng Trị từ thế kỷ thứ VII đến
thế kỷ VIII.
+Khu vực Trà Kiệu, Quảng Ngãi từ thế kỷ VII đến thế kỷ VIII.
+Khu vực Quảng Bình từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ VIII.
+Khu vực Quảng Ngãi từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ XII.
+Khu vực Đông Dương từ thế kỷ IX đến thế kỷ X.
+Khu vực Bình Định Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XII.
15
+Khu vực tháp Mẫn Bình Định từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV.
+Khu vực Tây Nguyên (Kontum) thế kỷ XVI.
+Khu vườn Bảo tàng rải rác nhiều nơi từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII.
- Ở vườn Bảo tàng Champa rải rác hiện vật của các thời kỳ là bộ bốn con
voi thuộc phong cách Quảng Nam thế kỷ VII – VIII, Makara nuốt Garuda
thuộc phong cách Trà Kiệu thế kỷ VII – VIII, trụ cột hộ pháp thuộc phong cách
Phong Lệ Chương Mỹ, Quảng Nam thế kỷ VII – VIII, hai sư tử góc thuộc
phong cách tháp Mẫn thế kỷ XIII.
- Điêu khắc Champa gắn liền với những công trình kiến trúc, đền đài, thành
quách, tháp thờ nằm rải rác suốt dọc miền Trung Việt Nam. Bằng tài năng điêu
khắc tuyệt vời, các nghệ nhân Champa cổ đã đánh thức dậy những tảng đá âm
u, mịt mù thành hiện thực sinh động trong nhận thức tôn giáo kỳ bí nhưng đã
toát nên vẻ đẹp cường tráng, đầy sinh lực dồi dào bất tận. Điêu khắc Champa
tràn đầy vẻ đẹp con người được núp dưới những chủ đề huyền thoại của thần
linh và tôn giáo.
KẾT LUẬN
Cùng với nền điêu khắc của người Khmer và người Java, nền điêu khắc
Chăm Pa là một trong ba nền điêu khắc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đạt tới tầm
cỡ thế giới. Tuy ảnh hưởng nhiều từ nền điêu khắc Ấn Độ, Java và Khmer
nhưng điêu khăc Chăm Pa vẫn có những tính độc đáo riêng. Xu thế hướng tới
tượng tròn của hầu như tất cả các hình chạm khắc dưới dạng phù điêu, trong
điêu khắc Chăm Pa rất ít có khung cảnh chung mà nhấn mạnh vào từng hình
tượng, ví dụ như bức phù điêu tiên nữ Apsara đang múa được tìm thấy ở Trà
Kiệu thể hiện bàn tay to, cánh tay cong. Chính vì thế nghệ thuật điêu khắc của
Chăm Pa mang tính ấn tượng nhiều hơn là tả thực, tính ấn tượng có thể nói là
đặc điểm quan trọng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm
Pa.
16
MỤC LỤC
Trang
I. Giới thiệu vài nét về vương quốc Chămpa …………………… 2
1. Lịch sử vương quốc Chămpa……………………………… 2
2. Lãnh thổ Chămpa………………………………………… 3
3. Tôn giáo Chămpa………………………………………… 3
II. Nghệ thuật điêu khắc Chămpa………………………………… 4
1. Khái niệm……………………………………………………… 4
2. Những hình tượng thường thấy trong điêu khắc Chămpa…… 5
3. Vũ điệu cung đình trong các tác phẩm điêu khắc……………… 7
4. Cảm hứng phồn thực trong điêu khắc Chămpa……………… 8
5. Con trâu trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa………………….10
III. Những họa tiết hoa văn phổ biến trong điêu khắc Chăm………11
1. Họa tiết hoa văn hình cúc………………………………………11
2. Họa tiết hoa văn hình hoa sen………………………………… 11
3. Họa tiết hoa văn hình dây…………………………………… 12
4. Họa tiết hoa văn hình con sâu………………………………… 12
5. Họa tiết hoa văn hình sóng nước hay ngọn lửa……………… 12
6. Họa tiết hoa văn hình dọc………………………………………12
7. Họa tiết hoa văn hình động vật…………………………………12
IV. Nghệ thuật điêu khắc Chăm được thể hiện trong
quần thể kiến trúc………………………………………………………13
17
V. Thánh địa Mỹ Sơn và Viện Cổ Chàm………………………… 14
1. Thánh địa Mỹ Sơn………………………………………………14
a. Giới thiệu sơ lược về Thánh địa Mỹ Sơn……………….14
b. Những tác phẩm điêu khắc ở thánh địa Mỹ Sơn……… 14
2. Viện Cổ Chàm………………………………………………….15
18