www.themegallery.com
Đề tài : Việt Nam thời kỳ nguyên thủy
LỊCH SỬ VIỆT NAM
CỔ TRUNG ĐẠI
www.themegallery.com
NHÓM 1
•
Nguyễn Thị Lan Anh ( Nhóm trưởng)
•
Khuất Thị Vân Anh
•
Phạm Thị Vân Anh
•
Nguyễn Hồng Anh
•
Cù Thị Kim Cúc
•
Trần Văn Chiến
•
Lường Văn Diêm
www.themegallery.com
NỘI DUNG
•
I. DẤU TÍCH NGƯỜI VƯỢN Ở ViỆT NAM
•
II. SỰ CHUYỂN BIẾN TỪ NGƯỜI TỐI CỔ THÀNH NGƯỜI
HIỆN ĐẠI- TỪ NGƯỜI NÚI ĐỌ ĐẾN NGƯỜI SƠN VI
•
III. VĂN HÓA BẮC SƠN
•
IV. VĂN HÓA ĐA BÚT, QUỲNH VĂN
•
V. SỰ TIẾN TRIỂN CỦA VĂN HÓA THỜI ĐẠI KIM KHÍ –
VĂN HÓA TIỀN ĐÔNG SƠN
•
1. VĂN HÓA PHÙNG NGUYÊN
•
2. VĂN HÓA ĐỒNG ĐẬU
•
3. VĂN HÓA GÒ MUN
•
VI. VĂN HÓA ĐÔNG SƠN
www.themegallery.com
I. DẤU TÍCH NGƯỜI VƯỢN Ở VIỆT NAM
Trong buổi đầu
bình minh của nhân
loại, con người còn
mang những đặc điểm
giống với loài vượn,
nên chúng ta thường
gọi là Người Vượn.
Quá trình tiến hóa
www.themegallery.com
•
Người vượn tồn tại cách ngày nay từ khoảng
30 - 40 vạn năm đến 2 triệu năm.
•
Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã tìm thấy dấu
tích của người vượn bao gồm dấu tích về mặt
con người và dấu tích của công cụ lao động.
www.themegallery.com
Về mặt con người
Tại hang Thẩm
Khuyên, Thẩm Hai
(Lạng Sơn), các nhà
khảo cổ học đã tìm
thấy 10 chiếc răng
đã hóa thạch của
người vượn.
Hoá thạch hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai – Tân
Văn – Lạng Sơn. cách nay khoảng 300.000 -
400.000 năm.
Răng người vượn Homo erectus
www.themegallery.com
Hang Thẩm Hai – LạngSơn
( Nguồn: Bảo tàng lịch sử Quốc Gia)
www.themegallery.com
Nguồn:
www.themegallery.com
Tại hang Thẩm Ồm
(Quỳ Châu- Nghệ An) tìm
thấy 5 cái răng hóa thạch
của Người vượn. Những
chiếc răng này vừa có đặc
điểm của người, vừa có đặc
điểm của Người vượn, gần
giống răng của Người vượn
Bắc Kinh, có niên đại cách
ngày nay khoảng 30 vạn
năm.
Khoảng 14 vạn năm trước: Phát
hiện răng người vượn ở hang Thẩm
Ồm (Quỳ Châu, Nghệ An).
www.themegallery.com
•
Bên cạnh đó các nhà khảo cổ học còn tìm thấy
nhiều xương cốt của động vật sống như hổ,
báo, gấu, voi, lợn rừng. Số động vật trên từng
là đối tượng săn bắn của Người vượn, là nguồn
thức ăn quan trọng của họ.
www.themegallery.com
•
Người vượn sống thành từng bầy, mỗi bầy khoảng vài chục người. Họ
kiếm ăn bằng hái lượm, săn bắt. Tổ chức cộng đồng tương đối chặt chẽ,
thông qua săn bắt, phân phối thức ăn. Chưa có sự phân công công việc
rõ ràng. Quan hệ hôn nhân chưa có sự tách biệt.
www.themegallery.com
Về công cụ lao động
•
Các nhà khảo cổ học đã
tìm thấy những công cụ
đá thô sơ đầu tiên của
con người ở Núi Đọ
(Thanh Hóa), núi Quan
Yên, núi Nuông (Thanh
Hóa), Xuân Lộc, An Lộc
gồm: Hạch đá, mảnh
tước, rừu đá.
Rìu đá Núi Đọ (Thanh Hóa)
www.themegallery.com
Rìu tay ở Núi Đọ ( Thanh Hóa)
Nguồn: bảo tàng Lịch sử Quốc Gia
www.themegallery.com
Những dấu tích tuy chưa nhiều nhưng những
dấu tích nói trên đã cho thấy vào thời kì xa
xưa, cách chúng ta vài chục vạn năm, trên đất
Việt Nam đã có người nguyên thủy sinh sống.
Dân tộc Việt Nam có nguồn gốc bản địa và
Việt Nam là một trong những cái nôi của loài
người.
www.themegallery.com
II. SỰ CHUYỂN BIẾN TỪ NGƯỜI TỐI CỔ THÀNH
NGƯỜI HIỆN ĐẠI- TỪ NGƯỜI NÚI ĐỌ ĐẾN NGƯỜI
SƠN VI
Trải qua một quá trình tiến
hóa lâu dài, bằng lao động để
sinh tồn, người tối cổ đã
chuyển thành người hiện đại.
Từ Người hiện đại giai đoạn
sớm (HomoSapiens) đến
Người hiện đại muộn (Homo
Sapiens Sapien)
1. Sự chuyển
biến
Tượng người hiện đại (Homosapien)
Nguồn: bảo tàng Lịch sử Quốc Gia
www.themegallery.com
•
Thứ nhất, giai đoạn người hiện đại sớm nhất:
Đã tìm thấy 4 chiếc răng đã hóa thạch tại hang
Hùm (Yên Bái), hang Thung Lang (Ninh
Bình). Đây là những chiếc răng của người hiện
đại sớm nhất, tương tự răng của người vượn
khôn ngoan, thuộc giai đoạn trung kì đá cũ, có
niên đại 8 – 14 vạn năm.
www.themegallery.com
•
Thứ hai, giai đoạn người hiện đại “chân
chính”: Cuộc khai quật năm 1965 tại hang Kéo
Lèng (Lạng Sơn) đã phát hiện ra 2 răng hàm
trên và một mảnh xương trán của người hiện
đại “chân chính”, có niên đại 2-3 van năm BP.
Có thể họ là chủ nhân của văn hóa hậu kì đá
cũ.
www.themegallery.com
•
Thứ ba, giai đoạn người hiện đại cuối cùng ở
vào cuối thời đá cũ, trên một phạm vi rộng lớn
của nước ta có nhiều bộ lạc sinh sống. Họ cư
trú trong các hang động, mái đá, một số đã
chuyển ra cư trú ngoài trời, bên bờ các con
sông, suối bằng săn bắt và hái lượm. Họ chính
là những người hiện đại cuối cùng (người
vượn đi thẳng) ở Việt Nam
www.themegallery.com
2. Cuộc sống và xã hội của người Sơn Vi
a. Phân bố
Lâm Thao, Tam Nông, Phù Ninh, Cẩm Khê
tỉnh Phú Thọ. Sau đó, các nhà khảo cổ học
nước ta còn phát hiện ngày càng nhiều di tích
văn hóa Sơn Vi ở rải rác nhiều nơi như từ Sơn
La, Lai Châu, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Bắc Giang,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị Đây là địa bàn cư trú của cư dân
Sơn Vi.
www.themegallery.com
b. Công cụ lao động
Công cụ của người Sơn Vi
còn thô sơ. Chủ yếu là những
hòn cuội được ghè đẽo ở rìa cẩn
thận, có nhiều loại hình ổn định,
các ông cụ được ghè một mặt
ghè theo một hướng, ghè trên
một cạnh hòn cuội, và giữ lại
tối đa mặt cuội tự nhiên
Rìu đá Sơn Vi
www.themegallery.com
Văn hóa Sơn Vi thuộc giai đoạn hậu kì đá cũ ở
Việt Nam. Hoạt động kinh tế chủ yếu của người
Sơn Vi vẫn là săn bắt, hái lượm.
Sự xuất hiện của người hiện đại Sơn Vi đánh dấu
sự kết thúc thời kì Người tối cổ (Người vượn) ở
Việt Nam, chuyển sang giai đoạn cao hơn, thời
kì công xã thị tộc, bộ lạc ra đời
www.themegallery.com
III. VĂN HÓA HÒA BÌNH
1. Niên đại :
Văn hóa Hòa Bình được biết đến sớm nhất
dựa vào niên đại C14 của hang Sũng Sàm
ở Việt Nam 11.365 ± 80 năm cách ngày
nay. Di chỉ Văn hóa Hòa Bình có niên đại
C14 muộn nhất là hang Đắng, thuộc rừng
quốc gia Cúc Phương, 7.665 ± 65 năm
cách ngày nay.
www.themegallery.com
Hang Đắng, thuộc rừng quốc gia Cúc Phương
( />www.themegallery.com
2. Phân bố:
•
Tại các tỉnh Hào Bình, Hà Tây, Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Quảng Ninh, Lai Châu, Sơn La, Thái Nguyên,
Hà Nam, Ninh Bình đều phát hiện được các di
tích văn hóa Hòa Bình, nhưng tập trung nhiều
nhất ở Hòa Bình, Thanh Hóa.
•
Người Hòa Bình sống chủ yếu trong các hang
động, mái đá thuộc thung lúng đá vôi, gần
nguồn nước.
www.themegallery.com
3. Đặc trưng của công cụ:
•
Công cụ lao động của người Hòa Bình có nhiều loại hình phong phú, đa
dạng hơn người Sơn Vi, được làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau như đá,
xương, sừng chủ yếu bằng đá cuội