Bộ KHOA HọC Và CÔNG NGHệ
Dự án 14 EE5
Hợp tác Việt Nam - Italia giai đoạn 2004 - 2006
nghiên cứu động thái môi trờng
đầm phá ven bờ miền trung việt nam
làm cơ sở lựa chọn phơng án quản lý
Cơ quan chủ trì:
Viện Tài nguyên và Môi trờng biển
(Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam)
Chuyên đề
tổng quan về chất lợng môi trờng và
tài nguyên sinh vật các đầm phá miền Trung
6527-14
12/9/2007
Hải Phòng, 2006
Bộ KHOA HọC Và CÔNG NGHệ
Dự án 14 EE5
Hợp tác Việt Nam - Italia giai đoạn 2004 - 2006
nghiên cứu động thái môi trờng
đầm phá ven bờ miền trung việt nam
làm cơ sở lựa chọn phơng án quản lý
Cơ quan chủ trì:
Viện Tài nguyên và Môi trờng biển
(Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam)
Chủ nhiệm:
TS. Nguyễn Hữu Cử
Th ký:
CN. Đặng Hoài Nhơn
Chuyên đề
tổng quan về chất lợng môi trờng và
tài nguyên sinh vật các đầm phá miền Trung
Chủ trì thực hiện
CN. Phạm Văn Thơm
CN. Nguyễn Xuân Hòa
Hải Phòng, 2006
tæng quan vÒ chÊt l−îng m«i tr−êng vµ
tµi nguyªn sinh vËt c¸c ®Çm ph¸ miÒn Trung
1
Tổng quan về chất lượng môi trường và tài nguyên sinh vật
của các đầm phá miền Trung
Trong dải ven bờ Việt miền Trung có nhiều vịnh và đầm phá. Đây là một trong những
khu vực có sự phát triển kinh tế và xã hội rất nhanh. Các thủy vực ven bờ này, đặc
biệt là các đầm phá, rất phong phú về tài nguyên sinh vật và đồng thời cũng chịu
nhiều áp lực của các hoạt động của con người cũng như của các hiện tượng tự
nhiên.
Các đầm, phá, vũng, vịnh ở vùng Nam Trung bộ
Việt Nam có địa hình đặc trưng và
điều kiện môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển các nguồn tài nguyên
sinh vật. Những khảo sát trong những năm gần đây cho thấy các đầm ven biển Nam
Trung bộ tuy có diện tích nhỏ nhưng là những nơi có tính đa dạng sinh học cao, nguồn
lợi thủy sản phong phú. Sự đa dạng của các hệ sinh thái như: rừng ngập mặn, thảm
cỏ biển và vùng
đáy mềm đã tạo điều kiện thuận lợi cho nơi cư trú, kiếm ăn, sinh sản
của các loài thủy sản, trong đó có nhiều loài có giá trị cao. Do vậy tính đa dạng loài
trong các đầm ven biển cũng khá cao, đặc biệt là có sự phân bố của nhiều loài chim
nước. Nguồn lợi thủy sản trong các đầm ven biển rất phong phú và là nguồn sống của
một bộ phận đáng kể củ
a cư dân ven đầm. Các đầm ven biển Nam Trung bộ còn là
nơi phát triển mạnh nghề nuôi trồng thủy sản xuất khẩu trong những năm gần đây.
Báo cáo này tổng quan lại chất lượng môi trường và tài nguyên sinh vật của các
đầm phá miền Trung bao gồm các đầm Đề Gi, Thị Nại, Châu Trúc (Bình Định), các
đầm Cù Mông và Ô Loan (Phú Yên), đầm Thủy Triều (Khánh Hòa) và đầm Nại (Ninh
Thuận). Do nguồn tài liệu hạn chế và thiếu đồng bộ (đặc bi
ệt là các tài liệu về chất
lượng môi trường) nên trong báo cáo này chúng tôi chỉ nêu lên một số nét khái quát
về các vấn đề trên.
I. Đầm Đề Gi:
Đầm Đề Gi còn có tên là đầm Nước Ngọt nhưng thực tế là đầm nước lợ, hình thành
từ lâu đời và có nguồn gốc hỗn hợp sông - biển. Đầm nằm trong khoảng tọa độ từ
109
o
07’42”E đến 109
o
10’30” E và 14
o
09’21” N đến 14
o
10’32” N, cách thị trấn Phù
Mỹ hơn 10 km về phía Đông, thuộc huyện Phù Cát và Phù Mỹ, tỉnh Bình Định (hình
1).
Đầm chịu ảnh hưởng của thủy triều hổn hợp thiên về nhật triều, trong một tháng có
từ 18 đến 20 ngày nhật triều. Trong thời kỳ triều kém, mực nước triều lên xuống
không lớn, thường nằm trong khoảng 40-50 cm. Mực nước giữa thời kỳ triều cường
và nướ
c ròng có sự chênh lệch đáng kể.
Nhìn chung, mực nước trung bình trong các tháng mùa đông lớn hơn mùa hè một
phần là do ảnh hưởng của nước lục địa vào cuối thời kỳ mùa mưa lũ, một phần là do
ảnh hưởng của hiện tượng nước dâng do gió mùa Đông Bắc.
2
Hình 1: Đầm Đề Gi
Diện tích của Đầm Đề Gi khoảng 1600 ha, bãi triều rộng khoảng 600 ha. Đầm trãi
dài theo phương Tây Bắc - Đông Nam, chiều dài khoảng 7 km, chiều rộng thay đổi từ
2,5 đến 3 km. Độ sâu trung bình của đầm từ 2- 4 mét. Đầm tương đối khép kín và chỉ
thông với biển bằng một cửa hẹp có chiều rộng khoảng 150 mét, độ sâu cửa đầm
khoảng 7 mét. Đầm Đề Gi chịu ả
nh hưởng mạnh của sông La Tinh. Sông này đổ ra đầm
theo 2 nhánh chính có tên là sông La Tinh và sông An Xuyên. Ngoài ảnh hưởng của 2
nhánh sông chính trên đây, chế độ thủy văn trong đầm còn chịu tác động của các sông
suối nhỏ khác như: Sông Bến Trễ, sông Lạch Mới Tất cả các sông suối trên đều đổ ra
đầm (chứ không phải ra biển) và gần như tập trung tại một điểm phía Đông Bắc khu vực
này nên vào mùa mưa nước trong Đầm Đề Gi thường b
ị ngọt hóa.
Đầm Đề Gi là loại hình đất ngập nước đầm tự nhiên ven biển (J) với tiêu chuẩn
Ramsar: 1a, 2b, 3b, 4b.
A. Chất lượng môi trường
Có rất ít dẫn liệu liên quan đến chất lượng môi trường đầm Đề Gi. Theo Võ Sĩ Tuấn
et al., 2004, đáy đầm chủ yếu là bùn cát và cát bùn; nền đáy cát chỉ gặp ở vài nơi
gần vùng cửa đầm. Phù sa từ các sông khá giàu dinh dưỡng nên có thể dự đoán sự
phong phú về ch
ất dinh dưởng ở những vùng đáy cấu tạo bỡi vật liệu hạt mịn.
Theo Bùi Hồng Long, 2005, Đầm Đề Gi có hệ sinh thái nước lợ, các tính chất thủy lý,
thủy hóa, thủy sinh của đầm Đề Gi rất thích hợp với sự sinh trưởng và phát triển của
các giống loài thủy sản. Cụ thể một số chỉ tiêu môi trường như sau:
3
- Độ trong bình quân 0,5 – 1,5 m, vùng giữa đầm 2 – 2,5 m.
- Nhiệt độ nước của các tháng chênh lệch 5 – 7
0
C. Mùa nóng nnhiệt độ trung bình
của nước 28 – 31
0
C, các tháng VII và VIII nhiệt độ nước 31 – 32
0
C, các tháng I và II
nhiệt độ nước 25 – 27
0
C.
- Nồng độ muối biến đổi theo mùa và theo khu vực. Vùng giữa đầm đến cửa Đề Gi
mùa mưa dao động trong khoảng 15 – 25‰, mùa khô trong khoảng 25 – 32‰. Vùng
giáp cửa sông mùa khô độ mặn 15 – 20‰, mùa mưa 5 – 10‰.
- Độ pH trong toàn vùng dao động trong khoảng 6,2 – 7,8.
- Lượng oxy hòa tan từ 3,52 – 7,09 mg/l, trung bình 5,2 mg/l.
- giá trị BOD dao động trong khoảng 0,5 – 2,7 mg/l.
- Hàm lượng phosphat nằm trong khoảng 0,072 – 0,1 mg/l.
- Hàm lượng ammonia dao động trong khoảng 0,043 – 0,05 mg/l.
- Hàm lượng silic thay đổi trong khoảng 2,05 – 3,97mg/l.
Lượng thuốc bảo vệ thực vật dùng trong nông nghiệp ở vùng quanh đầm hòa tan
trong nước vào đầm không đáng kể. Lượng dầu mở thải ra từ các tàu thuyền, trạm
bơm, máy móc… chưa gây tác hại nghiêm trọng cho môi trường nước trong đầm
.
B. Tính đa dạng sinh học
Đầm Đề Gi tuy có diện tích nhỏ nhưng là nơi có tính đa dạng sinh học cao. Sự đa
dạng hệ sinh thái như: rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và vùng đáy mềm đã tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phong phú của những loài thủy sản, trong đó có nhiều loài thủy
sản có giá trị.
1. Tính đa dạng hệ sinh thái
- Rừ
ng ngập mặn: Trước năm 1975 có khoảng hơn 100 ha rừng ngập mặn phân bố
ven đầm Đề Gi, tập trung nhiều nhất là khu vực đỉnh đầm và dọc theo bờ tây của đầm.
Hiện nay rừng ngập mặn còn lại rất ít, khoảng chừng 20 ha cây ngập mặn mọc phân
tán dọc theo bờ tây và vùng đỉnh đầm. Thành phần loài cây ngập mặn mọc ven đầm
có khoảng 15 loài. Các loài phổ biến nhất trong đầm Đề
Gi là: Rhizophora mucronata
(Đưng), Rhizophora apiculata (Đước đôi), Rhizophora stylosa (Đâng), Avicennia
officinalis (Mắm đen), Avicennia marina (Mắm biển), Avicennia alba (Mắm trắng),
Excoecaria agallocha (Giá), Thespesia populnea (Tra lâm vồ), Aegiceras corniculatum
(Sú) Rừng ngập mặn bị phá hủy do nguyên nhân chủ yếu là lấy đất xây dựng khu
dân cư, làm nông nghiệp, xây dựng ao nuôi trồng thủy sản (Nguyen Xuan Hoa, 2001,
2003, Viện kinh tế và quy hoạch(Bộ Thủy sản) và Sở Thủy sản tỉnh Bình Định, 1995,
Võ Sĩ
Tuấn, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Xuân Hòa, 2004).
- Thảm cỏ biển: Tổng diện tích thảm cỏ biển trong đầm Đề Gi khoảng hơn 100 ha với
5 loài cỏ biển được xác định: Zostera japonica, Halodule uninervis, Halophila ovalis,
Cymodocea serrulata và Thalassia hemprichii. Các loài Zostera japonica và
Halodule uninervis chiếm ưu thế ở phần nửa trên đầm, nơi thường có độ mặn thấp.
Các loài Cymodocea serrulata và Thalassia hemprichii thường phân bố ưu thế ở
vùng hạ đầm vùng g
ần cửa, nơi có độ mặn cao từ 25- 34‰.
Độ phủ của thảm cỏ Zostera japonica dao động từ 76 - 100%, mật độ cây từ 4500 –
6.00 cây/m
2
.
4
Độ phủ của thảm cỏ Halodule uninervis từ 51- 75%, mật độ từ 1.425- 4.700 cây/m
2
.
Độ phủ của thảm cỏ Cymodocea serrulata từ 30- 50%, mật độ dao động từ 280- 360
cây/m
2
.
Độ phủ của thảm cỏ Thalassia hemprichii trong đầm từ 30- 50%, mật độ từ 285- 380
cây/m
2
(Nguyen Xuan Hoa, 2001, 2003, Viện kinh tế và quy hoạch(Bộ Thủy sản) và
Sở Thủy sản tỉnh Bình Định, 1995, Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Xuân
Hòa, 2004).
- Vùng đáy mềm: Vùng đáy mềm có diện tích lớn nhất trong đầm, là nơi phân bố
quan trọng của nhiều loài Thân mềm, Giáp xác.
2. Tính đa dạng loài:
Các tài liệu điều tra từ 1994- 2003 cho thấy:
- Thực vật: Trong Đầm Đề Gi có 185 loài thực vật nổ
i thuộc 5 giống, 25 họ, 5 ngành.
Trong đó, tảo Silic (Bacillariophyta) chiếm 78,07%. Rong và thực vật bậc cao có
khoảng 136 loài, trong đó có khoảng 15 loài cây ngập mặn và 5 loài cỏ biển (IUCN,
2001).
- Động vật: Động vật nổi có 64 loài thuộc 4 ngành, Trong đó, Copepoda chiếm 46
loài. Động vật đáy có 181 loài, thuộc 4 ngành: Chân đốt, Giun, Thân mềm, Xoang
Tràng. Trong đó động vật thân mềm chiếm đến 100 loài. Giáp xác có 14 loài, 11
giống, 4 họ. Trong đó có 3 loài có giá trị kinh tế cao như : Tôm Sú (Penaeus
monodon), Tôm Bạc (Penaeus merguiensis) Tôm Rả
o (Metapenaeus ensis) (Nguyễn
Trọng Nho, 1994, IUCN, 2001).
Cá có 116 loài thuộc 86 giống, 64 họ và 15 bộ. Đáng chú ý là các loài cá Đối (Mulgil
cephalus), cá Dìa (Siganus guttatus), cá Măng (Chanos chanos), cá Hồng (Lutjanus
russelli) (Nguyễn Văn Lục, Nguyễn Tác An, Nguyễn Phi Uy Vũ, Lê Thị Thu Thảo,
Trần Văn Lang, Nguyễn Thị Liên, 2004).
Đáng chú ý là ở đầm Đề Gi có sự phân bố của loài cây ngập mặn Rhizophora stylosa
(Đâng). Dựa theo các tài liệu và báo cáo khoa học thì loài cây này thường chỉ gặp ở
Bắc Trung bộ
và miền Bắc Việt Nam.
Thêm vào đó loài cỏ biển Zostera japonica cũng thấy phân bố phổ biến trong đầm Đề
Gi và đầm Thị Nại. Loài cỏ biển này theo các báo cáo khoa học trước đây thì chỉ thấy
phân bố ở miền Bắc cho đến vịnh Đà Nẳng. Cho đến nay loài cỏ biển Zostera japonica
chưa thấy sự phân bố của chúng ở các vùng biển các tỉnh phía nam Bình Định và các
nước Đông Nam Á.
C. Nguồn lợi sinh vật
Nguồn lợi hải sản các loại đánh bắt được trong đầm Đề Gi vào khoảng 300 - 500
tấn/năm. Trong đó Tôm, Cua, Ghẹ chiếm khoảng 30 - 50 tấn/năm, cá Cơm khoảng 40
- 70 tấn/năm, cá Mai 30 - 40 tấn/năm, cá Măng 40 - 50 tấn/ năm, cá Đối 40 - 60 tấn/
năm, cá Dìa 10- 30 tấn/năm, cá tạp khác khoảng 80 - 150 tấn/năm. Đầm Đề Gi còn là
nơi có nguồn giống cá Măng rất phong phú.
Nguồn lợi Thân mềm (chủ yếu là Hai mảnh vỏ) trong đầm khai thác được khoảng 30 -
40 tấn/năm, đáng chú ý là sự phong phú của Sò huyết và Hàu.
5
Nguồn lợi hải sản trong đầm Đề Gi đang suy giảm do khai thác quá mức, các phương
tiện khai thác hủy diệt vẫn còn lén lút hoạt động (Nguyễn Trọng Nho, 1994, Nguyễn
Văn Lục, Nguyễn Tác An, Nguyễn Phi Uy Vũ, Lê Thị Thu Thảo, Trần Văn Lang,
Nguyễn Thị Liên, 2004).
II. Đầm Thị Nại
Đầm Thị Nại (109
o
08’53”E-109
o
22’15” E và 13
o
35’37”N-13
o
53’39”N) thuộc khu vực
quản lý của thành phố Quy Nhơn, huyện Tuy Phước và huyện Phù Cát tỉnh Bình
Định. Đầm tương đối kín và trãi dài theo phương Bắc - Nam, chiều dài khoảng 12
km, chiều rộng khoảng 4 km, cửa Quy Nhơn thông ra biển có chiều dài 500 mét, lạch
sâu từ 3 đến 9 mét. Mạng lưới sông suối đổ ra đầm khá dày đặc trong đó hai con
sông Kôn và Hà Thanh có vai trò quan trọng nhất (hình 2).
Đầm rộng trên 5000 ha lúc triều lên và khoảng 3200 ha lúc triều xuống. Lạch sâu từ
3 đến 9 mét, vùng bãi triều 1800 - 2000 ha và ngày càng rộ
ng hơn. Đây là đầm nước
lợ chịu ảnh hưởng sâu sắc chế độ bán nhật triều.
Mạng lưới sông suối đổ ra đầm dày đặc nhưng chủ yếu là của hai con sông: Sông
Côn và sông Hà Thanh đổ ra vùng đỉnh đầm và phía Tây của Đầm Thị Nại. Vào mùa
mưa lũ nước vùng đỉnh đầm thường bị ngọt hoá, lượng phù sa rất dồi dào
Đầm Thị Nại là loại hình đất ngập nước
Đầm tự nhiên ven biển (J) với tiêu chuẩn
Ramsar: 1a, 2b, 3b, 4b.
Hình 2: Đầm Thị Nại (Bình Định)
6
A. Chất lượng môi trường:
Các sông ngòi đổ vào đầm không lớn, tổng hàm lượng phù sa thấp. Hai con sông
lớn nhất là sông Kôn và sông Hà Thanh. Độ che phủ của rừng đến nay không còn
nhiều nên hàng năm các sông này gây lũ lụt, sa bồi nghiêm trọng. Ngược lại, mùa
khô nước các sông cạn kiệt, thiếu nước tưới. Chênh lệch giữa lưu lượng lũ và lưu
lượng kiệt đến trên 1.000 lần.
Kết quả của các đợt khảo sát vào tháng 12/2000 và tháng 6/2001 về ch
ất lượng môi
trường thủy sản cho thấy (theo Bùi Hồng Long, 2005):
- Nhiệt độ nước tầng mặt tháng 12 là 23,4 – 24
0
C; tầng đáy 22,5 – 24
0
C; vào tháng
6/2001 ở tầng mặt là 28 – 29,5
0
C và tầng đáy là 26 – 28
0
C. Các tháng chênh lệch
nhau từ 5 – 7
o
C, mùa nóng nhiệt độ dao động từ 28 – 31
oc
, vùng nước sâu từ 27 –
29
o
C.
- Độ mặn vào tháng 12/2000 là 0 – 12,5‰ ở tầng mặt, và 0,5 - 28‰ ở tầng đáy; vào
tháng 6/2001 đạt giá trị 6 - 32‰ ở tầng mặt và 5,7 – 32,8‰ ở tầng đáy. Theo kết quả
theo dõi nhiều năm tại đầm thì độ mặn trung bình toàn đầm là 21,8‰ , dao động từ
4,5‰ tới 32,2‰.
Nhìn chung, độ mặn đều có xu thế giảm dần từ cửa đầm đến đỉnh đầm. Tầng nước
mặt có độ mặn thấp và biên độ dao
động lớn hơn lớp nước gần đáy. Vùng đỉnh đầm,
mùa khô thường có độ mặn từ 5-20‰, mùa mưa chỉ 3-10‰, nhưng trong những
ngày mưa lũ lớn, tầng mặt hầu như ngọt hoàn toàn. Vùng giữa đầm và cửa đầm
thông với biển, mùa khô có độ mặn 25-32‰, còn mùa mưa độ mặn giảm xuống 10-
25‰, những ngày lũ lớn độ mặn có thể xuống dưới 10‰, nhưng chỉ trong thờ
i gian
ngắn, độ mặn lại tăng cao trở lại.
- Độ pH của nước trong đầm Thị Nại dao động 7,2 – 8,2. Các tháng mùa mưa
thường thấp hơn mùa khô là do nước mưa lũ rửa trôi nước từ nội đồng ra đầm. Độ
pH ở tầng nước đáy thường ổn định hơn tầng nước mặt.
- Giá trị độ đục dao động trong khoảng 5- 55 NTU trong tháng mùa mưa (12/2000)
và là 7 – 35 NTU vào mùa khô (6/2001). Khu vực có độ
đục cao kéo dài từ phía đỉnh
đầm xuống đỉnh Cồn Chim và vùng cửa sông Hà Thanh. Nhìn chung, độ đục ở đầm
Thị Nại tương đối thấp và nằm dưới ngưỡng cho phép về chất lượng nước nuôi thủy
sản ven biển.
- Hàm lượng vật lơ lửng (TSS) vào mùa mưa lớn hơn mùa khô, nhất là ở khu vực
đỉnh đầm (Phước Thắng, Phước Hòa) và các cửa sông phía Tây đầm Thị Nại.
- Lượng oxy hòa tan trong nước vào tháng 12/2000 dao độ
ng trong khoảng 6,6 –
7,2mg/l ở tầng mặt và 6,55 – 7mg/l ở tầng đáy. Vào tháng 6/2001, giá trị oxy cũng
biến đổi tương tự như tháng 12/2000. Kết quả theo dõi nhiều năm trước đây cho
thấy lượng oxy hòa tan ở trong các ao nuôi lúc thấp nhất cũng đạt 3,52mg/l. Giá trị
BOD nhìn chung rất thấp, từ 0,5 – 2,7 mg/l.
- Hàm lượng nitơ hữu cơ hòa tan vào mùa khô dao động trong khoảng 417 – 554
µg/l, trung bình 442 µg/l đối với nước tầng mặt; 407 – 485µg/l, trung bình 435 µg/l
đối vớ
i nước tầng đáy. Các giá trị tương ứng vào mùa mưa lần lượt là 430 – 650µg/l,
trung bình 560µg/l và 410 – 530µg/l, trung bình 468 µg/l.
Hàm lượng phốtpho hữu cơ hòa tan vào mùa khô dao động trong khoảng 26 –
66µg/l với giá trị trung bình 38 µg/l đối với nước tầng mặt; 27 - 73µg/l với giá trị trung
7
bình 36µg/l đối với nước tầng đáy. Các giá trị tương ứng vào mùa mưa lần lượt là 36
– 76µg/l, trung bình 65µg/l và 36 - 72µg/l, trung bình 68µg/l.
- Sự phân bố và biến động các chất hữu cơ dạng lơ lửng khá giống với sự phân bố
các vật lơ lửng trong nước.
- Hàm lượng amonia (NH
3,4
-N) trong nước tầng mặt dao động từ 21 – 54 µg/l; trung
bình 19 µg/l; trong nước tầng đáy chúng dao động từ 10 – 120 µg/l; trung bình 23
µg/l. Vào mùa mưa hàm lượng ammonia trong nước tầng mặt dao động trong
khoảng 40 – 70 µg/l; trung bình 52 µg/l; trong nước tầng đáy khoảng dao động là 44
– 80 µg/l; giá trị trung bình 56 µg/l.
- Hàm lượng silic hòa tan trong cả 2 chuyến khảo sát đều cao ở đỉnh đầm và giảm
dần khi ra cửa đầm.
- Mật độ coliform trong nước tầng m
ặt dao động từ 3 đến 13 tế bào/ml; trung bình 7
tế bào/ml vào mùa khô. Vào mùa mưa thông số này dao động trong khoảng 7 – 35
bào/ml; trung bình 9 bào/ml. Nhìn chung, mật độ coliform trong nước thường cao ở
các cửa sông và vào mùa mưa.
Gần đây tỉnh Bình Định có ý định qui hoạch Cồn Chim thành một khu bảo tồn và do
đó một số chuyến khảo sát chất lượng môi trường nước và trầm tích đã được tổ
chức trong vùng nước lân cận cồn này vào tháng 4 năm 2003 (thu 12 mẫu nước
tầ
ng mặt) và tháng 1 năm 2004 (thu 3 mẫu nước và 3 mẫu trầm tích).
Từ kết quả phân tích các mẫu nói trên một đánh giá sơ bộ về chất lượng môi trường
nước và trầm tích đã được đưa ra (Phạm Văn Thơm, 2004).
Môi trường nước:
a. Trong khu vực nghiên cứu hàm lượng ammonia và nitrite chỉ đáng kể vào mùa
mưa, hàm lượng muối nitrate tương đối cao (nhiều giá trị ghi nhận được cao hơn
mức cho phép (100µg/l) nhưng hàm lượng muối phosphate thấp (không có hàm
lượng nào lớn hơn giá trị tới hạn 15µg/l, bảng 2). Do đó tỉ số mol nitrat/phosphat
(14.73 – 53.78, trung bình 38.47 vào tháng 4; 34.05 – 44.20, trung bình 37.53)
thường lớn hơn chỉ số Redfield (17). Như vậy trong vực nước này P đóng vai trò yếu
tố dinh dưởng giới hạn (limiting nutrient) rất rõ ràng,
đặc biệt là trong ao nuôi (tỉ số
mol nitrate/phosphate = 93.26). Điều này cùng với sự phong phú của muối silicate
làm giảm nguy cơ xảy ra bloom của thực vật nổi nhất là bloom của các tảo gây hại
không silic mặc dù hàm lượng muối nitrate thường tương đối cao.
So với kết quả khảo sát đầm Thị Nại vào năm 2000 (số liệu lưu trử của Phòng Thủy
Địa Hóa, Viện Hải Dương Học) thì mức dinh dưởng ở vực nước lân cận Cồn Chim
có vẽ thấp hơn (bảng 1). Tại một vị trí hàm lượng muối dinh dưởng lúc triều thấp
thường cao hơn lúc triều cao; mặt khác, vào mùa mưa hàm lượng của muối nitrate
cao hơn mùa khô gợi ý nguồ
n gốc từ đất liền của các chất dinh dưởng.
b. Hàm lượng các kim loại nặng trong mùa mưa và mùa khô không khác nhau nhiều
(trừ trường hợp của Cu). Trong số các kim loại nặng được phân tích chỉ có Zn là có
hàm lượng cao hơn mức cho phép, tuy nhiên mức độ nhiểm bẩn Zn không nghiêm
trọng.
8
Các hàm lượng kim loại nặng nói trên không khác nhiều so với các vực nước ven bờ
khác của tỉnh Bình Định (bảng 2).
c. Nhiểm bẩn dầu ở mức trung bình. Hàm lượng của hydrocarbon trong 11 mẫu
được phân tích vào tháng 4 năm 2003 dao động trong khoảng 403 đến 687µg/l,
trung bình 496µg/l; giá trị cao nhất được gặp trong ao nuôi.
Bảng 1: So sánh chất lượng môi trường nước ở Cồn Chim
với toàn đầm Thị Nại (COD và muối dinh dưởng)
Khu Thông
COD NO
2
-N NH
3
-N NO
3
-N PO
4
-P SiO
3
-Si
vực số (mg/l) (µg/l) (µg/l) (µg/l) (µg/l) (µg/l)
Cồn Chim Khoảng DĐ 11.80-22.70 0.5-2.8 vết 78-150 4.5-12.0 399-1582
(4-2003) TB 17.55 1.4 117 7.3 784
n 11
11
11 11 11 11
Cồn Chim Khoảng DĐ 12.50-14.00 9-11 10-24 129-160 8.0-9.8 4470-4850
(11-2003) TB 13.33 9.6 15.3 147 8.7 4683
n 3 3 3 3 3 3
Thị Nại Khoảng DĐ 3.90-13.30 8.6-12.8 40-76 158-220 9.5-23.3 3425-5030
(12/2000) TB 6.88 10.5 55 179.8 16.08 4096
n 5 5 5 5 5 5
DĐ: dao động; TB: trung bình
d. Nhiểm bẩn vi sinh tương đối nặng (xem bảng 3). Đây là một vấn đề cần được
quan tâm để đầu tư nâng cao điều kiện vệ sinh công cộng của các khu dân cư ven
sông, ven biển cũng như của các khu nuôi thủy sản.
Bảng 2: So sánh chất lượng môi trường nước ở Cồn Chim
với vùng biển ven bờ Bình Định (kim loại nặng)
Khu Thông Zn Cu Pb Cd
vực số
(µg/l) (µg/l) (µg/l) (µg/l)
Cồn Chim (mùa khô) Khoảng DĐ 12.8-28.4 2.9-5.8 1.2-3.4 0.4-1.3
(4-2003) TB 20.7 4.1 2.3 0.6
n 5
5
5 5
Cồn Chim (mùa mưa) Khoảng DĐ 16.9-21.6 1.4-2.2 1.8-2.4 0.1-0.8
(11-2003) TB 19.3 1.7 2.2 0.3
n 3 3 3 3
Biển ven bờ Khoảng DĐ 9.2-13.9 0.4-1.1 0.3 -1.2 0.01-0.06
Bình Định TB 12.0 0.7 0.8 0.04
(12-2001) n 10 10 10 10
DĐ: dao động; TB: trung bình
9
Bảng 3: Mức độ nhiểm coliform của môi trường nước (tế bào/100ml)
Giá Mùa khô Mùa mưa
trị Coliform Vibrio Coliform Vibrio
Trung bình 21467 1433 220000 2400
Cực tiểu 16800 1000 274000 9600
Cực đại 25900 1800 238333 6967
Môi trường trầm tích:
Môi trường trầm tích không có sự tập trung quá cao của vật chất hữu cơ. Vào mùa
khô mức độ tích lũy của phosphat trong trầm tích thấp hơn mùa mưa (tỉ số mol N/P
trong trầm thay đổi từ 2.67 đến 5.74, trung bình 4.46 vào mùa khô đến 2.76-3.89,
trung bình 3.44 vào mùa mưa. Các tỉ số này lớn hơn một chút so với các vùng biển
ven bờ khác
Mức độ nhiểm kim loại nặng trong trầm tích không cao. Các số liệu phân tích cho
thấy Zn và Pb là hai kim loại n
ặng có hàm lượng cao nhất. Mức độ tích lũy của Pb
trong trầm tích (theo số liệu tháng 4 năm 2003) không cao.
Các kết quả vừa nêu trên cho thấy:
- Ảnh hưởng của sông phù hợp cho việc phục hồi rừng ngập mặn ở Cồn Chim;
- Chất lượng nước trong ao nuôi hiện có tương đối tốt (trừ hiện tượng nhiểm vi sinh
vật nhóm vibrio), khu vực nuôi dự kiến có sự cấp nước ngọt tốt;
- Nguồn cung cấp thức ăn cho vật nuôi (thân mềm) tại 2 khu vực phía tây và nam có
thể kém hơn khu vực phía đông; tuy nhiên tình hình có thể thay đổi theo mức phục
hồi rừng ngập mặn và qui hoạch cụ thể cũng như hoạt động của khu thực nghiệm;
chất lượng nguồn nước cấp từ hai bờ đông và tây của khu thực nghiệm và phục hồi
nguồn lợi có thể khác nhau (về các yế
u tố dinh dưởng, hydrocarbon và có thể cả vi
sinh vật).
Tóm lại, có thể nói là tình trạng nhiểm bẩn của vực nước lân cận cồn Chim nói riêng
và đầm Thị Nai nói chung chưa cao lắm (trừ trường hợp nhiểm bẩn vi sinh). Mức
dinh dưởng, tình trạng nhiểm bẩn dầu, kim loại nặng gợi ý là hiện nay chỉ có hiện
tượng nhiểm bẩn vi sinh là có thể gây ra những thiệt hại cho nghành nuôi trồng.
Các thông số của môi tr
ường nước cho thấy khả năng phục hồi các rừng ngập mặn
khá cao và điều này có thể làm tăng nguồn thức ăn cho các hai mãnh vỏ được nuôi.
Mặt khác, một số đặc điểm của môi trường trầm tích như sự tích lủy không lớn lắm
của Pb và P gợi ý tính chất tương đối động của nền đáy và do đó nguy cơ của một
nguồn chất gây ô nhi
ểm từ đó không cao.
Hiện nay, đầm Thị Nại chịu nhiều áp lực của các hoạt động kinh tế xã hội (Tống
Phước Hoàng Sơn, 2005):
10
* Ô nhiễm do sinh hoạt: quá trình đô thị hóa diển ra rất nhanh, các hoạt động thương
mại, dịch vụ phát triển và quá trình di cư từ các vùng nông thôn về thành thị càng
lớn. Trong khi đó, cơ sở hạ tầng trong các đô thị còn yếu kém, lạc hậu, điều kiện vệ
sinh còn rất hạn chế, dẫn đến việc các hộ dân xả chất thải trực tiếp xuống biển, đầm,
gây ô nhi
ễm môi trường. Vấn đề ô nhiễm hữu cơ được coi là đặc trưng của nguồn
nước thải sinh hoạt. Tại hồ Bàu Sen nơi tập trung chủ yếu các cống thải của thành
phố Quy Nhơn trước khi đổ ra đầm Thị Nại, giá trị BOD
5
lên đến 280 mgO
2
/l cao hơn
tiêu chuẩn cho phép tới 6 lần. Ước tính, hàng năm đầm Thị Nại phải gánh nhận
khoảng 4950 tấn BOD, 495 tấn N và 74 tấn P. Đây là một trong những nguồn chính
gây ô nhiễm vùng ven bờ, phì hóa vực nước. Đặc biệt đầm Thị Nại là một thủy vực
trao đổi nước yếu, sức tải thấp nên khả năng tự làm sạch không cao tác động ô
nhiễm do sinh hoạt sẽ càng lớn hơn. Theo kế
hoạch phát triển kinh tế của Tỉnh, khu
công nghiệp và đô thị mới Nhơn Hội sẽ hình thành và đi vào hoạt động và tạo một áp
lực rất lớn lên môi trường không những ở khu vực phía Đông (như hiện nay) mà cả
ở phía Tây (trong tương lai gần).
* Ô nhiễm do công nghiệp : Đa số các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đều
tập trung tại TP. Quy Nhơn. Chất thải và nước th
ải từ các cơ sở này (chưa được xử
lý triệt để, thậm trí không qua xử lý) là nguồn gây ô nhiễm cho môi trường nước mặt,
nước ngầm và cả môi trường đất. Ngành chế biến thủy sản là một trong những
ngành mang lại hiệu quả kinh tế cao cho tỉnh, nhưng cũng là nơi có nguồn nước thải
rất lớn, trên 500 m
3
/ngày. Các cơ sở chế biến thủy hải sản trong tỉnh đều đã có hệ
thống bể thu gom và xử lý nước thải, tuy nhiên hiệu quả chưa thật cao. Theo thống
kê của tỉnh, mỗi ngày có khoảng 100.000m
3
nước thải từ các cơ sở
công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp như chế biến đá, thực phẩm, giấy thải và đổ ra đầm ra Thị Nại.
* Ô nhiễm dư lượng hóa chất BVTV, phân bón hóa học: Theo thống kê, tổng lượng
thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở Bình Định trong năm 2001 là 196 tấn thuốc
bột và 242 tấn thuốc nước, ngoài ra, còn hàng chục nghìn tấn phân bón cũng được
sử dụng hàng nă
m. Đặc biệt, việc lưu hành một số loại hóa chất thuộc diện cấm sử
dụng vẫn còn chưa được ngăn chặn triệt để.
Cũng theo Tống Phước Hoàng Sơn, 2005, đầm Thị Nại là một vịnh kín, khả năng
trao đổi nước và tự làm sạch môi trường kém, đồng thời đây cũng là một khu vực
tồn tại nhiều hệ sinh thái ngập nướ
c điển hình rất dể bị tổn thương như: rừng ngập
mặn, san hô, cỏ biển, các bãi chim đậu, các bãi cá, tôm giống… Dưới tác động của
các hoạt động kinh tế ven bờ như công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, nuôi trồng thủy
sản … khả năng tổn thương và nhạy cảm môi trường ở các khu vực này rất cao. Do
đó, cần có các biện pháp bảo vệ, phục hồi và sử dụng hợ
p lý các nguồn tài nguyên
trên.
Sử dụng phương pháp liệt kê (chesk list), cho điểm đánh giá độ nhạy cảm cũng như
sử dụng các phép phân tích tổng hợp, chồng lớp thông tin và đánh giá trọng số
thông qua phương pháp “Đánh giá đa chỉ tiêu – MCE: Multiple Criteria Evaluation”,
các khu vực có khả năng bị tổn thương và độ nhạy cảm môi trường cao đã được
nhận diện, đã xác định được các khu vực ưu tiên cần bảo v
ệ khi có sự cố môi
trường xảy ra. Bản đồ tổn thương và nhạy cảm vùng ven bờ đầm Thị Nại (hình 3)
còn là cơ sở khoa học cho phép sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên và
nguồn lợi đới ven bờ đặc biệt trong điều kiện các hoạt động phát triển kinh tế ở khu
11
vực ngày càng phát triển (như sự hình thành và phát triển khu kinh tế mở Nhơn Hội)
và tai biến môi trường thường xảy ra ở bờ tây của đầm.
Hình : Sơ đồ phân vùng khả năng tổn thương và nhạy cảm môi trường đới ven bờ đầm
Thị Nại (Tống Phước Hoàng Sơn, 2005)
12
B. Tính đa dạng sinh học
Đầm Thị Nại là nơi có tính đa dạng sinh học cao. Các hệ sinh thái như rừng
ngập mặn, thảm cỏ biển và vùng đáy mềm đã tạo điều kiện thuận lợi cho nơi cư
trú, kiếm ăn, sinh sản của các loài thủy sản, trong đó có nhiều loài thủy sản có
giá trị. Nguồn lợi thủy sản trong đầm khá phong phú được đánh bắt quanh năm
và là sinh kế quan trọng củ
a bộ phận cư dân sống ven đầm.
1. Tính đa dạng hệ sinh thái
- Rừng ngập mặn: Trước năm 1975 có khoảng 1.000 ha rừng ngập mặn phân bố ven
đầm. Do bị chặt phá lấy đất xây dựng khu dân cư, làm nông nghiệp, đường xá, và
nhất là xây dựng các ao đầm nuôi trồng thủy sản nên diện tích rừng ngập mặn
trong đầm đã giảm nhanh, hiện nay chỉ còn khoảng 50 ha cây ngập mặn phân bố rãi
rác ở dọc theo bờ sông, lạch và ven bờ ao đìa nuôi Tôm
ở vùng đỉnh đầm, vùng Cồn
Chim và vùng phía tây đầm Thị Nại. Gần đây một số nơi trong đầm đang tiến hành
trồng lại (Nguyen Xuan Hoa, 2001, 2003; Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Văn Long, Nguyễn
Xuân Hòa, 2004).
- Thảm cỏ biển: Tổng diện tích thảm cỏ biển trong đầm Thị Nại khoảng 200 ha. Cỏ
biển thường phân bố ở vùng nước nông ven bờ đầm, trong các ao đìa và đặc biệt
nhiều nhất là trên các c
ồn nổi trong đầm. Các loài Zostera japonica và Halodule
uninervis chiếm ưu thế nhất trong đầm. Độ phủ của thảm cỏ Zostera japonica dao
động từ 50- 100% , mật độ cây từ 3.000 – 5.500 cây/m
2
. Độ phủ của thảm cỏ
Halodule uninervis từ 20- 60%, mật độ từ 350- 1.500 cây/m
2
(Nguyen Xuan Hoa,
2001, 2003; Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Xuân Hòa, 2004).
- Vùng đáy mềm: Vùng đáy mềm có diện tích lớn nhất trong đầm. Tương tự như các
thảm cỏ biển, vùng đáy mềm là nơi phân bố rất phong phú các loài thân mềm, giáp
xác
2. Tính đa dạng loài:
- Thực vật:
Thành phần loài cây ngập mặn ở đầm Thị Nại khá phong phú với khoảng 25 loài cây
ngập mặn đã được xác định. Các loài cây ngập mặ
n: Rhizophora mucronata (Đưng),
Rhizophora apiculata (Đước), Rhizophora stylosa (Đâng), Avicennia officinalis (Mắm
đen), Avicennia alba (Mắm trắng), Excoecaria agallocha (Giá) rất phổ biến và thường
chiếm ưu thế trong vùng rừng ngập mặn. Các loài Avicennia marina (Mắm biển), A.
lanata (Mắm quăn), Nypa fruticans (Dừa nước), Bruguiera gymnorhiza (Vẹt dù),
Lumnitzera racemosa (Cóc vàng), Thespesia populnea (Tra biển) cũng thường gặp
(Nguyen Xuan Hoa, 2003; Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Xuân Hòa, 2004).
.
C
ỏ biển trong đầm Thị Nại gồm 5 loài: Zostera japonica, Halodule uninervis, Halophila
beccarii, Halophila ovalis và Thalassia hemprichii. Loài Zostera japonica chiếm ưu
thế nhất và làm thành những thảm cỏ có diện tích lớn.
Đã giám định 185 loài thực vật nổi, trong đó tảo khuê có 156 loài chiếm 83,8%. Các
chi Tảo thường gặp nhất là Chaetoceros 29 loài, Rhizosolenia 23 loài, Bacteriastrum
13
8 loài (Nguyen Xuan Hoa, 2003; Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Xuân Hòa,
2004).
Rong biển có khoảng 128 loài, trong đó rong đỏ chiếm 50 loài, rong nâu: 34 loài, rong
lục: 31 loài, rong lam: 13 loài. Các chi rong thường gặp có sinh lượng lớn là:
Gracillaria, Hypnea, Gelidium, Padina, Enteromorpha (Nguyễn Trọng Nho, 1994).
- Động vật:
Động vật nổi có 58 loài, trong đó Copepoda ưu thế nhất, 46 loài chiếm 79,3%. Các
nhóm Cladocera, Amphipoda, Rotatoria bắt gặp ít.
Động vật đáy có 191 loài, gồm động vật thân mềm: 100 loài, động vật chân khớp: 71
loài, giun: 10 loài và động vật ruộ
t khoang: 11 loài.
Đã giám định được 116 loài Cá thuộc 15 bộ, trong đó bộ cá Vượt (Perciformes) có số
loài nhiều nhất: 64 loài, tiếp đến là bộ cá Trích (Clupcfiformes): 11 loài, cá Đối: 8 loài,
cá Chép: 7 loài, cá Bơn, cá Nóc: 5 loài (Nguyễn Trọng Nho, 1994).
Đã xác định có 33 loài Chim sống trong vùng đầm Thị Nại.
Ở đầm Thị Nại có sự phân bố của loài cây ngập mặn Rhizophora stylosa (cây Đâng)
tuy có số lượng cá thể không nhiều, nhưng dự a theo các báo cáo khoa học thì loài
này chỉ thường gặ
p phân bố ở miền Bắc Trung bộ và miền Bắc Việt Nam mà chưa
gặp sự phân bố của chúng ở các tỉnh miền Nam Trung bộ và miền Nam Việt Nam.
Thêm vào đó kết quả điều tra cỏ biển đã cho thấy loài cỏ biển Zostera japonica (cỏ
Lươn) phân bố rất phổ biến và chiếm ưu thế trong đầm Thị Nại. Loài cỏ biển Zostera
japoniaca cũng chỉ
thấy phân bố từ vịnh Đà Nẳng trở ra mà không thấy phân bố ở các
tỉnh ven biển phía nam Bình Định, cũng như ở các quốc gia Đông Nam Á. Độ phủ
của thảm cỏ biển Zostera japonica trong đầm Thị Nại từ 31- 75%, mật độ từ 2.040 -
5.400 cây/m
2
, sinh lượng từ 70- 190 g.khô/m
2
.
Hai loài thực vật này phân bố nhiều nhất ở khu vực Cồn Chim trong đầm Thị Nại.
C. Nguồn lợi:
Rong Câu (Gracilaria spp.) phát triển nhiều trong các ao, đìa nuôi thủy sản, trước đây
là đối tượng nuôi trồng nhưng hiện nay do giá thu mua thấp nên ít được khai thác.
Cá là đối tương khai thác phổ biến trong các đầm Thị Nại, sản lượng khai thác hàng
năm khoảng 400- 500 tấn. Sản lượng khai thác Tôm trong đầm từ 200- 250 tấn/nă
m.
Động vật thân mềm có giá trị kinh tế như Phi (Sanguinolaria minor), Ngao dầu
(Meretrix meretrix), Sút (Anomalocardia spp.), khá phong phú được khai thác quanh
năm (Nguyễn Trọng Nho, 1994). Chỉ riêng khu vực Cồn Chim (đầm Thị Nại) sản
lượng Cá khai thác hằng năm vào khỏang 36 tấn. Những loài Cá có giá trị kinh tế
cao, sản lượng lớn là: cá Đối (10 tấn/năm), Cá Bống (7 tấn/năm), Cá Liệt (4 tấn/năm),
cá Móm (3 tấn/năm), cá Giò (3 tấn/năm), Cá Chua (1 tấn/năm), Cá Mòi (1 tấn/n
ăm).
Ngoài ra ở Cồn Chim còn khai thác được Cá Mú, cá Chẽm, cá Hồng nhưng sản
lượng ít. Nguồn lợi Giáp Xác thường tập trung vào những lòai có kích thứơc lớn như
14
Tôm với 3 loài chủ yếu là tôm sú, tôm bạcthẻ và tôm rảo đất; Cua chủ yếu thuộc 2
loài cua xanh và cua bùn; Ghẹ hoa và ghẹ cát.
Tổng sản lượng khai thác hàng năm riêng ở ở khu vực Cồn Chim vào khoảng 75 tấn.
Trong đó Tôm các lọai (15 tấn/năm), Cua (40 tấn/năm), Ghẹ (18 tấn/năm). Sản lượng
các loài Thân Mềm khai thác hàng năm ở vùng Cồn Chim cũng đóng vai trò quan
trọng. Đáng chú ý là các loài Hầu (Crasoostrea spp), Ngao (Meretrix meretrix, M.
lusoria), Riêng ở Cồ
n Chim và vùng nước lân cận cho sản lượng khai thác hàng
trăm tấn/năm. Một số đối tượng khai thác chính như Sút (120 tấn/năm), Phểnh (25
tấn/năm), Don (450 tấn/năm.
Đầm Thị Nại còn là nơi tập trung nguồn giống thủy sản quan trọng của các loài Giáp
xác và Thân Mềm. Kết quả nghiên cứu ở Cồn Chim (đầm Thị Nại) cho thấy nguồn
giống Giáp xác trung bình là 440 cá thể/m
3
. Thành phần nguồn giống ở đây chủ yếu
là ấu trùng Cua (Zoea và Megalops) với mật độ trung bình đạt 285 cá thể/100m
3
chiếm 64,83% tổng số nguồn giống. Nguồn giống Thân mềm cũng khá cao với mật
độ trung bình vào mùa khô đạt 3.809 cá thể/m
3
với thành phần chủ yếu thuộc về
nhóm 2 mảnh vỏ (Bivalvia).
Do khai thác quá mức nguồn lợi thủy sản trong đầm đã và đang giảm sút khá nghiêm
trọng và ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân.
III. Đầm Châu Trúc:
Đầm Châu Trúc hay còn gọi là đầm Trà Ổ (109
0
06’- 109
0
08’ E và 14
0
17’- 14
0
21’N) có
diện tích mặt nước lớn nhất vào mùa mưa lũ là 1200 ha (trước khi bị thu hẹp diện
tích đầm lên đến 2000 ha) và diện tích vào mùa cạn là 800 ha. Đầm thuộc địa phận
của 3 xã Mỹ Thắng, Mỹ Đức và Mỹ Lợi, huyện Phù Mỹ (hình 4). Đây là một nơi
chuyển tiếp giữa hệ sinh thái trên cạn và biển, cùng tồn tại các hệ sinh thái nước
ngọt, nước lợ, nước mặn, có năng suấ
t sinh học cao. Độ sâu của đầm thay đổi theo
chế độ mùa. Mùa khô độ sâu trung bình khoảng 1.35 m và mùa mưa khoảng 1.50 m.
Đầm Châu Trúc thông ra biển qua cửa Hà Ra. Trước khi đổ ra biển nước đầm phải di
chuyển trên một lòng dẫn hẹp và uốn khúc gọi là sông Châu Trúc với chiều dài
khoảng 5 km. Cửa Hà Ra chỉ mở tạm thời 2- 3 tháng trong mùa lũ và bị lấp kín trong
các tháng mùa khô. Do vậy, đầm hoạt động như một hồ chứa, điều tiết n
ước cho toàn
lưu vực của đầm. Đầm Châu Trúc là loại hình đất ngập nước Đầm tự nhiên ven biển
(J) với tiêu chuẩn Ramsar: 1a, 2b, 3b, 4b.
Đầm Châu Trúc có vai trò hết sức quan trọng trong việc cân bằng nước trong vùng,
là nguồn cấp nước cho sản xuất nông nghiệp địa phương - nhất là trong những
tháng hè. Vai trò nổi bật của đầm là nguồn lợi thuỷ sản đảm bảo thực phẩm cho
nhân dân sống quanh đầm.
A. Chất l
ượng môi trường
Hiện có rất ít các nghiên cứu về chất lượng môi trường được triển khai trong khu vực
này. Các kết quả khảo sát vào tháng 2 và tháng 8 năm 1996 (Đặng Trung Thuận,
Nguyễn Cao Huấn, Trương Quang Hải, Vũ Trung Tạng, 2000) có lẽ là những dẫn liệu
duy nhất liên quan đến vực nước này.
Các kết quả này cho thấy:
15
- nước đầm ngọt ở phần thân đầm chính nằm ở phía Nam, chuyển tiếp từ từ sang
nước lợ từ đoạn phía Bắc đầm cho tới đập ngăn mặn, từ đập ngăn mặn ra cửa Hà
Ra độ muối tăng lên. Nhìn chung, trong phần chính của đầm nước hầu như ngọt
quanh năm;
- độ đục của đầm phụ thuộc vào độ xáo trộn do
ảnh hưởng của gió và dòng chảy và
có giá trị khá cao (khoảng 100 NTU).
- sự thay đổi pH của nước trong đầm khá đặc biệt và các giá trị pH được công bố
khá cao, nhiều giá trị cao hơn pH của nước biển; đây là một vấn đề cần được xem
xét thêm.
- nhiệt độ nước vào mùa mưa dao động từ 22.0-25.4
o
C, trung bình 23.0
o
C; các giá trị
cao hơn được gặp vào mùa khô: 27.3-31.2
o
C, trung bình 28.5
o
C;
- hàm lượng oxy hòa tan rất cao vào mùa mưa, khoảng dao động 6.2-12.7 mg/l,
trung bình 10 mg/l; các giá trị ghi nhận được trong sông Châu Trúc thấp hơn một
chút. Vào mùa khô hàm lượng oxi hòa tan giảm rõ rệt: 1.0-6.6 mg/l, trung bình 3.4
mg/l
- các giá trị được công bố liên quan đến các chất dinh dưởng cũng cần được xem
xét lại, thí dụ như các giá trị trung bình 1.7 mg/l của ammonia, 2.6 mg/l của N tổng,
1.43 mg/l của P tổng số và 0.96 mg/l của P hữu cơ. Chúng đều là những giá trị cao
dị thường đối với các vực nước ven bờ mi
ền Trung.
- dư lượng các loại thuốc trừ sâu HCL- s, HCL- b, DDA, DDT ở mức từ 0.0011 đến
0.1265 ppb.
Đáy đầm được phủ bởi các trầm tích hạt mịn và một lớp mùn bã hữu cơ dày do các
loài rong chết phân hủy. Không có các dẫn liệu về thành phần hóa học của trầm tích
đáy.
Hình 4: Đầm Châu Trúc (Trà Ổ)
16
B. Đa dạng sinh học
1. Tính đa dạng sinh học
- Thực vật:
Đã xác định được 73 loài thực vật nổi thuộc 4 ngành: Khuẩn lam
(Cyanobacteriophyta), Tảo Mắt (Euglenophyta), Tảo Lục (Chlorophyta) và Tảo Silic
(Bacillariophyta). Tảo Silic phong phú nhất chiếm 41% tổng số loài, tiếp theo là Tảo
Lục, Khuẩn Lam và Tảo Mắt.
Bước đầu xác định được 31 loài thực vật kích thước lớn sống trong đầm bao gồm
Rong đa bào ( Enteromorpa, Chara), các loài thuộc dương xỉ (chua me, bèo ong, bèo
tấm…), th
ực vật một lá mầm (nghể, súng) và 2 lá mầm (rong nhám, cỏ hẹ, lục bình,
sậy, cói…). Các loài rong lá hẹ, rong lá tre, rong đuôi chồn chiếm ưu thế, phát triển
dày đặc, phủ kín hết diện tích đầm với sinh khối 5- 8 kg/m
2
(Đặng Trung Thuận,
Nguyễn Cao Huấn, Trương Quang Hải, Vũ Trung Tạng, 2000, Vũ Trung Tạng, 1999).
- Động vật:
Bước đầu đã ghi nhận được 33 loài Động vật nổi và 19 loài Động vật đáy sống trong
đầm. Tổng số loài Cá trong đầm là 67 loài thuộc 28 Họ và 12 Bộ Cá. Trong thành phần
các loài Cá, Bộ Perciformes có số loài đông nhất, thứ 2 là Bộ Cypriniformes (1). Hiện
tại số loài Cá trong Đầm còn 38 loài thuộc 20 Họ của 10 Bộ với sự ưu thế của Bộ Cá
Chép (39,5% tổng số loài) và mang tính chất điển hình của khu hệ Cá nước ngọ
t (Vũ
Trung Tạng, 1999).
Đặc biệt, đầm Trà ổ là nơi sống của 3 trong 4 loài Cá Chình có ở nước ta.
C. Nguồn lợi
Nguồn lợi thực vật trong Đầm Châu Trúc chủ yếu là rong lá và rong hẹ với khối
lượng vào khoảng 25.000 - 40.000 tấn tươi có thể khai thác dùng cho chăn nuôi heo,
nuôi thả cá Trắm cỏ trong đầm, làm phân xanh cho đồng ruộng. Nguồn lợi động vật
trong đầm được khai thác tự nhiên tập trung vào một số nhóm loài: Tôm, Cua, các
loài Cá và một số loài Thân mềm Chân bụng (Gastropoda) như ốc Bươu.
Tôm: Chủ yếu là tôm đồng (Macrobranchium nipponensis). Loài này có kích thước
nhỏ khoảng 500- 700 con/kg. Căn cứ vào sản lượng khai thác trong năm có thể ước
tính sản lượng Tôm trong đầm khoảng 1000- 1200 tấn, mức khai thác hiện tại vào
khoảng 30% tôm trong đầm.
Cá: Là đối tượng khai thác chính của cư dân trong vùng. Cá khai thác được phổ biến
là cá Lúi, cá Ngựa, cá Bống, cá Diếc, cá Chình, Lươn Một số cá khác là cá Chép,
cá Chuối có sản lượng không cao. Phần lớn cá đánh được là những loại cá nhỏ,
kích thước khai thác thường không vượt quá 20 cm. Trữ lượng chung của cá trong
đầm ước tính vào khoảng 780- 1100 tấn, mức khai thác khoảng 50%.
Ngoài Tôm, Cá trong đầm còn có Cua, Ốc, Rạm được cư dân trong vùng khai thác
thường xuyên, bổ sung cho bữa ăn hàng ngày.
Đầm Trà Ổ là nơ
i sống của 3 trong 4 loài Cá Chình có ở nước ta: cá chình hoa
(Anguilla marmorata), Chình nhọn (A. borneensis), cá Chình mun (A. bicolor pacifica).
Cá Chình là nguồn lợi lớn cho ngư dân trong vùng do có giá trị kinh tế cao, nhất là
17
Chình Mun như một đặc sản, ít vùng trong nước có được. Nguồn lợi Cá Chình đang bị
giảm sút nghiêm trọng do bị khai thác quá mức, việc xây dựng đập ngăn mặn Hòa Tân
đã gây ảnh hưởng mạnh đến đường di cư của cá Chình từ cả 2 phía sông- biển và
biển – sông (Đặng Trung Thuận, Nguyễn Cao Huấn, Trương Quang Hải, Vũ Trung
Tạng, 2000, Vũ Trung Tạng, 1999).
IV. Đầm Cù Mông
Đầm Cù Mông nằm ở phía bắc Huy
ện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, trong khoảng tọa độ
13
0
31’- 13
0
34’ vĩ độ bắc, 109
0
16’- 109
0
18’ kinh độ đông. Đầm có diện tích khoảng
2.655 ha, chạy dọc theo ven biển từ bắc xuống nam, kéo dài trên 17 km và thông với
biển thông qua một cửa hẹp (hình 5). Đáy đầm Cù Mông tương đối bằng phẳng, khu
vực đỉnh và cửa đầm có độ dốc thoai thoải từ bờ ra tạo thế lòng chảo. Đáy đầm Cù
Mông được phủ bởi cát, cát bùn và bùn cát, trong đó bùn cát là chất đáy chủ yếu. Độ
sâu trung bình của đầm khoả
ng 2m, sâu nhất là khu vực cửa đầm thông với biển đạt
trên 5m. Đây là đầm ven biển bị cồn cát ngăn lấn ở phía đông, vẫn chịu ảnh hưởng
của thủy triều. Phần lớn diện tích đầm chịu ảnh hưởng của nội đồng, đất nước lợ
nhiều hơn nước mặn. Đầm có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nuôi trồng và
đánh bắt hả
i sản, nhất là nuôi tôm xuất khẩu.
Đầm Cù Mông là loại hình đất ngập nước Đầm tự nhiên ven biển (J) với tiêu chuẩn
Ramsar: 1a, 2b, 3b, 4b.
Hình 5: Đầm Cù Mông và các vị trí trạm thu mẫu
18
A. Chất lượng môi trường:
Trong 2 chuyến khảo sát tháng 10 năm 1999 (mùa mưa) và tháng 5 năm 2000 (mùa
mưa) mẫu nước đã được thu tại 9-10 trạm mặt rộng trong đầm Cù Mông (vị trí trạm
thu mẫu được trình bày trong hình 5).
Kết quả phân tích các mẫu cho thấy chất lượng nước ở 2 khu vực này có thể tóm tắt
như sau:
- Giá trị COD cao hơn mức cho phép một ít;
- Hàm lượng ammonia khá cao, nhất là ở phần trên của đầm;
- Hàm lượng nitrate và phosphate thường thấp hơn mức cho phép. Điểm đáng lưu ý
trong chế độ dinh dưỡng của 2 vực nước này là không có yếu tố nào đóng vai trò
chất dinh dưỡng giới hạn rõ rệt. Tỉ số phân tử N/Si trong đầm Cù Mông luôn luôn
nhỏ hơn 1.
- Fe và Zn có hàm lượng cao hơn mức cho phép, tuy nhiên mức độ nhiểm bẩn các
kim loại này không nghiêm trọng;
- Hàm lượng của Mn và Cu rất thấp so với mức cho phép,
Trị giá thố
ng kê của các thông số chất lượng nước tại các khu vực nói trên được
trình bày trong bảng 1.
Tóm lại, có thể nói là hiện trạng môi trường của Đầm Cù Mông còn khá tốt. Chỉ có
hiện tượng nhiểm bẩn nhẹ chất hữu cơ và Zn, hàm lượng ammonia cũng thường đạt
giá trị cao.
Ngoài ra, kết quả phân tích 2 mẫu nước cho thấy mức độ nhiểm bẩn hydrocarbon
không cao.
Các đặc điểm dinh dưỡng của môi trường nướ
c (hàm lượng nitrate và phosphate
thấp hơn mức cho phép, tỉ số N/Si < 1) cho thấy khó có khả năng xảy ra các tai biến
môi trường liên quan đến tảo silic cũng như tảo gây hại. Đây là một tiền đề rất thuận
lợi cho việc qui hoạch và khai thác bền vững hai vực nước này.
Bảng 1: Các thông số chất lượng nước đầm Cù Mông
Mùa mưa
Yếu tố
Tầng
Giá
trị
pH COD NH
3
-N
NO
2
-N
NO
3
-N
PO
4
-P
SiO
3
-Si
Zn Cu Fe Mn
Tầng Mặt TB
7.93 13.28 38 4.4 87 10.6 323 19.7 3.0 104 6.7
CĐ
7.75 8.60 15 2.3 67 7.0 188 11.7 2.1 53 1.0
CT
8.05 19.70 85 6.5 113 14.5 821 28.5 3.7 212 15.8
n
10 10 9 9 10 10 10 10 10 10 10
Tầng Đáy TB
8.01 12.27 30 4.3 74 9.2 320 21.8 3.5 232 9.4
CĐ
7.95 8.50 25 3.7 70 6.5 288 17.9 3.4 160 4.1
CT
8.05 19.70 35 4.9 81 13.5 338 27.3 3.6 315 20.0
n
3 3 2 3 3 3 3 3 3 3 3
19
Toàn Cột TB
7.95 13.05 36 4.39 84 10.3 322 20.2 3.1 134 7.3
Nước CĐ
7.75 8.50 15 2.30 67 6.5 188 11.7 2.1 53 1.0
CT
8.05 19.70 85 6.50 113 14.5 821 28.5 3.7 315 20.0
n
13 13 11 12 13 13 13 13 13 13 13
Mùa khô
Yếu tố
Tầng
Giá
trị
pH COD NH
3
-N
NO
2
-N
NO
3
-N
PO
4
-P
SiO
3
-Si
Zn Cu Fe Mn
Tầng Mặt TB 8.00 9.22 30 7.0 68 10.2 1235 16.6 1.6 141 7.7
CĐ 8.02 12.75 71 8.9 135 25.0 2250 27.7 2.4 255 49.8
CT 7.96 6.25 3 4.9 42 6.5 675 8.2 1.0 74 1.6
n 9 9 9 9 9 9 9 9 9 9 9
Tầng Đáy TB 8.01 7.46 31 4.2 51 7.5 428 16.1 1.4 121 2.4
CĐ 8.03 10.75 44 8.3 59 11.0 626 18.8 2.3 170 4.4
CT 7.98 6.25 14 0.0 43 6.5 104 12.1 1.0 98 1.3
n 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6
Toàn Cột TB 8.00 8.52 30 5.9 61 9.1 912 16.4 1.5 133 5.6
Nước CĐ 8.03 12.75 71 8.9 135 25.0 2250 27.7 2.4 255 49.8
CT 7.96 6.25 3 0.0 42 6.5 104 8.2 1.0 74 1.3
n 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15
Biến động hàm lượng của một số yếu tố (tầng mặt) theo mặt cắt từ đỉnh đến cửa
đầm (xem hình 6) cho thấy ảnh hưởng của sông thể hiện khá rõ.
Hình 6: Biến động của các yếu tố khảo sát trong đầm Cù Mông
(tầng mặt)
Mùa mưa (tháng 10-1999)
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
12345678910
Trạm
COD-ammonia-Zn-
phosphat
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
silicat-Fe-nitrat
COD (mg/l) NH3-N (mg/l) Zn (mg/l) PO4-P (mg/l)
SiO3-Si (mg/l) Fe (mg/l) NO3-N (mg/l)
20
Mùa khô (tháng 5-2000)
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
70.00
80.00
123456789
Trạm
COD-ammonia-Zn-
phosphat
0
500
1000
1500
2000
2500
silicat-Fe-nitrat
COD (mg/l) NH3-N (mg/l) Zn (mg/l) PO4-P (mg/l)
SiO3-Si (mg/l) Fe (mg/l) NO3-N (mg/l)
B. Tính đa dạng sinh học
1. Đa dạng hệ sinh thái
- Rừng ngập mặn: Các khu rừng ngập mặn nhỏ hẹp đã bị phá hủy để lấy đất xây
dựng các ao đìa nuôi thủy sản (chủ yếu là nuôi Tôm), hiện chỉ còn các dãi cây ngập
mặn phân bố rãi rác ở vùng cửa sông nhỏ đổ ra đầm.
- Thảm cỏ biển: Các thảm cỏ biển phân bố nhiều ở vùng n
ước nông ven bờ và cồn
nổi trong đầm Cù Mông với tổng diện tích khoảng 250 ha. Các loài cỏ biển Enhalus
acoroides và Thalassia hemprichii chiếm ưu thế nhất trong cánh đồng cỏ biển. Độ
phủ của thảm cỏ Enhalus acoroides trong đầm dao động từ 30- 60%, mật độ từ 40-
100 cây/m
2
.
- Vùng đáy mềm: Chiếm diện tích lớn nhất trong đầm.
2. Đa dạng loài
Đã xác định có 28 loài rong phân bố trong đầm, phổ biến là Rong bún
(Enteromorpha), Rong mềm (Chaetomorpha), Rong Quạt (Padina), Rong
Acanthopora, Lorencia, Rong câu (Gracilaria)
Thành phần loài cây ngập mặn chưa được khảo sát kỹ. Tuy nhiên những loài cây
ngập mặn mọc phổ biến ven đầm là: Rhizophora apiculata (Đước), Avicennia
officinalis (Mắm đen), Avicennia alba (Mắm trắng), Excoecaria agallocha (Giá)
21
Có 7 loài cỏ biển phân bố trong đầm là: Cymodocea rotundata, Enhalus acoroides,
Halodule uninervis, Halophila minor, Halophila ovalis, Halophila sp., Thalassia
hemprichii.
Thân mềm có 21 loài, Giáp xác có 35 loài, Da gai có 7 loài và Cá có 45 loài (Nguyễn
Trọng Nho, 1994).
C. Nguồn lợi:
Rong Câu mọc tự nhiên trong đầm nhưng sản lượng không lớn. Tôm là nguồn lợi
quan trọng nhất trong đầm với sản lượng khai thác hàng năm khoảng 20- 30 tấn.
Nguồn lợi Cá được khai thác quanh năm nhưng sản lượng thường không ổn định,
khoảng 70- 150 tấn/năm, chủ yếu là cá Cơm, cá Đối và cá Trích.
Ngoài ra trong đầm Cù Mông còn khai thác Cua xanh, Ghẹ, Ốc nhảy, Sò, Ngao nhưng
sản lượng không nhiều. Ước tính tổng sản lượng hải sản khai thác tự nhiên trong đầm
khoảng 110- 230 tấn/năm (Nguyễn Trọng Nho, 1994).
V. Đầm Ô Loan
Đầm Ô Loan nằm trong khoảng tọa độ 109
0
14’30’’ E và 13
0
13’50’’ N, thuộc huyện Tuy
An, tỉnh Phú Yên. Đầm chạy dài theo hướng Bắc- Nam, có diện tích khoảng 1.500 ha,
nơi rộng nhất 2,5 km, dài 8 km, là một đầm tương đối kín, chỉ nối liền với biển bằng
một lạch dài gần 2 km, rộng trên dưới 100 m và sâu từ 2- 5 m. Mặt phía đông của đầm
là dãi cát lớn, ba mặt còn lại tiếp giáp với đồi núi xen kẽ các thung lũng (hình 7).
Đáy đầm Ô Loan tương đối bằng phẳng, độ sâu trung bình khoảng 1 m, tr
ừ lạch sâu
thông ra biển có nơi trên 5 m, còn trong đầm chổ sâu nhất cũng dưới 2 m. Về chất đáy
ở đầm Ô Loan có thể có thể chia thành các vùng sau: Vùng cát lớn: Phân bố dọc
theo bờ quanh đầm, diện tích nhỏ hẹp, có kích thước hạt 0,1- 1 mm, vùng cát bột:
Phân bố dọc theo bờ quanh đầm, nằm tiếp theo dãi cát lớn xung quanh. Đáy cát bột
chiếm chiếm diện tích tương đối ở phía bắc và tây nam đầm, vùng bùn nhuyễn cát
bột: Loại chất
đáy này chiếm một diện tích rất lớn trong đầm, kéo dài từ thôn Tân
Long qua Hòn Lao đến gần bờ phía nam đầm.
Đầm Ô Loan là loại hình đất ngập nước Đầm tự nhiên ven biển (J) với tiêu chuẩn
Ramsar: 1a, 2b, 3b, 4b.
A. Chất lượng môi trường
Theo Bùi Hồng Long, 2005:
- Nhiệt độ nước trong đầm tương đối cao và ổn định, theo số liệu thống kê nhiệt độ
nước vào tháng 6 là 30,99
0
C và vào tháng 4 là 30,07
0
C, nhiệt độ nước thấp nhất vào
tháng 1 là 23,73
0
C.
- Nồng độ muối ở đầm Ô Loan biến đổi theo mùa khá rõ rệt. Độ muối trung bình
trong năm là 26,8‰. Mùa khô, độ mặn trung bình dao động từ 29,91 - 38,98‰, cao
22
nhất vào tháng 7 là 38,98‰, xu thế phân bố độ mặn trong mùa này là hai đầu phía
Nam và phía bắc đầm có độ mặn cao, còn vùng giữa đầm có độ muối thấp hơn. Mùa
mưa độ mặn trung bình dao động từ 1,07 - 2,78 ‰, thấp nhất vào tháng 1 độ mặn
chỉ 1,07‰. Biên độ dao động độ mặn giữa các tháng trong năm rất lớn từ 1,07 -
38,98‰. Sự dao động độ mặn lớn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ sinh
vật trong đầm.
- Hàm lượng oxy hòa tan của các tháng dao động từ 3,4 - 6,8 ml/l, trung bình khoảng
5ml/l. Độ bão hòa không khí thường dao động khoảng 100%.
- Độ pH của nước dao động trong khoảng 7,91 - 8,25. Nhìn chung, trong các tháng
trong mùa khô độ pH cao hơn và tương đối ổn định, cao nhất vào tháng 4 là 8,23.
Trong năm pH của nước ở phía bắc đầm luôn thấp hơn ở phía nam. Đặc biệt vùng
cửa sông Gò Duối đổ ra, nước luôn có trị số pH thấp hơn so với các vùng khác trong
đầm, biến đổi từ 7,8 – 8, vào tháng 11 giá tr
ị pH có thể giảm xuống đến 7,09.
- Cũng theo Bùi Hồng Long, 2005, hàm lượng muối phosphat dao động trong năm từ
0,5 - 5,67 mgP/l. hàm lượng trung bình năm của nitrát là 1,4 mgN/l, không có biến
đổi lớn trong năm, giá trị cao nhất đạt 2,27 mgN/l. Các dẫn liệu về muối dinh dưởng
này cần được xem xét thêm (quá cao).
- Hàm lượng chlorophyll a ở trong nước đầm Ô Loan dao động trong khoảng 1,29 -
3,25 µg/l, pheophytill 13%, chỉ số hấp thụ carbon dao động từ 101 - 552 mgC/mg. Ở
tầng đáy hàm lượng chlorophyll a dao động trong khoảng 4,77 - 6,31 mg/m
2
và
pheophytill 39 - 79%, chỉ số hấp thụ carbon 10 - 25 mgC/mg.
Hình 7: đầm Ô Loan