1. Kỷ Cambri
Do nhà địa chất Anh (Sedgurick) đề nghị thành lập năm 1836, tên gọi của hệ dựa vào chữ
Cambri là tên cổ của xứ Wales ở Tây Nam nước Anh, nơi có mặt địa chất mà ông nghiên
cứu.
Kỷ Cambri: Có thời gian địa chất là 80 triệu năm ( 580 – 500 triệu năm)
I. Hoạt động địa chất.
Ở kỷ Cambri trái đất bao gồm các lục địa Gonwana , Laurentia, Baltica và Siberi do siêu lục
địa Pannotia vở ra trong Đại Tân Nguyên sinh. Gondwana bắt đầu trôi dạt về phía cực Nam
Đầu kỷ Cambri biển lấn nhiều lãnh địa, các nền Siberi và Trung Quốc có diện tích ngập lớn
nhất. Khối nền Gonwana ở bán cầu nam được nâng cao.Ở giữa kỷ Cambri biển mở rộng
nhiều hơn, cuối kỷ Cambri diện tích biển mở rộng bị thu hẹp.Panthalassa che phủ phần lớn
Nam bán cầu, các đại dương nhỏ có đại dương Proto-Tethys, đại dương Iapetus và đại dương
Khanty, tất cả chúng đều mở rộng trong thời gian này. Núi lửa giảm hoạt động, lượng CO
2
giảm, lượng O
2
tăng lên đến 10%. O
2
tự do bắt đầu tạo tầng Ozon khí hậu ấm áp tạo điều
kiện thuận lợi cho sinh vật từ nước lên sống gần mặt nước.
( /> Phân bố lục địa trong kỷ Cambri
II. Đặc điểm khí hậu
Ở kỷ này trái đất chia thành 3 đới khí hậu: Khí hậu khô – nóng, Khí hậu ấm và ẩm, khí
hậu lạnh lẽo.
III. Đa dạng sinh học
Sự xuất hiện "bất ngờ" của hệ động vật đa dạng trong một khoảng thời gian không quá vài
chục triệu năm được coi là "Sự bùng nổ kỷ Cambri" (xuất hiện khoảng 50 sinh vật chính
phân biệt (50 ngành) một cách đột ngột, chưa xác định nguyên nhân). Kỷ Cambri là kỷ sớm
nhất mà trong các lớp đá của thời kỳ đó người ta tìm thấy một lượng lớn các sinh vật đa bào
đã hóa thạch một cách rõ ràng, chúng phức tạp hơn so với hải miên (bọt biển)
(ngành Porifera) hay sứa (phân ngành Medusozoa).
*Thực vật: Chưa có gì dặc biệt
Ở Kỷ Cambri đã có Vi khuẩn và Tảo lam, người ta còn tìm thấy vết tích của Tảo đỏ. Chưa có
thực vật ở cạn
Phân hóa tảo, tảo lục (phát triển mạnh) và tảo nâu chiếm ưu thế, ngoài ra còn có tảo lam và
sự xuất hiện tảo hồng.
* Động vật:
Ở kỷ Cambri, Trái đất đã từng xuất hiện một sự bùng nổ về số lượng các loài vật. Sau đó có
rất nhiều loài động vật mới xuất hiện, theo ghi chép, đây là thời kỳ các hưng thịnh nhất của
thế giới động vật trong lịch sử Trái đất.
+ Nhóm thu thập và ăn các chất lắng tụ ở đáy biển: chiếm 60% chủ yếu là các loài chân
khớp như tôm ba lá
+ Nhóm sống bằng cách nuốt các chất lắng tụ: chiếm 1%, chủ yếu là thân mềm có vỏ cứng.
+ Nhóm sống bằng các chất lơ lửng trong nước: chiếm 30% chủ yếu là bọt biển.
+ Nhóm ăn thịt: chiếm 10% chủ yếu là các loài chân khớp.
+ Chén cổ: phát triển, tiến hóa nhanh chống
+ Xuất hiện cùng lúc thủy tổ của nhiều ngành động vật tồn tại ngày nay trên trái đất như:
Thân mềm (Ốc, sò, mực, ), động vật chân khớp (Côn trùng, giáp xác, nhên,…), động vật da
gai (Sao biển, cầu gai, …), động vật có xương sống (Nguồn gốc của cá, bò sát, rắn, chim,
thú, …). Tuy nhiên các hóa thạch được tìm thấy ngày nay chỉ gồm 4 nhóm: côn trùng, giáp
xác, đa túc, nhện.
Các sinh vật đại diện
1. Chén cổ (archaeocyatha)
2. Bọ cạp biển Opabinia
Bọ cạp biển Opabinia là động vật cổ xưa thuộc kỷ Cambri. Bọ cạp biển Opabinia là một loài
động vật kỳ lạ, các nhà khoa học đã nghiên cứu và cho rằng nó có quan hệ họ hàng xa với
loài tôm và không có mối liên quan với bất kỳ loài sinh vật nào đang tồn tại hiện nay. Bọ cạp
biển Opabinia sống cách đây 5,3 tỉ năm dưới đại dương, là khu vực đất nước Canada ngày
nay. Nó trông giống với những con vật kỳ lạ trong phim hoạt hình của trẻ em, có chiều dài
1,2m, nó bơi bằng 14 chiếc mang giống nhau. Điều kỳ lạ nhất nằm ở phần đầu của loài bọ
cạp này. Trên đầu chúng có 5 con mắt, và 5 con mắt này luôn thò ra trông giống như những
chiếc miệng, và phía trước 5 con mắt này còn có một chiếc miệng dài mềm mại, trên khoé
miệng có mọc ra một chiếc càng.
Nguồn: />3. Rệp (Hallucigenia)
Loài rệp này cũng giống như loài bọ cạp Opabinia sống cách đây 5,3 tỉ năm dưới đại dương
và được phát hiện sớm nhất ở Canada. Đây cũng là loài động vật nổi tiếng ở kỷ Cambri.
Loài rệp này thuộc họ chân rết, có đầu rất lớn, mỗi bên thân đều có 7 chiếc ngạnh cứng nhọn
hướng lên trên. Vì có cấu tạo kỳ lạ như vậy, nên các nhà khoa học không có cách nào để xác
định đâu là đầu, đâu là đuôi. Nó dài bằng 7 đốt sống, hình hài giống một con côn trùng, trên
cơ thể có 7 chiếc râu giao nhau. Một đầu của nó có dạng hình tròn nên xem ra đó chính là
chiếc đầu, nhưng không thể tìm thấy mắt và miệng đâu cả. Trên cơ thể còn có một chiếc vòi
duỗi dài và một chiếc khác cuộn trên lưng, có thể đó là hậu môn và miệng của chúng.
Tên của loài rệp này có nguồn gốc từ “giấc mơ ban ngày ly kỳ”.
Năm 1977, Morris, nhà sinh học cổ đại nước Anh khi nghiên cứu hoá thạch của loài động
vật này và nhìn thấy hai hàng gai được phân bố có quy luật trên cơ thể thì tưởng rằng đó là
vật trang trí của chúng, nhưng thực chất đó là những chiếc chân để di chuyển. Ông đã cho
rằng, loài sinh vật này “chỉ có nằm mơ mới thấy”, cho nên được mệnh danh là loài rệp kỳ dị.
Nguồn: />Tồn tại và phát triển trong đại cổ sinh, ngay từ đầu chúng đã rất phát triển về số lượng và
chủng loại.
4. Tôm ba Lá Redlichia chinensis
Hóa thạch Tôm ba Lá Redlichia chinensis kỷ Cambri tại Trung Quốc
Tôm ba lá sống bằng nhiều phương thức khác nhau: tầng trên mặt biển, tầng giữa và tầng
đáy. Người ta đã tìm thấy khoảng 10.000 kích thước trung bình 3-42 cm, có khi dài đến 75
cm. Cơ thể gồm đầu than, chia thành nhiều đốt xếp chồng lên như mái ngói giúp tôm ba lá
cuộn tròn dễ dàng. Chúng bị tiêu diệt vào cuối kỉ Pecmi.
5. Trùng ba lá Redlichia chinensis
Hóa thạch trùng ba lá Redlichia chinensis kỷ Cambri tại Trung Quốc.
Tiền thân giun đốt
2. Kỷ Ordovic
Trái Đất khoảng 290 triệu năm trước
Kỷ Ordovic là kỷ thứ hai trong số sáu kỷ của đại Cổ Sinh. Nó diễn ra sau kỷ Cambri và
ngay sau nó là kỷ Silua. Kỷ Ordovic, được đặt tên theo tên gọi của một bộ lạc người đã từng
sinh sống tại vùng đất thuộc Wales (Xứ Uên/Xứ Gan) ngày nay, có tên gọi là Ordovices. Nó
được Charles Lapworth đưa ra năm 1879.
I. Hoạt động địa chất
Hoạt động địa chất diễn ra mạnh mẽ.
Thời kỳ này thì các lục địa phía nam đã hợp lại thành một lục địa duy nhất, gọi là
Gondwana. Vào đầu kỷ Ordovic thì lục địa này nằm ở các vĩ độ gần xích đạo và dần dần
trôi dạt xuống Nam cực. Vào cuối kỷ Ordovic thì Gondwana đã trôi dạt tới gần Nam cực
và bề mặt của nó phần lớn bị đóng băng.
Trong kỷ Ordovic sự sụp võng có biên độ lớn của những mảng địa máng dẫn đến biển
tiến trên phạm vi rộng, ở thế Tremadoc (đầu kỷ Ordovic) biển lấn đất liền là mạnh nhất
với các chứng cứ còn lưu lại dấu tích trong các lớp đá.
Giống như Bắc Mỹ và châu Âu, Gondwana chủ yếu được các biển nông bao bọc trong
suốt kỷ Ordovic.Các vùng nước nông và trong suốt trên các thềm lục địa đã tạo điều kiện
cho sự phát triển của các nhóm sinh vật có khả năng tích tụ cacbonat canxi trong lớp mai
(vỏ) hay các phần cứng của chúng.
Biến cố:
Kỷ Ordovic kết thúc bằng một sự kiện tuyệt chủng lớn vào khoảng 443,7 Ma (ICS, 2004)
với sự tuyệt diệt của khoảng 85% sinh vật trên trái đất, trong đó có 60% các chi sinh vật
biển (Các ngành chén cổ và chân khớp như Tôm ba lá, san hô bị tiêu diệt hầu hết.). A.
Melott và những người khác (2006) đã đặt ra giả thuyết là một vụ bùng nổ bức xạ
gamma kéo dài khoảng 10 giây có thể là nguyên nhân cho sự tuyệt chủng này, do nó tiêu
hủy tầng ôzôn và làm cho các sinh vật sống trên mặt đất cũng như gần mặt biển bị phơi
nhiễm phóng xạ; tuy nhiên, phần lớn các nhà khoa học khác vẫn tiếp tục cho rằng sự kiện
tuyệt chủng này là phức tạp với nhiều nguyên nhân khác nhau.
II. Khí hậu
Thời kỳ Tiền Ordovic được cho là rất ấm, một số nơi ven biển có khí hậu khô nóng. Đến
cuối kỷ xuất hiện băng hà
III. Sinh vật
1. Động vật
Tại Bắc Mỹ và châu Âu, kỷ Ordovic là thời gian của các biển cạn rất giàu sự sống.
- Bọ ba thùy (ngành Trilobita)
- Động vật tay cuốn (ngành Brachiopoda)
- Động vật hình rêu (ngành Bryozoa) đầu tiên đã xuất hiện trong kỷ Ordovic
- Các loài san hô (lớp Anthozoa) tạo đá ngầm đầu tiên
- Động vật thân mềm (ngành Mollusca) đã xuất hiện từ kỷ Cambri trở thành phổ biến và
đa dạng trong kỷ này, đặc biệt là các nhóm động vật hai mảnh vỏ (lớp Bivalvia), động vật
chân bụng (lớp Gastropoda) và phân lớp Nautiloidea của động vật chân đầu (lớp
Cephalopoda).
- Cá có hàm đầu tiên xuất hiện vào cuối kỷ này.
- Một vài loài động vật thuộc ngành da gai các lớp Phao biển (Cystoidea) và Huệ biển
(Crinoidea) cũng đã xuất hiện.
2. Thực vật
Chưa có biến đổi gì lớn, chỉ là những thực vật thấp sống trong môi trường nước. Tảo giữ
vai trò thống trị
Những loài thực vật đầu tiên trên đất liền đã xuất hiện trong dạng của các cây nhỏ trông
giống như rêu tản (ngành Marchantiophyta). Người ta cũng đã tìm thấy các hóa thạch của
phấn (hoa) vào cuối kỷ Ordovic. Các loài thực vật này có lẽ đã tiến hóa từ tảo lục. Kể từ
cuối kỷ Cambri (và có lẽ còn sớm hơn) thì tảo lục cũng rất phổ biến,.
3. Nấm
Các loài nấm trên đất liền có lẽ đã xuất hiện vào cuối kỷ Ordovic, nối tiếp theo sau thực
vật trên đất liền, mặc dù cho tới nay người ta vẫn chưa tìm thấy các bào tử hóa thạch với
niên đại vào thời gian này. Tuy nhiên, các loài nấm biển đã rất phổ biến trong các đại
dương thuộc kỷ Ordovic để phân hủy các xác chết của động vật cũng như các loại chất
thải khác.
/> />Fossil Specimens Discovered in Africa and the Middle East
(Các mẫu hóa thạch được phát hiện ở châu Phi và Trung Đông)
Fossil Specimens Discovered in Morocco
(Các mẫu hóa thạch phát hiện tại Ma-rốc)
A 490- to 443-million-year-old starfish fossil found in
Hefalla (left-upper)
(490 - hóa thạch con sao biển 443-triệu năm tuổi được tìm thấy trong Hefalla (trái trên)
Trilobite
Tuổi: 410 đến 360 triệu năm tuổi
Kích thước: 5 cm (2 in)
Địa chỉ: Atlas Mountains, Ma-rốc
Thời gian: Devon
Age: 420 million years old
Size: 5.7 centimeters (2.3 in)
Location: Ordovician Mecissi, Morocco
Formation: Kataoua Formation
Period: Ordovician
Tuổi: 420 triệu năm
Kích thước: 5,7 cm (2,3 in)
Đến từ: kỷ Ordovic Mecissi, Ma-rốc
Hình thành: Kataoua hình thành
Thời gian: kỷ Ordovic
Trilobite
Age: 400 million years old
Location: Morocco
Period: Devonian
Tuổi: 400 triệu năm
Địa chỉ: Morocco
Thời gian: Devon
Trong thế giới của 530 triệu năm trước đây, bọ
ba thùy có đôi mắt bao gồm nhiều ống kính một cấu trúc tuyệt vời mà cho phép họ nhìn thấy
để săn bắt và bơi về phía con mồi. Cấu trúc tinh vi này đã giáng một đòn nghiêm trọng cho
thuyết tiến hóa)
Age: 500 to 440 million years old
Size: 8.6 centimeters (3.4 in)
Location: Morocco
Formation: Hefalla Sandstone Formation
Period: Ordovician
Tuổi: 500 đến 440 triệu năm tuổi
Kích thước: 8,6 cm (3,4 in)
Địa chỉ: Morocco
Hình thành: Hefalla sa thạch hình thành
Thời gian: kỷ Ordovic
/>Paleogeography during the Early Paleozoic.
A = Late Cambrian
B = Middle Ordovician
C = Middle Silurian
/>r10-01.html
3. Kỷ Silur
3.1 Đặc điểm
Kéo dài 30 triệu năm (430-410). Silur là tên của một bộ tộc cổ xưa của xứ Walles do nhà địa
chất Anh đặt tên vào năm 1835.
3.2 Hoạt động địa chất và khí hậu
Trong kỷ Silur, Gondwana vẫn tiếp tục trôi dạt chậm về phía nam. Sự tan chảy ra của các
chỏm băng và các sông băng đã làm cho mực nước biển lên cao, được ghi nhận từ thực tế là
các trầm tích kỷ Silur che phủ lên trên các trầm tích kỷ Ordovic bị xói mòn, tạo thành một sự
phân vỉa không chỉnh hợp. Sự kiện kiến tạo sơn Caledonia, làm nổi lên các lục địa và những
dãy núi khác. Vì thế khí hậu ở kỉ này không chỉ lạnh mà còn khô
3.3 Sinh vật
Động vật
Các dải đá san hô ngầm lần đầu tiên xuất hiện trong kỷ này, do các nhóm san hô đã tuyệt
chủng như các bộ Tabulata và Rugosa tạo ra. Các loài cá xuất hiện trong kỷ này là đại diện
đầu tiên của động vật có xương sống, phổ biến là loài cá giáp ( Bothriolepis, cephalapsis).
Hệ động vật thuộc nhóm Eurypterida (bò cạp biển) sinh sống ở các biển nông thời kỳ Silur ở
Bắc Mỹ; nhiều hóa thạch của chúng đã được tìm thấy ở bang New York. Các ngành
Brachiopoda, Bryozoa, Mollusca và Trilobita cũng rất phát triển ở kỷ này.
Thực vật
Các loài thực vật nguyên thủy trên đất liền thuộc kỷ Silur với xylem và libe nhưng không
phân hóa thành rễ, thân và lá, là nhóm Psylophyton. Những hóa thạch đầu tiên của thực vật
có mạch đã xuất hiện trong kỷ Silur. Các đại diện sớm nhất của nhóm này là Cooksonia (chủ
yếu ở Bắc bán cầu) và Baragwanathia (ở Australia). Rhyniophyta và Lycopodiophyta nguyên
thủy là một trong các thực vật đất liền khác đã lần đầu tiên xuất hiện trong kỷ này.
Nấm
Các loài nấm sống trên đất liền đầu tiên có lẽ xuất hiện trong kỷ này.
Kỷ SILUR là kỉ chuẩn bị cho môi trường sống trên cạn. Do quá trình thích nghi với sự thay
đổi khí hậu và địa hình nên thực vật trở nên phong phú và đa dạng. Trong quá trình quang
hợp, cây xanh đã làm giàu thành phần oxy khí quyển và làm dầy tầng ozon bảo vệ sự sống
trên cạn cho sinh vật.
Tabulata Rugosa
Bothriolepis cephalapsis
Eurypterida (bò cạp biển)
Cooksonia (thực vật tiêu biểu ở Bắc Mỹ)
Baragwanathia (ở Australia)
Lycopodiophyta
4. Đêvon
Kỷ Devon (kỷ Đề-vôn) là một kỷ địa chất trong đại Cổ Sinh. Nó được đặt theo tên gọi
của khu vực Devon, Nam nước Anh, là nơi mà các loại trầm tích thuộc kỷ này được nghiên
cứu lần đầu tiên.
II. Hoạt động địa chất
Kỷ Devon là thời kỳ mà các hoạt động kiến tạo địa tầng lớn diễn ra, do các vùng
đất của Laurasia và Gondwana đang xích lại gần nhau.
Lục địa Euramerica (hay Laurussia) đã được tạo ra vào đầu kỷ Devon do va chạm
của Laurentia và Baltica. Giai đoạn này hình thành sa mạc đỏ (Trong các khu vực có
khí hậu cận sa mạc này, các tầng đá cát trầm tích màu đỏ và cổ này đã được hình thành,
màu đỏ là do sự ôxi hóa của sắt (hematit)) đặc trưng cho điều kiện khí hậu khô cằn.
Ở DEVON trung, các lục địa phía nam vẫn nằm sát nhau trong một siêu lục địa là
Gondwana. Các phần còn lại của đại lục Á-Âu (Eurasia) ngày nay nằm ở Bắc bán cầu.
Mực nước biển cao trên khắp thế giới và phần lớn các vùng đất nằm dưới mặt nước tạo
thành các biển nông, tại đó các loại sinh vật như san hô tạo đá ngầm vùng nhiệt đới sinh
sống. Ngoài ra, lúc này hoạt động núi lửa cũng diễn ra mạnh mẽ ở một số nơi như: Tây
Mông Cổ, Liên Xô, Tây Thiên Sơn…
Ở DEVON muộn, Khí hậu dịu hơn, diện tích biển cực đại và hình thành các
khoáng sản than (có nguồn gốc từ tảo).
III. Sinh vật
Mực nước biển trong kỷ Devon vẫn khá cao.
Hệ động vật biển vẫn chủ yếu là động vật hình rêu (Bryozoa) ( xuất hiện từ kỷ ordovic)
Các động vật thuộc lớp Huệ biển (Crinoidea, ngành Da gai -Echinodermata) là phổ biến
và bọ ba thùy (Trilobita) vẫn còn khá phổ biến, nhưng ít đa dạng hơn so với thời gian
trước đó. ( xuất hiện ở cambri)
Vào giữa kỷ Devon thì bên cạnh các loài cá không hàm thuộc lớp Ostracodermi (cá giáp
không hàm) đã xuất hiện những loài cá có quai hàm đầu tiên với lớp áo giáp bằng chất
xương (Coccosteus) , thuộc lớp Placodermi
cũng như những loài cá mập đầu tiên và cá vây tia. Những loài cá mập đầu tiên
(nhóm Cladoselache) này, đã xuất hiện trong lòng đại dương vào thời gian của kỷ Devon.
Chúng nhanh chóng trở nên đa dạng và phổ biến.
Các loài cá bắt đầu chiếm ưu thế, chúng dần thích nghi với đời sống trên cạn, về sau
chúng có thêm bộ phổi để vừa thở trên cạn vừa thở dưới nước, đại diện là loài cá Phổi
Loài cá này vẫn còn tồn tại đến ngày nay, có 4 loài ở châu Phi, 1 loài ở châu Úc và 1 loài
ở châu Nam Mỹ
Cá Phổi ở châu Phi cá Phổi ở châu Nam Mỹ
Cá phổi ở châu Úc
Vào cuối kỷ Devon thì cá vây thùy cũng đã xuất hiện, tạo tiền đề cho các loài động vật
bốn chân đầu (Eusthenopteron)
Những động vật chân khớp(Arthropoda) như côn trùng và nhện cũng bắt đầu chiếm
lĩnh môi trường sống trên đất liền
Thực vật: Một dải san hô đá ngầm lớn, hiện nay sót lại ở khu vực thung lũng
Kimberley cao và khô thuộc miền tây bắc Australia, đã từng kéo dài hàng nghìn kilômét,
diềm quanh lục địa kỷ Devon. Các loại đá ngầm này nói chung được tạo ra từ các loại
sinh vật tiết cacbonat khác nhau, có khả năng tạo thành các mảng chắn sóng gần với mặt
biển. Những sinh vật chính trong việc tạo đá ngầm kỷ Devon không giống như các loại
sinh vật tạo đá ngầm ngày nay (chủ yếu là san hô và các loại tảo chứa canxi). Sinh vật
nhóm Stromatopore giống như san hô và các loại san hô thuộc các
bộ Tabulata cùng Rugosa
Vào kỷ Devon, sự sống đang trên đường chiếm lĩnh mặt đất. Các tấm thảm vi khuẩn và
tảo theo các loài thực vật nguyên thủy lên đất liền đã tạo ra những loại đất đầu tiên có
thể làm nơi ẩn nấp cho một số loài động vật chân khớp như ve, bét, bò cạp và động vật
nhiều chân. Các loài thực vật đất liền đầu tiên của kỷ Devon không có rễ hoặc lá như các
loài thực vật phổ biến ngày nay, và nhiều loài không có các mô mạch. Chúng có lẽ đã
loang rộng chủ yếu là bằng sự phát triển sinh dưỡng (các thân bò chẳng hạn), và không
mọc cao hơn vài xentimét.
Trong khi đó các loài nấm biển vẫn còn lại trong lòng đại dương và đa dạng thành các
nhà tái sinh tự nhiên thì các loài nấm trên đất liền cũng là nơi tái chế của các sinh vật
trên đất liền, chúng phân hủy các loại động vật, thực vật chết. Ngoài ra, do có nhiều loài
động và thực vật trên đất liền đã xuất hiện nên nấm cũng đã rất thịnh vượng
Vào cuối kỷ Devon, các cánh rừng của các loài thực vật nhỏ nguyên thủy đã tồn tại: Các
loài thông đất, thạch tùng (ngành Lycopodiophyta), Sphenophyta, dương xỉ và tiền-thực
vật hạt trần cũng đã tiến hóa. Phần lớn các loài này đã có rễ và lá thực sự, nhiều loài có
thân khá cao. Nhóm tổ tiên của dương xỉ (Archaeopteris) có thân giống như cây thân gỗ,
đã mọc và lớn như một loại cây thân gỗ lớn với gỗ thực sự. Đây là những loài cây thân
gỗ cổ nhất của các cánh rừng đầu tiên trên thế giới.
Cuối kỷ Devon thì những loài thực vật tạo hạt đầu tiên cũng đã xuất hiện.
Sự xuất hiện nhanh chóng của nhiều nhóm thực vật và các dạng sinh trưởng được gọi là
"Sự bùng nổ kỷ Devon". Các loài động vật chân khớp nguyên thủy đã cùng tiến hóa với
cấu trúc thực vật đất liền đa dạng này. Sự cùng phụ thuộc tiến hóa của côn trùng và thực
vật có hạt, đặc trưng cho một thế giới hiện đại có thể nhận ra được, đã có nguồn gốc từ
cuối kỷ Devon. Sự phát triển của các loại hình đất và các hệ thống rễ thực vật dường như
đã dẫn tới các thay đổi trong tốc độ và kiểu mẫu của sự xói mòn cùng các trầm tích.
Quá trình 'màu lục hóa' Trái Đất đóng vai trò như một yếu tố làm giảm lượng điôxít
cacbon và nồng độ của nó trong khí quyển đã giảm xuống. Điều này có thể đã làm cho
khí hậu trở nên mát mẻ hơn và đã dẫn đến biến cố tuyệt chủng hàng loạt vào cuối kỷ
DEVON. Biến cố này kéo dài 7 triệu năm, hầu hết các loài đều bị tiêu diệt, riêng chỉ có cá
giáp là vẫn còn tồn tại và phát triển.
Hóa thạch của cá Giáp
5. Kỷ Carbon (360-295 triệu năm về trước)
Quan cảnh kỉ Cacbon
Kéo dài khoảng 55 triệu năm. Tên gọi kỷ này là do tính chất đa dạng của hệ có nhiều vỉ than
đá. Kỷ Than Đá thông thường được chia thành các thế Pennsylvania (muộn) và Mississippi
(sớm).
Các trầm tích than đá lớn trong kỷ Than Đá chủ yếu là do hai yếu tố. Yếu tố đầu tiên là sự
xuất hiện của các cây thân gỗ có vỏ. Yếu tố thứ hai là các mực nước biển thấp hơn khi so
sánh với các mức tương tự của kỷ Devon. Điều này đã cho phép sự phát triển của các đầm
lầy và rừng rộng lớn vùng đất thấp tại Bắc Mỹ và châu Âu. Một số học giả đưa ra giả thuyết
rằng một lượng lớn gỗ đã bị chôn vùi trong thời kỳ này là do các động vật và các vi khuẩn
phân hủy vẫn chưa kịp tiến hóa để có thể tiêu hóa được lignin một cách có hiệu quả.
5.1. Hoạt động địa chất
- Các lớp đá tại châu Âu và miền đông Bắc Mỹ chủ yếu bao gồm sự lặp lại của các lớp đá
vôi, sa thạch, đá phiến sét và than đá. Tại Bắc Mỹ, các tầng đá thời kỳ đầu chủ yếu là đá vôi
nguồn gốc đại dương, giải thích cho sự phân chia kỷ Than Đá thành hai thời kỳ trong các hệ
thống Bắc Mỹ. Tại miền đông Bắc Mỹ, các tầng trầm tích đại dương phổ biến hơn trong các
phần cổ hơn của thời kỳ này khi so sánh với các phần trẻ hơn gần như là không có mặt vào
cuối kỷ Than Đá.
- Sự sụt giảm tổng thể của mực nước biển vào cuối kỷ Devon đã bị đảo ngược lại vào đầu kỷ
Than Đá; điều này tạo ra một loạt các biển rộng nằm trên thềm lục địa và các trầm tích
cacbonat của thế Mississippi. Cùng với đó là sự sụt giảm nhiệt độ ở khu vực cực nam Trái
Đất; các vùng đất phía nam của đại lục Gondwana đã bị đóng băng trong suốt kỷ này, mặc
dù người ta vẫn chưa chắc chắn rằng các lớp băng là lưu lại từ thời kỳ kỷ Devon hay không
phải vậy. Các điều kiện như vậy dường như có rất ít ảnh hưởng tới các khu vực nằm sâu
trong vùng nhiệt đới, tại đó các đầm lầy than đá tốt tươi đã phát triển thịnh vượng trong
phạm vi 30 độ của các sông băng ở xa nhất về phía bắc.
Các trầm tích châu thổ thuộc kỷ Than Đá có thể nhìn thấy trong hình chụp tại phía bắc
Williamsport, Pennsylvania.
Kỷ Than Đá là thời kỳ của các hoạt động kiến tạo núi tích cực, do siêu lục địa Pangaea đã
hình thành. Các lục địa phía nam vẫn gắn kết cùng nhau trong siêu lục địa Gondwana, nó va
chạm với Bắc Mỹ-châu Âu (Laurussia) dọc theo đường phân chia ngày nay thuộc về miền
đông Bắc Mỹ. Sự va chạm lục địa này tạo ra kết quả là kiến tạo núi Hercynian tại châu Âu
và kiến tạo núi Allegheny tại Bắc Mỹ; nó cũng kéo dài dãy núi Appalaches mới nổi lên về
phía tây nam thành dãy núi Ouachita
[6]
. Cùng trong khoảng thời gian này, phần lớn của phía
đông mảng kiến tạo Á-Âu ngày nay cũng gắn nó với châu Âu dọc theo đường phân chia dãy
núi Ural. Phần lớn của siêu lục địa Pangaea trong đại Trung Sinh vào thời gian này đã được
gắn kết với nhau, mặc dù các lục địa Hoa Bắc (nó có lẽ đã va chạm vào cuối kỷ Than Đá),
và Hoa Nam vẫn còn tách rời khỏi Laurasia. Pangaea vào cuối kỷ Than Đá có hình dạng
tương tự chữ "O".
Khi đó có hai đại dương chính – đó là Panthalassa bao quanh Pangaea và Paleo-Tethys nằm
bên trong chữ "O" của siêu lục địa Pangaea. Các đại dương nhỏ khác đang co lại và cuối
cùng bị khép kín – bao gồm: đại dương Rheic (bị khép lại do sự kết hợp của Nam và Bắc
Mỹ), đại dương nhỏ và nông là đại dương Ural (bị khép lại do sự va chạm của các lục địa
Baltica và Siberi, tạo thành dãy núi Ural) cùng đại dương Proto-Tethys (bị khép lại do sự va
chạm của các lục địa Hoa Bắc và Siberi/Kazakhstania.
5.2. Đặc điểm khí hậu (thêm thông tin)
Đầu Kỷ Carbon khí hậu trái đất ẩm ướt và nóng tạo nhiều vũng nước lớn, đầm lầy, sông
rạch. Bầu trời mù mịch hơi nước và CO
2
làm ngăn cản sự chiếu sáng của mặt trời. Về sau,
khí hậu trở nên lạnh và khô. Cuối kỉ do sự phát triển mạnh mẽ của các khu rừng quyết khổng
lồ đã làm tăng lượng oxy khí quyển, người ta ước tính khi đó nồng độ ôxy có thể lên cao tới
35% so với chỉ khoảng 21% ngày nay, cùng với khí hậu khô là nguyên nhân gây nên những
trận cháy rừng lớn vào cuối kỉ này.
5.3. Thế giới sinh vật
5.3.1. Đa dạng sinh vật
Sự sống đại dương khi đó đặc biệt giàu các loài huệ biển và các loài khác trong cùng ngành
Da gai (Echinodermata). Các loài thuộc ngành Tay cuộn (Brachiopoda) là rất phổ biến trong
khi các loài trùng ba thùy (lớp Trilobita) trở thành ít phổ biến. Trên đất liền, các quần thể lớn
và đa dạng của thực vật đã tồn tại. Các loài động vật có xương sống trên đất liền bao gồm cả
các loài động vật lưỡng cư lớn