Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2009 đến 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.12 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU:
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang là một nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những
thành tựu khá nổi bật như tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao, giảm tỷ lệ đói
nghèo trong dân cư xuống mức thấp, đời sống của người dân đạt được nhiều cải
thiện so với cách đây hơn 20 năm.
Nhưng Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của
nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường
hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng
vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh
chóng để tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Một trong những
vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được
nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đề xuất các phương án khác. Một số dự báo
thống kê gần đây của ngân hàng phát triển châu Á ADB, hay ngân hàng thế giới
WB đều dự báo rằng con số lạm phát của Việt Nam năm nay chắc chắn sẽ vượt
mức 11%, cụ thể là sẽ vào khoảng từ 12% cho đến 13%. Tuy nhiên con số lạm
phát thực tế còn có thể cao hơn.
Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm
giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi
có lạm phát, giá cả của hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức mua của đồng
tiền ngày càng giảm nhanh. Bài viết này với đề tài: “ Tình hình Lạm phát ở Việt
Nam trong những năm gần đây” Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần
thiết, cấp bách, đặc biệt thấy được tầm quan trọng của lạm phát.
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Khái niệm
- lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh
tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay
giảm sức mua của đồng tiền.
- giảm phát - một sụt giảm trong mức giá chung;
- thiểu phát - giảm tỷ lệ lạm phát;
- siêu lạm phát - một vòng xoáy lạm phát ngoài tầm kiểm soát;


- Tình trạng lạm phát: một sự kết hợp của lạm phát, tăng trưởng kinh tế
chậm và thất nghiệp cao
- tái lạm phát - một nỗ lực nâng cao mức giá chung để chống lại áp lực
giảm phát.
II. Phân loại:
Lạm phát thể hiện những mức độ nghiêm trọng khác nhau. Chúng được phân
thành ba cấp: Lạm phát vừa phải, Lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
- Lạm phát vừa phải: được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và có thể dự đoán
được. Tỷ lệ lạm phát hàng năm là một chữ số . Khi giá tương đối ổn định,
mọi người tin tưởng vào đồng tiền, họ sẵn sàng giữ tiền vì nó hầu như giữ
nguyên giá trị trong vòng một tháng hay một năm. Mọi người sẳn sàng làm
những hợp đồng dài hạn theo giá trị tính bằng tiền vì họ tin rằng giá trị và
chi phí của họ mua và bán sẽ không chệch đi quá xa.
- Lạm phát phi mã: tỷ lệ tăng giá trên 10% đến < 100% được gọi là lạm phát 2
hoặc 3 con số. Đồng tiền mất giá nhiều, lãi suất thực tế thường âm, không ai
muốn giữ tiền mặt mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cần thiết
cho việc thanh toán hằng ngày. Mọi người thích giữ hàng hóa, vàng hay
ngoại tệ. Thị trường tài chính không ổn định ( do vốn chạy ra nước ngoài).
- Siêu lạm phát : tỷ lệ tăng giá khoảng trên 1000% /năm. Đồng tiền gần như mất
giá hoàn toàn. Các giao dịch diễn ra trên cơ sở hàng đổi hàng tiền không còn
làm được chức năng trao đổi. Nền tài chính khủng hoảng (siêu lạm phát đã từng
xảy ra ở Đức 1923 với tỷ lệ 10.000.000.000% và xảy ra ở Bolivia 1985 với
50.000%/năm).
lạm phát thấy trước và lạm phát không thấy trước.
- Lạm phát thấy trước còn gọi là lạm phát dự kiến. Mọi người đã dự tính khá
chính xác sự tăng giá tương đối đều đặn của nó (ví dụ tăng 1% tháng).
- Lạm phát không thấy trước còn gọi là lạm phát không dự kiến được. Con
người luôn bị bất ngờ về tốc độ của nó. Nó không những gây ra sự phiền toái
(không hiệu quả) như loại trên mà còn tác động đến việc phân phối lại của
cải…

III. Tác hại:
- Tốc độ tăng giá cả thường không đồng đều giữa các loại hàng.
- Tốc độ tăng giá và tăng lương cũng xảy ra không đồng thời.
- Tác hại của lạm phát còn được đo bởi sự phản ứng mạnh mẽ của các tầng
lớp dân cư (hậu quả tâm lý xã hội) thông quan các cuộc điều tra xã hội
học. Sự phản ứng của công chúng xuất phát từ vấn đề kinh tế vĩ mô của
các Chính phủ (đặc biệt các nước phương Tây) là tìm mọi biện pháp
chống lạm phát cho dù cái giá phải trả là khá cao (ví dụ ở Mỹ, để hạ tỷ lệ
lạm phát 1% thì tổn thất của tổng sản phẩm quốc dân có thể lên tới vài
trăm tỷ đôla).
Tuy vậy, Tác hại chủ yếu của lạm phát không phải ở chỗ giá cả đã tăng lên mà ở
chỗ giá cả tương đối đã thay đổi. Những tác hại đó là:
Phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân, tập đoàn
và các giai tầng trong xã hội, đặc biệt với những ai giữ nhiều tài sản có giá trị danh
nghĩa cố định (ví dụ tiền mặt) và những người làm công ăn lương.
Có những biến dạng về cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh tế đặc bịêt khi
lạm phát tăng nhanh cùng với sự biến đổi mạnh mẽ của giá cả tương đối. Có những
doanh nghiệp, ngành nghề có thể phất lên và trái lại cũng có những doanh nghiệp
và ngành nghề suy sụp, thậm chí phải chuyển hướng sản xuất kinh doanh.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG
I. Tình hình lạm phát trong khoảng 2009 – 2013
Năm 2009:
Tốc độ tăng CPI theo tháng đạt đỉnh 4 lần trong năm qua, ở các tháng Hai, Sáu,
Chín và Mười hai, với các mức tăng 1,17%; 0,55%; 0,62% và 1,38%.
CPI lên nhẹ 0,32% trong tháng 1/2009. Nhưng đến tháng Hai, giá lương thực, thực
phẩm và nhiều loại hàng hóa, dịch vụ đồng loạt lên mức cao. Ở đỉnh cao thứ nhất, CPI
tăng 1,17%, trước khi đảo chiều giảm âm 0,17% trong tháng Ba ngay sau đó. Tồn kho
hàng công nghiệp chế biến ước tính 5% GDP vào cuối năm 2008. Tuy nhiên, hoạt động
sản xuất vẫn chưa lấy lại được sinh khí mới. GDP quý 1/2009 chỉ tăng 3,1%, thấp nhất
trong nhiều năm trở lại đây. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, dù vẫn tăng

21,9% so với cùng kỳ, nhưng loại trừ yếu tố giá chỉ còn tăng 6,5% (cùng kỳ năm 2008
tăng 11%). Giá cả nhiều loại hàng hóa, nguyên, nhiên liệu trên thế giới cũng liên tục đi
xuống. Tác động đến giá cả trong nước, xăng duy trì mức 11.000 đồng/lít (xăng A92)
trong cả quý 1/2009.
CPI nén lực căng rõ rệt trong giai đoạn kế tiếp, từ tháng Tư đến tháng Tám. Sau khi
từng bước leo dốc và đạt đỉnh 0,55% trong tháng Sáu, chỉ số giá hạ nhiệt chỉ còn tăng
0,24% trong tháng Tám. Mức chênh lệch trong giai đoạn này chỉ 0,31 điểm phần trăm và
gần như không có đột biến lớn. Tác động trực tiếp tới sức mua của các chính sách hỗ trợ
và gói kích cầu, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính cho tới
tháng 8/2009 đã có sự cải thiện. So với cùng kỳ năm trước, mức tăng đạt 18,4%, loại trừ
yếu tố giá còn tăng 9,3%. Từ 2/4 đến 30/8 giá xăng dầu đã tăng liên tục với mức tăng tới
3,81% so với tháng 12/2008. Nhưng ngược lại, giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam
lại giảm, từ mức 451,22 USD/tấn của tháng Tư xuống mức kỷ lục ngược 392,52 USD/tấn
trong tháng Tám. Tác động đến giá cả trong nước, so với tháng 12/2008, chỉ số giá mặt
hàng lương thực tháng 8/2009 giảm 0,75%. Trong 8 tháng đầu năm 2009, sự dồn nén của
chỉ số giá gây sức ép giảm lãi suất hệ thống ngân hàng thương mại. Khởi đầu từ việc
giảm lãi suất cơ bản từ 10% xuống mức 8,5% từ cuối tháng 12/2008, đến 1/2/2009 lãi
suất cơ bản của đồng Việt Nam tiếp tục hạ xuống còn 7% và duy trì đến gần cuối năm.
Bước sang tháng Chín, đã xuất hiện những diễn biến “ngược dòng”, CPI đạt đỉnh ở
mức tăng 0,62% trong tháng Chín rồi tạm dừng ở mức tăng 0,37% của tháng Mười sau
đó. Sự điều chỉnh nhỏ trong tháng Mười được hỗ trợ một phần từ việc giá xăng dầu giảm
lần đầu tiên trong năm vào ngày 1/10. Giá lương thực, thực phẩm chỉ tăng rất nhẹ so với
tháng trước đó. Tính đến 30/10/2009, tổng phương tiện thanh toán M2 đã tăng 23,99%.
Ngân hàng Nhà nước cũng vừa công bố, tín dụng tăng trưởng 37,73% so với cuối năm
2008. Đối với chi phí đẩy, do giá xăng dầu thế giới tăng mạnh, ở trong nước từ ngày
20/11, giá xăng dầu cũng tăng mạnh. Chỉ số giá nhóm giao thông tăng 12,45%; nhóm nhà
ở và vật liệu xây dựng tăng 12,58%; đồ uống thuốc lá tăng 7,56%; may mặc, mũ nón,
giày dép tăng 6,05% trong 12 tháng qua. Trong khi đó, chỉ số tồn kho ngành công
nghiệp chế biến tính trong ngày 1/11/2009 so với đúng 1 năm trước đó tăng 0,2%. Thời
gian gần đây tồn kho có xu hướng tăng lên, so với 1 tháng trước chỉ số này trong ngày

1/11 đã tăng 0,7%.
Năm 2010
Như vậy, lạm phát cả năm 2010 sẽ là 11,75%, ứng với CPI tháng 12/2010 so với
tháng 12/2009, vượt qua mức chỉ tiêu kế hoạch về lạm phát đặt ra cho năm 2010. Lạm
phát bình quân năm là 9,19%.
Vẫn đúng với quy luật tăng cao trong các tháng đầu năm và cuối năm, hai điểm cơ bản
khác biệt của diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm nay là mức tăng có độ vênh lớn, tháng
cao nhất so với tháng thấp nhất lệch nhau đến hơn 1,5%.
Trong khi đó xu hướng diễn biến chỉ số giá khá liền mạch với các bước chuyển chỉ trong
khoảng thời gian ngắn. Ba tháng đầu năm CPI tăng cao nhưng ngay sau đó có liền 5
tháng tăng thấp về gần mức 0%, để rồi lại vượt lên trên 1% trong 4 tháng còn lại của
năm. Những trạng thái này đem đến một nhận định, chính sách điều hành vĩ mô đã đối
mặt một năm khó khăn.
Trong 4 tháng chỉ số giá tăng vượt 1% thì 2 tháng cuối năm CPI đạt mức tăng gần 2%,
tạo thành xu hướng tăng mạnh mẽ, đẩy lo ngại lạm phát những tháng đầu năm 2011 dấy
lên.
Tác động đến các thị trường đầu cơ, bất động sản chưa có dấu hiệu khởi sắc, trong khi
các tài sản tài chính như vàng và USD tăng giảm thất thường.
Những biện pháp thắt chặt tiền tệ được Ngân hàng Nhà nước cho áp dụng gần đây dường
như chưa phản ảnh hiệu lực trong việc kìm giữ giá tiêu dùng. Liều lượng và hiệu lực phối
hợp chính sách vĩ mô đang gây tranh cãi trong thời điểm hiện nay.
Trở lại với chỉ số giá tiêu dùng, những nguyên nhân đẩy chỉ số giá tăng cao trong
tháng 12 cũng không khác biệt nhiều so với các tháng liền trước, có chăng là mức tăng đã
cao hơn.
Nhóm hàng hóa liên quan đến ăn uống tiếp tục "khuấy đảo" chỉ số giá tháng 12. So với
tháng 11, CPI hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,31%, trong đó lương thực tăng 4,67%;
thực phẩm tăng 3,28%; ăn uống ngoài gia đình tăng 1,68%. Đồ uống và thuốc lá tăng
1,3%.
Thị trường xây dựng vào mùa chạy đua hoàn thiện, nhu cầu trang hoàng cuối năm cũng
đẩy chỉ số giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tháng này tăng 2,53%. Mua sắm hàng

thời trang chuẩn bị cho mùa Noel và Tết Dương lịch đẩy nhóm may mặc, mũ nón, giày
dép tăng 1,81%. Viễn thông là nhóm duy nhất có chỉ số giá giảm nhưng cũng chỉ ở mức
0,02%.
Chỉ số giá vàng và USD tiếp tục tăng mạnh trong tháng cuối năm dương lịch, lần lượt là
5,43% và 2,86%; so với cuối năm ngoái mức tăng là 36,72% và 7,63%.
Năm 2011
Tổng cục Thống kê ngày 23.12 thông báo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tháng
12 tăng 0,53%. Như vậy so với tháng 12.2010, CPI cả nước tăng 18,13%, đưa mức CPI
cả năm 2011 tăng 18,58% so với năm ngoái.
Tháng 12, ngoài nhóm hàng bưu chính viễn thông giảm 0,09%, 10 nhóm hàng còn
lại trong rổ tính CPI đều tăng giá. Tăng mạnh nhất là giá lương thực (thuộc nhóm hàng ăn
và dịch vụ ăn uống) tăng 1,4% so với tháng trước. Một số nhóm khác tăng giá mạnh gồm
hàng may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,86%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,69% và
thiết bị đồ dùng gia đình tăng 0,68% so với tháng 11. Như vậy, mức CPI tăng 18,58% so
với năm 2010 đã vượt ngoài mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 18% theo kế hoạch đề ra
của Chính phủ.
Năm 2012
Tính cả năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng bình quân đã tăng 18,12%.
Về chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tốc độ tăng rất thấp của tháng 12 này đã góp phần
kiềm chế CPI cả năm nay chỉ tăng 6,81% so với tháng 12-2011 và tăng 9,21% so với bình
quân 12 tháng năm 2011.
Cụ thể, nếu so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm
2011, CPI của năm 2012 là thấp hơn nhiều so với các năm trước.
Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tháng 12/2012 so với tháng trước tăng
cao nhất là may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,17%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng
0,59%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,34% do tác động của yếu tố mùa vụ khi miền
Bắc bước vào mùa đông.
Trong khi đó, nhóm hàng có quyền số lớn trong rổ hàng hóa tính CPI là hàng ăn và
dịch vụ ăn uống lại chỉ tăng 0,28%, trong đó, lương thực tăng 0,13%; thực phẩm tăng
0,28%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,4%.

Các nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá thấp là thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,14%
(Dịch vụ y tế tăng 0,03%); giáo dục tăng 0,09% (Dịch vụ giáo dục tăng 0,05%); giao
thông giảm 0,43%. Nhóm duy nhất giảm giá tiếp tục là bưu chính viễn thông giảm
0,02%.
CPI năm 2012 biến động tương đối thất thường đặc biệt trong tháng 9 khi đạt mức
tăng 2,2% do sự tăng giá đột biến của nhóm thuốc và dịch vụ y tế, giáo dục. Nhưng đến
sau, bằng nhiều biện pháp kết hợp, hiện tốc độ tăng CPI có xu hướng chậm dần, đến
tháng cuối năm chỉ tăng 0,27%. Tuy nhiên mức tăng thấp này lại trái với quy luật bởi CPI
thường tăng vào các tháng cuối năm.
Không nằm trong rổ hàng hóa tính CPI, chỉ số giá vàng tháng 12/2012 tăng 0,46%
so với tháng trước; tăng 0,4% so với tháng 12/2011. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2012
tăng 0,03% so với tháng trước; giảm 0,96% so với tháng 12/2011.
Năm 2013: Chỉ số giá tiêu dùng CPI cả năm 2013 tăng 6,04%
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 6,04% so
với tháng 12/2012. Mức tăng 6,04% của giá cả năm nay cũng được ghi nhận là thấp nhất
trong vòng 10 năm trở lại đây.
Từ mức tăng 1,31% vào tháng 2 do các tác động mang tính thời vụ của Tết Nguyên
đán Quý Tỵ, CPI giảm gần như thẳng đứng về mức - 0,19% trong tháng 3, tăng rất khẽ
0,02% vào tháng 4 phần lớn nhờ quyết định hành chính, rồi lại âm trở lại 0,06% ở tháng
5. Khi đó, mối lo giảm phát và sức khỏe nền kinh tế tiếp tục đi xuống đã được nhiều
chuyên gia kinh tế đặt ra trong bối cảnh cả sản xuất và tiêu dùng đều tăng ở mức thấp.
Ngoại trừ chỉ số tồn kho tiếp tục tăng cao ở mức 13,1%, các chỉ tiêu khác như chỉ số
sản xuất công nghiệp tăng 5% thấp hơn con số 5,9% của năm 2012, chỉ số sử dụng lao
động tăng 0,1%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội tăng 4,6% tiếp
tục ở mức thấp trong nhiều năm trở lại đây.
Hai tháng kế tiếp, CPI đã tăng nhẹ trở lại nhờ các đợt điều chỉnh giá xăng dầu, trong
đó đã có thời điểm giá xăng tăng lên mức cao kỷ lục ở mức 24.570 đồng/lít. Nhờ các tác
động này, CPI đã thoát khỏi chuỗi các tháng liên tục âm hoặc tăng thấp để rồi tăng vọt
vào các tháng sau đó, mà đỉnh điểm là mức tăng 1,06% vào tháng 9 do các tác động đến
từ việc tăng học phí các cấp và phí khám chữa bệnh tại các bệnh viện công.

Việc CPI liên tiếp tăng khá cao không gây bất ngờ cho giới quan sát bởi việc điều
chỉnh các dịch vụ công kia được thực hiện theo lộ trình với sự điều chỉnh khá lớn, đồng
thời những tác động này chỉ mang tính nhất thời tại thời điểm các quyết định đó có hiệu
lực.
Nếu loại trừ các yếu tố tăng giá trên, CPI giai đoạn đó tăng bình quân 0,6%/ tháng
phản ánh phần nào kinh tế có khởi sắc hơn. Sau 11 tháng, chỉ số tồn kho còn 9,7%, chỉ số
sản xuất công nghiệp tăng 5,4%, chỉ số sử dụng lao động tăng 4,4%, tổng mức bán lẻ
hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trở lại với diễn biến giá cả trong tháng, mức tăng 0,51% so tháng trước thấp hơn dự
báo của nhiều chuyên gia cũng như kỳ vọng của các tổ chức tín dụng theo khảo sát của
Ngân hàng Nhà nước (tăng 0,62%) nhưng không quá bất ngờ khi mà thành phố Hà Nội
và Tp.HCM vừa công bố mức tăng lần lượt là 0,33% và 0,39%.
Tăng mạnh nhất trong tháng là nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng, điện, nước và chất
đốt khi đạt mức 2,31% so tháng trước. Giá gas nhập khẩu tăng mạnh nhất từ năm 2012
khiến giá gas bán lẻ trong nước của các hãng tiếp tục điều chỉnh tăng đồng loạt 80 nghìn/
bình 12 kg chính là lực đẩy chính của nhóm này.
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống lại có đà tăng thấp hơn tháng trước khi xác lập ở
mức tăng 0,49% trong đó lương thực tăng 1,22%, thực phẩm tăng 0,38% và ăn uống
ngoài gia đình tăng 0,17%.
Mặc dù đã vào dịp cuối năm nhưng cả lương thực và thực phẩm đều có xu hướng
giảm dần mức tăng trong những tháng dần đây. Nguồn cung lương thực, thực phẩm trong
cả nước ổn định cộng với nhu cầu tiêu dùng của người dân hạn chế là những nguyên
nhân chính giải thích cho hiện tượng trên.
Ở chiều giảm giá, có hai nhóm là giao thông và giáo dục ghi nhận ở các mức tương
ứng giảm 0,23% và giảm 0,01%. Sau khi các tác nhân tăng giá từ việc tăng học phí ở các
trường công lập không còn, chỉ số giá nhóm giáo dục đã giảm nhẹ. Trong khi đó, các đợt
giảm giá xăng dầu trong tháng 11 đã kéo chỉ số giá nhóm giao thông giảm so với tháng
trước.
Cũng do quy định ngày tính giá của cơ quan thống kê nên đợt tăng giá xăng dầu
ngày 18/12 vừa qua chưa ảnh hưởng đến giá cả tháng 12 này.

Trong tháng, giá vàng và đô la Mỹ tiếp tục diễn biến trái chiều khi ghi nhận ở các mức
giảm 3,33% và tăng 0,05% so tháng trước.
II. Nguyên nhân:
1 Nguyên nhân khách quan:
Năm 2009 và 9 tháng đầu năm 2011, lạm phát trong nước vẫn nối đà tăng cao của
những năm trước đó. Không thể phủ nhận lạm phát tăng cao như vậy một phần là do
những nguyên nhân khách quan đến từ thị trường thế giới cũng như trong nước:
- Giá nhiều loại hàng hóa, nguyên vật liệu-nhiên vật liệu chủ chốt như xăng
dầu,phôi thép,khí dầu mỏ… trên thị trường thế giới tăng cao đã tác động đến giá
xăng dầu,thép xây dựng,gas,phân bón trong nước tăng cao,điều này ảnh hưởng
đến chi phí sản xuất,hay còn gọi là “chi phí đẩy”.
- Giá vàng trên thị trường thế giới tăng đột biến cũng khiến giá vàng trong nước
tăng mạnh,gây tâm lý tăng giá lan tỏa sang các hàng hóa tiêu dùng khác trên thị
trường.
- Dịch bệnh trên vật nuôi lan rộng và kéo dài ( có thời kỳ cả nước cố 30/63 tỉnh
thành có dịch bệnh) làm giảm mạnh nguồn cung thực phẩm và gia tăng chi phí
chăn nuôi.Ngoài ra, tình hình thời tiết khắc nghiệt trong một số giai đoạn cũng
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và vì vậy , ảnh hưởng đến nguồn
cung nông sản tại một số thời điểm gây tăng giá hàng hóa.
- Sức hút từ thị trường các nước lân cận (Trung Quốc,Lào,Campuchia) do chênh
lệch giá một số mặt hàng khi trong nước thực hiện các chính sách bình ổn
giá.Thời gian qua, nhiều mặt hàng nhất là các mặt hàng lương thực,xăng dầu,thực
phẩm như thịt lợn,thủy sản đã bị thu gom và xuất khẩu qua biên giới cũng góp
phần làm mất câ đối nguồn cung hàng hóa trong nước.
- Việc điều chỉnh lương cơ bản làm chi phí sản xuất bị đẩy lên gây ra lạm phát.
Ngoài ra,dựa trên nghiên cứu về biến động của giá cả và lạm phát ở Việt Nam thì còn
có nhiều nguyên nhân khác gây ra lạm phát phải kể đến như:
• Do cầu kéo:
Trong những năm qua, nước ta phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường,hàng hóa
và dịch vụ trên thị trường trong nước dồi dào,đa dạng và phong phú.Do đó hầu như

không có tình trạng khan hiếm hàng hóa trên thị trường dẫn tới tăng giá một hay
một số hàng hóa nào đó.Song trong năm 2004 do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm
xảy ra trên diện rộng và kéo dài,đã làm giảm mạnh nguồn cung sản phẩm gia
cầm,trong khi nhu cầu thực phẩm tiếp tục tăng lên,làm cho giá cả mặt hàng gia cầm
nói riêng tăng đột biến.
Kinh tế học Keynes cho rằng,nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng
lao động thì sẽ sinh ra lạm phát.Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS.Đường
AD dịch chuyển sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và
sản lượng cùng tăng.Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao
hơn tổng cung,người ta có cầu về tiền mặt cao hơn,dẫn đến nhu cầu về cung tiền
phải tăng lên để cung ứng.Do đó có lạm phát.
• Lạm phát do cầu thay đổi:
Giả dụ lượng cầu về 1 mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về 1 mặt hàng khác
lại tăng lên.Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng
nhắc (chỉ có thể tăng không thể giảm),thì mặt hàng đó dù lượng cầu có giảm thì giá
vẫn không giảm.Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá.Kết quả là
mức giá chung tăng lên,nghĩa là lạm phát.
• Lạm phát do cơ cấu:
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao
động.Nếu ngành kinh doanh không hiệu quả nhưng không thể không tăng tiền công
cho người lao động trong ngành mình.Mà để đảm bảo mức lợi nhuận,ngành king
doanh kém hiệu quả sẽ gia tăng giá thành sản phẩm.Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
• Lạm phát do xuất khẩu:
Xuất khẩu tăng dẫn đến tổng cầu AD tăng cao hơn tổng cung AS,hoặc sản phẩm
được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước
giảm khiến tổng cung AS thấp hơn tổng cầu AD (AS< AD).Lạm phát nảy sinh do
tổng cầu và tổng cung mất cân bằng.
• Lạm phát do nhập khẩu:
Sản phẩm không thể sản xuất trong nước đủ thì phải nhập khẩu.Khi giá nhập
khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định

tăng giá dầu hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm trong
nước đó cũng tăng.Lạm phát hình thành do mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
• Lạm phát sinh ra lạm phát:
Cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng nên
đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại.Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
• Do chi phí đẩy:
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên thì chi phí sản xuất cảu các xí nghiệp tăng.Các
xí nghiệp muốn bảo toàn mức lợi nhuận sẽ tăng giá thành sản phẩm.Mức giá chung
của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
• Do tâm lý dân chúng:
Khi thị trường bất động sản ở Việt Nam đang rối loạn,giá cả một số mặt hàng
đang leo thang hàng ngày,gây tâm lý bất ổn trong dân chúng.
Tuy nhiên nếu lập luận cho rằng đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình
trạng lạm phát cao thì hoàn toàn sai lầm,do:
- Thứ nhất, khi so sánh lạm phát Việt Nam với lạm phát của các nền kinh tế
khác,ta có số liệu ở bảng dưới:

Tính đến tháng 9 năm 2011,tốc độ tăng CPI của Việt Nam đã lên đến 16,63% tiệm cận
mục tiêu 18% đặt ra cho cả năm,cũng là cao hơn các nước khác rất nhiều.Các nước trên
thế giới đều chịu tác động tiêu cực đến từ các thị trường xăng dầu hay thị trường
vàng,vậy tại sao lạm phát của Việt Nam cao hơn một cách đáng xấu hổ như vậy?
- Thứ hai, bão lũ,dịch bệnh đúng là có khắc nghiệt hơn trong những năm gần
đây.Nhưng đây là những yếu tố cố hữu ở Việt Nam,năm nào cũng có,không thể
vì lý do này mà lạm phát lại tăng cao đột biến như vậy.
- Thứ ba,việc điều chỉnh tăng lương cơ bản cũng không phải là việc mà trong giai
đoạn 2010-2011 mới thực hiện:
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
CPI 9.5 8.4 6.6 12.6 19.9 6.52 11.75 18,13
GDP 7.34 7.79 8.44 8.23 8,46 6.18 6.32 6.78
Lương tối

thiểu
290 350 450 450 540 650 730 830
Có thể thấy, lương cơ bản vẫn tăng đều trong các năm từ 2004- 2011,vậy tại sao lại
chỉ có năm 2007 trở lại đây,lạm phát mới cao lên đột biến.
Từ những lý do trên, rõ ràng không thể nói những nguyên nhân khách quan là những
yếu tố chính làm nên tình hình lạm phát căng thẳng như hiện nay,mà nguyên nhân chính
phải nằm ở những yếu tố nội tại của nền kinh tế nước ta.
2 Nguyên nhân chủ quan:
Lạm phát luôn có nguyên nhân từ tiền tệ, ở Việt Nam, không khó để nhận ra chính
sách tiền tệ đã có sự nới lỏng quá mức trong các giai đoạn trước đó,và hệ lụy của nó là tỷ
lệ lạm phát cao trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011.
Trong các nguyên nhân dẫn đến lạm phát do yếu tố tiền tệ,theo tổng kết của IMF
thường xuất phát từ chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ(CSTT).Sự thâm
hụt ngân sách kéo dài việc bù đắp bằng việc in tiền hoặc sự chi tiêu quá mức và thất thoát
lớn trong xây dựng cơ bản của Chính Phủ sẽ là nguyên nhân gây ra lạm phát,hoặc CSTT
quá nới lỏng ,dẫn tới tăng cung tiền,tăng đầu tư tín dụng quá mức cũng là nguyên nhân
gây lạm phát.Do vậy,để kiểm soát lạm phát ở mức mục tiêu luôn đòi hỏi sự phối hợp rất
chặt chẽ trong chính sách tiền tệ(CSTT) và chính sách tài khóa. Trong đó với những
nguyên nhân cụ thể như:
• Về phương pháp tính:
Phương pháp tính chỉ số CPI của các nước khác so với Việt Nam.
- Một là,các nước thường loại trừ giá lương thực,dầu mỏ ra khi tính toán
- Hai là,giá đó là giá giao dịch mua buôn,bán buôn trên thị trường hàng hóa
của các nhà kinh doanh,còn giá bán lẻ cho người tiêu dùng đối với nhiều
mặt hàng thì vẫn ổn định.
- Ba là,các mặt hàng đó chiếm tỷ trọng nhỏ trong các nhóm hàng hóa và
dịch vụ tính CPI.
• Điều tiết vĩ mô kém:
Một thực tế cần phải thừa nhận là điều tiết vĩ mô của chúng ta trước những biến
động bất thường cả từ trong và ngoài nước để nhằm bình ổn giá thị trường trong

nước là còn nhiều bất cập.Thí dụ,đến khi giá thuốc tân dược leo thang hằng ngày và
được bán ở mức rất cao,gây rối loạn thị trường thuốc chữa bệnh,lúc đó chúng ta mới
nghĩ đến vấn đề dự trữ quốc gia về thuốc tân dược.
• Cung ứng tiền tệ , tín dụng của ngân hàng Nhà nước:
Mức cung tiền trong những năm qua có sự nới lỏng quá mức là một trong những
nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát cao ở nước ta. Nếu như năm 2000 tổng
phương tiện thanh toán (M2) của Việt Nam chỉ ở mức dưới 60% GDP, thì đến cuối
năm 2010 đã lên đến trên 130% GDP (tổng dư nợ tín dụng trên 110% GDP). Tốc độ
tăng cung tiền cao hơn tốc độ tăng GDP theo giá thực tế đã tồn tại trong thời gian
dài. Vào năm 2007, tốc độ tăng trưởng M2 là 43,7%, tín dụng là 53,9%; mức tăng
kỷ lục này là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát cao vào năm
2008.
• Cơ chế quản lý của Nhà nước:
- Do bộ máy quản lý còn kém hiệu quả; vai trò điều tiết của nhà nước còn nhiều
hạn chế: chưa cung cấp những thông tin cần thiết về diễn biến cung cầu trên thị
trường nội địa và quốc tế, dẫn đến sản xuất nhiều khi còn tự phát, không gắn với thị
trường, các biện pháp nới lỏng tiền tệ kích cầu diễn ra trong thời kỳ đang chiếm lĩnh
kỷ cương lành mạnh hóa các ngân hàng thương mại (NHTM) nên các NHTM tỏ ra
thận trọng khi cho vay, người dân đa số có xu hướng tiết kiệm để chi tiêu vào việc
gì đó chứ không phải nhằm mục đích đầu tư.
- Rõ ràng rằng Ngân hàng nhà nước(NHNN) không “ngây thơ” khi tình hình lạm
phát căng thẳng mà vẫn phải tiếp tục “bơm” tiền vào cho nền kinh tế. Nguồn gốc
sâu xa của lạm phát chính là đến từ các chính sách tài khóa mở rộng của Chính
phủ,mà cụ thể là tập trung quá nhiều vốn cho hoạt động chi tiêu công kém hiệu quả,
yếu tố này cùng với sự thiếu độc lập của NHNN đã tạo nên sức đẩy cho mức giá cả
chung của nền kinh tế. Cộng thêm nữa là sự thiếu bài bản trong chính sách điều
hành nền kinh tế như: tăng giá đồng loạt nhiều mặt hàng quan trọng, phá giá tiền tệ
một cách giật cục đã góp phần khuếch đại tình trạng lạm phát của Việt Nam.
• Lạm phát do vay mượn vốn nước ngoài:
- Vì chạy đua với con số tăng trưởng nên nền kinh tế Việt Nam trong những năm

qua tăng trưởng nhờ đầu tư nước ngoài, không phải vì tiêu thụ. Tổng số đầu tư trong
năm 2009 tương đương 40% tổng sản lượng quốc gia. Vì nhu cầu vốn đầu tư cao
hơn tổng số tiền tiết kiệm trong nước nên chủ nợ đòi hỏi lãi xuất cao.
- Mặt khác, để có được vốn đầu tư đòi hỏi phải nhập dòng vốn từ nước ngoài. So
với các nước láng giềng như Indonesia và Philippines, Việt Nam phải trả lãi xuất
cao hơn 1% do cấu trúc kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính mang nhiều rủi ro.
Trường hợp trên đã dẫn đến lạm phát do lãi xuất tăng cao và doanh nghiệp phải trả
tiền lãi cao hơn làm tăng giá sản phẩm. Bên cạnh đó, Việt Nam vây mượn tiền vốn
nước ngoài đã thúc đẩy nhu cầu tiền nước ngoài cao hơn tiền nội địa đưa đến áp lực
giảm giá trị đồng tiền trong nước và làm tăng trưởng lạm phát.
 Nhưng tính đến đầu năm 2013,tình hình lạm phát ở Việt Nam đang có dấu hiệu
khả quan hơn, dần dần được duy trì ổn định. Nguyên nhân giúp lạm phát được duy trì
ổn định là do tổng cầu yếu khi giá mặt hàng thiết bị và đồ dùng gia đình, nhà ở và vật
liệu xây dựng, giao thông đều có xu hướng giảm và do xu hướng giảm giá hàng hóa
thế giới (nhất là giá lương thực và giá dầu thô). Nếu không có sự tăng giá mạnh của
nhóm hàng dược phẩm, y tế và giáo thì lạm phát chung sẽ không những ổn định mà
còn có xu hướng giảm: tốc độ tăng trung bình (không có trọng số) của giá nhóm các
hàng hóa ngoài dược phẩm, y tế, giáo dục, đã giảm từ 5,9% trong tháng 1/2013
xuống còn 4,7% trong tháng 6/2013.

×