LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT
VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT
NAM VỀ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
NAM VỀ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
LỜI NÓI ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI LUẬN VĂN VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế tất yếu của mọi nền kinh
tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung này. Thế nhưng quá trình hội
nhập đâu chỉ có cơ hội mà còn có nhiều thử thách và khó khăn buộc chúng ta
phải kiên trì và nỗ lực vượt qua.
Một trong những thử thách của quá trình hội nhập là việc hoàn thiện hệ
thống chuẩn mực kế toán để có thể hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động
kế toán của Việt Nam bắt nhịp kịp với sự hội nhập kế toán ở các nước có nền
kinh tế thị trường và quan trọng hơn là tạo môi trường pháp lý cho hội nhập kinh
tế, quốc tế và khu vực.
Các chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện nay đang được xây dựng trên cơ sở
các chuẩn mực kế toán quốc tế để tạo điều kiện cho quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam được dễ dàng hơn. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế xã hội
đặc thù của Việt Nam mà việc áp dụng toàn bộ các chuẩn mực kế toán quốc tế
vào thực tiễn hoạt động kinh doanh ở Việt Nam là chưa thể thực hiện được.
Chính nguyên nhân đú đó khiến cho các chuẩn mực kế toán Việt Nam dù được
xây dựng trên cơ sở các chuẩn mực kế toán quốc tế vẫn có nhiều điểm khác biệt
mang tính trọng yếu.
Việc xem xét nghiên cứu những điểm khác biệt giữa các chuẩn mực kế
toán Việt Nam và các chuẩn mực kế toán quốc tế là cần thiết trong nhiều mục
đích.
Mục đích thứ nhất là để giúp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hoạt động ở Việt Nam có thể thấy được những sự khác biệt căn bản giữa
hai hệ thống chuẩn mực kế toán, từ đó mà doanh nghiệp có thể dễ dàng thực
hiện sự chuyển đổi từ báo cáo theo chuẩn mực kế toán Việt Nam sang báo cáo
theo chuẩn mực kế toán quốc tế (phục vụ cho mục đích báo cáo tập đoàn) một
cách dễ dàng hơn.
Mục đích thứ hai là khi nghiên cứu những khác biệt của chuẩn mực kế toán
Việt Nam so với chuẩn mực kế toán quốc tế, chúng ta có thể rút ra được những
vấn đề mà cần bổ sung, sửa đổi trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam để từ đó
hoàn thiện hơn hệ thống các chuẩn mực kế toán Việt Nam phục vụ cho mục đích
hội nhập kinh tế.
Mục đích thứ ba là nghiên cứu những sự khác biệt giữa các hệ thống chuẩn
mực cũng góp phần cho công tác nghiên cứu và tìm hiểu về xu thế hài hòa hóa
cỏc quy định kế toán đang diễn ra trên thế giới.
Hiện nay, các công ty kiểm toán lớn tại Việt Nam như Deloitte, KPMG hay
Ernt & Young đều đó cú những nghiên cứu về so sánh các chuẩn mực kế toán
Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế. Tuy nhiên, chưa có những nghiên cứu
sâu vào một đối tượng cụ thể nào đó của báo cáo tài chính Tài sản cố định
không chỉ là một đối tượng kế toán quan trọng trên bảng cân đối kế toán mà còn
là một tư liệu lao động quan trọng trong mỗi doanh nghiệp. Do đó, sự khác biệt
giữa các chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế về tài sản
cố định sẽ có ảnh hưởng lớn tới việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Chớnh
vỡ những nguyên nhân trên mà tác giả bài này đã chọn nghiên cứu sự khác biệt
giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế về tài sản cố
định.
2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Bài luận văn này chỉ tập trung vào nghiên cứu sự khác biệt giữa các chuẩn
mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế có liên quan trực tiếp tới
tài sản cố định là chuẩn mực kế toán Việt Nam số 3 – Tài sản cố định hữu hình;
chuẩn mực kế toán Việt Nam số 4 – Tài sản cố định vô hình và chuẩn mực kế
toán Việt Nam số 6 – Thuê tài sản; Chuẩn mực kế toán quốc tế số 16 – Bất động
sản, nhà xưởng và dụng cụ; Chuẩn mực kế toán quốc tế số 38 – Tài sản cố định
vô hình và chuẩn mực kế toán Quốc tế số 17 – Thuê tài sản.
Bài luận văn này sẽ không đi sâu vào những vấn đề có liên quan đến tài sản
cố định và có liên quan đến các chuẩn mực trên mà được qui định chính trong
các chuẩn mực khác. Như quy định về vốn hóa chi phí lãi vay được qui định
chính trong chuẩn mực kế toán quốc tế số 23- chi phí lãi vay hay quy định về
tổn thất giá trị tài sản được quy định chính trong chuẩn mực kế toán quốc tế số
36- Sự giảm giá trị tải sản. Những quy định đó có thể được đề cập nhưng chỉ là
để hỗ trợ cho việc tìm hiểu sự khác biệt của các chuẩn mực được tập trung
nghiên cứu.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử để nghiên cứu các vấn đề một cách vừa ở tính toàn diện vừa ở tính cụ thể,
đảm bảo tính logic của vấn đề nghiên cứu.
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp qui nạp,
diễn giải, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp phân tích so sánh để
phân tích vấn đề, so sánh, đánh giá và rút ra vấn đề.
4. BỐ CỤC CỦA KHÓA LUẬN :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
khóa luận bao gồm :
Chương 1: Một số vấn đề chung về tài sản cố định.
Chương 2 : Chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam về
tài sản cố định.
Chương 3: Giải pháp để đưa chuẩn mực kế toán Việt Nam về gần với
chuẩn mực kế toán
Chương 1: Một số vấn đề chung về chuẩn mực kế toán :
I. Khái niệm và sự cần thiết phải có chuẩn mực kế toán:
1. Khái niệm về chuẩn mực kế toán :
Theo khoản 1 điều 8, luật kế toán số 03/2003/QH11 thì “chuẩn mực kế
toán gồm những nguyên tắc và những phương pháp kế toán cơ bản để ghi sổ kế
toán và lập báo cáo tài chính .”
Như vậy, các chuẩn mực kế toán là các văn bản tập hợp các nguyên tắc và
phương pháp kế toán ở mức độ tổng quát để định hướng cho các doanh nghiệp
trong việc ghi sổ kế toán các giao dịch của doanh nghiệp cũng như trong việc
;ập báo cáo tài chính.
Kết cấu của một chuẩn mực kế toán gồm các phần sau :
- Mục đích của chuẩn mực
- Phạm vi của chuẩn mực
- Các định nghĩa sử dụng trong chuẩn mực
- Phần nội dung chính gồm các nguyên tắc, các phương pháp, các yêu cầu
về lập và trình bày báo cáo tài chính
2. Sự cần thiết phải có chuẩn mực kế toán
Mục đích chung của việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế toán là
để thống nhất hoạt động kế toán trong một phạm vi địa lý (đó có thể là trong một
quốc gia, trong một khu vực hay trên toàn cầu).
Nếu như không có chuẩn mực kế toán , các công ty sẽ sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau để lập và trình bày báo cáo tài chính của mình. Ví dụ
nếu như không có chuẩn mực kế toán thì sẽ có công ty thì ghi nhận chi phí sửa
chữa và bảo trì tài sản vào giá trị tài sản với lý do là các chi phí đú giỳp tài sản
duy trì được trạng thái hoạt động tốt và nhờ đó đem lại lợi ích kinh tế cho công
ty. Thế nhưng sẽ có công ty lại lý luận rằng chi phí sửa chữa và bảo trì tài sản
chỉ giúp cho tài sản duy trì trạng thái hiện tại chứ không làm tăng thêm lợi ích
kinh tế từ tài sản. Do đó, công ty không ghi nhận chi phí đó vào giá trị tài sản.
Mỗi công ty đều cho rằng lý luận của mỡnh đỳng và lập báo cáo tài chính theo
những cách khác nhau. Và tất yếu, hai báo cáo tài chính của hai công ty không
thể đem ra so sánh với nhau được do chúng không được lập trên cùng một cơ
sở.
Không chỉ có thế, việc thiếu một bộ chuẩn mực kế toán sẽ là cơ hội cho
các công ty sử dụng các thủ pháp kế toán để làm đẹp báo cáo tài chính. Các công
ty thậm chí có thể biến tình trạng thua lỗ của công ty thành có lãi.
Việc thiếu chuẩn mực kế toán cũng tạo cơ hội cho các công ty được tùy ý
trình bày các thông tin có liên quan đến các đối tượng kế toán trên báo cáo tài
chính. Công ty có thể giấu diếm các thông tin bất lợi cho mình và chỉ trình bày
những thông tin có lợi cho mình.
Chớnh vì những vấn đề trên, người sử dụng báo cáo tài chính sẽ không
thể đưa ra một quyết định kinh tế hợp lý dựa vào các thông tin trên báo cáo tài
chính được. Ví dụ như nhà đầu tư không thể đưa ra quyết định chọn lựa công ty
nào để đầu tư vốn. Ngân hàng không thể đánh giá được khả năng trả nợ của các
công ty trong quá trình thẩm định tín dụng để quyết định nên cho công ty nào
vay. Các cơ quan thuế có thể thu không đủ thuế. Nhà Nước không thể đánh giá
được một cách chính xác hiệu quả hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp…
Ngoài ra, việc có một bộ chuẩn mực kế toán cũng giúp ích cho người sử
dụng báo cáo tài chính trong việc đọc và phân tích các báo cáo tài chính được
dễ dàng hơn. Người sử dụng báo cáo tài chính có thể hiểu được cấu trúc của báo
cáo tài chính, bản chẩt của các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính, hiểu được các
thuyết minh báo cáo tài chính bằng cách đọc các chuẩn mực kế toán. Từ đó,
người sử dụng báo cáo tài chính mới có thể đưa ra các phân tích chính xác về
hiệu quả hoạt động của công ty.
Một lợi ích nữa mà người sử dụng báo cáo tài chính có thể thu được từ
các chuẩn mực kế toán đó là sự đảm bảo rằng các công ty và các kiểm toán viên
thực hiện việc kiểm toán báo cáo tài chính đã tuân thủ các chuẩn mực kế toán
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Người sử dụng có thể không có
kiến thức về kế toán cũng như không đủ khả năng để hiểu được các chuẩn mực
kế toán nhưng nếu họ nghi ngờ về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài
chính thì họ có thể thuê một tổ chức chuyên nghiệp để kiểm định việc tuân thủ
các chuẩn mực kế toán của ban giám đốc các công ty cũng như của các kiểm
toán viên có liên quan. Như vậy, việc ban hành các chuẩn mực kế toán là một
cách để tăng thêm lòng tin cho người sử dụng báo cáo tài chính đối với các báo
cáo tài chính và ngăn ngừa nguy cơ gian lận trong việc lập và trình bày báo cáo
tài chính.
3. Phân loại chuẩn mực kế toán :
Hiện nay trên thế giới đang có hai hệ thống chuẩn mực là chuẩn mực kế
toán quốc tế và chuẩn mực kế toán quốc gia.
Các chuẩn mực kế toán quốc gia được soạn thảo và ban hành theo những
cơ chế rất khác nhau ở mỗi nước. Do mỗi nước có điều kiện kinh tế và chính trị
rất khác nhau nờn cỏc chuẩn mực kế toán giữa các nước có nhiều sự khác biệt.
Chuẩn mực kế toán quốc tế được soạn thảo và ban hành bởi Hội đồng
chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB). Mục đích của việc ban hành chuẩn mực kế
toán quốc tế là để tạo ra một sự hài hòa quốc tế trong lĩnh vực kế toán, để giảm
bớt các chi phí của việc các báo cáo tài chính được lập và trình bày theo những
chuẩn mực kế toán có nhiều khác biệt giữa các nước. Các chuẩn mực kế toán
quốc tế sau một thời gian dài phát triển đã được đón nhận bởi nhiều nước trên
thế giới. Xu hướng của các nước hiện nay là cố gắng đưa chuẩn mực quốc gia
tiệm cận với các chuẩn mực kế toán quốc tế.
II. Chuẩn mực kế toán quốc tế:
1. Lịch sử hình thành và phát triển của chuẩn mực kế toán thế giới :
1.1. Sự cần thiết phải có chuẩn mực kế toán quốc tế và những rào cản đối
với việc hình thành chuẩn mực kế toán quốc tế :
Sự phát triển của kế toán ở các nước thường có sự khác nhau về các qui
định và cách thức hạch toán kế toán cộng thêm sự khác biệt về hệ thống kinh tế
và điều kiện thương mại giữa các nước dẫn đến sự khác nhau giữa các nước về
mô hình và phương pháp kế toán.
Sự khác nhau này tạo nên nét đặc trưng của hệ thống kế toán mỗi quốc gia
nhưng lại có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của thị trường thế giới và có thể
làm giảm sút khả năng hợp tác, tìm kiếm vốn để cạnh tranh một cách có hiệu
quả. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, sự tồn tại của hệ thống chuẩn mực
kế toán quốc tế với vai trò là ngôn ngữ chung để làm cầu nối cho các nền kinh tế
là một nhu cầu tất yếu.
Tuy nhiên, rào cản đối với việc tạo lập các chuẩn mực kế toán chung là khá
nhiều:
(a) Sự khác biệt trong mục đích sử dụng báo cáo tài chính giữa các nước : ở
một số nước báo cáo tài chính chỉ đơn thuần được lập cho mục đích tính
thuế, còn ở nước khác là để hỗ trợ cho quá trình ra quyết định của nhà đầu
tư. Điều đó sẽ khiến cho yêu cầu trình bày báo cáo chi tiết đến mức độ nào
và chi tiết những khoản mục nào là khác nhau giữa các nước
(b) Do hệ thống pháp luật khác nhau dẫn đến sự hạn chế của một số hoạt động
kế toán và điều này đương nhiên sẽ được phản ánh trong các chuẩn mực kế
toán
(c) Mỗi nước có một quan điểm khác nhau về người sử dụng báo cáo tài chính
và tầm quan trọng của họ. Như ở Mỹ thì nhà đầu tư và các tổ chức tín dung
được đặt ưu tiên lên hàng đầu trong khi ở Châu Âu thì người lao động lại
được quan tâm nhiều hơn.
(d) Các nước đang phát triển hiển nhiên đang chậm chân hơn so với các nước
đã phát triển trong việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán. Có những quy tắc
và những chuẩn mực cơ bản đã được ban hành từ lâu ở các nước đã phát
triển thì nay mới chỉ được các nước đang phát triển tiến hành soạn thảo.
(e) Chủ nghĩa quốc gia cũng góp phần ngăn cản việc sử dụng các chuẩn mực
kế toán của nước khác.
(f) Sự khác biệt về văn hóa khiến cho mục tiêu của hệ thống kế toán khác nhau
giữa các nước
(g) Một vài nước phải ở vào trong những hoàn cảnh đặc biệt như siêu lạm phát,
nội chiến, hạn chế lưu thông tiền tệ,… tác động tới mọi mặt của đời sống
xã hội cũng như ảnh hưởng lớn tới các công ty khiến cho họ không thể lập
được các báo cáo theo các tiêu chuẩn bình thường.
(h) Một số nước không có một tổ chức kế toán độc lập đủ vững mạnh để tạo áp
lực dư luận giúp cho việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán tốt hơn và thúc
đẩy sự hài hòa về các nguyên tắc kế toán giữa các quốc gia.
1.2. Sự hình thành và phát triển của tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán
quốc tế:
1.2.1. Ủy ban xây dựng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) :
1.2.1.1. Ra đời năm 1973 ở London, nước Anh :
Thế nhưng, bất chấp những rào cản kể trên, năm 1973, Ủy ban xây dựng
chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) đã ra đời tại London, nước Anh với tư cách
là tổ chức soạn thảo chuẩn mực quốc tế đầu tiên trên thế. Sự ra đời của IASC là
kết quả của một thỏa thuận giữa các hiệp hội nghề nghiệp
của các nước Autralia,
Canada, Pháp, Đức, Nhật,Mexico, Phần Lan, Anh, Ireland và Mỹ.
IASC được thành lập trong một thời kỳ chứng nhiều biến động trong quy
định kế toán. Ở Mỹ, hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính (FASB) vừa mới
được thành lập. Ở Anh, cơ quan soạn thảo chuẩn mực quốc gia đầu tiên ra đời
(accounting standads committee – ASC). Trong khi đó, EU đang soạn thảo
những điểm chính trong kế hoạch hài hòa hóa hệ thống kế toán của riêng mình
(được đánh dấu bởi sự ra đời của chỉ thị số bốn (fourth directive) ban hành ngày
25/7/1978 bởi hội đồng liên minh Châu Âu). UN và OECD tại thời điểm này
cũng vừa mới thành lập hội đồng kế toán của riêng mình.
1.2.1.2. Giai đoạn nỗ lực để tồn tại như một tổ chức độc lập với IFAC và
duy trì vai trò là tổ chức duy nhất soạn thảo các chuẩn mực kế toán
quốc tế
Đến năm 1977, Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) được thành lập. IASC đã
phải đấu tranh quyết liệt để kháng cự lại những nỗ lực muốn biến IASC thành
thành viên của IFAC. Cuối cùng, IASC phải đi đến một nhượng bộ là dù cho
IASB vẫn tồn tại độc lập với IFAC nhưng các thành viên của IFAC tự động trở
thành viên của IASC và IFAC có thể đề cử thành viên cho cơ quan soạn thảo các
chuẩn mực kế toán quốc tế.
Cả UN và OECD trong giai đoạn những năm 70 của thế kỷ 19 đều rất tích
cực soạn thảo những nguyên tắc kế toán quốc tế. Thế nhưng, IASC đã thành
công trong việc thuyết phục UN và OECD hãy để IASC soạn thảo những
nguyên tắc quốc tế về ghi nhận và xác định giá trị của các đối tượng kế toán.
Như vậy, IASC đã thành công trong việc duy trì vai trò của mình là tổ chức
soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc tế duy nhất trên thế giới. Tuy nhiên, IASC
lại gặp khó khăn trong việc thuyết phục mọi người sử dụng các chuẩn mực do
chính mình soạn thảo ra. Dù cho các thành viên của IASC đã cam kết thúc đẩy
việc sử dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế ở mỗi quốc gia nhưng trên thực tế
thì một số hiệp hội nghề nghiệp thành viên lại ít có ảnh hưởng trong việc soạn
thảo các chuẩn mực kế toán quốc gia, một số hiệp hội thành viên lại ưa chuộng
chuẩn mực kế toán của quốc gia mình hơn là những chuẩn mực kế toán do IASC
soạn thảo và ban hành.
1.2.1.3. Những nỗ lực tìm kiếm sự tiếp nhận của cộng đồng thế giới đối với
những chuẩn mực kế toán quốc tế của IASC :
Năm 1987 đánh dấu một bước chuyển mới trong nỗ lực thúc đẩy việc sử
dụng các chuẩn mực quốc tế của IASC. Được sự ủng hộ và khích lệ từ ủy ban
chứng khoán Mỹ (US SEC), tổng thư ký IASC, ông David Cairns, đã ký một
thỏa thuận với tổ chức thế giới các ủy ban chứng khoán (IOSCO). Theo đó,
IASC sẽ xem xét sửa đổi các chuẩn mực kế toán quốc tế hiện có của mình để có
thể thỏa mãn nhu cầu của IOSCO là cần có một tập hợp các chuẩn mực làm cơ
sở chung cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính của các công ty muốn được
niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài.
IASC đã hoàn thành việc sửa đổi các chuẩn mực kế toán quốc tế vào năm
1993. Thế nhưng, IOSCO đã đưa ra một quyết định làm cho IASC vô cùng thất
vọng. Thay vì sử dụng toàn bộ bộ chuẩn mực kế toán quốc tế do IASC soạn
thảo, IOSCO chỉ lựa chọn một số chuẩn mực để áp dụng.
Đến năm 1995, IASC với một ban lãnh đạo hoàn toàn mới đã tiến hành
xem xét và sửa đổi một lần nữa các chuẩn mực kế toán quốc tế đã được ban
hành với mong muốn khắc phục những khiếm khuyết trong các chuẩn mực kế
toán đó. Lần này, với rất nhiều nỗ lực và nhượng bộ, bộ chuẩn mực kế toán quốc
tế đã được sửa đổi của IASC đã được IOSCO chấp nhận vào phỳt chút nhưng đó
chỉ mới là sự chấp nhận tạm thời.
Cùng thời gian đó, IASC cũng quan tâm xem xét tới việc tổ chức lại cơ cấu
của mình. Trong vòng 25 năm kể từ khi IASC được thành lập, mô hình soạn
thảo chuẩn mực kế toán mà theo đó việc soạn thảo các chuẩn mực là do các hội
nghề nghiệp đảm trách, đã và đang dần được thay thể bởi mô hình mới. Đó là
mô hình mà việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán được giao cho một hội đồng
quốc gia chuyên trách và độc lập thay vì cho một hội nghề nghiệp kế toán đảm
trách. Sự chuyển đổi này có thể thấy ở Anh và Mỹ. Ở Mỹ, việc soạn thảo chuẩn
mực kế toán được giao cho hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính (FASB) thay
vì cho hiệp hội kế toán công chứng Mỹ (AICPA). Còn ở Anh là giao cho ủy ban
chuẩn mực kế toán (ASC) sau đổi thành hội đồng chuẩn mực kế toán (ASB)
thay vì cho hiệp hội kế toán công chứng Anh (ACCA).
1.2.1.4. Mốc son năm 2000:
Năm 2000 có thể nói là một năm có nhiều biến động với IASC. Tháng 5
năm 2000, các thành viên IOSCO đã bỏ phiếu chấp nhận chính thức tất cả các
chuẩn mực kế toán quốc tế của IASC. Đây là một bước tiến đáng kể sau rất
nhiều nỗ lực kiên trì và bền bỉ của các thành viên IASC với hai lần sửa đổi
chuẩn mực kế toán kế toán quốc tế vào năm 1993 và 1995. Giấc mơ về một bộ
chuẩn mực kế toán chung được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới đã có cơ hội
được trở thành hiện thực bất chấp rất nhiều khó khăn và rào cản. IASC cuối
cùng đã nhận được sự hậu thuẫn của các cơ quan quản lý chứng khoán toàn cầu
thông qua IOSCO.
Tháng 6 năm 2000, Cao Ủy Châu Âu đưa ra tuyên bố sẽ đưa việc sử dụng
các chuẩn mực kế toán quốc tế của IASC trong việc lập trình và trình bày báo
cáo tài chính làm điều kiện cho các công ty có ý định niêm yết chứng khoán tại
bất kỳ nước thành viên nào của Liên Minh Châu Âu (EU). Đây là một thành
công ngoài sự mong đợi của IASC. Kể từ thời điểm đó, EU đã trở thành một tổ
chức có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tiến trình thúc đẩy sự tiếp nhận của cộng
đồng thế giới đối với các chuẩn mực kế toán quốc tế. Quả thực, sự hậu thuẫn
từng một thời là cứu cánh của IOSCO đối với IASC nay đã giảm bớt tầm quan
trọng trước tuyên bố trên của Cao Ủy Châu Âu.
Tiếp đú, thỏng 7 năm 2000, các thành viên của IASC đã bỏ phiếu tán thành
chuyển đổi cơ cấu từ chỗ dựa trờn cỏc hiệp hội nghề nghiệp thành một hội đồng
soạn thảo chuẩn mực kế toán chuyên trách và độc lập với các hội nghề nghiệp.
Ủy ban xây dựng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) chính thức đổi tên thành
Hội đồng kế toán quốc tế (IASB).
1.2.2. Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB):
Đến năm 2001, Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB – International
Accounting Standards Board) ra đời thay thế IASC và tồn tại cho đến ngày nay.
Cấu trúc của IASB có những cơ quan như sau:
Đứng đầu là Ban quản trị ủy ban xây dựng chuẩn mực kế toán quốc tế
(IASC foundation). Đây là một pháp nhân độc lập gồm hai bộ phận – các ủy
viên quản trị (trustee) và IASB. Ban quản trị ủy ban xây dựng chuẩn mực kế
toán quốc tế là cơ quan nắm giữ bản quyền của các chuẩn mực kế toán quốc tế
và các văn bản khác của IASB.
Các ủy viên quản trị chỉ định các thành viên của IASB, thực hiện việc
giám sát và gây quỹ cần thiết. Còn IASB có toàn bộ trách nhiệm đối với việc
soạn thảo các chuẩn mực kế toán
Ngoài ra, cơ cấu của IASB còn bao gồm hai cơ quan nữa là Hội đồng tư
vấn chuẩn mực (Standards Advisory Council –SAC) và ủy ban giải thích các
chuẩn mực kế toán quốc tế(International Financial Reporting Interpretations
Committee – IFRI
Ban quản trị ủy ban xây dựng chuẩn
mực kế toán quốc tế (22 ủy viên)
Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế
(14 thành viên)
Ủy ban giải thích các
chuẩn mực kế toán quốc
tế (12 thành viên)
Hội đồng tư vấn chuẩn mực
Các tổ chức soạn thảo
chuẩn mực kế toán quốc
gia và các bên liên quan
Chú thích
Bổ nhiệm
Báo cáo cho
Có liên hệ với
Tham vấn
Bảng 1 : Sơ đồ cấu trúc IASB
Các ủy viên quản trị (trustees) bao gồm một nhóm 20 người đến từ những
khu vực địa lý khác nhau và có những kinh nghiệm hoạt động khác nhau. Các ủy
viên quản trị bổ nhiệm thành viên của IASB, IFRIC, SAC. Bên cạnh việc giám
sát IASC để đảm bảo hoạt động hiệu quả của ủy ban này và gây quỹ, các ủy viên
quản trị còn phê chuẩn ngân sách của IASC và chịu trách nhiệm xem xét những
thay đổi trong điều lệ hoạt động của hội đồng. Các ủy viên quản trị được bầu sao
cho có 6 người đến từ Bắc Mỹ, 6 người đến từ Châu Âu, 4 người đến từ Châu Á
Thái Bình Dương và 3 đến từ các khu vực khác để đảm bảo sự cân bằng địa lý.
Hội đồng tư vấn chuẩn mực (Standards Advisory Council - SAC) tạo ra
một cầu nối chính thức giúp cho các tổ chức và cá nhân khác, những người mà
đến từ những khu vực địa lý khác nhau và có nền tảng học vấn đa dạng, được
đưa ra những ý kiến góp ý cho hội đồng và cũng có thể là tư vấn cho các ủy viên
quản trị. Hội đồng này bao gồm 15 thành viên và gặp nhau ít nhất 3 lần một
năm. Hội đồng này được tham vấn bởi IASB trong những dự án quan trọng. Hội
đồng cũng tư vấn cho IASB về những ưu tiên trong lịch trình hoạt động và tác
động của các chuẩn mực được đề xuất có ảnh hưởng đến người sử dụng và
người lập báo cáo tài chính.
Ủy ban giải thích chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRIC) đưa ra những chỉ dẫn
về cách áp dụng và giải thích các tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế. Ủy ban
này chịu trách nhiệm về những vấn đề báo cáo tài chính mới xuất hiện mà chưa
được nêu ra trong các tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế hoặc những vấn đề
mà chưa có cách giải thích phù hợp hoặc có những sự giải thích trái ngược.
Trong quá trình hoạt động, hội đồng này đã sửa đổi, bổ sung một số chuẩn
mực kế toán cũ, thay thế chuẩn mực kế toán cũ bằng những những chuẩn mực
kế toán bằng trình bày báo cáo tài chính và ban hành một số chuẩn mực kế toán
mới về những vấn đề chưa được đề cập trước đó.
1.3. Sự tiếp nhận của cộng đồng quốc tế đối với các chuẩn mực kế toán quốc
tế :
Ngoài hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế, mỗi quốc gia lại cho sự lựa
chọn riêng để xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán của mỡnh. Cú quốc gia vận
dụng 100% các chuẩn mực kế toán quốc tế mà không cần sự sửa đổi, bổ sung
(như Nam Phi, Mông Cổ, Thụy Sỹ,…); có quốc gia tuy vận dụng 100% chuẩn
mực kế toán quốc tế nhưng cú thờm phụ lục để bổ sung hoặc bớt đi một số nội
dung (như Malaysia, Singapo,…); có quốc gia vận dụng có chọn lọc các nội
dung của chuẩn mực kế toán quốc tế và sửa đổi bổ sung thêm để phù hợp với
đặc điểm của nền kinh tế quốc gia mình (như Anh, Pháp, Việt Nam…) và có
quốc gia tự xây dựng hệ thống chuẩn mực riờng khụng sử dụng chuẩn mực kế
toán quốc tế (như Mỹ, Thái Lan, ).
2. Quy trình soạn thảo nờn cỏc chuẩn mực kế toán quốc tế :
Chuẩn mực kế toán quốc tế được hình thành qua một hệ thống các quy trình
chuẩn và được sự tham vấn rộng rãi của cộng đồng quốc tế.
Quy trình chuẩn cho việc soạn thảo một chuẩn mực kế toán quốc tế gồm
các bước sau:
Bước 1: Các nhân viên của IASB sẽ nhận diện, xem xét và đề xuất các vấn đề
mà có thể làm cho hội đồng quan tâm. Hội đồng sẽ thảo luận về các dự án tiềm
năng và quyết định để theo đuổi một dự án phải được đưa ra trong một cuộc họp
hội đồng công khai. Trước khi đi đến một quyết định như vậy, IASB sẽ tham
vấn SAC để lên một lịch trình hoạt động và đặt ra các ưu tiên.
Bảng 2: Quy trình chuẩn cho việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế.
Bước 2: Khi đưa một dự án vào một lịch trình hoạt động, IASB sẽ quyết định có
thực hiện dự án đó một mình hay là sẽ hợp tác với các tổ chức soạn thảo chuẩn
mực khác.
Bước 3: Sau khi xem xét bản chất của vấn đề, IASB sẽ thiết lập một nhóm làm
việc
Đề xuất dự án soạn thảo chuẩn mực kế
toán quốc tế
Xem xét việc hợp tác với các tổ chức
soạn thảo chuẩn mực quốc gia
Thành lập các nhóm làm việc
(working group)
Đưa ra văn bản mời thảo luận
(discussion paper)
Công bố bản thảo lấy ý kiến công chúng
(exposure draft)
Thu thập và xem xét các nhận xét
Soạn thảo chính thức chuẩn mực kế toán
quốc tế
Bước 4: Mặc dầu một văn bản mời thảo luận không phải là một bước bắt buộc
trong quy trình chuẩn, IASB vẫn thường công bố một văn bản mời thảo luận cho
những chủ đề mới quan trọng. Thông thường thì một văn bản mời thảo luận sẽ
bao gồm một phần tổng quát về vấn đề được bàn luận, các cách tiếp cận để giải
quyết vấn đề, quan điểm ban đầu của tác giả hay của IASB và một lời mời đưa
ra ý kiến. Nếu IASB quyết định bỏ bước này thì IASB phải đưa ra lý do giải
thích
Bước 5: Công bố bản thảo (draft) lấy ý kiến công chúng là một bước bắt buộc
trong quy trình chuẩn. Bản thảo này phải được chín thành viên của IASB phê
chuẩn. Một bản thảo sẽ bao gồm cơ sở để đưa ra kết luận và các quan điểm trái
ngược từ các thành viên IASB không phê chuẩn.
Bước 6: IASB sẽ xem xét những lời nhận xét và kết quả của những lần tham vấn
khác.
Bước 7: Khi IASB thấy rằng hội đồng đã có thể đưa ra một kết luận về vấn đề
đang được thảo luận, hội đồng sẽ chỉ đạo cho nhân viên của mình soạn thảo
chính thức các chuẩn mực kế toán quốc tế. Một chuẩn mực kế toán mới phải
được chính thành viên của IASB phê chuẩn. Một chuẩn mực kế toán sẽ bao gồm
cơ sở để đưa ra kết luận và các quan điểm trái ngược từ các thành viên IASB
không phê chuẩn.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa IASB và các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế
toán của các quốc gia là một nhân tố quan trọng giúp cho IASB có thể hoàn
thành nhiệm vụ của mình. IASB đang tìm cách để tạo ra sự hài hòa giữa quy
trình chuẩn của IASB và quy trình chuẩn của các quốc gia. Đặc biệt, IASB đang
đề xuất một quy trình phối hợp giữa IASB và các tổ chức soạn thảo chuẩn mực
kế toán quốc gia cho những dự án mang tầm quốc tế. Quy trình đó như sau :
(a) IASB sẽ phối hợp với các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán của các
quốc gia để khi IASB bắt đầu thực hiện một dự án, các tổ chức soạn thảo
chuẩn mực kế toán đó sẽ đưa dự án đó vào kế hoạch hoạt động của mình.
Nhờ đó, một sự đồng thuận quốc tế cao trong việc soạn thảo chuẩn mực kế
toán có thể đạt được. Tương tự, khi tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán
của một quốc gia bắt đầu một dự án của họ, IASB cũng sẽ xem xét xem
liệu hội đồng có cần soạn thảo một chuẩn mực kế toán mới hay xem xét lại
các chuẩn mực kế toán hiện hành. Qua một khoảng thời gian hợp lý, IASB
và các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia sẽ cùng xem xét lại
tất cả các chuẩn mực nơi có sự khác biệt đáng kể và ưu tiên cho những vấn
đề cso sự khác biệt lớn nhất.
(b) Các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia không bắt buộc phải
dựa theo các chuẩn mực kế toán quốc tế khi soạn thảo các chuẩn mực kế
toán của quốc gia mỡnh vỡ mỗi nước có quyền tự do lựa chọn có sử dụng
các chuẩn mực kế toán quốc tế có bổ sung sửa đổi một số điều hay là lựa
chọn các chuẩn mực khác. Tuy nhiên, một sự đồng thuận quốc tế sẽ là một
nhân tố mà các nhà soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia sẽ xem xét đến
khi họ soạn thảo các chuẩn mực kế toán của quốc gia mình.
(c) IASB sẽ tiếp tục công bố bản dự thảo chuẩn mực lấy ý kiến công chúng của
riêng mình
(d) Các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia cũng sẽ công bố cho
công chúng bản dự thảo chuẩn mực của riêng mình cùng thời gian với bản
dự thảo chuẩn mực của IASB và sẽ cùng kêu gọi những góp ý cho những
sự khác biệt quan trọng trong cả hai bản dự thảo. Trong một số trường hợp,
các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia có thể đưa vào bản dự
thảo những quan điểm cụ thể về những vấn đề có liên quan đến quốc gia họ
hoặc có thể kèm theo những chỉ dẫn cụ thể thường có trong những văn bản
tương ứng của IASB.
(e) Các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia sẽ tuân theo quy trình
soạn thảo chuẩn mực riêng mà họ cho rằng là hài hòa nhất với quy trình
soạn thảo chuẩn mực của IASB. Sự hài hòa này sẽ loại bỏ mọi sự trì hoãn
không cần thiết trong quá trình soạn thảo chuẩn mực và hạn chế ở mức tối
đa những sự khác biệt không cần thiết giữa chuẩn mực kế toán quốc tế và
chuẩn mực kế toán quốc gia.
3. Lợi ích của việc ban hành các chuẩn mực kế toán quốc tế :
Các chuẩn mực kế toán quốc tế ra đời dựa trên nhu cầu thực tế của đời
sống. Chúng ta có thể liệt kê ra rất nhiều lợi ích của việc có những chuẩn mực
quốc tế chung:
3.1. Lợi ích đối với các nhà đầu tư :
- Các nhà đầu tư, cả nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức, sẽ có thể so
sánh các kết quả tài chính của các công ty khác nhau nằm ở các nước khác nhau
trên toàn thế giới cũng như đưa ra các quyết định đầu tư quốc tế một cách dễ
dàng hơn và tốn kém ít chi phí hơn.
3.2. Lợi ích đối với các công ty đa quốc gia :
- Các công ty đa quốc gia sẽ dễ dàng kêu gọi được vốn đầu tư từ các nhà
đầu tư nước ngoài hơn.
-Quản lý cũng dễ dàng hơn với các công ty này do cùng được soạn thảo
trên một chuẩn mực kế toán chung làm cho các thông tin tài chính được truyền
tải giữa công ty con và công ty mẹ dễ dàng hơn.
-Việc thâu tóm và sáp nhập các công ty nước ngoài cũng dễ dàng hơn. Các
công ty đa quốc gia cũng có thể tuân thủ theo các yêu cầu về báo cáo của các sở
giao dịch chứng khoán ở nước ngoài được thuận lợi hơn.
-Việc soạn thảo các báo cáo hợp nhất cấp tập đoàn sẽ không phải trải qua
nhiều bước chuyển đổi từ báo cáo theo chuẩn mực kế toán quốc gia nơi công ty
con đóng trụ sở sang báo cáo theo chuẩn mực kế toán nơi công ty mẹ đóng trụ
sở.
-Phí kiểm toán sẽ được giảm bớt do khi các báo cáo cùng được lập trên
cùng một cơ sở thì sẽ tạo điều kiện cho kiểm toán kiểm tra nhanh hơn dẫn đến
tốn ít thời gian và chi phí hơn.
-Việc điều chuyển các nhân viên kế toán từ nước này sang nươc khác sẽ trở
nên dễ dàng hơn.
3.3. Lợi ích đối với các nước đang phát triển:
Chính phủ của các nước đang phát triển cũng sẽ tiết kiệm đươc thời gian
nếu họ có thể sử dụng luụn cỏc chuẩn mực kế toán quốc tế thay vì phải soạn
thảo các chuẩn mực kế toán riêng cho quốc gia mình. Nếu các quốc gia này sử
dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế thì họ có thể kiểm soát tốt hơn hoạt động
của các công ty đa quốc gia đang hoạt động trong phạm vi lãnh thổ của nước
mỡnh. Cỏc công ty này không thể viện lý do là họ không thể hiểu bản chất của
các chuẩn mực kế toán quốc gia nờn khụng lập các báo cáo tuân theo các chuẩn
mực.
3.4. Lợi ích đối với các cơ quan thuế:
việc tính thuế cho các khoản thu nhập có nguồn gốc nước ngoài của các
nhà đầu tư hay của các công ty đa quốc gia sẽ dễ dàng hơn.
3.5. Lợi ích đối với việc xúc tiến thương mại trong khu vực:
Các tổ chức kinh tế khu vực có thể đẩy mạnh giao thương trong một khu
vực địa lý nhất định nhờ có các chuẩn mực kế toán chung làm nền tảng cho việc
lập và cung cấp các thông tin kế toán được thống nhất. Các nước trong khu vực
khu tham gia buôn bán với nhau trong khu vực không phải mất thời gian và chi
phí tìm hiểu, nghiên cứu về chuẩn mực kế toán của nước kia và cũng không tốn
chi phí phải chuyển đổi báo cáo từ chuẩn mực của nước này sang chuẩn mực
của nước khác.
3.6. Lợi ích đối với các công ty kế toán và kiểm toán
Các công ty kế toán hay kiểm toán cũng sẽ hoạt động dễ dàng hơn trên
phạm vi quốc tế khi cú cỏc chuẩn mực kế toán quốc tế chung được sử dụng ở
nhiều nước trên thế giới.
II. Chuẩn mực kế toán Việt Nam:
1. Sự hình thành và phát triển của chuẩn mực kế toán Việt Nam:
1.1. Hoàn cảnh ra đời của các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam :
Trước khi mở cửa hội nhập, Việt Nam không có chuẩn mực kế toán mà chỉ
có chế độ kế toán. Chế độ kế toán là các quy định do doanh nghiệp Nhà Nước
ban hành chủ yếu để hướng dẫn các doanh nghiệp Nhà Nước và Hợp tác xã thực
hiện công tác kế toán.
Đến năm 2000, thời điểm các chuẩn mực kế toán đầu tiên được soạn thảo ở
Việt Nam cũng là thời điểm chứng kiến nhiều biến động có ảnh hưởng tới hoạt
động kế toán cả trên thế giới và ở Việt Nam. Như đã phân tích ở phần 1.2.1,
năm 2000 được coi là mốc son đánh dấu nhiều thành công sau hơn 30 năm nỗ
lực không ngừng nghỉ của IASC trong việc thúc đẩy sự tiếp nhận của cộng đồng
quốc tế đối với các chuẩn mực kế toán quốc tế. IASC đã nhận được sự hẫu thuẫn
từ IOSCO cũng như từ Cao Ủy Châu Âu với tuyên bố sử dụng các chuẩn mực
kế toán quốc tế làm điều kiện cho việc niêm yết chứng khoán ở tất cả các nước
thành viên của EU.
Năm 2000 cũng là năm chứng kiến sự ra đời của thị trường chứng khoán
Việt Nam ánh dấu bằng sự kiện khai trương Trung tâm Giao dịch chứng khoán
TP HCM ngày 20/7/2000. Sự ra đời của thị trường chứng khoán tạo ra cơ hội
cho các doanh nghiệp Việt Nam cú thờm một kênh thu hút vốn bằng việc niêm
yết trên tại các trung tâm mà sau này thành các sở giao dịch chứng khoán. tuy
nhiên, để có thể thu vốn được thỡ cỏc doanh nghiệp phải có những báo cáo tài
chính phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng
như có khả năng so sánh được giữa các doanh nghiệp. Nhu cầu đó đòi hỏi sự ra
đời của các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam để thống nhất cách hạch toán kế toán
của các doanh nghiệp.
1.2. Việc ban hành các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam:
Việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam cú cỏc đặc
điểm sau :
1.2.1. Các chuẩn mực kế toán Việt Nam được ban hành trên cở sở các
chuẩn mực kế toán quốc tế :
Các chuẩn mực này được soạn thảo dựa trên các chuẩn mực kế toán
quốc tế đã được ban hành nhưng có sửa đổi bố sung một số điều. Điều này
được thể hiện rõ ở khoản 2, điều 8 Luật kế toán số 03/2003/QH11: “Bộ Tài
Chính quy định chuẩn mực kế toán trên cơ sở chuẩn mực kế toán quốc tế về kế
toán và theo quy định của Luật này (Luật kế toỏn)”.
Việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán Việt Nam dựa trên các chuẩn mực
kế toán quốc tế là một bước phát triển từ chỗ hoạt động kế toán chỉ chú trọng
cho mục đích tính thuế sang một hệ thống kế toán toàn diên hơn, tiệm cận gần
hơn với những quy định báo cáo tài chính phưc tạp trong các chuẩn mực kế toán
quốc tế, góp phần tạo nên sự hài hòa quốc tế về hoạt động kế toán.
Các chuẩn mực kế toán Việt Nam đã được dịch ra tiếng anh tạo điều kiện
cho các nhà đầu tư nước ngoài, các nước thành viên trong khu vực và trên toàn
thế giới có thể tiếp cận dễ dàng với hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam. Điều
này không chỉ góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kế toán
của Việt Nam bắt nhịp kịp với sự hội nhập kế toán ở các nước có nền kinh tế thị
trường mà quan trọng hơn là tạo môi trường pháp lý cho hội nhập kinh tế, quốc
tế và khu vực.
1.2.2. Tuy dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế nhưng tính đến nay số
lượng của các chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn chưa tương đương :
Tính cho đến nay đó cú 5 đợt Bộ Tài Chính ban hành các chuẩn mực kế
toán. Đợt 1 và đợt 2 là vào ngày 31 tháng 12 năm 2001 với 10 chuẩn mực kế
toán đầu tiên. Đợt 3 là vào ngày 30 tháng 12 năm 2003 với 6 chuẩn mực kế toán.
Đợt 4 là vào ngày 15 tháng 2 năm 2005 với 6 chuẩn mực kế toán và đợt 5 là vào
ngày 28 tháng 12 năm 2005 với 4 chuẩn mực kế toán. Sau mỗi lần ban hành
chuẩn mực đều có thông tư hướng dẫn đi kèm hướng dẫn cách hạch toán cụ thể
trong từng trường hợp. Và cho đến tháng 12/2005, Bộ Tài Chính đã ban hành
được hai mươi sáu chuẩn mực kế toán
Như vậy, so với số lượng 38 chuẩn mực kế toán quốc tế hiện có (bao gồm 9
IFRS và 29 IAS) thì Việt Nam còn thiếu nhiều chuẩn mực tuơng đương. Điều
đó cho thấy có một số chuẩn mực kế toán mà Việt Nam còn phải nghiên cứu để
soạn thảo nhằm đáp ứng nhu cầu hạch toán kế toán của các doanh nghiệp Việt
Nam trong thời đại mà các giao dịch mới phát sinh ngày một nhiều và bản chất
của các giao dịch kinh tế ngày một phức tạp. Việc thiếu các chuẩn mực hướng
dẫn cho các doanh nghiệp xử lý các giao dịch khi chúng phát sinh sẽ gây ảnh
hưởng không nhỏ đến tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính cũng như
không đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin cho người sử dụng.
1.2.3. Việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán Việt Nam không dựa trên một
Khung Khái niệm (conceptual framework) :
Một vấn đề lớn nữa đối với việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế
toán ở Việt Nam là chúng ta hiện nay chưa có một khung khái niệm
(conceptual framework) để cung cấp nền tảng và những nguyên tắc cơ bản cho
việc soạn thảo cũng như phát triển các chuẩn mực kế toán. Mục đích của việc
xây dưng khung khái niệm là để đảm bảo rằng các chuẩn mực kế toán quốc tế
được soạn thảo không mẫu thuẫn với nhau và cung cấp một cơ sở để đánh giá
xem một hành vi không tuân theo chuẩn mực có thể được chấp nhận hay không
nếu như nó khụng đi ngược lại các nguyên tắc đã được đề ra trong khung khái
niệm. Có thể nói, khung khái niệm có chức năng như hiến pháp của một nước,
đề ra các nguyên tắc cơ bản cho một hệ thống kế toán mà các chuẩn mực kế toán
được soạn thảo theo khung khái niệm này không được có bất cứ quy định nào đi
ngược lại tinh thần của khung khái niệm đó.
Thiếu một khung khái niệm được xây dựng một cách rõ ràng, hoàn chỉnh
dẫn đến việc hệ thống kế toán sẽ phải xây dựng theo hướng dựa trên các quy
định và Việt Nam hiện đang đi theo hướng đó. Có rất nhiều quy định được soạn
thảo để hướng dẫn cách hạch toán từng nghiệp vụ kinh tế cụ thể. Điều đó không
chỉ làm cho hệ thống kế toán trở nên cồng kềnh mà còn khiến cho các quy định
trong trong chuẩn mực được ban hành trước có thể không thống nhất với chẩn
mực được ban hành sau.
Những vấn đề trong việc xây dừng chuẩn mực kế toán Việt Nam được nêu
ở trên là điều dễ hiểu vì quan điểm của xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán
Việt Nam là phải phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, phù hợp với đặc
thù về trình độ phát triển kinh tế, cơ chế chính trị, hệ thống pháp luật, văn hóa,
xã hội của Việt Nam, phù hợp với trình độ nguồn nhân lực kế toán của Việt
Nam. Những vấn đề này chỉ là tạm thời và sẽ dần dần được giải quyết khi nền
kinh tế Việt Nam phát triển đến mức độ cao hơn, trình độ của nguồn nhân lực kế
toán tốt hơn.
2. Cơ chế ban hành các chuẩn mực kế toán Việt Nam:
Tại Việt nam, Quốc hội có thẩm quyền ban hành Luật kế toán. Bộ Tài
Chính có thẩm quyền ban hành các chuẩn mực kế toán.
Các chuẩn mực kế toán được nghiên cứu và soạn thảo bởi ban chỉ đạo
nghiên cứu, soạn thảo chuẩn mực kế toán Việt Nam. Ban chỉ đạo gồm 13 thành
viên, ngoài các thành viên từ các cơ quan thuộc Bộ Tài Chính còn bổ sung thờm
cỏc thành viên từ các trường đại học và Hội kế toán Việt Nam. Vụ chế độ kế
toán là đơn vị thường trực của các ban chỉ đạo và các tổ soạn thảo chuẩn mực,
có nhiệm vụ tổ chức triển khai việc soạn thảo, tiếp thu ý kiến và hoàn chỉnh
trình Bộ ký ban hành.
Hội đồng quốc gia về kế toán thuộc Bộ Tài Chính có chức năng tư vấn cho
Bộ Trưởng Bộ Tài Chính về chiến lược, chính sách phát triển và các vấn đề khác
liên quan đến kế toán, kiểm toán. Hội đồng bao gồm 1 chủ tịch, 2 phó chủ tịch
và 14 ủy viên đến từ Bộ Tài Chính, các trường đại học và các bộ ngành. Bộ phận
thường trực của Hội Đồng đặt tại vụ chế độ kế toán – Bộ Tài Chính.
Theo Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC,thỡ Bộ Tài Chính đó cú lộ trình bàn
giao dần chức năng ban hành các chuẩn mực kế toán và kiểm toán cho Hội Kế
toán và Kiểm toán Việt Nam, có tên gọi tắt theo tiếng Anh là VAA (Vietnamese
Association of Accountants and Auditors).
Theo tác giả nhận định thì cơ chế soạn thảo chuẩn mực kế toán ở Việt
Nam có một số vấn đề sau:
Một là, việc để cơ quan phụ trách soạn thảo và ban hành chuẩn mực kế
toán là Bộ Tài chính sẽ khiến các chuẩn mực được soạn thảo có thể không khách
quan, bị thiên lệch để phục vụ lợi ích của Nhà Nước hay của một nhóm lợi ích
nào đó. Do Bộ Tài Chính cũng phụ trách việc soạn thảo và ban hành các thông
tư hướng dẫn thi hành các luật thuế cũng như tham gia vào việc quyết định các
chính sách tài chính của Nhà Nước, các chuẩn mực kế toán được soạn thảo bởi
Bộ Tài Chính có khả năng bị ảnh hưởng bởi các luật thuế và các chính sách tài
chính. Các chuẩn mực có khả năng được soạn thảo để tận thu thuế nhiều nhất
hay để phù hợp với các chính sách tài chính của Nhà Nước. Các doanh nghiệp
cũng có thể can thiệp vào quá trình soạn thảo bằng việc vận động hành lang
những người có tham gia vào quá trình soạn thảo hay những người có thẩm
quyền quyết định ban hành chuẩn mực kế toán.
Hai là, cơ chế soạn thảo chuẩn mực kế toán của Việt Nam cũng chưa có
chỗ cho việc lấy ý kiến của công chúng đặc biệt là cỏc bờn liên quan như các
doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực hay những người hành nghề kế toán, kiểm
toán. Cho dù là việc soạn thảo chuẩn mực kế toán có được thực hiện bởi rất
nhiều người có kinh nghiệm và tri thức về kế toán thì cũng không thể tránh khỏi
việc các chuẩn mực đưa ra các quy định không rõ ràng, thiếu tính thực tiễn, gây
khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. Cho nên việc lấy ý kiến của công
chúng không chỉ được thực hiện sau khi ban hành chuẩn mực mà nên được tiến
hành khi đang trong quá trình soạn thảo.
Ba là, không nên giao việc soạn thảo chuẩn mực kế toán cho Hội kế toán
và kiểm toán Việt Nam (VAA) vì như vậy là đi ngược lại xu hướng chung của
thế giới. Như đã phân tích ở phần 2.1.1. về hoạt động của IASC, sự thay đổi từ
IASC sang IASB là tuân theo xu hướng chuyển đổi từ mô hình để cho hội nghề
nghiệp soạn thảo các chuẩn mực kế toán sang mô hình giao việc soạn thảo các
chuẩn mực cho một hội đồng chuyên trách và độc lập. Như vậy nếu giao việc
soạn thảo các chuẩn mực kế toán cho VAA là Việt Nam đang đi ngược lại xu
hướng chung của thế giới. VAA là hội của những kế toán và kiểm toán viên, họ
là những người phải tuân theo chuẩn mực kế toán trong quá trình hoạt động của
mình. Nếu để cho những người tuân theo chuẩn mực phụ trách việc soạn thảo
chuẩn mực thì chẳng khác nào để cho họ tự đề ra luật chơi cho chính mình.
Do đó, tác giả cho rằng nên thành lập một hội đồng soạn thảo chuẩn mực
kế toán riêng giống như mô hình của Hội đồng các chuẩn mực kế toán tài chính
(FASB) của Mỹ hoặc Hội đồng chuẩn mực kế toán (ASB) của Anh. Hội đồng
này sẽ hoàn toàn độc lập với cả Bộ Tài Chính lẫn VAA, chuyên trách về việc
soạn thảo các chuẩn mực kế toán.
3. Vai trò của các chuẩn mực kế toán đối với nền kinh tế Việt Nam:
3.1. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài và góp phần phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam :
Việt Nam đang thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với việc đa
dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác ngoài doanh
nghiệp nhà nước. Trước đây, chúng ta chỉ có những chính sách tài chính, quy
định dành riêng cho các doanh nghiệp nhà nước mà không cú cỏc chính sách và
quy định đối với doanh nghiệp cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, từ đó, không tạo
ra môi trường bình đẳng và sự đồng nhất, có thể so sánh được. Còn ngày nay,
cạnh tranh mạnh mẽ hơn, bình đẳng hơn đòi hỏi các doanh nghiệp phải công
khai thông tin một cách hữu hiệu hơn để tăng cường thu hút đầu tư. Thêm vào
đó nhu cầu của nhà đầu tư là có một cơ sở để so sánh các công ty với nhau nhằm
đưa ra các quyết định đầu tư bắt đầu nảy sinh cùng với sự ra đời của thị trường
chứng khoán Việt Nam và sự thay đổi trong chính sách đầu tư của Việt Nam. Đó
là Chính phủ Việt Nam ngày càng mong muốn kêu gọi các nhà đầu tư nước
ngoài đổ vốn vào Việt Nam.
Do đó, sự ra đời của hệ thống chuẩn mực kế toán đã đáp ứng nhu cầu minh
bạch hóa thông tin của doanh nghiệp thụng cỏc báo cáo tài chính có khả năng
phản ánh đúng thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp và tạo một cơ sở chung
để so sánh các doanh nghiệp với nhau. Không phải chỉ là sự so sánh giữa các
loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam, mà còn có thể so sánh doanh nghiệp Việt
Nam với những doanh nghiệp nước ngoài, hoặc là doanh nghiệp nước ngoài
cũng có thể so sánh với doanh nghiệp Việt Nam. Vì thế, mục tiêu của chuẩn
mực kế toán là rất cao và khác hẳn với cơ chế chính sách mà Việt Nam đó cú từ
những năm trước.
Đõy chính là tiền đề cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt
Nam vì yêu cầu đặt ra đối với các công ty niêm yết là phải công khai, minh bạch
thông tin và báo cáo tài chính trung thực.