đề cương đường lối cách mạng đảng cộng sản việt nam
Thứ hai, 16/11/2009 08:58 am
Câu 1: Những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Công sản
Việt Nam
Tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập một chính đảng duy nhất của Việt
Nam - Đảng Cộng sản Việt Nam tại Cửu Long – Hương Cảng (Trung Quốc) được tiến hành
trong thời gian từ ngày 6-1-1930 đến ngày 7-2-1930 (sau này tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III của Đảng ngày 10-9-1960 quyết nghị “từ nay trở đi sẽ lấy ngày 3 tháng 2 dương
lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng”.
Thành phần dự Hội nghị gồm 2 đại biểu của Đông Dương cộng sản Đảng (Trịnh Đình
Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu của An Nam cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm và
Nguyễn Thiệu), dưới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc-đại diện của Quốc tế Cộng sản. Đại diện
của Đông Dương Cộng sản liên đoàn không đến kịp, do vậy đến ngày 24-2-1930 xin gia nhập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nội dung Hội nghị: Thông qua các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc soạn thảo.
Đó là Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam . Lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau này Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng được xem là
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, đã phản ánh những nội
dung cơ bản nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con
người trên đất nước Việt Nam.
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được Hội
nghị thống nhất thông qua là:
1- Khẳng định phươnghướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đó là: "chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".(Sau này gọi
là cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa). Tính chất giai đoạn và lý luận
cách mạng không ngừng đã được thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng: cách mạng tư
sản dân quyền là thời kỳ dự bị để tiên lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là con đường cứu
nước mới, khác với những chủ trương, những con đường cứu nước của những nhà yêu nước
đương thời đã đi vào bê tắc và thất bại. Như vậy, ngay từ đầu Đảng ta đã tiếp thu và vận dụng
sáng tạo lý luận MÁC-LÊNIN vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Đường lối cơ bản của cách
mạng Việt Nam được phản ánh trong Cương lĩnh đã thiện được tư tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghiã xã hội. Việc xác định đúng đắn phương hướng, con đường của cách mạng
Việt Nam ngay từ đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là ngọn cờ tập hợp lực lượng cách
mạng, là cơ sở để giải quyết đứng đắn các vấn đề cơ bản của cách mạng việt Nam.
2- Nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh chỉ rõ: ''Đánh đố
đế quốc chủ nghĩa và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Tức là
nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân) là chống đế quốc giành độc lập cho dân tộc và chống phong kiến để giành ruộng đất cho
dân cày. Trong đó nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ được đặt lên hàng
đầu.
Xuất phát từ đặc điếm của chế độ thuộc địa nửa phong kiến, đây là hai nhiệm vụ cơ bản
của cách mạng Việt Nam. Sự kết hợp hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến đã
khẳng định tính toàn diện, triệt để của đường lối cách mạng Việt Nam. Những nhiệm vụ đó là
biểu hiện sinh động của việc kết hợp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội và giải phóng con người trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc.
3- Về lực lượng của cách mạng Việt Nam , phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là
lực lượng cơ bản trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Cương lĩnh nêu rõ: "Đảng
phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. đế kéo họ
đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam
mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập''. Đây
là tư tưởng tập hợp lực lượng cách mạng trên cơ sở đánh giá thái độ các giai cấp phù hợp với
đặc điểm xã hội Việt Nam.
Để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, Cương lĩnh chỉ ra rằng, phải đoàn kết với
tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước. Đó là sự thể hiện quan điểm: cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm nên lịch sử. Đồng thời, Cương lĩnh cũng
đã chỉ ra lực lượng chính, động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là công nhân
và nông dân. Đây là sự thể hiện tính nguyên tắc trong chính sách đại đoàn kết dân tộc và sự
sắp xếp, tổ chức lực lượng cách mạng của Đảng ta. Việc tập hợp lực lượng rộng rãi cũng như
xác định được động lực chủ yếu, cơ bản của sự nghiệp cách mạng phản ánh sự mềm dẻo và
linh hoạt trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta.
4- Về phương pháp cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh đã khẳng định: phương pháp cách
mạng cơ bản của Việt Nam là dùng sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân để đánh đổ
đế quốc phong kiến, đó là bạo lực cách mạng. Phương pháp bạo lực cách mạng được nêu lên
với những biểu hiện cụ thể: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, đánh đổ các
đảng phản cách mạng như Đảng Lập hiến, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. Chính sự
thất bại của khuynh hướng cải lương hoà bình ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đã cho
thấy cách mạng muốn giành thắng lợi, không có con đường nào khác là phải sử dụng bạo lực
cách mạng. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực trong sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta đã thể hiện sự thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực của chủ nghĩa
MÁC-LÊNIN.
5- Xác định vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, phải thu phục và lãnh đạo được dân chúng.
Để thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng, Cương lĩnh đã khẳng định vai trò quyết
định của Đảng: Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp. Để lám tròn sứ mệnh lịch sử là
nhân tố tiên phong quyết đinh thắng lơi của cách mạng Việt Nam, Đảng phải: "thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng".
Khẳng định bản chất giai cấp của Đảng, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và chiến lược
đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông là những vấn đế then chốt bảo đảm cho
Đảng ta trở thành nhân tố duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh cũng nêu lên
sự gắn bó, quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng. Đây là điều kiện tạo cho Đảng có
nguồn súc mạnh vĩ đại và trở thành lãnh tụ chính trị cho cả dân tộc. Sự lãnh đạo của.Đảng là
yếu tố quyết định nhất cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
6- Phát huy tinh thần tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Vấn đề đoàn kết quốc tế cũng là một nội dung quan trọng của Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng. Đoàn kết quốc tế là một vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng Việt Nam:
"Trong khi tuyên truyền cái khấu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực
hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp".
Đồng thời, Cương lĩnh cũng đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới. Gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đề cao vấn đoàn kết quốc tế chính
là sự thể hiện việc kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, lợi ích
dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp bức, bất
công trên thế giới. Vấn đề đoàn kêt quốc tế cũng đồng thời là một động lực quan trọng của
cách mạng Việt Nam.
7- Xây dựng Đảng cách mạng vững mạnh, kêu gọi mọi người ủng hộ và gia nhập Đảng,
phải có tổ chức chặt chẽ.
Lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy
luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội
Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cương
lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta Vì vậy, Đảng đã
đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng
phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của
Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường".
Câu 2: ý nghĩa ra đời đảng cộng sản việt nam:
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã mở ra thời kì
mới cho cách mạng Việt Nam: thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con
đường cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh ra đời đã đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của
lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách
mạng và toàn thể dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ chức cách mạng
tiên phong lãnh đạo, chấm dứt sự khủng hoảng và bế tắc về con đường cứu nước: “Từ cuối
thế kỷ XIX đến những thập niên đầu thế kỷ XX, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy chống chủ nghĩa
thực dân. Tiếp nối các phong trào Văn Thân và Cần Vương, phong trào yêu nớc ba mươi năm
đầu thế kỷ XX diễn ra vô cùng anh dũng, từ khởi nghĩa Yên Thế và các phong trào Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến khởi nghĩa Yên Bái… nhưng không thành công vì thiếu
một đường lối đúng”. “Năm 1930, kế thừa “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” và các tổ
chức cộng sản tiền thân, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt của cách mạng
Việt Nam”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó nói lên quy luật ra đời
của Đảng và cũng chứng tỏ giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam đã trưởng thành và có đủ những yếu tố cơ bản nhất để khẳng định sự đảm nhiệm vai trò
lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đánh dấu bước
phát triển vế chất của cách mạng Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập khẳng định dứt khoát con đường đi lên của dân
tộc Việt Nam từ 1930 là con đường cách mạng vô sản. Đó là sự lựa chọn của chính nhân dân
Việt Nam, chính lịch sử dân tộc Việt Nam trong quá trình tìm con đường giải phóng dân tộc.
Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh được thông qua ở Hội nghị thành
lập Đảng, từ năm 1930 cách mạng Việt Nam có được đường lối chính trị toàn diện đề ra mục
tiêu và phương pháp đấu tranh thích hợp, giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản của xã
hội, đồng thời có được tổ chức Đảng cách mạng để lãnh đạo và tổ chức phong trào cách
mạng. Sự ra đời của Đảng đã tạo những tiền đề và điều kiện để đưa cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trên con đường giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và
xây dựng đất nước .
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi quá trình khảo
nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên CNXH
của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công
cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh".
Câu 3: trình bày nội dung cơ bản cương lĩnh chính trị của đảng:
Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho được
đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng phải thu
phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách
mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến", đồng thời phải liên minh với các giai cấp
cách mạng và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân
tộc và để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
- Cương lĩnh đâu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác -
Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ
thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn ái Quốc về cách
mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nhưng không phải những giá trị tư tưởng, đường lối đúng đắn trên đã được mọi người nhận
thức, quán triệt. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10 nǎm 1930 đã phê phán
những "sai lầm" của Hội nghị hợp nhất và quyết định "thủ tiêu Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt và Điều lệ" của Đảng, thông qua Luận cương chính trị theo tinh thần chỉ thị
củaQuốc tế cộng sản, đổi tên đảng là "Đảng cộng sản Đông Dương ".
Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên do Hội nghị thành lập Đảng vạch ra
với Luận cương chính trị và các vǎn kiện của Hội nghị trung ương Đảng tháng l0-1930 là vì
không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc, mà còn do xác định đúng
hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện cụ thể của nước ta. Đồng chí Nguyễn
ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, đánh giá đúng hơn và đầy đủ hơn yếu
tố dân tộc trong cách mạng Việt Nam.
Tuy bị phê phán, nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho sự đúng đắn, sáng
tạo của Cương lĩnh đầu tiên.
Sau 30 nǎm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh; (tức
đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã viết: "Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của
đại đa số nhân dân ta Vì vậy, Đảng ta đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn
chung quanh giai cấp mình.
Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền
lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tǎng cường".
Câu 4 : kết quả ,ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm cách mạng 8-
1945
Phân tích thời cơ bùng nổ cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945? Những nguyên nhân thắng lợi,
ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm?
1. Nguyên nhân thắng lợi :
* Nguyên nhân khách quan: Cách mạnh tháng 8 nổ ra trong hoàn cảnh quốc tế vô cùng thuận
lợi. Đó là lúc phe phát xít đã bại trận. Kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam là phát xít Nhật
đã phải đầu hàng đồng minh. Quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu.
Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang, rệu rã.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Đó là kết quả của 15 năm đấu tranh gian khổ, đầy hy sinh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng, là kết quả tổng hợp của 3 cao trào cách mạng.
- Đó là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương. Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là điều kiện cơ bản, quyết định thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945.
2. Ý nghĩa lịch sử:
* Đối với dân tộc:
- Cách mạng Tháng Tám đã đập tan ách thống trị của đế quốc và phong kiến, lập ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà.
- Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu một trang sử vẻ vang của dân tộc ta, đánh dấu sự
đổi đời của một dân tộc. Cách mạng Tháng Tám đã đưa nước ta từ một nước thuộc địa trở
thành một nước độc lập dân chủ, đưa Đảng ta từ một Đảng không hợp pháp trở thành một
Đảng nắm chính quyền, đưa dân tộc ta lên hàng các dân tộc tiên phong trên thế giới.
- Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới cho cách mạng nước ta- kỷ nguyên
của độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Việt Nam với đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản. Đây là một cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-
Lênin ở một nước thuộc địa.
* Đối với quốc tế:
- Cách mạng Tháng Tám đã nâng cao vị thế quốc tế của dân tộc Việt Nam. Lần đầu tiên một
dân tộc nhược tiểu đã tự giải phóng khỏi ách đế quốc thực dân.
-Cách mạng Tháng Tám đã phá tan một mắt xích quan trọng của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu
cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ.
- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
3. Những bài học kinh nghiệm:
Cách mạng tháng Tám thành công đã để lại cho Đảng ta và nhân dân Việt nam nhiều bài học
quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và
khởi nghĩa dân tộc. Đó là những bài học chính sau đây:
- Một là: Gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc
và chống phong kiến. Tuy 2 nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng chống đế quốc phải là
nhiệm vụ hàng đầu, chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực
hiện từng bước với những khẩu hiệu thích hợp. Đường lối này đã được khẳng định trong
đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và trở thành cương lĩnh của Đảng ta.
- Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh Công – Nông.
- Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
- Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách
thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
- Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chớp đúng thời cơ.
-Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Tóm lại: Thắng lợi của cách mạng tháng 8-1945 là kết quả tất yếu của 15 năm chuẩn bị chu
đáo của Đảng ta, là kết quả của cuộc đấu tranh yêu nước rộng lớn của dân tộc, sự hy sinh anh
dũng của đồng bào, đồng chí cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Câu 5: trình bày đường lối kháng chiến chống thực dân pháp
- Năm 1858 thực dân Pháp xâm luợc nước ta. Ngày 6-6-1884 triều đình Nguyễn ký
hiệp ước Patơnốt thừa nhận sự thống trị của thực dân Pháp, chia nước ta thành 3 kỳ với 3 chế
độ chính trị khác nhau, vừa xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, vừa duy trì chính
quyền phong kiến và tay sai làm chổ dựa. Mọi quyền hành đều trong tay người Pháp, với âm
mưu thâm độc thực hiện chính sách chia để trị, chính sách ngu dân, chính sách độc quyền về
kinh tế, ra sức vơ vét tài nguyêm bóc lột sức lao động rẻ mạt của người bản xứ, cừng nhiều
hình thức thuế khoá năng nề, vô lý.
- Trước những áp bức bóc lột dã man của thực dân Pháp, nhân dân ta đã liên tiếp nổi
dậy cầm vũ khí chống bọn cướp nước. Nhưng tất cả những cuộc đấu tranh đó đều không
giành được thắng lơi. Giai cấp địa chủ phong kiên mà tiêu biểu là triều đình nhà Nguyễn đã
bất lực và hèn nhát nhanh chóng đầu hàng thực dân Pháp và trở thành phản động, phản bội lại
lợi ích của dân tộc.
Phong trào chống Pháp theo ý thức hệ phong kiến: phong trào Cần Vương đã thất bại
khi cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng chấm dứt năm 1896; phong trào khởi nghĩa nông
dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi.
Nguyên nhân là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ chức cách mạng có khả năng dẫn dắt
dân tộc đến thắng lợi. Điều này chứng tỏ rằng, thời kỳ đấu tranh chống ngoại xâm trong
khuôn khổ ý thức hệ tư tưởng phong kiến đã chấm dứt. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta rơi
vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam cũng như một số nước phương Đông
khác đã ít nhiều chịu sự chi phối của ý thức hệ tư sản. Đặc biệt cách mạng Minh Trị ở Nhật
Bản (l868), cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) đã có tác động nhất định tới
phong trào yêu nước ở Việt Nam, làm dấy lên ở nước ta một phong trào yêu nước rộng rãi
theo khuynh hướng tu sản nhưng đều thất bại. Tiêu biểu là phong trào của cụ Phan Bội Châu,
cụ Phan Chu Trinh, phong trào Duy Tân của vua Duy Tân. Điều này chứng tỏ sự bất lực của
giai cấp tư sản Việt Nam, rằng giai cấp tư sản Việt Nam không đủ khả năng giương cao ngọn
cờ lãnh đạo đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Tình hình khủng hoảng, bế tắc về con đường cứu nước giải phóng dân tộc, yêu cầu lịch
sử đòi hỏi phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cách mạng đúng đắn dẫn
đường, mới có khả năng đưa phong trào cứu nước đi đến thắng lợi.
Câu 6: nội dung cơ bản và ý nghĩa đường lối kháng chiến của mỹ cứu nước 1965-1975
1. Làm cho toàn Đảng, toàn dân hiểu rõ những vấn đề sau:
- Sự chuyển biến của tình hình, miền Bắc không còn ở trong thời kỳ xây dựng hoà bình nữa,
mà đã bắt đầu ở vào thời chiến.
- So sánh lực lượng giữa ta và địch. Nhấn mạnh những thuận lợi của ta và thất bại nghiêm
trọng của Mỹ, cho nên ta nhất định sẽ thắng, Mỹ nhất định sẽ thất bại hoàn toàn.
- Giải phóng miền Nam là trách nhiệm chung của nhân dân cả nước và cả nước đều phải tham
gia đánh giặc. Cần phải xác định rõ “Miền Bắc dù có bị ném bom bắn phá đến đâu cũng phải
vì giải phóng miền Nam mà không chút nao núng, nâng cao chí khí căm thù và quyết tâm
thắng địch”(3). Phải đẩy mạnh phong trào “ba sẵn sàng” với nội dung và yêu cầu mới. Cần
phải xây dựng tác phong tích cực, khẩn trương của thời chiến.
2. Phải ra sức xây dựng tư tưởng phấn khởi và tin tưởng, quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ
và tay sai, tư tưởng sẵn sàng chiến đấu và công tác ở bất cứ nơi nào theo tiếng gọi của Đảng
và của Tổ quốc; tư tưởng sẵn sàng đánh bại bất cứ loại chiến tranh nào của địch, sẵn sàng
khắc phục mọi khó khăn gian khổ, sẵn sàng chiến đấu lâu dài chống Mỹ với tinh thần tự lực
cánh sinh cao; chống tư tưởng sợ Mỹ, đánh giá địch quá cao, hoặc chủ quan khinh địch; tư
tưởng hoang mang, dao động, cầu an; tư tưởng muốn đàm phán khi chưa có điều kiện có lợi,
muốn kết thúc chiến tranh với bất cứ giá nào; tư tưởng ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước ngoài và
không tin vào sức mình.
Như vậy, “chuyển hướng tư tưởng” ở đây có thể hiểu một cách ngắn gọn là: chuyển từ nội
dung và phương pháp tư tưởng ở thời bình sang nội dung và phương pháp tư tưởng ở thời
chiến, trong đó bao gồm những nội dung cụ thể là đế quốc Mỹ dù có mạnh đến mấy chúng ta
cũng nhất định thắng; miền Bắc dù có bị bắn phá đến đâu cũng phải quyết tâm cùng miền
Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Cốt lõi của vấn đề chuyển hướng tư tưởng là làm cho
nhân dân miền Bắc thấy rõ tình hình mới của đất nước, từ đó có sự đồng thuận tuyệt đối với
Đảng, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong bất kỳ tình huống nào.
Chủ trương “chuyển hướng tư tưởng” của Hội nghị Trung ương 11 được tiếp tục khẳng định
và bổ sung ở Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12 (12-1965). Và Hội nghị xác định nhiệm
vụ của công tác tư tưởng là:
- Giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân nhận rõ nhiệm vụ lịch sử vô cùng vẻ vang của nhân dân ta
là chiến đấu chống một kẻ thù mạnh nhất và nguy hiểm nhất của loài người là đế quốc Mỹ,
làm cho mọi người tin tưởng vững chắc rằng với đường lối đúng đắn của Đảng, với tinh thần
dũng cảm chiến đấu của quân và dân ta, chúng ta có thể đánh bại bất cứ loại chiến tranh nào
của đế quốc Mỹ.
- Giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho nhân dân, nhất là cho bộ đội và thế hệ thanh
niên, làm cho mọi người sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh, khắc phục mọi khó khăn
để hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào, chiến đấu anh dũng với bất cứ kẻ thù nào, đánh bại bất cứ
loại chiến tranh nào của địch.
- Làm cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu rõ trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân
ta ở miền Bắc là phải tích cực tham gia sự nghiệp giải phóng miền Nam, phục vụ không điều
kiện cho tiền tuyến miền Nam và hết sức giúp đỡ cách mạng Lào, làm cho mọi người hăng
hái dốc sức ra làm tròn bất cứ nhiệm vụ nào của Đảng và chính phủ giao phó.
Như vậy, chủ trương “chuyển hướng tư tưởng” ở miền Bắc được Đảng ta xác định từ Hội
nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965) và tiếp tục được khẳng định, bổ sung, cụ thể hoá ở Hội
nghị Trung ương lần thứ 12 (12-1965) cùng các chỉ thị, nghị quyết sau đó của Trung ương về
công tác tư tưởng. Nội dung cơ bản của chủ trương là chuyển hướng công tác tư tưởng của
Đảng theo hướng: Làm cho toàn thể nhân dân miền Bắc hiểu rõ tình hình miền Bắc không
còn ở trong thời bình nữa mà đã chuyển sang thời chiến; nhiệm vụ thiêng liêng nhất của toàn
Đảng toàn quân và toàn dân ta lúc này là nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước; toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta phải quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ trong bất kể tình huống nào. Nhiệm
vụ quan trọng, cấp bách nhất được Trung ương nhấn mạnh nhiều lần, đó là công tác tuyên
truyền của Đảng phải tập trung khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân
dân; giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tư tưởng quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ
xâm lược trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, dù phải hy sinh, gian khổ đến mấy.
Đó là một chủ trương đúng đắn và có ý nghĩa to lớn trong việc chỉ đạo công tác tuyên truyền,
cổ động của Đảng ở miền Bắc thời gian này. Từ chủ trương này, những vấn đề căn bản nhất
của công tác tư tưởng nói chung, công tác tuyên truyền, cổ động nói riêng được xác định kịp
thời và chính xác. Nhờ đó, công tác tuyên truyền, cổ động chính trị của Đảng ở miền Bắc
được triển khai mạnh mẽ, rầm rộ và liên tục trong suốt những năm ác liệt nhất của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần to lớn vào việc động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu và
sản xuất của nhân dân miền Bắc, biến sức mạnh tinh thần đó thành sức mạnh vật chất vượt
qua mọi gian nan, thử thách, giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc chiến đấu không cân sức
giữa dân tộc ta và đế quốc Mỹ. Chuyển hướng tư tưởng của Đảng ở miền Bắc những năm 65-
75 là một bài học vô cùng quý giá, thiết nghĩ chúng ta cần nghiên cứu sâu sắc và vận dụng
trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn hội nhập và phát triển đất nước vì “Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”./.
Câu 7: quá trình đổi mới tư duy của đảng về công nghiệp hóa đất nước từ 1986 đến nay:
Đại hội VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền
cuối năm 1985 làm cho kinh tế nước ta càng trở nên khó khăn (tháng 12-1986, giá bán lẻ hàng
hoá tăng 845,3%). Chúng ta không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình
kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh
tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình này làm cho trong Đảng và ngoài xã
hội có nhiều ý kiến tranh luận sôi nổi, xoay quanh thực trạng của ba vấn đề lớn: cơ cấu sản
xuất; cải tạo xã hội chủ nghĩa; cơ chế quản lý kinh tế. Thực tế tình hình đặt ra một yêu cầu
khách quan có tính sống còn đối với sự nghiệp cách mạng là phải xoay chuyển được tình thế,
tạo ra sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên con đường đi lên và như vậy phải đổi mới tư
duy.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thực, nói rõ sự thật, Đại hội đã đánh
giá đúng mức những thành tựu đạt được sau 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đi sâu phân
tích những tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và
chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976-1986).
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng
và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân
ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội.
Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước do cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ
đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó,
đặc biệt là sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản,
nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh
tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng
vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn bài học kinh nghiệm
lớn:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc".
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến
hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề
cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba ch-ương trình kinh
tế lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa
nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Làm cho thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh
tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả
kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
- Tạo ra chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân
chủ, giữ kỷ cương phép nước.
- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội và đề ra hệ thống
các giải pháp để thực hiện mục tiêu: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư;
xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế. Coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ;
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp,
chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa;
phát huy động lực của khoa học - kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Câu 8: kinh tế tri thức :
"Là nền kinh tế sử dụng một cách hiệu quả tri thức cho sự phát triển KT-XH. Điều này bao
gồm việc chuyển giao, cải tiến công nghệ nước ngoài cũng như sự thích hợp hoá và sáng tạo
hoá các tri thức cho những nhu cầu riêng biệt". Theo Giáo sư, Viện sĩ Đặng Hữu - Trưởng
ban Công nghệ thông tin thì "Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập
và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao
chất lượng cuộc sống".
Theo định nghĩa của WBI - là "nền kinh tế dựa vào tri thức như động lực chính cho tăng
trưởng kinh tế. Đó là nền kinh tế trong đó kiến thức được lĩnh hội, sáng tạo, phổ biến và vận
dụng để thúc đẩy phát triển". Tại hội thảo, Jean-Eric Aubert, chuyên gia hàng đầu của WBI,
nói cụ thể hơn: "Phải phân biệt đó không phải là nền kinh tế dựa vào công nghệ và viễn
thông! Kinh tế tri thức là đặt tri thức, sáng tạo và các chính sách liên quan đến chúng vào
trọng tâm của chiến lược phát triển cho tất cả các nước ở nhiều mức độ phát triển khác nhau"
Như vậy, kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất của thế kỷ 21. Đặc trưng của nền kinh tế tri
thức là thị trường chất xám. Trong đó, con người là vốn quý nhất. Tri thức là yếu tố quyết
định của sản xuất, sáng tạo đổi mới là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Công nghệ mới
trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, công nghệ
thông tin được ứng dụng một cách rộng rãi. Muốn nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng
cao chất lượng sản phẩm phải có tri thức, phải làm chủ được tri thức, phải biết vận dụng, quản
lý tri thức mới có thể cạnh tranh và đồng thời đảm bảo phát triển bền vững.
Có người còn cho rằng: Kinh tế tri thức là hình thái phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh
tế hàng hóa, trong đó công thức hoạt động cơ bản Tiền-Hàng-Tiền được thay thế bằng Tiền-
Tri Thức- Tiền và vai trò quyết định của Tri thức.
Vậy kinh tế tri thức là gì? Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử
dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao
chất lượng cuộc sống.
Câu 9 : chủ trương của đảng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN trên địa bàn tỉnh từng bước được hình thành và phát
triển. Đã khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế
năm sau luôn cao hơn năm trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ ngày càng cao. Văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, công tác giải quyết việc làm,
kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo đạt nhiều kết quả. An ninh, quốc phòng được giữ vững. Đời sống
người dân không ngừng được nâng lên.
Việc cụ thể hóa, triển khai thực hiện thể chế kinh tế thị trường ngày càng chặt chẽ, bảo đảm
cơ chế pháp lý, phù hợp với yêu cầu phát triển mới. Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành
phần kinh tế được đổi mới cơ bản từ sở hữu toàn dân, tập thể, kinh tế quốc doanh là chủ yếu
sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen hỗn hợp. Kinh tế Nhà nước
được sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động theo hướng cổ phần hóa và chi phối
một số ngành, lĩnh vực quan trọng. Thị trường hàng hóa, lao động, tài chính, tiền tệ, khoa
học công nghệ, bất động sản… được hình thành và từng bước phát triển. Quản lý Nhà nước
về kinh tế được chuyển sang quản lý bằng pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, thuế,
tài chính… Các doanh nghiệp và doanh nhân được tự chủ, cạnh tranh trong sản xuất kinh
doanh.
Tuy nhiên, việc vận dụng, cụ thể hóa các chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển
kinh tế thị trường còn chậm. Công tác quản lý Nhà nước về kinh tế thị trường còn nhiều bất
cập, nhất là quản lý đất đai, nhà đất công chưa chặt chẽ. Định giá trị doanh nghiệp nhà nước
khi giải thể, phá sản, cổ phần hóa còn nhiều sơ hở, làm thất thoát tài sản nhà nước. Phát
triển kinh tế tập thể còn nhiều khó khăn, còn phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước
với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Các yếu tố thị trường, các loại thị
trường hình thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ. Xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn
hóa, thể thao… còn hạn chế. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc, xử lý gây ô nhiễm môi trường
chưa được giải quyết tốt. Đó là do nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở cấp
ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể các cấp còn nhiều hạn chế. Cán bộ, đảng viên
chưa được học tập, bồi dưỡng những kiến thức cơ bản, nên việc cụ thể hóa vận dụng, phối
hợp tổ chức triển khai thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được các yêu cầu
đổi mới.
Cần phải làm những gì?
Phát triển đa dạng hóa các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ. Nâng cao chất lượng thị trường
dịch vụ trên cơ sở đẩy mạnh thương mại nội địa, hoạt động du lịch, xuất khẩu hàng hóa, thực
hiện xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng, phục vụ phát triển các loại thị trường và tăng cường
kiểm tra chất lượng hàng hóa dịch vụ, nhất là những hàng hóa, dịch vụ có liên quan trực tiếp
đến sức khỏe của nhân dân.
Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, công bằng xã hội và bảo vệ
môi trường. Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo theo hướng vững chắc. Quan
tâm đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế xã hội ở những vùng khó khăn, có tỷ lệ hộ nghèo
cao. Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng cho người nghèo. Hỗ trợ vốn, kỹ thuật,
bảo hiểm, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm… giúp người nghèo vươn lên, nhất là các đối
tượng thuộc diện chính sách, khắc phục tư tưởng ỷ lại, trong chờ vào sự hỗ trợ của Nhà
nước. Tuyên truyền về bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội. Xử lý rác ở các
chợ, khu dân cư, bệnh viện, chăn nuôi gia súc, gia cầm… Kiên quyết xử lý các hành vi vi
phạm về gây ô nhiễm môi trường. Di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi nội thị.
Nâng cao vai trò, đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước về kinh tế, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Bên cạnh việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng về công tác
tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì Đảng ủy Liên cơ có kế hoạch tập trung củng cố,
phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp, nhưng
đồng thời Ban Tổ chức Tỉnh ủy cũng nghiên cứu đề xuất việc thành lập Đảng ủy khối doanh
nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy.
Điều kiện dẫn đến thắng lợi trọn vẹn là các cấp ủy Đảng, Ban cán sự Đảng UBND tỉnh, sở,
ngành, huyện, thị tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết của Trung ương và chương trình hành động
của Tỉnh ủy thành chương trình, kế hoạch cụ thể. Tổ chức triển khai quán triệt và thực hiện
đồng thời theo dõi, kiểm tra đôn đốc từng lúc thì công việc sẽ đạt kết quả cao.
Câu 11: chỉ đạo và chủ chương xây dựng và phát triển nền văn hóa trong thời ký đổi
mới:
Dân chủ hoá xã hội
Xã hội ta là xã hội dân chủ: "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân",
"quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Cuộc vận động xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở xã, phường, ở cơ quan, ở doanh nghiệp đã được triển khai rộng rãi, thực hiện tích
cực đã mang lại những kết quả tốt bước đầu. Nhưng còn cần phải làm nhiều hơn, mạnh hơn
nữa.
Điều nhức nhối hiện nay là tệ nạn quan liêu, tham nhũng phát triển. Trên thực tế không phải
tất cả các lợi ích đều vì dân. Số không nhỏ người có chức, có quyền đang chiếm đoạt tài sản
quốc gia và tài sản nhân dân. Tham nhũng đã thành quốc nạn.
Thực tế chưa phải tất cả quyền hạn đều của dân, một mặt, cuộc đấu tranh chống quan liêu,
cửa quyền, tham nhũng, quấy nhiễu, ức hiếp nhân dân chưa kiên quyết, triệt để, mặt khác, còn
thiếu cơ chế, thiếu những quy định để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
Hợp lý hoá bộ máy Nhà nước
Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan
quyền lực Nhà nước ở các địa phương đã có những đổi mới về tổ chức và hoạt động có hiệu
quả và thiết thực, thể hiện dân chủ đại diện ngày càng cô thực chất. Nhưng đây cũng chỉ là
bước đầu, còn nhiều mặt phải đẩy mạnh hơn nữa
Bộ máy hành chính Nhà nước đã cô những đổi mới về tổ chức và hoạt động, cải cách hành
chính bước đầu có kết quả, nhưng phải tiến hành mạnh mẽ hơn theo hướng xác định rõ chức
năng nhiệm vụ không chồng chéo nhưng không bỏ sót nhiệm vụ, đẩy mạnh việc phân cấp
giữa Trung ương và địa phương.
Bộ máy xét xử còn ít đổi mới tổ chức và hoạt động, còn nhiều vi phạm. Nạn tiêu cực, tham
nhũng trong các cơ quan xét xử cũng đáng báo động.
Xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt động của Nhà nước (dịch vụ công)
Luật khoa học và công nghệ ra đời phát huy khả năng đầu tư không chỉ của Nhà nước mà của
các thành phần kinh tế, tạo thuận lợi cho sự đóng góp của trí thức, của nhà đầu tư vào khoa
học và công nghệ.
Cần mở rộng cơ hội đầu tư của dân, xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt động từ trước tới nay
thuộc Nhà nước, nay cần tạo điều kiện và khuyến khích kinh tế dân doanh phát triển không
chỉ trong các ngành sản xuất và dịch vụ thông thường mà cả trong một số lĩnh vực dịch vụ
công cộng như y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường, giao thông công cộng đô thị bảo trì và phát
triển các công trình phúc lợi công cộng, tư vấn, bảo hiểm, kiểm toán, kể cả một số công việc
dịch vụ trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nước. Đây là một chủ 1 trương, biện
pháp thúc đẩy tiến trình xã hội hoá, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ công đi đôi với
chính sách bảo đảm cho người nghèo có điều kiện hưởng thụ các dịch vụ phúc lợi thiết yếu.
Có lẽ đã đến lúc cần phải thay đổi tư duy cũ bằng một tư duy mới là trong tất cả mọi lĩnh vực
hoạt động trong xã hội, các thành phần kinh tế đều có thể tham gia theo khả năng và theo
pháp luật, không có một lĩnh vực nào là "vùng cấm địa", hoặc chỉ dành riêng cho hoạt động
của cơ quan Nhà nước.
Câu 12: đường lối đối ngoại hội nhập kinh tế thời kỳ đổi mới
Để chủ động hội nhập đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế, Đảng ta đã tiến
hành một loạt các giải pháp :
+ Thứ nhất, Xây dựng, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật nhất là các luật, đạo
luật liên quan đến kinh tế, thương mại, đầu tư nước ngoài .
+ Thứ hai, Xây dựng nguồn lực mà trước hết là nguồn lực con người, thực sự xem
giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm đào tạo, bồi
dưỡng một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, doanh nghiệp có kiến thức về kinh
tế đối ngoại, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý, ngoại ngữ và luật pháp cũng như
thông lệ quốc tế nhằm hạn chế rủi ro khi tham gia HNKTQT.
+ Thứ ba, ổn định chính trị- xã hội, có chính sách đối ngoại linh hoạt, mềm dẽo,
năng động tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
+ Thứ tư, Xây dựng cơ sở hạ tầng mà trước hết là giao thông, điện, sân bay, bến
cảng… để tạo sự hấp dẫn đầu tư đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế đất nước.
Vận dụng linh hoạt và sáng tạo sách lược theo phương châm “dĩ bất biến, ứng
vạn biến” mà Bác Hồ đã dạy, từ khi nước ta giành được độc lập đến nay chủ
trương HNKTQT đã phản ánh nhất quán đường lối của Đảng ta là kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi
đôi với mở rộng hợp tác quốc tế song phương cũng như đa phương.
Để giảm bớt những thiệt thòi trong quá trình HNKTQT chúng ta cần ổn định về
chính trị, tăng cường an sinh xã hội đặc biệt đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế để có
thực lực vì không có thực lực hoạt động đối ngoại nói chung và kinh tế đối ngoại
nói riêng sẽ gặp nhiều khó khăn, hạn chế trước những biến động khó lường của
kinh tế thế giới và khu vực trong giai đoạn hiện nay
Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam là một xứ thuộc địa, nửa phong
kiến, công nghiệp không phát triển "vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản, làm cho
nghành công nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được
- Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của
quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra chính phủ
công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương.
- Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
hương IV: Đảng Lãnh Đạo Cách Mạng xã hội chủ nghĩa ở miềN
Bắc Và kháng chiến chống Mỹ,cứu Nước(1954-1975)
I. Đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới
1.Đặc điểm nước ta sau tháng 7 - 1954
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã
giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước vẫn chưa
hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của
thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.
ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh kiên quyết
của nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội và ngày 16-
5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc. Ngay sau khi hòa bình lập
lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến
hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền
Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào
để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7-7-1954,
Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay Bửu Lộc. Ngày 17-
7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất
nước và ngày 23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô
Đình Diệm lên làm Tổng thống.
Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở các cuộc hành
quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước
ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống lại nhân dân miền Nam
trong tay không có vũ khí. Với chính sách "tố cộng", "diệt cộng", loại cộng sản ra ngoài vòng pháp
luật để trừng trị, và với khẩu hiệu "thà giết nhầm hơn bỏ sót", chúng thẳng tay đàn áp tất cả các
lực lượng chống đối. Chỉ tính đến cuối năm 1955, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần
chúng cách mạng đã bị bắt và bị giết hại.
Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta một yêu cầu bức
thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp
với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Xuất phát từ
việc nhận thức sâu sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước sau tháng 7-
1954, trải nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng đã từng bước hình thành.
2. Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục thực hiện
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng (9-1960)
a) Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sau khi hòa bình được lập lại, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Tuy nhiên, miền Bắc
bước vào khôi phục kinh tế trong điều kiện có nhiều khó khăn. 143.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang,
hàng trăm ngàn gia đình không có nhà ở, hàng chục vạn người không có việc làm, nhiều tệ nạn
do xã hội cũ để lại còn hoành hành, phần lớn xí nghiệp ngừng hoạt động, hàng hoá khan hiếm.
Nhiệm vụ trước mắt là tiếp quản những vùng giải phóng theo quy định của Hiệp định Giơnevơ.
Việc tiếp quản đó bước đầu thuận lợi, nhân dân ta đã làm chủ hoàn toàn Thủ đô từ ngày 10-10-
1954. Hướng đấu tranh chủ yếu của nhân dân miền Bắc thời kỳ này là chống âm mưu của địch dụ
dỗ, cưỡng ép đồng bào ta di cư vào Nam. Trong hoạt động này, do chậm phát hiện và chưa thấy
hết âm mưu thâm độc của Mỹ - Pháp, nên gần một triệu người miền Bắc đã bị cưỡng ép di cư vào
Nam.
Xuất phát từ tình hình trên, Đảng chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng từng bước được hình thành và phát triển.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn
vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất
nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan
hệ quốc tế để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau chín năm chiến tranh.
Hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1955 và lần thứ tám tháng 8-1955 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, công khai lập
nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong trào cách mạng. Muốn chống đế
quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều
cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam.
Để củng cố miền Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ, trước hết cần hoàn thành
cải cách ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa
chủ; đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội; kiện toàn lãnh đạo các cấp và củng
cố Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Hội nghị đề ra kế hoạch 3 năm (1955-1957) với những mục tiêu cụ thể:
- Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, trên cơ sở đó phát triển sản xuất,
nhằm giảm bớt khó khăn cho nhân dân. Phấn đấu phục hồi mức sản xuất năm 1939 - năm có
mức sản xuất cao nhất ở Việt Nam thời Pháp thuộc.
- Chủ trương khôi phục nông nghiệp là trọng tâm. Ban hành nhiều chính sách khuyến nông.
- Đề ra chính sách khôi phục tiểu thủ công nghiệp và công thương nghiệp. Ban hành nhiều
chính sách bảo hộ cho các xí nghiệp công, tư thương nghiệp được phát triển sản xuất để phục vụ
dân sinh; không vội vàng thủ tiêu những công thương nghiệp tư nhân, nếu thấy có lợi cho nền
kinh tế. Coi trọng thành phần kinh tế quốc doanh, tạo điều kiện cho thành phần này dần dần giữ
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đánh giá
thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong giai đoạn
mới. Đến tháng 11-1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười bốn đề ra
kế hoạch ba năm phát triển kinh tế - văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và
kinh tế tư bản tư doanh (1958-1960).
Hội nghị xác định cải tạo kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và buôn bán nhỏ, tư
bản tư doanh, chuyển sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa
dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Lấy cải tạo làm trọng tâm nhằm phát triển kinh tế, văn hóa,
cải thiện đời sống nhân dân, củng cố chế độ dân chủ nhân dân. Xây dựng, củng cố miền Bắc
thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ mười sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) thông
qua hai nghị quyết quan trọng: Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp và Nghị quyết về
vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Về hợp tác hóa nông nghiệp, Hội nghị xác định hình thức và bước đi của hợp tác xã là: hợp
tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đôi với thủy lợi hóa và tổ chức lại lao
động, để phát huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Hội nghị chỉ rõ ba nguyên tắc cần được
quán triệt trong suốt quá trình xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hội nghị chủ trương cải tạo hòa bình đối
với giai cấp tư sản. Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, về
kinh tế không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại, thông qua hình thức
công tư hợp doanh, sắp xếp công việc cho người tư sản trong xí nghiệp, dần dần cải tạo họ thành
người lao động.
Chủ trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội đã tạo nên những chuyển biến cách mạng
trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố, từng bước đi lên chủ
nghĩa xã hội, trở thành hậu phương ổn định, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng Việt Nam.
b) Chủ trương tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
Nắm vững âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương, nên ngay trước
ngày ký Hiệp định Giơnevơ, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) từ
ngày 15 đến ngày 17-7-1954, đã chỉ rõ: "Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế
giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc
của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ"
1
. 1. Sđd, tr. 319, 322.
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và cán bộ chiến sĩ cả nước:
"Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất
định được giải phóng"
2
. 2. Sđd, tr. 319, 322.
Về cách mạng miền Nam, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 nêu rõ: Đế quốc Mỹ và tay
sai đang mưu tính, phá hoại Hiệp định Giơnevơ nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam. Cuộc đấu tranh
của nhân dân miền Nam phải chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ của
Đảng ở miền Nam trong giai đoạn mới là: "lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp
định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống
nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động
khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những
hành động tiến công của địch, ngụy, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ
kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta"
3
. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr. 308.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và công tác của các đảng bộ miền Nam,
tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập, do Lê Duẩn, ủy viên Bộ Chính trị làm Bí thư.
Từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam, tháng 8-1956, Lê Duẩn
đã dự thảo Đường lối cách mạng miền Nam. Bản Đường lối cách mạng miền Nam được đưa ra
thảo luận tại Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ họp tháng 12-1956.
Bản Đường lối vạch rõ ngày 20-7-1956 đã không có tổng tuyển cử như Hiệp định Giơnevơ
quy định. Chế độ thống trị của Mỹ, Diệm ở miền Nam lúc bấy giờ là một chế độ độc tài, phátxít,
hiếu chiến. Để chống Mỹ-Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và tự cứu mình
là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng không có một con đường khác
1
. 1. Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.17, tr. 785, 787.
Mục đích của cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chính quyền độc tài phátxít Mỹ - Diệm,
thực hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc, độc lập, để giải phóng nhân dân
miền Nam ra khỏi ách đế quốc phong kiến độc tài phátxít Mỹ - Diệm để cùng với toàn quốc thực
hiện hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc
2
. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002, t.17, tr. 785, 787.
Đường lối cách mạng miền Nam là một trong những văn kiện quan trọng, góp phần vào sự
hình thành đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam của Đảng.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu rõ, nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều
quan trọng, coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm.
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm. Trên cơ
sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: Nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam; Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt
Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức
mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh
chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc
Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam.
Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ, đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến cho nên cuộc
khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang lâu
dài và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ cần tăng cường công tác Mặt trận
để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam thật vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức để đủ sức lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) có ý
nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã đáp ứng đúng nhu cầu của lịch sử, mở đường cho cách
mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng độc lập tự chủ, sáng tạo của
Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
c) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày
10-9-1960. Tới dự có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt hơn 50 vạn đảng
viên trong cả nước. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội.
Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đại hội lần này là Đại hội
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà"
1
. 1. Hồ Chí Minh:
Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr. 198.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, gồm những vấn
đề lớn sau đây:
Về đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
Trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, song
trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.
Đại hội còn xác định vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi
miền. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển
của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền
Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân
dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài
chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Đại hội chủ trương kiên quyết giữ
vững đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương phù hợp với nguyện vọng và lợi
ích của nhân dân cả nước ta cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải
luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn
tay sai liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên
quyết đứng l&
Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn tới thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám 1945
15:09 | 03/09/2004 Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2- 1930) đã thông qua
Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo nhấn mạnh chủ
trương chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản. Về phương diện chính trị phải ''Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập''. Đó là đường lối chính trị hoàn toàn đúng
đắn phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, hướng vào giải quyết những mâu thuẫn cơ
bản và chủ yếu của một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến và định hướng phát trtển theo nội
dung và xu thế của thời đại. Phong trào cách mạng nước ta từ Xô viết Nghệ -Tĩnh những năm
1930-1931 đến cuộc vận động dân chủ 1936-1939 là quá trình vừa thực hiện, vừa khảo
nghiệm, tổng kết thực tiễn, khẳng định tính đúng đắn và bổ sung, phát triển hoàn chỉnh đường
lối đó - đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (GPDT). Từ thực tiễn của cách mạng Việt
Nam, Hội nghị Trung ương (HNTƯ) họp tháng 11-1939 ở Bà Điểm (Gia Định) đã nêu cao
mục tiêu GPDT. Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường
nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da
trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập ''phải thực hiện được nhiệm vụ chính cốt
của cách mệnh là đánh đổ đế quốc'' và công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên, sau khi
chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ (1-9-1939), tại Đông Dương, thực dân Pháp thủ tiêu mọi
quyền dân sinh, dân chủ ít ỏi mà họ buộc phải thực hiện trong những năm 1936-1939, thẳng
tay đàn áp phong trào cách mạng, làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc thực
dân Pháp càng phát triển gay gắt.
Tháng 9-1940 phát xít Nhật chiếm Đông Dương, Nhật và Pháp cùng thống trị Đông Dương,
ách áp bức dân tộc càng trở nên nặng nề. Trong bối cảnh đó, HNTƯ tháng 11-1940 cho rằng
cách mạng phản đế - cách mạng GPDT cao hơn hết và nêu rõ: Một cao trào cách mạng nhất
định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy sứ mệnh thiêng liêng: lãnh đạo cho các dân
tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập. Trong lúc này kẻ
thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc chủ nghĩa Pháp, Nhật. Kẻ thù phụ là phong
kiến bản xứ sau gần 30 năm hoạt động và lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước
từ nước ngoài, ngày 28-1- 1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước, cùng với Trung ương
Đảng trực tiếp lãnh đạo cao trào GPDT. Tháng 5-1941 HNTƯ họp tại Cao Bằng do Nguyễn
Ái Quốc chủ trì, Hội nghị đã phân tích, đánh giá phong trào cách mạng đã và đang diễn ra sôi
nổi trên cả nước, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Nam Kỳ (11-1940) và
cuộc khởi nghĩa của binh lính ở Đô Lương (Nghệ An) (13-1-1941). Trung ương Đảng cho
rằng: Mặc dù sự đàn áp của giặc Pháp rất dữ dội mà dân ta vẫn không lùi. Những cuộc khởi
nghĩa lại gây một ảnh hưởng rộng lớn toàn quốc. Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc
khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông
Dương.
Các nghị quyết HNTƯ (11-1939), (11-1940) và (5-1941) đã phát triển hoàn chỉnh đường lối
cách mạng GPDT. Đó là một hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng trên mấy vấn đề
chủ yếu sau đây: Nêu cao nhiệm vụ GPDT, giành độc lập hoàn toàn cho đất nước. Chống đế
quốc là nhiệm vụ hàng đầu vì đế quốc Pháp, Nhật là kẻ thù chủ yếu. Nhiệm vụ chống phong
kiến đặt ra thực hiện từng bước và phải đặt dưới nhiệm vụ GPDT. Điều đó phù hợp với
nguyện vọng chung của toàn thể dân tộc. Tạm thời chưa giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông
dân, song nông dân vẫn không giảm bớt sự hăng hái tranh đấu mà vẫn nỗ lực tranh đấu mạnh
hơn vì trong cuộc tranh đấu GPDT họ cũng được hưởng nhiều quyền lợi to tát.
Để đoàn kết và huy động được sức mạnh của toàn dân thực hiện mục tiêu GPDT, Đảng chủ
trương xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi và vững chắc. Đó là Mặt trận thống
nhất dân tộc phản đế Đông Dương (11- 1939) thay cho Mặt trận dân chủ trước đó. Tháng 5-
1941, HNTƯ quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Đó là tổ chức
mặt trận có chương trình rõ ràng và hệ thống tổ chức chặt chẽ với các đoàn thể cứu quốc là
thành viên và lấy làng, đường phố, nhà máy làm tổ chức cơ sở. Sự liên hiệp các đoàn thể cứu
quốc trong Việt Minh là sự thống nhất lực lượng để tranh đấu thực hiện vấn đề độc lập cho
đất nước. Việt Minh lấy ngọn cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh làm huy hiệu. Đó cũng là tổ
chức Mặt trận giải quyết vấn đề dân tộc trong nội bộ dân tộc Việt Nam giành quyền độc lập
cho xứ sở. Song Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao độc lập đồng
minh và Cao Miên độc lập đồng minh. Đảng và Mặt trận Việt Minh đã kết hợp chặt chẽ
nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ đoàn kết quốc tế.
Đảng chủ trương xây dựng và phát triển căn cứ địa cách mạng, cùng với lực lượng chính trị
phải coi trọng xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền, giành độc lập. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Trung ương Đảng đã ra
lời hiệu triệu hưởng ứng các cuộc khởi nghĩa đó và đặt vấn đề phải đi tới vũ trang khởi nghĩa.
HNTƯ 8, từ kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa, của hoạt động của Cứu quốc quân, chiến
tranh du kích ở Bắc Sơn - Vũ Nhai, đã khẳng định vấn đề khởi nghĩa vũ trang: Cuộc cách
mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang. Điều kiện để khởi nghĩa
bằng vũ trang là: Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được toàn quốc; Nhân dân không thể sống
được nữa dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, mà đã sẵn sàng hy sinh bước vào con đường
khởi nghĩa; Những điều kiện khách quan thuận lợi xuất hiện như quân Đồng minh thắng Nhật
hay cách mạng nổ ra ở Pháp, ở Nhật. HNTƯ 8 đã dự liệu những điều kiện để chuẩn bị cho
những điều kiện đó phát triển và khẳng định: Ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng
phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng
khởi nghĩa to lớn.
Đảng hết sức chú trọng phân tích tình thế cách mạng cả trong nước và quốc tế để chủ động
chuẩn bị về mọi mặt thúc đẩy thời cơ cách mạng. HNTƯ tháng 11-1939 và tháng 11- 1940 đã
đề cập tới tình thế và thời cơ để cách mạng tiến lên giành thắng lợi. Đặc biệt HNTƯ tháng 5-
1941 đã đự báo Liên Xô thắng trận, quân Trung Quốc phản công, quân Nhật đang mắc sự
phản công của Anh-Mỹ và đặt ra yêu cầu cần thiết và cấp bách cho sự chuẩn bị điều kiện
chuyển biến cuộc cách mạng phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. Tình hình thế giới sẽ biến chuyển
ghê gớm làm cho tình hình Đông Dương thay đổi có lợi cho cách mạng. Ta phải luôn luôn
chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù,
sau HNTƯ 8, Đảng và Hồ Chí Minh tiếp tục theo sát sự phát triển của tình hình thế giới và
trong nước để dự liệu thời cơ cách mạng. Trong tài liệu Lịch sử nước ta do Hồ Chí Minh viết
và được Việt Minh tuyên truyền bộ xuất bản tháng 2-1942 ở mục những năm quan trọng, câu
kết thúc Người đã dự báo năm 1945 Việt Nam độc lập.
Khi xác định cuộc cách mạng là cách mạng GPDT nghĩa là phải giành lấy độc lập, tự do cho
dân tộc thì một vấn đề rất cơ bản và chủ yếu đặt ra là vấn đề hình thức tổ chức nhà nước phải
xây dựng khi giành được độc lập. HNTƯ tháng 11-1939 chủ trương chưa đưa khẩu hiệu lập
Chính phủ Xô Viết công nông binh'' là hình thức chính phủ riêng của dân chúng lao động mà
lựa chọn hình thức chính phủ Cộng hoà dân chủ, là hình thức chính phủ chung cho tất cả các
tầng lớp dân chúng trong xứ và trong phong trào GPDT. Đó là sự lựa chọn đúng đắn phù hợp
với điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam. Trong Chương trình Việt Minh đã xác định: Sau
khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam
dân chủ cộng hoà lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc, cộng hoà dân chủ
là hình thức nhà nước nhân dân rộng rãi mà Đảng ta dự kiến đã trở thành hiện thực khi Cách
mạng tháng Tám thắng lợi. Đó là Nhà nước cách mạng của dân, do dân, vì dân và do ĐCS
lãnh đạo.
Khi bước vào cao trào GPDT những năm 1939 - 1945, Đảng và Hồ Chí Minh xác định cách
mạng nước ta chưa phải là cách mạng tư sản dân quyền với nhiệm vụ giành độc lập dân tộc và
ruộng đất cho dân cày, cũng chưa phải là cách mạng XHCN mà là Cách mạng giải phóng dân
tộc giành cho được độc lập hoàn toàn rồi từng bước thực hiện mục tiêu ruộng đất, mở đường
tiến dần lên CNXH. Đó là quy luật vận động, phát triển của cách mạng nước ta và khẳng đính
sự đúng đắn, tính triệt để của cách mạng GPDT do ĐCS lãnh đạo.
Những nội dung đường lối cách mạng GPDT mà các NQTƯ (11-1939), (11-1940) và NQTƯ
(5-1941) xác định là một hệ thống toàn diện, đồng bộ những vấn đề chiến lược, sách lược và
phương pháp cách mạng, chủ động về nắm bắt tình thế và thời cơ cách mạng. Điều cần đặc
biệt nhấn mạnh là Đảng và Hồ Chí Minh đã làm rõ sự thống nhất trong mục tiêu giành độc
lập cho dân tộc và giành chính quyền về tay nhân dân để đi đến sự lựa chọn hình thức chính
quyền nhà nước thích hợp. Lênin từng chỉ ra rằng, chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản và
chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng. Cách mạng xã hội phải giải quyết vấn đề cơ bản là vấn
đề chính quyền nhà nước nghĩa là giai cấp nào nắm chính quyền: Cách mạng tư sản chuyển
chính quyền nhà nước từ tay giai cấp phong kiến sang tay giai cấp tư sản Cách mạng vô sản
chuyển chính quyền từ tay giai cấp tư sản sang tay giai cấp vô sản và đông đảo những người
lao động. Cách mạng GPDT ở một nước thuộc địa như Việt Nam phải thực hiện mục tiêu cốt
yếu là độc lập dân tộc, xây dựng một chính quyền nhà nước độc lập - chính quyền của nhân
dân do ĐCS lãnh đạo. Đó là sự phát triển sáng tạo của Đảng và Hồ Chí Minh trong học thuyết
về cách mạng và nhà nước.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 40 của thế kỷ XX đã diễn ra theo đường lối
cách mạng GPDT mà Đảng và Hồ Chí Minh đã đề ra. Đường lối đó có vai trò chỉ đạo phong
trào cách mạng trên khắp cả nước. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng tiếp tục cụ thể hoá những
quan điểm, đường lối đó và giải quyết thành công nhiều vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
vấn đề phân tích, đánh giá tình thế và thời cơ cách mạng được Đảng và Hồ Chí Minh đặc biệt
coi trọng. Đó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật trong lãnh đạo cách mạng nói chung và trong
khởi nghĩa giành chính quyền nói riêng. Cuối năm 1943, sau khi ra khỏi nhà tù của Quốc dân
Đảng Trung Hoa, trở về nước Hồ Chí Minh đã dự báo chiến tranh thế giới thứ ll chỉ trong
khoảng một năm hay một năm rưỡi nữa là kết thúc, Đó sẽ là cơ hội thuận lợi cho cách mạng
nước ta giành thắng lợi, phải gấp rút chuẩn bị lực lượng về mọi mặt. Chỉ thị Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta của Thường vụ Trung ương Đảng (12-3-1945) đã làm rõ hơn
về tình thế và thời cơ cách mạng. Đảng đã kịp thời phát động cao trào kháng Nhật cứu nước
rộng khắp trên cả nước phân tích những điều kiện cụ thể để khởi nghĩa có thể nổ ra và giành
thắng lợi; đặt ra cho các Đảng bộ địa phương tinh thần chủ động sáng tạo trong lãnh đạo khởi
nghĩa ở địa phương mình khi ở đó những điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi. Hội nghị cán bộ
Đảng toàn quốc ở Tân Trào giữa tháng 8 - 1945 đã kịp thời quyết định Tổng khởi nghĩa trên
cả nước sau khi quân Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh và trước khi quân đội Đồng minh
vào Đông Dương giải giáp quân Nhật. Thời cơ khởi nghĩa thuận lợi nhất là nửa cuối tháng 8 -
1945. Khởi nghĩa đã nổ ra và giành thắng lợi đúng như thế. C.Mác nói khởi nghĩa là một nghệ
thuật. Điểm tuyệt diệu nhất của nghệ thuật đó là chớp đúng thời cơ. Khi phát động khởi nghĩa
Đảng và Hồ Chí Minh cũng đã sớm nhận thấy khó khăn phức tạp và nguy cơ mới xuất hiện
đó là quân đội Đồng minh kéo vào. Phải giành thắng lợi trước khi quân Đồng minh vào Đông
Dương để với tư cách người chủ đất nước tiếp quân Đồng minh. Đó là quyết định đúng đắn
và tránh những khó khăn không lường hết được. Như vậy, Cách mạng tháng Tám không chỉ
tranh thủ điều kiện thuận lợi khi quân Nhật đầu hàng Đồng minh mà còn tránh được khó khăn
mới nảy sinh do tình hình quốc tế đưa lại.
Một thành công nổi bật của Đảng và Hồ Chí Minh trong lãnh đạo Cách mạng tháng Tám đó là
huy động được sức mạnh của lực lượng toàn dân tộc, nêu cao tinh thân yêu nước, khát vọng
độc lập tự do ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Đảng và
Hồ Chí Minh đã sớm nhen nhóm tổ chức yêu nước và phát triển lực lượng cách mạng rộng
khắp trên tất cả địa bàn: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; trong tất cả mọi giai cấp,
tầng lớp xã hội kể cả các giai cấp bóc lột, tầng lớp trên có tinh thần yêu nước, các dân tộc
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, các tôn giáo, các cá nhân yêu nước, tiến bộ. Không có lực
lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc như thế, không thể có thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh sự nghiệp làm nên bởi chữ “đồng'', đồng chí, đồng
lòng, đồng sức nghĩa là toàn dân kết thành một khối xung quanh Đảng, Mặt trận Việt Minh và
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Với sức mạnh của toàn dân được tổ chức lại trên
khắp các địa phương, địa bàn khi thời cơ đến mới có thể chủ động giành thắng lợi. Trên thế
giới có những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng hoặc là diễn ra chủ yếu ở thủ đô,
thành phố rồi mới lan ra, kết thúc ở nông thôn hoặc là diễn ra chủ yếu ở nông thôn, lấy nông
thôn bao vây thành thị. Việt Nam, khởi nghĩa nổ ra đều khắp trên tất cả các địa bàn, địa
phương, có sự phối hợp, hưởng ứng giữa các địa phương và địa bàn đó ở đây thể hiện năng
lực tổ chức, chỉ đạo thực tiễn rất cao của hệ thống tổ chức Đảng, Việt Minh và của đội ngũ
cán bộ, đảng viên đồng thời thể hiện tính năng động, sáng tạo và trách nhiệm trước dân tộc,
trước lịch sử.
Khi chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa
cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng ở các thuộc địa thông qua hình
tượng coi CNTB thực dân như con đỉa có 2 vòi: một vòi bám vào giai cấp vô sản chính quốc
và một vòi bám vào các dân tộc thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ sự phối hợp của cách
mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng thuộc địa như hai cánh chim. Người cũng sớm đề
cập tới ý chí tự lực tinh thần chủ động giành thắng lợi của cách mạng ở các thuộc địa. Trong
lãnh đạo, chỉ đạo cao trào cách mạng GPDT 1939 - 1945 Đảng và Hồ Chí Minh đã phát huy
cao độ tinh thần chủ động giành thắng lợi. Đặt ra và tranh thủ tối đa điều kiện thuận lợi của
quốc tế. nhưng không ỷ lại trông chờ lực lượng bên ngoài đến giải phóng cho mình, mà quyết
tâm đứng lên tự giải phóng, chủ động giành thắng lợi. Đảng đã kết hợp thành công sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại nhưng cái gốc vẫn là sức mạnh dân tộc, là nội lực, là ý
chí và quyết tâm tự cứu lấy mình.
Có đường lối đúng, được hoạch định trên cơ sở tư duy chính trị, lý luận cách mạng khoa học
và thực tiễn sinh động của xã hội, đất nước là một bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Đường lối có được tổ chức thực hiện, cụ thể hoá và phát triển một cách sáng tạo là thêm sự
bảo đảm chắc chắn cho thắng lợi. Đó cũng là một trong những bài học lịch sử quan trọng và
chủ yếu của Cách mạng tháng Tám năm 1945, rất có ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới của
Đảng và nhân dân ta hiện nay.