Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Trương Định (1820 - 20/8/1864) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.33 KB, 4 trang )

Trương Định (1820 - 20/8/1864)
Hay Trương Công Định hoặc Trương Đăng Định , là một lãnh tụ nghĩa quân
chống Pháp giai đoạn 1859-1864, thời vua Tự Đức.
Hay Trương Công Định hoặc Trương Đăng Định , là một lãnh tụ nghĩa quân
chống Pháp giai đoạn 1859-1864, thời vua Tự Đức.
Tiểu sử
Ông sinh tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Nghĩa. Quốc sử triều
Nguyễn là Quốc triều chánh biên toát yếu (QTCBTY) chép rằng phó quản cơ
Gia Định là Trương Định, người huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Nghãi, con quan
Lãnh binh Trương Cầm (nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng
Ngãi). Lãnh binh Trương Cầm là Hữu thuỷ Vệ uý ở Gia Định thời vua Thiệu
Trị.
Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam và cưới vợ là con gái một hào phú
huyện Tân Hòa (Gò Công). Năm 1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của
Nguyễn Tri Phương, ông đứng ra chiêu mộ dân nghèo khai hoang, lập ấp. Năm
1854, Trương Định xuất tiền của, chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền Gia Thuận.
Ông được phong chức Quản cơ đồn điền.
Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông đem nghĩa binh lên
đóng ở Thuận Kiều chống trả và đã từng thắng nhiều trận ở Cây Mai, Thị
Nghè
Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ hai, QTCBTY quyển V mục
tháng 7 năm 1861 có chép Trương Định mộ binh dõng đông lắm, thường cự
đánh binh Pháp. Việc ấy tâu lên, Ngài [vua Tự Đức] cho thăng Quản cơ, rồi lại
cho lãnh Phó lãnh binh, Trương Định đem quân đồn điền của mình phối hợp
với binh của Nguyễn Tri Phương phòng giữ chiến tuyến Kỳ Hòa. Đại đồn thất
thủ, ông lui về Gò Công, cùng Lưu Tiến Thiện, Lê Quang Quyền chiêu binh
ứng nghĩa, trấn giữ vùng Gia Định-Định Tường. Trương Định tổ chức lực
lượng, triển khai tác chiến trong các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ
Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười kéo dài đến biên giới Campuchia.
Đầu năm 1862 Pháp chiếm Biên Hòa, QTCBTY tháng 2 năm này có viết khiến
Phó lãnh binh Gia Định là Trương Định kiêm làm đầu mục mộ nghĩa. Trương


Đăng Định đóng đồn tại Gò Công, thường lừa đánh quân Pháp, thân sĩ theo
nhiều, quân số của ông lên tới 10.800 người.
Ngày 5 tháng 6 năm 1862, triều đình nhà Nguyễn ký kết hòa ước với Pháp.
QTCBTY viết tháng 7 năm 1862 từ khi đã định hòa ước rồi, Ngài truyền dụ
Nam Kỳ nghỉ binh và đòi Trương Định ra Phú Yên. Khi ấy trong các tỉnh Gia
Định, Định Tường, Biên Hòa những người ứng nghĩa rủ nhau đoàn kết, tôn
Trương Định làm Đại đầu mục, xin cho ra đánh, Đình thần nghị rằng: "bây giờ
việc Bắc Kỳ đương khẩn, mà Nam Kỳ chưa có cơ hội gì, xin giao Phan Thanh
Giản hiểu dụ". Nhưng Trương Định đã lâu mà không chịu về cung chức, bị
cách chức hàm. Trên thực tế, ông đã từ chối thư dụ hàng của tướng Pháp là
Bonard, bất chấp chiếu vua ra lệnh bãi binh do Phan Thanh Giản truyền vào và
rút quân về Gò Công, được nhân dân tôn là Bình Tây Đại Nguyên Soái, lấy nơi
này làm bản doanh, xây dựng các căn cứ địa kháng chiến.
Ngày 16 tháng 12 năm 1862, Trương Định đã ra lệnh tấn công các vị trí của
quân Pháp ở cả ba tỉnh miền đông Nam Bộ, đẩy Pháp vào tình thế lúng túng, bị
động. Tháng 2 năm 1863, nhờ có viện binh, Pháp phản công tại Biên Hòa, Chợ
Lớn, bao vây Gò Công. Ngày 26 tháng 2 năm 1863, Pháp đánh chiếm thành trì,
ông thoát khỏi vòng vây và kéo quân về Biên Hòa.
Tháng 9 năm 1863, Lagrandière sang thay Bonard, mở cuộc càn quét thứ hai,
bắt được vợ con và một số tùy tùng của Trương Định.
Ngày 19 tháng 8 năm 1864 , Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn đường cho quân
Pháp bất ngờ bao vây đánh úp. Trương Định thất thủ, bị bao vây tại Tân Hòa
và trọng thương. Ông đã rút gươm tự sát để bảo toàn thanh danh, khí tiết vào
ngày 20 tháng 8. Con ông là Trương Quyền đã rút lên vùng Châu Đốc tiếp tục
chống Pháp.
Nguyễn Đình Chiểu viết về cuộc khởi nghĩa của Trương Công Định:
Trong Nam, tên họ nổi như cồn
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn
Đấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỉ
Hơi gươm thêm rạng vẻ huỳnh môn

Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ
Qua ấn "Bình Tây" đất vội chôn
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ
Lâm dâm ba chữ "điếu linh hồn"
Lăng mộ
Lăng mộ của Trương Định do vợ thứ của ông là bà Trần Thị Sanh xây dựng
năm 1864 tại Gò Công. Trên bia mộ có khắc dòng chữ: "Đại Nam an hà Lãnh
binh kiêm Bình Tây Đại Tướng quân Trương công húy Định chi mộ", đã bị
đục bỏ một số lần trong thời kỳ người Pháp đô hộ. Năm 1964, nhân kỷ niệm
100 năm ngày mất của ông, đã được tu bổ như đang tồn tại tới hiện nay. Từ
năm 1972 đến năm 1973 xây thêm đền thờ.

×