NHÂN HỌC VĂN HÓA, MỘT VÀ NHIỀU
Nicolas Journet
Từ khi nó tồn tại, nhân học không ngừng cọ xát về cùng một vấn đề: Bảo
toàn sự thống nhất của giống người và giải thích tính đa dạng về những sản
xuất văn hóa của nó như thế nào? Làm thế nào mà nhân học (anthropologie)
- về mặt từ nguyên là "khoa học về con người" - lại đi tới chỗ chỉ "khoa học
về các xã hội nhìn từ bên ngoài"(1)?
Các nhà sử học về môn học này muốn nhắc lại rằng nguồn gốc của nó trùng lẫn
với một số xét đoán tự phát và khá cổ xưa: chẳng hạn, môn học của nhà sử học Hy
Lạp Herodote, người đã cố mô tả người Ai Cập như những kẻ hành động "ngược
lại các dân khác", nghĩa là chính người Hy Lạp, hay của nhà địa lý Strabon, người
đã làm nổi bật lên "tính hoang dã" của phong tục người Germains.
Tóm lại, nhân học đã làm nổi bật lên thiên hướng quan tâm tới những mặt khác
nhau, những phong tục và tín ngưỡng hiện có không phải giữa các cá nhân, mà
giữa các tập thể có thể là gần nhau nhưng lại khác nhau, lại vừa lấy làm ngạc
nhiên khi đem đối chiếu với chính bản thân mình. Sự hình thành một bộ môn hàn
lâm mang một dự án như vậy đã có từ nửa sau của thế kỷ XIX. Nhất là vào thời đó,
nhân học chỉ hàm khả năng đánh giá các màu da, đo các hộp sọ và xác định các
chủng tộc. Một cuộc tranh luận cũ làm xáo động các vùng tri thức ấy: Loài người
thoát thai từ một gốc (monogénisme, thuyết một nguồn) hay từ nhiều gốc
(polygénisme, thuyết nhiều nguồn)?
Nhân học, theo nghĩa hiện đại của thuật ngữ này, hình thành vào lúc nó đứng
về một phía: Phía của bá tước Buffon, cho rằng loài người có một nguồn gốc,
nhưng lại khác nhau dưới ảnh hưởng của khí hậu. Chính là do phản bác ý tưởng
tính nhiều nguồn tự nhiên về căn bản của các chủng tộc người mà các nhà sáng lập
ra bộ môn này mang theo một chương trình và nhất là một vấn đề phải giải quyết.
Nếu loài người là một, thì làm thế nào để nhận biết, xếp loại và nhất là biện minh
cho những khác biệt tinh thần, trí tuệ và xã hội mà tính đa năng của các lối sống,
từ châu Âu sang châu Úc, cho thấy sự tồn tại của chúng? Tóm lại, từ hồi đó người
ta quay đi quay lại để biện minh cho một yêu cầu thứ hai: vấn đề xây dựng một
khoa học, nghĩa là một tri thức không có liên quan với sự phán xét của người nêu
nó ra. Về mặt này, nhiệm vụ thật gay go. Ba thí dụ về các trường phái tư tưởng,
được chọn trong các giai đoạn đầu tiên của sự phát triển nhân học, có thể giúp
chứng minh điều đó.
Ở thế kỷ XIX, các nhà khoa học về sự sống bị chi phối bởi ý tưởng tiến hóa.
Nhân học không thoát khỏi khuynh hướng này. Các nhà luật học và sử học, ngày
nay được coi như những người cha sáng lập bộ môn này, đã quan tâm tới việc tìm
ra lịch sử đã mất đi của loài người từ nguồn gốc của nó. Không phải chỉ là lịch sử
về những hình thức hóa thạch của nó, mà cả lịch sử những sản xuất của nó: kỹ
thuật, ngôn ngữ, tín ngưỡng và thể chế. Để làm được điều đó, họ áp dụng châm
ngôn của Joseph-Marie de Gerando, hội viên của "Hội những nhà quan sát con
người" chóng tàn (1799-1805): đi một bước trên thế giới là vượt qua một thế kỷ.
Hồ sơ về nguồn gốc nằm trong những truyện kể của những người du hành: các nhà
nhân học, tuy bản thân họ không di chuyển, mà chỉ chiếm lấy, phân tích và xếp
loại những tập quán của những người dân đầu tiên ở châu Mỹ, ở các đảo đại
dương và châu Á hẻo lánh. Rồi họ so sánh với những phong tục của Hy Lạp và cổ
Ai Cập: bằng cách đó Johannes Bachofen khám phá ra chế độ mẫu hệ; John
McLennan khám phá ra sự chung đụng nguyên thuỷ và chế độ ngoại hôn; Henri
S.Maine-chế độ chuyên chế phụ quyền, còn James Frazer thì xác nhận sự thờ vật
linh.
Bản thân họ hay những người kế tục họ đã dựng lại các lớp, xác định các giai
đoạn và đặt những khám phá của mình trong các giai đoạn ấy. Chẳng hạn, Lewis
H.Morgan, năm 1877, phân biệt ba giai đoạn trong sự tiến hoá của của các xã hội
loài người: hoang dã, man dã và văn minh. Hai giai đoạn trước lại được chia thành
ba chặng (sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ). Những kỹ thuật và những thể chế tương ứng
với mỗi giai đoạn này: "hoang dã hậu kỳ" chứng kiến việc hái lượm và thực hành
sự chung đụng; "man dã hậu kỳ" biết tới nông nghiệp và đồ gốm, sống thành bộ
lạc và theo chế độ một vợ một chồng. Và cứ thế cho đến văn minh các quốc gia,
các thành phố và của chữ viết, nghĩa là nền văn minh của chúng ta. Nhưng chương
trình của những người theo thuyết tiến hóa không tự giới hạn vào việc mô tả, nó
đụng tới cả việc thiết lập những qui luật tiến hóa văn hóa, tìm hiểu việc chuyển từ
giai đoạn này sang giai đoạn khác được thực hiện như thế nào và giải thích tại sao
nhiều quốc gia vẫn "đi sau", thậm chí còn thoái hóa.
Người ta thường có lý khi lên án cái cách mà các nhà nhân học đầu tiên ấy,
bằng việc lập thứ bậc cho các văn hóa, đã biện minh một cách rộng rãi công cuộc
thực dân, tỏ ra khinh miệt những "người nguyên thuỷ), nếu không phải là khuyến
khích chủ nghĩa chủng tộc. Nhưng chủ nghĩa chủng tộc không phải là thuyết chú
trọng chủng tộc (racialisme)(2): sự "tiến hóa" của các nhà nhân học không có liên
quan mấy với sự tiến hóa của Charles Darwin, người từng mô tả sự phân hóa ngày
càng tăng của các loài động vật. Đối với L.H.Morgan, cũng như sau đó đối với
Emile Durkheim, sự tiến hóa sinh học không phải là một ẩn dụ xa vời. Hai ông
nghi ngờ rằng con người không chỉ có một nguồn gốc mà còn có một số phận
chung: sự tiến bộ. Thuyết tiến hóa trong nhân học, do đó, đã chủ trương một sự
sinh thành chung của con người, là điều thiếu vắng trong thuyết chú trọng chủng
tộc khoa học cũng như trong các triết học cổ xưa hơn mà đối với chúng một số
khác biệt cực độ là bắt nguồn từ tính quái tượng (monstruosité). Và đúng là tộc
người học tiến hóa cũng đã đồng thời xây dựng một đối tượng tồn tại lâu bền: "xã
hội nguyên thủy", nó cho phép đặt chung vào một lồng tất cả những gì không
thuộc vào thế giới văn minh. Vì thế, trong bộ môn này có sự phân chia thế giới
thành hai loại khách quan: "những người văn minh" và "những người nguyên
thủy". Bởi vì chính những người văn minh ("chúng ta") phải giải thích tại sao
những người nguyên thủy ("những người khác") lại khác đi, nên những loại ấy
cũng không thể hiện một cách nhìn không đối xứng về thế giới.
Vào cuối thế kỷ XIX, những sự phê phán đối với phương pháp tiến hóa xuất
phát từ các nhà nhân học, một vật lạ thời đó, và họ cũng là con người điền dã.
Trong số họ, được biết tới nhiều nhất là Franz Boas (1858-1942), người đã lên
tiếng trong một bài viết năm 1896 chống lại tính hấp tấp và phỏng đoán của những
việc dựng lại lịch sử loài người ấy. Ông cũng phê phán cái cách mà các nhà nhân
học ngồi trong thư việc làm công việc cắt các xã hội "nguyên thủy" thành từng
mảng nhỏ để so sánh chúng với nhau. Hai mươi năm sau, sự phê phán của ông có
hiệu lực. Thuyết tiến hóa nhường chỗ cho những phương pháp khác và những loại
lý thuyết khác: thuyết lan tỏa, thuyết duy văn hóa và thuyết chức năng.
Đi tìm một sự nhất quán
"Thuyết chức năng", mà sau đó trở thành lý thuyết vượt trội ở Anh (ở Pháp ít
hơn phần nào) cho đến những năm 50, chỉ một tập hợp ý tưởng nhỏ kèm theo và
thúc đẩy những cách làm mới. Trước tiên, một nhà tộc người học theo thuyết chức
năng là một nhà lý luận thận trọng hơn những người đi trước mình: họ không có
sẵn những vấn đề chung. Sau nữa, đó là người điền dã: họ trải qua nhiều tháng tại
chỗ để nghiên cứu một cộng đồng trước khi lao vào một lý giải. Khác với những
người đi trước, anh ta dễ trở thành chuyên gia về một cư dân hay một vùng. Tóm
lại, đó là một người làm những chuyên đề tỉ mỉ và những so sánh có giới hạn.
Những cách làm ấy đi theo một niềm tin do E.Durkheim và Marcel Mauss nêu
lên, nhưng về căn bản đã bị Bronislaw Malinowski nện tơi bời, khi cho rằng các
thể chế và văn hóa của một cộng đồng tạo thành một tổng thể cố kết. Những
đường nét được quan sát thấy không phải là những "tiến bộ", cũng không phải là
những "tàn dư", mà là những dữ liệu có vai trò để đóng. Thuyết chức năng loại bỏ
chiều kích lịch sử và hệ thứ bậc do đó mà có. Nó buộc nhà tộc người học chú
trọng tới sự lệ thuộc qua lại của những sự kiện mà anh ta nghiên cứu. Vấn đề
"đúng" không còn là tìm hiểu ma thuật phải chăng có trước tôn giáo, mà là tìm
hiểu xem nó được dùng để làm gì trong xã hội Dobu ở Mélanesie hay của người
Azande ở Soudan.
Thuyết chức năng tại sao lại là một lý thuyết nhân học? Đó là một tập hợp có
sẵn của những đề xuất có hiệu lực đối với tất cả các xã hội loài người. Một người
theo thuyết chức năng thông thường cũng tự thể hiện trong xã hội học, chẳng hạn
với Robert K. Merton và Talcott Parsons. Anh ta đặt xã hội lên văn hóa: những ý
tưởng và những tập quán của con người không thể được giải thích bằng việc ghi
lại chúng vào một hệ thống xã hội. B. Malinowski còn đi xa hơn trong việc tìm
hiểu tính nhân quả. Đằng sau những bó buộc xã hội, ông cho rằng tất cả các xã hội
đều hoạt động vì những nhu cầu sinh học giống nhau (ăn uống, sinh đẻ, bảo hộ) và
văn hóa được giải thích bởi khả năng thỏa mãn những nhu cầu ấy đồng thời lại tạo
ra những nhu cầu khác. Trong khi đó, nhân học theo thuyết chức năng vẫn là một
khoa học về những cái riêng. Thật vậy, nó còn phải tìm hiểu tại sao, chẳng hạn,
"giải pháp ma thuật" lại có thể được người Dobuans ưa thích hơn "giải pháp tôn
giáo".
Những sự phân loại mới do những người theo thuyết chức năng lập ra là những
phác thảo giải đáp: họ không còn so sánh những đường nét nữa mà so sánh các hệ
thống chính trị, các hệ thống thân tộc, các hệ thống nghi thức, các hệ thống tư
tưởng. Do đó đã xuất hiện các khái niệm "những hệ thống phân đoạn" (systemes
fragmentares) (3), "những hệ thống phe phái" (systemes factionnalistes) (4), với
thuộc tính chung là đối lập với những hệ thống phân tầng của các xã hội có giai
cấp và Nhà nước, tức là các xã hội của chúng ta. Còn về cái căn bản của câu hỏi -
tại sao là hệ thống này mà không phải hệ thống kia - thì họ vẫn chưa trả lời được
mà chỉ nói tới vài mặt của môi trường tự nhiên.
Một đối thủ khác của thuyết tiến hóa đã đem lại sự ra đời của cái người ta gọi
là "thuyết duy văn hóa" theo lối hồi quan (5). Thuyết này sinh ra, lớn lên và nảy
nở trong những năm 30 ở Hoa Kỳ, tuy sự gợi ý đầu tiên phải tìm ở triết học và
nhân học Đức. Nói chung, người ta cho rằng thuyết duy văn hóa có một người báo
trước là F. Boas và một người cha sáng lập là Alffred Kroeber (1876-1960).
F.Boas trước hết là một người điều tra không mệt mỏi về các văn hóa da đỏ và
Eskimo: lý thuyết của ông là yêu cầu các nhà nhân học không được làm lý thuyết.
Theo ông, mỗi văn hóa là sản phẩm của một lịch sử ngẫu nhiên: không có các "qui
luật phát triển", mà chỉ có các quá trình riêng biệt. Như vậy, F.Boas là một người
tán thành thuyết tách biệt nhưng không phải bất kể cái gì: đó là thuyết tách biệt về
văn hóa hiểu theo nghĩa một tập hợp những ứng xử, những qui chiếu văn bản và
những giá trị chung. Chủng tộc, ngôn ngữ, các thể chế là những dữ kiện không
được ông coi là quyết định. A. Kroeber, học trò của ông, đã rút ra những hệ quả.
A.Kroeber xếp các xã hội da đỏ châu Mỹ thành những vùng văn hóa, gợi ý rằng,
trái với ý tưởng chức năng chủ nghĩa, không phải các thể chế đẻ ra văn hóa thích
hợp, mà ngược lại: những khác biệt văn hóa xác định đặc trưng của các xã hội.
Sau F.Boas, thuyết duy văn hóa đã có một sự phát triển khác do thiên về những hệ
quả của văn hóa đối với nhân cách. Ruth Benedict (1887-1948), Abram Kardiner
(1891-1981), Ralph Linton (1893-1952) và Margaret Mead (1901-1978) đã vay
mượn những công cụ của tâm lý học để vạch ra loại hình nhân cách tương ứng với
văn hóa kwakiutl, dobuane, samoane, arapesh, mundugumor…
Một sự phê phán những giá trị hiện đại
Tại sao thuyết duy văn hóa là một lý thuyết nhân học? Thoạt nhìn, chẳng có gì
qui định như thế cả, vì cái căn bản trong cách nhìn của nó là tính riêng biệt: các
văn hóa là những thực thể không thuần nhất với nhau. Nhưng thuyết tách biệt có
những giới hạn. Chẳng hạn, R.Bebedict không từ bỏ sự so sánh các văn hóa da đỏ
châu Mỹ về cơ sở của tính cách "mềm" (apollonien) hay "cứng" (dyonisiague) của
chúng. M. Mead đối lập với người Arapesh "mềm" với người Mundugumor
"cứng" và đưa ra những lời khuyên về giáo dục cho các bố mẹ ở Mỹ. Bất chấp một
thuyết tương đối rõ rệt, những người theo duy văn hóa che giấu một cách khó khăn
sự ưa thích của họ đối với những giá trị được một số xã hội hiện thân. Những mô
hình hòa hợp và cân bằng được ưa thích rõ rệt hơn những mô hình hàm chứa tính
gây hấn và xung đột. R.Linton sau đó đã phát triển một sự phân loại về những ứng
xử xã hội xấu. Clyde Klukhohn thì cố gắng chứng minh có những giá trị được mọi
người chia sẻ. Cuối cùng, đúng như một sự quay trở về của sự vật, tính xã hội
"nguyên thủy" (nhưng từ này không còn được dùng nữa) thường được mô tả là
phát triển hơn và tự do hơn tính xã hội của thế giới hiện đại. Vì vậy, những người
theo thuyết duy văn hóa thường sử dụng những mẫu văn minh "đơn giản hơn" của
họ để phê phán thế giới hiện đại. Đó là một cách để nói rằng, qua các văn hóa, con
người có thể học lẫn nhau, cũng như có thể làm sống mãi ý tưởng cho rằng "chúng
ta" tạo thành một thực thể khác với "những người khác".
Thuyết tiến hóa, thuyết chức năng và thuyết duy văn hóa chỉ là ba ví dụ thông
thường về các nhà sáng lập ra nhân học. Còn phải thêm vào đó nhiều mô hình
khác đến từ thuyết tiến hóa mới, thuyết cấu trúc - chức năng, chủ nghĩa duy vật
văn hóa, chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa kinh nghiệm, thuyết tương tác, thuyết văn hóa
mới… Sự phân tích về các thuyết ấy cho rằng nhân học không ngừng tìm kiếm
một cơ sở chung cho tất cả các xã hội hay cho tất cả các văn hóa loài người, từ đó
mà những khác biệt của chúng có thể được nhận biết, xếp loại và chứng minh.
Thuyết cấu trúc, như nó đã phát triển ở Pháp, là một ví dụ. Không được thuyết
phục mấy về ý tưởng cho rằng các chức năng xã hội có thể giải thích được tính đa
dạng của các văn hóa, Claude Lévi-Strauss chuyển sự so sánh của ông sang một
bình diện khác: bình diện của "chức năng tượng trưng". Nền tảng của văn hóa và
các tập quán là trật tự những ký hiệu được thiết lập bằng một cơ chế phổ quát
giống với cơ chế của các ngôn ngữ: việc khai thác những sự khác biệt rõ rệt như
một công cụ phân loại các thực thể và các sự vật. Chẳng hạn, sự cấm loạn luân (6)
tuy khác nhau trong mỗi xã hội và là sản phẩm của các hệ thống thân tộc rất khác
nhau, nhưng tất cả đều mang một đòi hỏi giống nhau: phân biệt những người có
thể trao đổi với những người không thể trao đổi. Việc thờ vật linh, khi trở thành
một tôn giáo, đã xếp loại các nhóm người theo một trật tự động vật hay thực vật
mà người ta tìm thấy những biến tướng của nó trong danh mục các tên họ (Chồn,
Chim, Sồi). Như vậy, một trật tự tượng trưng riêng được xây dựng với cùng một
công cụ lôgic là tương ứng với một văn hóa. Yêu cầu đồng thời về những mệnh đề
phổ quát và những phân tích đặc thù là một mặt thường thấy của các lý thuyết
nhân học.
Nhiều cuộc tranh cãi hiện thời chỉ là tiếp nối những tranh cãi cũ về tầm quan
trọng tương ứng của hai mặt đó mà thôi. Tuy thật khó đưa ra thêm một cách nhìn
đơn giản hóa nữa, người ta có thể nói rằng, hiện nay, trường của nhân học ít ra
cũng được chia thành hai tuyến. Một tuyến, được làm sống lại bằng sự trở lại của
một thuyết duy văn hóa cấp tiến ở Hoa Kỳ, coi nhân học nhiều lắm cũng chỉ là
một bài tập lý giải tự do, đối lập những ai dựa vào những mô hình được coi là
vững chắc của các khoa học tự nhiên hoặc xã hội (sinh học, công nghệ, sinh thái
học, kinh tế học, tâm lý học nhận thức, truyền thông, ngôn ngữ học) để cố sử dụng
nó theo lối xuyên văn hóa. Tuyến kia đối lập những người bảo vệ tính tự chủ của
các quá trình tượng trưng với những người ủng hộ một thứ nhân học hướng về sự
tìm kiếm những cách giải thích nhân quả và nói cung có tính chất tự nhiên về
những hiện tượng xã hội và văn hóa.
Sự cô lập của các xã hội bị phá vỡ
Nhân học, ngay cả khi mang tính đa dạng của những truyền thống dân tộc, tính
không thuần nhất về phương pháp lý thuyết, cũng như khi thu hút các khoa học
khác, không phải được tạo ra chỉ bằng những mảnh được kết lại thành một tập hợp
do sự tồn tại của một nghề hay một đối tượng (các xã hội nguyên thủy). Khái niệm
các xã hội nguyên thủy, gắn chặt với thuyết tiến hóa, lẽ ra đã biến khỏi vũ trụ tinh
thần của các nhà nhân học cùng một lúc với lý thuyết ấy. Nếu nó chưa bị biến mất
hoàn toàn (chỉ có từ này là biến mất khỏi việc sử dụng nghề nghiệp, hay có mang
theo dấu ngoặc kép) thì đó là vì các nhà nhân học thời đó, còn hơn thời trước đó
nữa, đã thăm viếng các "bộ lạc" châu Phi, Polinésie hay Amazone. Chính họ đã
dùng những từ như "các xã hội đơn giản", "truyền thống", "phi công nghiệp", "chủ
toàn" (7) hay "không có lịch sử".
Jack Goody không sai khi nói rằng vì thế mà đã kéo dài mãi một sự "phân chia
lớn", một kiểu chia cắt giữa một thế giới "văn minh" và một thế giới kém văn
minh hơn, hay một thế giới tuân theo những qui luật khác, đặc biệt là những qui
luật dễ quan sát rõ ràng. Dữ kiện này thật quan trọng: việc dùng các từ không có
nghĩa xác định cụ thể nội dung của chúng. Khi C.Lévi-Strauss viết về "tư duy
hoang dã", thì đó là ông nhằm mục đích nhấn mạnh vũ trụ tinh thần được ông
nghiên cứu về căn bản là gần gũi với thế giới chúng ta bao nhiêu. Các từ có thể
diễn đạt vị thế của người sử dụng chúng, còn nhân học là một cách làm cho đến
nay không có quan hệ mấy với các từ ấy. Ít có những nhà tộc người học đến từ các
xã hội truyền thống để quan sát những cách dùng của người Pháp.
Tính phi đối xứng dai dẳng ấy hiện đang làm người ta bối rối, vì sự cô lập của
các xã hội đang bị phá vỡ và khoảng cách được coi là giữa "chúng ta" và "người
khác" đang xói mòn. Nếu lý do tồn tại của các nhà nhân học dựa vào sự khai thác
một khoảng cách tối đa, thậm chí dựa vào một vài khác biệt căn bản, thì sự sống
còn của bộ môn này trên thực tế đang bị đe dọa. Nhưng không có một truyền
thống nào bắt buộc phải làm thế cả: Gregory Bateston, R. Benedict, M. Mead, và
gần với chúng ta hơn, Louis Dumont, C.Lévi-Strauss, Emmanuel Terray, Marc
Augé đã viết về nhiều điều khác hơn về những mảnh đất xa xôi của họ. Nếu, như
C.Klukhohm nhận xét, "con cá đã bị đặt sai để khám phá ra sự tồn tại của nước",
thì một cái nhảy đơn giản của con cá chép cũng đủ đảm bảo cho các nhà tộc người
học một chỗ đứng về lý thuyết, bên cạnh những nhà quan sát thế giới của "chúng
ta".
Trần Minh Tân dịch từ nguyên bản tiếng Pháp
Chú thích:
1. G.Lenclud, Sự phân chia lớn hay ý đồ tộc người học, trong Đi tới một tộc
người học về cái hiện tại, Editions de la Maison des sciences de l'homme, 1995.
2. Racialisme: Pierre-André Taguieff phân biệt racisme (chủ nghĩa chủng tộc) -
học thuyết đưa tới sự chia tách và phân biệt đối xử chủng tộc - với racialisme, tập
hợp những lý thuyết có mục đích khoa học giải thích thực trạng thế giới từ sự tồn
tại của các chủng tộc.
3. Systemes segmentaires (các hệ thống phân tán): Trong các hệ thống này, sự
duy trì trật tự không dựa vào sự tồn tại của một uy quyền trung ương (thủ lĩnh,
vua) hay một giai cấp thống trị, mà dựa vào những qui tắc tập hợp theo mức độ lâu
đời của những liên hệ thân tộc.
4. Systemes factionalistes (các hệ thống phe phái): Các hệ thống chính trị
không có chế độ thủ lĩnh, dựa vào những trò cân bằng giữa các phe phái tranh
chấp nhau, được xây dựng một cách độc lập với những liên hệ dòng dõi.
5. Xem thêm bài của J.F.Dortier về Thuyết duy văn hóa trong chương này.
6. Xem bài của N.Journet: Cấm loạn luân: Một cấm đoán phổ biến trong
chương II cuốn sách này.
7. Holiste (chủ toàn): thuật ngữ tiếng Anh được Louis Dumont đưa vào Pháp
để chỉ những xã hội trong đó con người xã hội không được xác định bởi tư cách cá
nhân, mà bởi vị trí của nó trong "toàn thể" xã hội (holos = toàn thể, trong tiếng Hy
Lạp).