Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

NHÂN HỌC VÀ NHÂN HỌC VĂN HÓA pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.74 KB, 17 trang )

NHÂN HỌC VÀ NHÂN HỌC VĂN HÓA
Emily A. Schultz và Robert H. Lavenda
Phan Ngọc Chiến dịch
Trích từ: E.A. Schultz và R.H. Lavenda. Nhân Học - Một Quan
Điểm về Tình Trạng Nhân Sinh. - NXB CHÍNH TRị QUốC GIA,
2001

Vào đầu năm 1976, chúng tôi (Emily Schultz và Robert Lavenda) đi
đến miền bắc Cameroon ở miền tây châu Phi để nghiên cứu về quan hệ xã
hội ở thị trấn Guider, nơi chúng tôi thuê một căn nhà nhỏ để ở. Trong
những tuần đầu tiên sống ở đó, chúng tôi thích dùng những buổi chiều tối
ấm áp của mùa khô để đọc sách và viết lách trong ánh sáng rực rỡ của
ngọn đèn điện sáng nhất trong ngôi nhà, ngọn đèn chiếu sáng cả một mái
hiên rộng trống trải.

Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn, những cơn mưa bắt đầu và cùng với chúng
xuất hiện từng đàn mối có cánh. Những con côn trùng chậm chạp có cái bụng mập
mạp dài 2 inch này bị thu hút bởi ánh đèn ngoài mái hiên, và chẳng bao lâu chúng
tôi thấy mình phải dùng nhiều thì giờ để đập mối hơn là để đọc và viết. Vào một
buổi chiều nọ, trong một cơn tuyệt vọng, chúng tôi lấy những tờ báo Newsweek cũ
cuộn tròn lại và bắt đầu một cuộc tấn công toàn diện, cương quyết loại trừ từng
con mối ra khỏi mái hiên nhà.
Tiền thuê căn nhà này bao gồm cả khoản tiền trả cho một người gác đêm. Khi
chúng tôi tung ra cuộc tấn công vào các con mối, người gác đêm bất thình lình
xuất hiện bên cạnh mái hiên, tay cầm một cái lon rỗng không. Khi anh ấy hỏi xin
lấy những con côn trùng chúng tôi vừa giết chết, chúng tôi hơi sửng sốt nhưng đã
niềm nở bảo anh ấy cứ tự nhiên. Anh ấy bước vào mái hiên, nhanh chóng thu nhặt
xác những con đã rơi xuống đất, và rồi cùng chúng tôi đuổi theo những con mối
còn đang bay. Mặc dù chúng tôi đã trở nên thiện nghệ trong việc dùng các tờ báo
cũ cuộn tròn để đập những con côn trùng này, tài nghệ của chúng tôi trở nên lu mờ
bên cạnh sự khéo léo của anh gác đêm. Anh ấy chỉ dùng tay để chụp lấy các con


mối đang bay trong không khí, bóp nhẹ vào chúng rồi bỏ chúng vào cái lon lúc ấy
đang đầy lên một cách nhanh chóng. Ba người chúng tôi đã bắt được hết những
con côn trùng bay trong không khí sau khoảng mười phút. Chúng tôi đưa những
con mối bắt được cho người gác đêm và anh ấy nhận lấy một cách lịch sự. Sau đó
anh ấy trở về vị trí gác của mình và chúng tôi trở về với những cuốn sách của
chúng tôi.
Chiều tối hôm sau, chẳng bao lâu sau khi chúng tôi ra ngồi ở chỗ thường ngồi
ngoài hiên, người gác đêm xuất hiện ở bực thềm mang theo một cái khay trên có
hai cái đĩa đậy kín. Anh ấy giải thích rằng vợ anh ấy đã nấu một món ăn cho
chúng tôi để đáp lại việc chúng tôi giúp anh ấy bắt các con mối. Chúng tôi nhận
món ăn và cẩn thận mở hai cái nắp đậy ra. Một đĩa thì đựng nyin, một loại bột
nhồi đặc làm bằng lúa miến đỏ, món ăn chính của dân địa phương. Đĩa kia đựng
một thứ gì sền sệt có màu muối tiêu chen lẫn những chấm luốm đuốm mà chúng
tôi đã nhanh chóng suy đoán đó là món ăn làm từ các con mối bị giết đêm trước.
Người gác đêm đứng chờ ở chân bực thềm với một nụ cười chờ đợi trên mặt.
Rõ ràng là anh ấy định chờ cho đến khi chúng tôi nếm món quà anh ấy đem lại rồi
mới chịu đi. Chúng tôi nhìn nhau. Trước đó chúng tôi chưa bao giờ ăn côn trùng
hay xem chúng là món có thể ăn được trong chế độ ăn uống của giới trung lưu ở
Bắc Mỹ mà chúng tôi đã quen thuộc. Chắc chắn là những "cao lương mỹ vị" như
kiến bọc sôcôla cũng có, nhưng đa số người ở Bắc Mỹ cho đó là những món ăn chỉ
dành cho những kẻ lập dị. Tuy vậy, chúng tôi đã hiểu rằng không nên làm sỉ nhục
người gác đêm và vợ anh ấy, những người đã rất hào phóng đối với chúng tôi. Qua
chương trình học ở nhà trường, chúng tôi đã biết rằng côn trùng là món ăn ưa thích
ở nhiều xã hội và đây là một loại thức ăn vô hại. Thấy người gác đêm vẫn còn
đứng chờ ở đó, mỉm cười chờ xem chúng tôi sẽ làm gì, chúng tôi thò tay vào
đĩa nyiri lấy một miếng nhỏ. Rồi chúng tôi dùng miếng nyiri này để xúc lên một
chút patê mối, bỏ cả vào miệng nhai và nuốt. Người gác đêm cười tươi, chúc
chúng tôi ngủ ngon và trở về vị trí đứng gác. Chúng tôi nhìn nhau ngạc nhiên thú
vị. Món bột lúa miến có một vị hăng hăng dễ chịu, còn món patê mối thì có một vị
dìu dịu, tựa như thịt gà, chẳng hề khó chịu tí nào. Về sau chúng tôi viết thư cho gia

đình kể lại kinh nghiệm này, và trong thư trả lời của họ, họ cho biết đã kể câu
chuyện này cho một người bạn là một nhà nghiên cứu kinh tế gia đình. Người bạn
này chẳng hề bày tỏ một sự ngạc nhiên nào cả. Cô ấy chỉ nhận xét rằng mối là
một nguồn protein tốt và sạch.

NHÂN HỌC LÀ GÌ ?
Một số yếu tố chủ yếu của ngành nhân học có thể tìm thấy trong giai thoại kể
trên. Các nhà nhân học muốn tìm hiểu càng nhiều nếp sống khác nhau của con
người càng tốt. Dù đối tượng tìm hiểu của họ là những thành viên trong chính xã
hội của họ, hay những người sống ở một lục địa khác, hoặc phải được dựng lại từ
vết tích của cuộc sống cách đây hàng trăm hay hàng ngàn năm, nhà nhân học đôi
khi gặp phải những tập tục làm họ ngỡ ngàng. Tuy nhiên, khi đã chấp nhận sự rủi
ro của việc hiểu biết kỹ hơn những nếp sống như thế, họ thường được đền bù
bằng sự thú vị khi khám phá ra những điều quen thuộc. Sự ngạc nhiên do thấy cái
xa lạ biến thành cái quen thuộc cũng như cái quen thuộc biến thành cái xa lạ là
điều mà các nhà nhân học chờ đợi sẽ xảy ra và đây là một trong những cái thú thật
sự của ngành học. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ cùng chia xẻ những khía cạnh
khác nhau trong kinh nghiệm của ngành học với hy vọng rằng các bạn cũng sẽ tìm
thấy được sự thú vị, tri thức, và tự khám phá ra mình bằng việc tham gia vào cái
xa lạ.
Nhân học có thể được định nghĩa là một ngành học về bản chất con người, xã
hội con người, và quá khứ con người (xem Greenwood và Stini 1977). Đây là một
ngành học có mục đích miêu tả thế nào là con người theo một nghĩa rộng nhất có
thể có được.
Nhà nhân học không phải là người duy nhất tập trung sự chú ý của mình vào
con người và những sản phẩm do con người tạo ra. Sinh vật học về con người, văn
học, nghệ thuật, sử học, ngôn ngữ học, xã hội học, chính trị học, kinh tế học - tất
cả những ngành học thuật này và nhiều ngành khác - đều tập trung vào khía cạnh
này hay khía cạnh khác của đời sống con người. Nhân học là ngành học độc đáo ở
chỗ nó sử dụng những khám phá của các ngành khoa học kia và cố gắng kết hợp

chúng với những dữ kiện riêng của mình để tìm hiểu xem các yếu tố sinh vật,
kinh tế, chính trị, tôn giáo, và thân tộc đã tác động với nhau như thế nào để tạo nên
đời sống con người như chúng ta thấy. Điều đó có nghĩa là nhân học là một ngành
học toàn diện (holistic); toàn diện là một đặc điểm trung tâm của quan điểm nhân
học.
Việc khái quát hóa về bản chất con người, xã hội con người, và quá khứ con
người đòi hỏi cứ liệu từ nhiều xã hội khác nhau, càng nhiều càng tốt. Như thế,
ngoài tính chất toàn diện, nhân học còn là một khoa học đối chiếu. Ví dụ, sẽ thiếu
sót nếu chỉ quan sát xã hội của chính chúng ta và thấy rằng chúng ta không ăn côn
trùng rồi kết luận rằng loài người không ăn côn trùng. Khi so sánh chế độ ăn uống
của con người trong nhiều xã hội khác nhau, chúng ta thấy rằng ăn côn trùng là
điều rất thông thường và nếu người Bắc Mỹ không ăn côn trùng thì đó chẳng qua
chỉ là một tập quán ăn uống riêng của xã hội chúng ta mà thôi.
Các nhà nhân học cố gắng đưa ra những khái quát hóa có giá trị qua thời gian
và không gian về câu hỏi thế nào là con người. Phạm vi so sánh bao gồm tất cả xã
hội loài người và mọi thời kỳ lịch sử của con người, từ khi xuất hiện loài linh
trưởng giống người cách đây khoảng năm triệu năm cho đến hiện nay. Vì lý do
này, nhân học cũng quan tâm đến quá trình tiến hóa sinh vật học của loài người
qua thời gian, bao gồm việc nghiên cứu về nguồn gốc con người và các loại gen và
di truyền trong các cộng đồng dân cư hiện nay.
Nếu tiến hóa được hiểu theo nghĩa rộng là sự thay đổi qua thời gian thì xã hội
và văn hóa của con người cũng có thể được hiểu là đã tiến hóa từ thời kỳ tiền sử
đến nay. Một trong nhũng đóng góp quan trọng nhất của nhân học vào việc nghiên
cứu sự tiến hóa của nhân loại là nó đã nhấn mạnh đến những dị biệt quan trọng
phân chia giữa tiến hóa sinh vật (liên quan đến những đặc tính và hành vi được
truyền qua gen) với tiến hóa văn hóa (liên quan đến những quan niệm và hành vi
không được truyền qua gen mà dược truyền qua việc dạy và học). Những chương
sau sẽ thảo luận chi tiết hơn về sự khác nhau giữa hai phương thức tiến hóa này;
tuy nhiên, chúng tôi muốn nêu lên ở đây rằng loài người, xã hội loài người, và văn
hóa loài người tất cả đều thay đổi với thời gian. Vì các nhà nhân học quan tâm đến

việc ghi giữ và giải thích những thay đổi này, quan điểm nhân học trong cốt lõi là
một quan điểm tiến hóa.

KHÁI NIỆM VĂN HÓA
Một hệ quả của tiến hóa có tác động sâu xa nhất đến bản chất con người và xã
hội con người là sự xuất hiện của văn hóa. Văn hóa có thể được định nghĩa là tập
hợp những hành vi và quan niệm mà con người học hỏi được với tư cách là thành
viên của xã hội. Con người dùng văn hóa để thích ứng với thế giới mà trong đó họ
đang sống và để thay đổi nó.
Văn hóa làm cho chúng ta trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật. Con người
tùy thuộc nhiều hơn bất cứ loài động vật nào khác vào việc học hỏi để sinh tồn bởi
vì chúng ta không có những bản năng tự động bảo vệ chúng ta cũng như tìm thức
ăn và chỗ trú ngụ cho chúng ta. Thay vì vậy, chúng ta lại dùng bộ não lớn và phức
tạp của mình để học từ những thành viên khác của xã hội những điều cần biết để
sinh tồn. Quá trình dạy và học này là trọng tâm chính của thời thơ ấu. Đối với con
người, thời kỳ này dài hơn đối với bất kỳ loài động vật nào khác.
Trong nhân học, khái niệm văn hóa là khái niệm trung tâm dùng để giải thích
tại sao con người là như chúng ta thấy và tại sao họ làm những điều họ đang làm.
Các nhà nhân học đã cho thấy rằng sở dĩ những thành viên của một nhóm xã hội
cư xử theo một cách nhất định nào đó là bởi vì họ đã học cư xử theo cách đó, chứ
không phải vì hành vi của họ đã được chương trình hóa bởi các gen trong người họ.
Thông thường người Bắc Mỹ không ăn côn trùng, nhưng hành vi này không phải
là kết quả của một sự chương trình hóa các gen. Đúng ra là người Bắc Mỹ đã học
xếp loại côn trùng vào thứ "không ăn được" và tránh ăn chúng. Như chính bản
thân chúng tôi đã khám phá ra, người Bắc My có thể ăn côn trùng mà không bị
một tác hại nào cả. Như vậy, sự khác nhau này về hành vi xã hội có thể được giải
thích bằng những yếu tố văn hóa hơn là bằng những yếu tố sinh vật học.
Điều lý thú là các nhà nhân học đã có thể chỉ ra một cách rõ ràng sức mạnh của
văn hóa bởi vì họ cũng hiểu biết về sinh vật học. Những học giả được đào tạo
trong cả hai lĩnh vực, và đây là truyền thống của nhiều chương trình dạy nhân học

ở Bắc Mỹ, vừa hiểu biết về hoạt động của gen và cơ thể sinh vật vừa có những
thông tin đối chiếu về nhiều xã hội loài người khác nhau. Kết quả là họ thực tế hơn
trong việc thẩm định sự đóng góp của những yếu tố sinh vật và yếu tố văn hóa vào
sự định hình một hành vi nhất định nào đó của con người. Thật vậy, đa số các nhà
nhân học không chấp nhận những giải thích nào bắt buộc họ phải chọn lựa giữa
nguyên nhân sinh vật và nguyên nhân văn hóa. Thay vì vậy, họ nhấn mạnh rằng
con người là một chủng loài sinh vật-văn hóa (biocultural).
Kết cấu sinh vật do gen kiểm soát bao gồm bộ não, hệ thần kinh, và cấu tạo cơ
thể làm cho chúng ta trở thành loài sinh vật có thể sáng tạo văn hóa và sử dụng
văn hóa. Không có những tính chất thiên bẩm này, văn hóa như cái chúng ta biết
sẽ không hiện hữu được. Đồng thời, sự sinh tồn của chúng ta với tính cách là
những cơ thể sinh vật lại tùy thuộc vào những truyền thống văn hóa học hỏi được;
những truyền thống này giúp chúng ta tìm thức ăn, chỗ ở và người bạn đời cũng
như dạy chúng ta cách nuôi nấng con cái. Sở dĩ như vậy là vì những yếu tố sinh
vật bẩm sinh dù phong phú cũng không cung cấp được cho chúng ta những bản
năng khả dĩ tự lo liệu các nhu cầu sinh tồn này. Cấu tạo sinh học của con người
làm cho văn hóa có thể có được; văn hóa của con người làm cho sự tồn tại về mặt
sinh học của con người có thể có được.
Các nhà nhân học đôi khi phân biệt giữa Culture (với chữ C viết hoa) và
cultures (dùng ở số nhiều với chữ c viết thường). Văn hóa viết hoa được xem là
một thuộc tính của nhân loại nói chung đó là khả năng học hỏi và sáng tạo ra
những hành vi và quan niệm để chủng loài có thể tồn tại được như những cơ thể
sinh học. Ngược lại, văn hóa viết thường là những truyền thống khác nhau bao
gồm những hành vi và quan niệm mà những tập thể người học hỏi được vì họ là
thành viên của những xã hội đó. Mỗi truyền thống có thể được gọi là một nền văn
hóa riêng, mặc dù biên giới ngăn cách một nền văn hóa này với một nền văn hóa
khác thường không dễ xác định.
Mặc dù có thể nói rằng nhân loại nói chung có Văn hóa viết hoa như là một
thuộc tính cơ bản, các nhà nhân học và những người khác chỉ tiếp cận được những
nền văn hóa cụ thể. Thông thường, nhà nhân học thu thập thông tin về một nền

văn hóa nào đó bằng cách tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa đó. Dù sống với một
nhóm Fulbe ở bắc Cameroon, khai quật một di chỉ Aztec cổ ở Mexico, hay nghiên
cứu sự khác nhau giữa lời nói của nam và nữ ở Alabama, nhà nhân học phải thoát
khỏi những quan điểm mà mình đã quen thuộc. Những nhà nhân học nghiên cứu
loài hắc tinh-tinh hay gôrila trong rừng hoặc tìm cách dựng lại nếp sống của tổ tiên
hóa thạch của con người hiện đại và của loài vượn người là những người đã mở
rộng biên giới sự hiểu biết của chúng ta về câu hỏi thế nào là con người.
Kết quả công trình nghiên cứu của họ, như các chương sau sẽ minh họa,
thường xuyên đòi hỏi chúng ta phải đánh giá lại những ý niệm thông thường của
chúng ta về vấn đề chúng ta là ai. Kinh nghiệm "thực địa" là một phần trung tâm
của nhân học hiện đại và đã góp phần quan trọng vào quan điểm học thuật của
ngành. Mọi nghiên cứu nhân học đều quay trở về những kinh nghiệm thuộc về tinh
thần, tình cảm, và vật chất của những ngày tháng tiếp xúc trực tiếp với một thế
giới thường là xa lạ.

MỘT BỘ MÔN LIÊN NGÀNH
Vì mục đích của nhân học là miêu tả thế nào là con người, nội dung của ngành
học này hết sức đa dạng. Tại bất cứ cuộc họp thường niên nào của Hội Nhân học
Mỹ (American Anthropological Association) (hội chuyên nghiệp quy tụ đa số các
nhà nhân học), bạn sẽ thấy có các báo cáo khoa học về những chủ đề như kích
thước và hình dạng răng của loài linh trưởng hóa thạch được giả định là tổ tiên của
con người hiện đại, các dạng thức hôn nhân và ly dị ở châu Âu, những yếu tố sinh
học và xã hội liên quan đến bệnh AIDS ở thế giới thứ ba,hoạt động sản xuất lương
thực cổ truyền ở châu Phi, và nghề làm chiếu ở Polynesia. Do tính đa dạng về nội
dung học thuật, nhân học khó được xếp vừa vặn vào trong bảng phân loại chuẩn
các ngành học thuật. Ngành học này thường được liệt kê là một ngành khoa học xã
hội, nhưng nó cũng vươn tới các khoa học tự nhiên và nhân văn nữa.

Nhân học hình thể (Nhân học sinh vật)
Chuyên ngành đầu tiên và sớm nhất trong bộ môn nhân học được gọi là nhân

học hình thể (nhân học sinh vật). Vấn đề quan tâm chính của các nhà nhân học
hình thể là con người với tư cách là một cơ thể sinh vật. Mục đích của họ là khám
phá ra những điểm tương đồng và dị biệt giữa con người và các loài động vật khác.
Vào thế kỷ 19, khi nhân học phát triển thành một ngành học thuật, nhân học
hình thể phát triển mạnh. Sự quan tâm đến lãnh vực này là một sản phẩm phụ của
nhiều thế kỷ thám hiểm các nơi trên thế giới. Người Tây Âu lúc đó đã chứng kiến
sự đa dạng hết sức phong phú về ngoại hình của các dân tộc trên khắp thế giới và
đã từ lâu cố gắng tìm một ý nghĩa cho những dị biệt này. Các nhà nhân học hình
thể đã sáng chế ra một số kỹ thuật tinh vi để đo những đặc điểm nhân dạng của các
cộng đồng cư dân khác nhau, bao gồm màu da, loại tóc, hình dạng cơ thể, vân vân.
Mục đích của họ là tìm những chứng cứ khoa học khả dĩ cho phép họ sắp xếp tất
cả các dân tộc trên thế giới vào những loại hình dứt khoát và rõ ràng dựa trên các
đặc tính sinh học. Những loại hình như thế được gọi là chủng tộc, và nhiều nhà
nhân học hình thể tin rằng họ sẽ tìm ra được những tiêu chí dứt khoát rõ ràng để
phân loại chủng tộc nếu họ có thể đo lường được một số lượng lớn người từ nhiều
nơi khác nhau trên thế giới.
Dĩ nhiên, những nghiên cứu đầu tiên này trong chuyên ngành nhân học hình
thể không diễn ra trong một môi trường xã hội và lịch sử trống không. Những dân
tộc mà các nhà nhân học hình thể tìm cách phân chia thành các chủng tộc phần lớn
là những dân tộc ngoài châu Âu, những dân tộc đang càng lúc càng rơi vào sự
thống trị về chính trị và kinh tế của những xã hội tư bản Âu Mỹ đang bành trướng.
Những dân tộc này khác với người châu Âu "da trắng" không những do màu da
sậm hơn của họ mà còn do ngôn ngữ và phong tục xa lạ của họ, và trong phần lớn
các trường hợp, do họ có một nền kỹ thuật không thể sánh với sức mạnh của
phương Tây đã công nghiệp hóa.
Kết quả là chủng tộc được coi là yếu tố quyết định chẳng những cho nhân dạng
bề ngoài của một tập thể người mà còn cho đặc điểm trí tuệ và tinh thần của họ
nữa. Các chủng tộc đã được phân chia thứ bậc dựa trên những đặc điểm này.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người châu Âu và Bắc Mỹ "da trắng" được xem
là thượng đẳng, còn các chủng tộc khác thì thấp kém hơn và thuộc nhiều cấp độ

khác nhau. Như thế, các nhà nhân học hình thể của thời kỳ đầu đã giúp vào việc
phát triển những lý thuyết có thể dùng để biện minh cho chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc: sự áp bức có hệ thống những thành viên của một hoặc nhiều "chủng
tộc" mà sự xác định lại mang tính chất xã hội, bởi một "chủng tộc" khác mà sự xác
định cũng mang tính chất xã hội ; sự áp bức này được biện hộ bằng một giả định
về tính ưu việt vốn có về mặt sinh học của những người cai trị và giả định về sự
thấp kém vốn có về mặt sinh học của những người nằm dưới sự cai trị của họ.
Kỹ thuật nghiên cứu của chuyên ngành nhân học hình thể đã được cải thiện
qua thời gian. Các nhà nhân học hình thể đã đo đạc được nhiều đặc điểm bên
trong của cơ thể như loại máu chẳng hạn và họ dùng những dữ kiện mới để bổ
sung vào những hiểu biết đã có. Họ đã có được một lượng thông tin lớn về sự đa
dạng của cơ thể con người; tuy nhiên, họ đã nhận ra rằng những đặc điểm bên
ngoài như màu da chẳng hạn, thường được dùng để phân biệt các chủng tộc, lại
không có một tương quan chặt chẽ với những đặc điểm sinh học khác của cơ thể.
Sự hiểu biết của họ về các thuộc tính sinh học của các cư dân càng nhiều bao
nhiêu thì họ càng thấy rằng không hề tồn tại những chủng tộc với một số thuộc
tính sinh học chỉ riêng cho chính chúng nó.
Đến đầu thế kỷ thứ 20, một số nhà nhân học và sinh vật học đã kết luận rằng
khái niệm "chủng tộc" không phản ánh được sự thực của tự nhiên; thay vì vậy, nó
là một nhãn hiệu văn hóa do con người tạo ra để phân chia nhân loại ra thành từng
nhóm khác nhau. Chẳng hạn, những nhà nhân học như Frank Boas, người đã thành
lập khoa nhân học đầu tiên ở Hoa kỳ vào đầu thập niên 1900, từ lâu đã thấy khó
chịu với những phân loại chủng tộc trong nhân học. Boas và sinh viên của ông đã
dành nhiều công sức để vạch trần những định kiến chủng tộc, vận dụng kiến thức
cả về sinh vật học lẫn văn hóa. Khi ngành nhân học phát triển, sinh viên ở Hoa kỳ
được đào tạo cả về lãnh vực sinh vật học lẫn lãnh vực văn hóa để được trang bị
một công cụ chống lại những định kiến chủng tộc và dân tộc.
Bác bỏ lối suy nghĩ mang màu sắc chủng tộc của thế kỷ 19, nhiều nhà nhân học
hiện đại chuyên nghiên cứu sinh học của con người thích tự gọi mình là nhà nhân
học sinh vật. Họ không nghiên cứu "chủng tộc" nữa và thay vào đó họ quan tâm

đến những dạng thức dị biệt trong loài người nói chung. Có người truy tìm nhửng
tương đồng và dị biệt về mặt hóa học trong hệ thống miễn nhiễm của con người,
một xu hướng gần đây đã dẫn đến việc tích cực chống lại bệnh AIDS. Có người
nghiên cứu mối tương quan giữa dinh dưỡng và sự phát triển của cơ thể. Thuộc
chuyên ngành này còn có những nhà linh trưởng học, những người chuyên nghiên
cứu các động vật có họ hàng gần nhất với con người, cũng như có những mhà cổ
nhân học, những người tìm tòi dưới mặt đất để kiếm xương và răng hóa thạch của
tổ tiên xa xưa nhất của chúng ta. Bằng cách so sánh người hiện đại với các quần
thể động vật còn tồn tại hay đã tuyệt chủng, nhà nhân học sinh vật có thể làm sáng
tỏ nguyên nhân của sự tương đồng và dị biệt giữa con người và các hình thức sự
sống khác.
Dù họ nghiên cứu về sinh học của con người, các loài linh trưởng, hay xương
hóa thạch của tổ tiên chúng ta, các nhà nhân học sinh vật đã vay mượn và phát
triển các phương pháp và lý thuyết của các khoa học tự nhiên - chủ yếu là sinh vật
học, hóa học và địa chất học. Điều làm cho các nhà nhân học sinh vật khác với
những đồng nghiệp ngoài ngành của họ là quan điểm toàn diện, đối chiếu và tiến
hóa mà họ đã nhận được từ chương trình học của họ. Quan điểm đó nhắc nhở họ
luôn luôn xem công việc của mình chỉ là một phần trong sự nghiên cứu toàn diện
về bản chất con người, xã hội con người, và quá khứ con người.

Nhân học văn hóa
Chuyên ngành thứ hai trong bộ môn nhân học là nhân học văn hóa, đôi khi còn
được gọi là nhân học xã hội-văn hóa, nhân học xã hội, hay dân tộc học. Môt khi
các nhà nhân học nhận ra rằng không thể dùng yếu tố sinh học hay chủng tộc để
giải thích tại sao mọi người trên thế giới không mặc đồ giống nhau, không nói
cùng một ngôn ngữ, không cầu nguyện cùng một thần, không phải ai cũng ăn côn
trùng vào bữa ăn tối, họ biết rằng phải có một cái gì khác tạo nên những sự khác
biệt này. Họ cho rằng "cái gì khác" này chính là văn hóa: tập hợp những hành vi
và quan niệm mà con người học hỏi được với tư cách là thành viên của xã hội. Vì
con người khắp mọi nơi dùng văn hóa để thích ứng với thế giới họ đang sống và

biến đổi nó, phạm vi của nhân học văn hóa rất là rộng.
Các nhà nhân học văn hóa có khuynh hướng chuyên nghiên cứu một lãnh vực
nào đó trong hoạt động văn hóa của con người. Có người nghiên cứu cách xã hội
tổ chức thực hiện công việc tập thể trong các lãnh vực hoạt động như kinh tế,
chính trị, tinh thần, v.v Lãnh vực nghiên cứu này của nhân học văn hóa rất gần
với xã hội học và chính từ đây mà người ta xem nhân học là một ngành khoa học
xã hội. Sự thật là xã hội học và nhân học đã được phát triển trong cùng một thời
kỳ và có những vấn dề quan tâm giống nhau về tổ chức xã hội.
Một yếu tố quan trọng đã phân biệt nhân học với xã hội học là sự quan tâm của
nhân học đối với việc so sánh các hình thức khác nhau của đời sống xã hội loài
người. Trong khung cảnh phân biệt chủng tộc của xã hội châu Âu và Bắc Mỹ vào
thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, có người đã xem xã hội học là ngành nghiên cứu xã
hội công nghiệp "văn minh" và nhân học là ngành nghiên cứu tất cả các xã hội
khác, gộp chung lại dưới nhãn hiệu xã hội "nguyên thủy." Nhưng các nhà nhân
học hiện đại đã quan tâm nghiên cứu tất cả mọi xã hội loài người, và họ bác bỏ
nhãn hiệu "văn minh" và "nguyên thủy" với cùng lý do mà họ đã bác bỏ từ ngữ
"chủng tộc." Ngày nay, các nhà nhân học thực hiện việc nghiên cứu của mình
trong khung cảnh đô thị cũng như nông thôn trên khắp thế giới và trong tất cả mọi
xã hội, gồm cả xã hội của chính họ.
Các nhà nhân học đã nhận thấy rằng nhiều xã hội bên ngoài phương Tây không
có hệ thống thư lại, nhà thờ, hay trường học, nhưng họ vẫn tiến hành được một
cách thành công mọi hoạt động xã hội vì họ đã phát triển định chế thân tộc, tự tổ
chức thành các nhóm xã hội mà tất cả các thành viên đều được coi như "họ hàng"
với nhau. Việc nghiên cứu thân tộc đã phát triển rất cao trong ngành nhân học và
hiện nay vẫn còn là một trọng điểm nghiên cứu. Ngoài ra, các nhà nhân học đã
miêu tả nhiều hình thức tổ chức xã hội không dựa trên thân tộc mà người ta có thể
tìm thấy bên ngoài thế giới phương Tây. Những tổ chức này gồm các hội kín, các
nhóm tập hợp theo tuổi, và nhiều hình thức tổ chức chính trị khác nhau.
Các nhà nhân học văn hóa đã tìm hiểu các dạng thức đời sống vật chất tìm thấy
trong nhiều nhóm cư dân khác nhau. Một trong những điều gây ấn tượng nhất là

mức độ dị biệt trên khắp thế giới về trang phục, nhà ở, công cụ cũng như kỹ thuật
sản xuất lương thực và chế tạo vật dụng. Một số nhà nhân học đi sâu nghiên cứu
kỹ thuật của các xã hội hoặc sự tiến hóa của kỹ thuật qua thời gian. Những nhà
nghiên cứu quan tâm đến đời sống vật chất cũng đã miêu tả khung cảnh tự nhiên
trong đó các nền kỹ thuật đã phát triển và đã phân tích sự tác động qua lại giữa kỹ
thuật và môi trường.
Những nhà nhân học nghiên cứu đối chiếu về ngôn ngữ, âm nhạc, múa, nghệ
thuật, thi ca, triết lý, tôn giáo, hay lễ nghi có nhiều mối quan tâm học thuật giống
với các chuyên gia trong các ngành mỹ thuật và khoa học nhân văn. Trong tất cả
các lĩnh vực này, nghiên cứu về ngôn ngữ con người là một lãnh vực đặc biệt quan
trọng trong nhân học văn hóa.

Nhân học ngôn ngữ
Có lẽ nét văn hóa nổi bật nhất của chủng loài chúng ta là ngôn ngữ: hệ thống
biểu trưng thanh âm võ đoán của chúng ta dùng để lập mã kinh nghiệm của mình
về thế giới và về lẫn nhau. Người ta dùng ngôn ngữ để nói về tất cả mọi khía cạnh
trong đời sống, từ vật chất tới tinh thần. Như vậy, ngôn ngữ là một chìa khóa quan
trọng cho sự hiểu biết một nhóm người nào đó và nếp sống của họ. Nhân học ngôn
ngữ đã phát triển cao và từ lâu được xem là một chuyên ngành riêng trong nhân
học. Nhiều nhà nhân học tiên phong là những người đầu tiên lập nên hệ thống chữ
viết cho các ngôn ngữ bên ngoài phương Tây cũng như đã tạo dựng ngữ pháp và
từ điển. Các nhà nhân học ngôn ngữ hiện đại đã được đào tạo cả về ngôn ngữ học
lẫn nhân học, và nhiều nhà nhân học văn hóa cũng đã được đào tạo về ngôn ngữ
học và dây là một phần phải có trong sự chuẩn bị chuyên môn của họ. Các nhà
nhân học ngôn ngữ tìm cách hiểu ngôn ngữ một cách toàn diện trong tương quan
với bối cảnh rộng lớn hơn gồm văn hóa, lịch sử, và sinh học.
Nghiên cứu điền dã Các nhà nhân học văn hóa, dù lãnh vực chuyên môn của
họ là gì, thường thu thập tài liệu qua một thời kỳ dài giao tiếp mật thiết với những
người có ngôn ngữ hoặc nếp sống mà họ quan tâm nghiên cứu. Thời kỳ nghiên
cứu này được gọi là nghiên cứu điền dã, và đặc điểm chính của nó là sự tham gia

của nhà nhân học vào công việc hàng ngày của những người họ đang nghiên cứu.
Những người chia sẻ thông tin về văn hóa và ngôn ngữ của họ với nhà nhân học từ
lâu nay thường được gọi là người thông tin (informant); tuy nhiên, ngày nay các
nhà nhân học ít sử dụng từ này hơn trước đây và thích gọi những cá nhân này là
những người thầy hoặc người bạn vì những từ ngữ này nhấn mạnh đến mối quan
hệ bình đẳng và hỗ tương. Người nghiên cứu điền dã tìm hiểu một nền văn hóa
khác bằng cách cùng tham dư vào các hoạt động xã hội với các thành viên của
cộng đồng và đồng thời quan sát những hoạt động đó như là một người ngoài cuộc.
Phương pháp nghiên cứu này được biết đến dưới tên gọi quan sát-tham dự, là
phương pháp chính của nhân học văn hóa __ và là điểm chủ yếu của giao tiếp giữa
con người với nhau nói chung.
Nhà nhân học văn hóa viết về những điều họ biết dưới hình thức tạp chí
chuyên đề hoặc sách và đôi khi cũng quay phim đời sống của đối tượng nghiên
cứu. Từ ngữ ethnography (khảo tả dân tộc học) chỉ một công trình miêu tả một nền
văn hóa nào đó; ethnology chỉ việc nghiên cứu so sánh nhiều nền văn hóa. Như
vậy, các nhà nhân học viết những khảo tả dân tộc học đôi khi được gọi là
ethnographers, và các nhà nhân học so sánh tài liệu dân tộc học về nhiều nền văn
hóa khác nhau đôi khi được gọi là ethnologists.

Khảo cổ học
Khảo cổ học, một chuyên ngành lớn khác của nhân học, là một ngành nhân học
văn hóa về quá khứ của con người, sử dụng phương pháp phân tích các di tích vật
chất. Thông qua khảo cổ học, các nhà nhân học khám phá nhiều điều về lịch sử
của con người, đăc biệt là về thời kỳ tiền sử, quãng thời gian dài trước khi có chữ
viết. Ngoài kiến thức về nhân học hình thể và văn hóa, nhà khảo cổ học phải có
khả năng nhận diện được những hài cốt mà họ phát hiện và giải thích được các di
vật khác như các lỗ cột (postholes), những đống rác và mô hình cư trú. Ngoài ra,
họ cần biết về địa chất học để có thể xác định đúng thời gian những địa điểm khai
quật. Dựa vào vị trí và niên đại của các di chỉ để nghiên cứu, có thể nhà khảo cổ
học cũng phải hiểu biết về cách sản xuất công cụ đá,luyện kim, hoặc phân tích

phấn hoa.
Những thông tin do nhà khảo cổ học phát hiện là những thông tin có giá trị đối
với nhà nhân học hình thể và nhân học văn hóa. Những bộ xương và răng mà nhà
khảo cổ học phát hiện có thể dùng vào việc dựng lại quá trình tiến hóa của loài
linh trưởng. Những di tích văn hóa vật chất mà họ tìm thấy có thể làm tăng thêm
bề dày lịch sử cho những truyền thống văn hóa nào đó và chỉ ra con đường lan
truyền của những phát minh văn hóa qua thời gian từ nơi này sang nơi khác. Nếu
họ khai quật những di chỉ gần đây hơn _ "gần đây" có nghĩa là trong vòng vài
nghìn năm qua _ họ có thể tìm ra chứng cứ của những hệ thống văn tự cổ để các
nhà nhân học ngôn ngữ giải mã và phiên dịch. Một số nhà khảo cổ học hiện đại
khai quật những lớp rác do con người thải ra trong hai hoặc ba thập niên vừa qua,
đôi khi qua đó phát hiện được những thông tin đáng ngạc nhiên về những dạng
thức tiêu thụ của thời hiện đại.

Nhân học ứng dụng
Trong những năm gần đây, nhân học ứng dụng dã được công nhận là chuyên
ngành lớn thứ năm của bộ môn nhân học. Các nhà nhân học ứng dụng sử dụng
thông tin thu thập được từ những chuyên ngành nhân học khác để giải quyết
những vấn đề thực tiễn có tính chất liên văn hóa. Họ có thể dùng những quan niệm
của một nền văn hóa nào đó về sức khỏe và bệnh tật để phổ biến những tập quán y
tế công cộng theo cách mà thành viên của nền văn hóa đó có thể hiểu và chấp nhận
được. Có nhà nhân học ứng dụng dùng kiến thức về tổ chức xã hội cổ truyền để
làm vơi bớt những vấn đề của người tỵ nạn ở vùng đất mới. Có người dùng kiến
thức của mình về phương pháp canh tác cổ truyền và nông nghiệp phương Tây để
giúp nông dân tăng sản lượng mùa màng của họ. Trước mối quan tâm ngày càng
tăng trên khắp thế giới về ảnh hưởng của văn minh kỹ thuật lên môi trường trái đất,
nhân học ứng dụng hứa hẹn sẽ là một phương tiện kết hợp khoa học phương Tây
với truyền thống ngoài phương Tây để tạo ra những kỹ thuật mới khả dĩ giảm
thiểu sự ô nhiễm và thoái hóa của môi trường. Nhân học ứng dụng còn quá mới
mẻ và liên quan đến rất nhiều ngành học khác nhau nên nó chưa trở thành một

phần bắt buộc của chương trình đào tạo trên đại học, mặc dù càng lúc càng có
nhiều trường đại học ở Hoa kỳ giảng dạy các chương trình thuộc chuyên ngành
này.


×