Thế giới tuyên chiến với đái tháo
đường như thế nào?
Sự ra đời của Chương trình phòng chống bệnh ĐTĐ
Hiện nay, theo Tổ chức Y tế Thế giới, bệnh đái tháo đường (ĐTĐ)
đã được công nhận là bệnh đặc biệt nghiêm trọng đe dọa đến sức
khỏe và sự phát triển kinh tế ở tất cả các quốc gia trên thế giới.
Chính vì vậy vào năm 1989, Hội nghị lần thứ 42 của World
Health Assembly - Hội nghị Y tế toàn cầu (Hội đồng Y tế toàn
cầu) đã thông qua lời kêu gọi toàn cầu hành động về phòng và
kiểm soát bệnh ĐTĐ theo khung của Nghị quyết WHA42.36 và
phản ứng triển khai của năm châu lục cũng đã được thông qua. Sau
sự kiện này, một loạt hành động khác nhằm hưởng ứng tích cực lời
kêu gọi này trên thế giới đã diễn ra như Tuyên bố The St. Vincent
ở châu Âu năm 1994; Tuyên bố và kế hoạch hành động của khu
vực Tây Thái Bình Dương năm 2000 tương tự là tuyên bố và
chiến lược của khu vực cận Sahara năm 2008 và Tuyên bố
Kathmandu trong năm 2008.
Nghị quyết WHA42.36 có thể nói đã mở đầu cho sự phát triển của
Chương trình phòng chống ĐTĐ ở mức độ quốc gia. Các chương
trình này ở mỗi nước là phương tiện mà các quốc gia phân bổ
nguồn lực một cách rõ ràng để ngăn ngừa bệnh ĐTĐ và chăm sóc
cho người bị ĐTĐ và do đó có thể được xem như là một chỉ số của
sự cam kết của các nước để đối phó với bệnh ĐTĐ.
Tiếp theo Nghị quyết WHA42.36 thì vào năm 2006, Liên hợp quốc
(UN) đã công bố Nghị quyết UN61/225 về phòng chống ĐTĐ bao
gồm ba thông điệp chính, một trong đó kêu gọi: “Các nước thành
viên xây dựng chính sách quốc gia để điều trị, phòng chống và
chăm sóc của bệnh ĐTĐ phù hợp với sự phát triển bền vững của
hệ thống chăm sóc sức khỏe của họ, tính đến thống nhất mục tiêu
phát triển quốc tế bao gồm cả các Mục tiêu phát triển Thiên niên
kỷ.”
Tình hình chương trình phòng chống bệnh ĐTĐ trên thế giới
Để hưởng ứng lời kêu gọi này của UN, Liên đoàn ĐTĐ Quốc tế
(IDF), tổ chức đóng vai trò then chốt trong việc phòng chống bệnh
ĐTĐ toàn cầu, đã tổ chức “Lực lượng đặc biệt chuyên trách về
chính sách quốc gia về ĐTĐ và hành động” để tiến hành khảo sát
202 thành viên IDF trong năm 2008 để xác định sự tồn tại, nội
dung và tình hình thực hiện của Chương trình phòng chống ĐTĐ
tại quốc gia của họ.
Kết quả cuộc khảo sát này cho thấy, có một nửa các thành viên của
Hiệp hội đã phản hồi lại với IDF và 61% trong số 89 nước trả lời
thông báo rằng tại đất nước họ đã có Chương trình quốc gia phòng
chống bệnh ĐTĐ. Và 3/4 số kế hoạch của các nước này đã được
thực hiện. Bên cạnh đó, trong 2/3 nước thì Chương trình quốc gia
phòng chống bệnh ĐTĐ nằm trong chiến lược quốc gia chung về
bệnh không lây truyền. Các quốc gia còn lại báo cáo rằng họ có
kinh phí dành riêng cho Chương trình quốc gia phòng chống bệnh
ĐTĐ.
Cuộc điều tra đã chứng minh rằng có một sự gắn kết mạnh mẽ về
hoạt động của các quốc gia về phòng chống bệnh ĐTĐ trên thế
giới. Tuy nhiên, nó cũng chứng minh sự cần thiết của một nỗ lực
phối hợp để khuyến khích và hỗ trợ các nước mà không có và
những nước có chương trình này nhưng không hoạt động để phát
triển và thực hiện kế hoạch phòng chống và chăm sóc toàn diện
nhằm giảm các gia đình, cá nhân và xã hội gánh nặng của bệnh
ĐTĐ trên toàn cầu.
Tập luyện thể dục thể thao giúp phòng tránh
nguy cơ đái tháo đường.
Thiết kế của một chương trình phòng chống bệnh ĐTĐ
Để hỗ trợ các nước cần thiết kế một chương trình phòng chống
bệnh ĐTĐ quốc gia, IDF đang phát triển thiết kế hữu ích để giúp
đỡ họ trong việc này. Và xây dựng chương trình này đòi hỏi các
nước phải xem xét và cung cấp nguồn lực cho phát triển và thực
hiện nó. Chương trình này cũng sẽ phải bao gồm đo lường được
vấn đề (tình trạng bệnh và chi phí điều trị), can thiệp để giảm thiểu
tác hại (bao gồm phòng chống, chẩn đoán sớm, dịch vụ và chăm
sóc người bị bệnh ĐTĐ) và sau cùng là đánh giá tác động của các
can thiệp.
Theo IDF, một thiết kế chương trình phòng chống ĐTĐ quốc gia
phải bao gồm những mục tiêu sau:
- Nâng cao nhận thức công chúng: xúc tiến quốc gia, thông tin và
giáo dục.
- Phòng ngừa: tiểu học (giảm tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ).
- Thay đổi hành vi và điều trị (phát hiện sớm bệnh làm giảm biến
chứng, tử vong, giảm thiểu tác hại và thay đổi hành vi).
- Cải thiện chất lượng điều trị bệnh ĐTĐ và chăm sóc: dựa vào
cộng đồng tiếp cận, các đội đa ngành, bệnh nhân tiếp cận trung
tâm.
- Nâng cao chất lượng chuyên môn và đào tạo cho nhân viên chăm
sóc bệnh nhân ĐTĐ (nhân viên y tế).
- Phát triển hướng dẫn quốc gia về điều trị của bệnh ĐTĐ.
- Hỗ trợ cho nghiên cứu khoa học về bệnh ĐTĐ.
- Thiết lập một hệ thống đăng ký bệnh ĐTĐ (ĐTĐ týp 1).
* *
*
Chắc chắn sự thành công hay không của các chương trình phòng
chống bệnh ĐTĐ quốc gia phải tập trung vào câu hỏi liệu nó có
phải chương trình bền vững hay không. Và rất rõ ràng rằng các
phong trào xây dựng Chương trình quốc gia phòng chống bệnh
ĐTĐ bắt đầu 20 năm trước với Nghị quyết WHA42.36 của WHO
và hiện đang được hỗ trợ của UN bằng Nghị quyết 61/225, sẽ
mang tính bền vững và có khả năng gắn kết một cuộc chiến mạnh
mẽ và thành công chống lại bệnh ĐTĐ