Thuốc trị “trên bảo dưới không nghe”
"Trên bảo dưới không nghe" là từ dân dã khi nói đến tình
trạng rối loạn cương ở nam giới. Đây là tình trạng không có
khả năng đạt được hoặc duy trì tình trạng cương đủ cứng để
thỏa mãn một cuộc giao hợp
Tại sao có chuyện "trên bảo dưới không nghe"?
Cơ chế sinh lý của hiện tượng cương: Là quá trình giãn nở các
động mạch nhỏ trong thể hang và thể xốp để tống máu vào các
xoang hang của dương vật, khi máu dồn về xoang hang nhiều làm
tăng áp lực lên các tĩnh mạch hang làm cho máu ứ lại và không
thoát ra được gây nên hiện tượng cương. Sau đạt được khoái cực,
các cơ trơn và động mạch của xoang hang bị co lại, sự co lại này
giúp tống dần máu ra khỏi xoang hang và dẫn tới hiện tượng xìu.
Quá trình cương là sự phối hợp nhịp nhàng của các cơ chế thần
kinh nội tiết sinh hóa, tâm lý
Quá trình này hoạt động một cách bài bản và trơn chu nên bình
thường "trên bảo dưới nghe", khi bị trục trặc tức "trên bảo dưới
không nghe" sẽ dẫn tới rối loạn cương (RLC).
Và việc dùng thuốc
Các thuốc chữa rối loạn cương dương đều tác động vào ít nhất một
trong những cơ chế trên gồm có:
Nhóm tác động lên cơ chế thần kinh tâm lý: Nhóm này gồm các
thuốc đã được sử dụng từ lâu. Đó là các loại thảo dược và đông
dược có tác dụng làm cương dương vật qua việc tăng hưng phấn
thần kinh, tăng sản xuất hormon và bổ sung các acid amin cho quá
trình cương là: nhân sâm, linh chi, đông trùng hạ thảo, dâm dương
hoắc, cá ngựa, bìm bìm Chế phẩm điển hình tham gia vào nhóm
này là apomorphine (uprima), chúng kích thích sản xuất dopamin
vùng dưới đồi. Người ta cho rằng việc ra tăng dopamin ở vùng này
sẽ gia tăng đáp ứng tình dục. Thuốc có chế phẩm viên nén và dạng
nhỏ giọt ngậm dưới lưỡi. Dạng này có tác dụng nhanh chỉ sau 5
phút tác dụng kéo dài khoảng một tiếng nhưng qua sử dụng cũng
như thử nghiệm trên diện rộng uprima cho thấy hiệu quả trên quá
trình cương không cao nên hiện nay cũng ít được dùng.
Nhóm ức chế PDE5: Có thể nói đây là nhóm thuốc ra sau cùng và
có tác động tốt nhất, cho tới tận bây giờ thì vẫn chưa có thuốc nào
sánh được nhóm thuốc này. Phiên bản đầu tiên được thương mại
hóa và đưa ra thị trường là sildenafil với tên biệt dược là viagra ra
đời năm 1998, là một cuộc cách mạng trong điều trị bệnh RLC.
Chỉ 5 năm sau một loạt phiên bản khác lần lượt được ra đời là
vardenafil và tadalfil với tên thương hiệu tương ứng là levitra và
cialis. Các dòng sau khắc phục được tác dụng phụ của sildenafil
trên tim và mắt vì chúng chỉ tác động chú trọng vào PDE5 mà rất ít
tác động tới PDE6 (hiện diện nhiều ở mắt) và PDE3 (hiện diện
nhiều ở tim). Hai thuốc ra sau này còn có tác dụng nhanh và kéo
dài hơn. Tác dụng phụ của nhóm này là đỏ mặt, đau đầu thoáng
qua, ngạt mũi, rối loạn thị giác thường không phân biệt được màu
xanh và màu lam, không nên dùng các thuốc này trên người có
bệnh mạch vành và những người đang dùng các thuốc giãn mạch
vành vì nếu dùng sẽ làm gia tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và làm
cho tổn thương trầm trọng hơn.
Nhóm giãn mạch ngoại vi: Bao gồm caverject (alprostadil),
prostaglandin E1, phetolamin Trước khi viagra ra đời các thuốc
nhóm này được các bác sĩ niệu khoa dùng khá phổ biến. Chúng có
hai dạng chính là dạng đặt niệu đạo và tiêm trực tiếp vào vật hang.
Ngoài ra, thuốc này còn được dùng vào việc chẩn đoán nguyên
nhân RLC (loại trừ nguyên nhân do yếu tố mạch máu). Nhược
điểm của nhóm này, bệnh nhân không tự dùng được mà phải đến
nhân viên y tế tiêm hoặc đặt cho, hơn nữa thời gian tác dụng nhanh
và mất tác dụng cũng nhanh (caverject tác dụng cương sau 5 phút
và hết tác dụng trong vòng một giờ, trong khoảng thời gian một
giờ trên bệnh nhân lúc nào cũng cương cứng dù không có kích
thích tình dục). Tác dụng phụ dễ bị viêm loét niệu đạo, gây cương
đau, xơ hóa vật hang, đặc biệt là cương đau dương vật kéo dài.
Đây là một cấp cứu ngoại khoa - tiết niệu, yêu cầu phải xử trí trước
6 tiếng nếu không sẽ bị tổn thương vật hang không hồi phục
Chính vì thế mà hiện nay nhóm thuốc này ít được sử dụng.
Nhóm nội tiết: Bổ sung testosteron trực tiếp và gián tiếp thông qua
hormon tuyến yên LH (chế phẩm là pregnyl dùng tiêm bắp có tác
dụng tăng sinh testosteron nội sinh). Dòng testosteron bổ sung hiện
nay có nhiều loại: Dạng testosterone dùng ngoài da dán vào da bìu,
dạng xoa vào da bụng và bẹn (androgel 50mg). Tuy nhiên, tác
dụng phụ là dễ bị kích ứng da nhưng ưu điểm của thuốc này là
chúng hấp thu vào máu và không đi qua gan do đó không bị
chuyển hóa ở gan nên bảo tồn được tác dụng của testosteron. Dạng
đường uống gồm nhiều loại: provironum (mesterolon), andriol
thuốc bị chuyển hóa qua gan nên giảm tác dụng đáng kể. Dạng
tiêm cũng có nhiều loại testosteron tác dụng nhanh (testosteron
propionat, testosteron phenylpropionate ) hay tác dụng kéo dài
(nandrolone decanoate, nandrolone phenyl propionate biệt dược
durabolin, decadurabolin), hay nhóm hỗn hợp các dòng testosteron
như sustanon tiêm bắp sâu có tác dụng trong vòng 3 tuần.
Nhược điểm của việc sử dụng testosteron vào điều trị RLC là làm
giảm sự sản sinh tinh trùng nên điều này phải cân nhắc đến việc
điều trị cho những người còn muốn có em bé, nguy cơ phì đại tiền
liệt tuyến