LỜI MỞ ĐẦU
Ngay nay thị trường Việt Nam đang lớn mạnh và thu hút được nhiều mặt
hàng tham gia vào thị trường đặc biệt là thị trường nông sản phẩm. Một trong
những mặt hàng chủ lực của thị trường nông sản phẩm là sản phẩm cà phế với
khối lượng xuất khẩu đứng thứ hai thế giới. Trong khi đó trong nước mặt
hàng này chưa chiếm lĩnh được thị trường và phát huy được tiềm năng vốn có
của nó. Giá cà phê trong nước phụ thuộc hoàn toàn vào giá cà phê thế giới do
vậy gây khó khăn cho nông dân Việt Nam khi trông trọt mặt hàng nay. Khi
sản xuất cà phê gặp khó khăn cộng đồng cà phê thế giới đã đưa ra một nhận
định chiến lược là phải khai thác thị trường trong nước một cách triệt để. Tuy
vậy Việt Nam chưa có một thống kê chính xác vế tình hình tiêu thụ cà phê
trong nước chính vì vậy việc nghiên cứu tình hình tiêu thụ cà phê để có số
liệu chính xác hỗ trợ cho công tác giám sát và để ra một số kiến nghị cho
công tác phát triển thị trường trong nước. Để phát huy một cách tốt nhất các
yếu tố thị trường cà phê nội địa do vậy nghiên cứu đề tài “ Thị trường và
phướng phát triển thì trường cà phê nội địa của mặt hàng cà phê”
Nghiên cứu đề tài này đặt ra mục tiêu đi từ lý luận để rút ra những bài
học để đưa ra phương hướng cho phát triển thị trường trong nước.Nghiên cứu
trên đề tài này trong phạm vị hoạt động thì trường trong nước với các chủng
loài cà phê được đưa vào trồng và sản xuất trong nước.Việc khảo sát nghiên
cứu thị trường với việc đưa ra phương hướng để giải quyến khó khăn tồn
đọng và đưa ra các chiến lược phát triển để phát triển một thị trường bền
vững.
1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
I.THỊ TRƯỜNG
1.Khái niệm thị trường.
Thị trường là một khái niệm có từ rất lâu, đó là một phạm trù kinh tế gắn
liền với sự phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa. Ở đâu có hai yếu
tố trên thì ở đó xuất hiện thị trường. Vì vậy khái niệm về thị trường cũng
được đề cập nhiều trong nền kinh tế hiện nay, khái niệm thị trường được định
nghĩa một tổng quát và dễ hiểu. Ngày nay do sản xuất phát triển ngày càng
cao vì vậy khái niệm thị trường ngày càng hoàn thiện hơn.
Khái niệm cổ điển cho rằng: Thị trường là nơi diễn ra các trao đổi mua
bán hàng hóa. Như vậy theo khái niệm này thị trường phải được xác định một
địa điểm cụ thể tức là thị trường có tính không gian, thời gian, có người mua,
người bán và cả đối tượng mua bán.
Ngày nay với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại thì khái niệm thị
trường cổ điển áp dụng vào thực tiễn không bao quát đầy đủ và chính xác do
đó đòi hỏi phải có một khái niệm đầy đủ hơn và chính xác hơn phù hợp với sự
phát triển của nền kinh tế ngày càng cao. Một số khái niệm về thị trường hiện
đại được đưa ra như sau:
Một là: Thị trường là quá trình người mua và người bán qua lại lẫn nhau
để xác định khối lượng giá cả hàng hóa. Theo khái niệm nay thì thị trường
không bị giới hạn về mặt không gian, thành phần cấu thành gồm có: người
bán, người mua và đối tượng mua bán
Hai là: Thị trường là tổng thể các quan hệ về lưu thông hàng hóa và lưu
thông tiền tệ, tổng thể các giao dịch mua bán bà dịch vụ.
Ba là: theo Philip Kotler ông quan niệm rằng “Thị trường là bao gồm tất
cả những khách hàng tiềm ẩn có cùng một nhu cầu hay mong muốn cụ thể sẵn
2
sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu hay mong muốn
đó”. Như vậy Philip Kotler phân chia người bán thành ngành sản xuất còn
người mua họp thành thị trường.
Khái niệm thì trường này được đưa ra chủ yếu là quan niệm thị trường có
tính vĩ mô.Vậy ứng với mỗi doanh nghiệp thực khác nhau thì khái niệm thị
trường sẽ phải sử dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với điều kiện thực tế
của doanh nghiệp mình.
2. Các yếu tố cấu thành thị trường.
2.1. Cầu thị trường.
Cầu là một mặt hàng mà người mua muốn mua ở một mức giá chấp nhận
được. Vây cầu là một đại lượng thay đổi theo sự phụ thuộc vào các yếu tố tác
động đến nó, bên cạnh đó cầu còn phụ thuộc vào yếu tố giá cả hàng hóa và
dịch vụ trên thị trường của các doanh nghiệp với từng loại mặt hàng. Khi các
yếu tố như: thu nhập, sở thích, phong tục tập quán, giới tính, lứa tuổi, sản
phẩm thay thế… không đổi thì cầu của thị trường sẽ phụ thuộc vào giá cả của
loại hàng hóa đó tức là giá tăng cầu giảm, giá giảm cầu tăng. Với mỗi doanh
nghiệp khi áp dụng cầu trên thị trường phải xác định cầu với một mặt hàng cụ
thể của doanh nghiệp để đưa ra các chiến lược trên thị trường một cách chính
xác nhất.
2.2. Cung thị trường.
Cung là một mặt hàng mà người bán muốn bán ở mỗi mức giá chấp nhận
được. Cũng như cầu thị trường cung thị trường cũng phụ thuộc vào nhiều yếu
tố trên thị trường, các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới cung thị trường như: sự
phát triển của khoa học công nghệ, chi phí các yếu tố đầu vào, sự điều tiết của
chính phủ ( thuế, hạn ngạch…)… Khi các yếu tố này cố định thì cung hàng
hóa phụ thuộc vào giá cả hàng hóa. Để đưa ra được một cách chính xác lượng
cung các doanh nghiệp phải căn cứ vào mặt hàng mà doanh sản xuất ra để
định giá đưa vào thị trường.
3
2.3.Giá cả thị trường.
Đây là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Đó là sự tương
tác giữa người bán và người mua, người mua với người mua, người bán với
người bán. Giá cả thị trường biến động do sự tương tác của cung và cầu thị
trường của một loại hàng hóa, ở một thời điểm nhất định. Giá cả là một yếu tố
rất nhạy cảm trong hoạt động kinh doanh trên thị trường vì liên quan đến lợi
ích cá nhân và mang tính mâu thuẫn giữa người bán và người mua.
Đối với người bán giá cả là thu nhập mà họ muốn được khi chuyển
quyền sử dụng hay quyền sở hữu, người bán mong muốn có được thu nhập
cao. Người bán có quyền đặt giá.
Đối với người mua giá cả là chi phí mà người mua phải bỏ ra để có
quyền sở hữu hay quyến sủ dụng sản phẩm mà họ cần. Người mua mong
muốn có được mức giá thấp do vậy họ có quyền trả giá.
Mức giá cân bằng là mức giá mà tại đó có sự cân bằng giữa “ lượng tiền”
bỏ ra và nhận được “cái gì đó” tương ứng. “Cái gì đó” mà người bán hoặc
người mua thỏa mãn rất phức tạp và đa dạng. Để có được một mức giá thỏa
mãn cho cả hai đối tượng cần xác định chính xác các yếu tố ảnh hưởng tới sự
cân bằng giá cả từ đó ấn định mức giá cho mỗi sản phẩm dịch vụ của doanh
nghiệp tham gia vào thị trường.
2.4. Sự cạnh tranh trên thị trường.
Cạnh tranh là một yếu tố không thể thiếu trên thị trường kinh tế hàng hóa
phát triển cao như hiện nay. Vậy cạnh tranh là sự ganh đua giữa cá nhân,
doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh nhằm giành giật các nguồn lực hay
thị trường tiêu thụ nhằm thu được lợi nhuận. Cạnh tranh tạo ra một thị trường
với một mức giá cả được thị trường chấp nhận, điều này thúc đẩy thị trường
phát triển hoàn thiện hơn cho cả người sản xuất và người tiêu dùng. Đối với
các doanh nghiệp thì cạnh tranh là động lực thúc đẩy cải tiến khoa học kỹ
thuật để tồn tại và phát triển.
4
3. Quy luật của thị trường.
3.1.Quy luật giá trị.
Đây là quy luật của kinh tế hàng hóa, quy luật này tồn tại xuyên suốt
trong quá trinh sản xuất và đưa hàng hóa vào lưu thông trên thị trường. Quy
luật này đòi hỏi phải dựa trên giá trị lao động cần thiết trung bình để sản xuất,
lưu thông hàng hóa và trao đổi ngang giá. Như vậy người sản xuất nào có chí
phí lao động thấp hơn chi phí lao động trung bình chung trên toàn xã hội thì
họ sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn và ngược lại. Đây chính là điều kiện tiên
quyết buộc các doanh nghiệp, nhà sản xuất tiết kiệm chi phí, cải tiến kỹ thuật
công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm… để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của
khách hàng và thu được lợi nhuận một cách tối ưu.
3.2.Quy luật cung cầu
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay quan hệ cung cầu là quan hệ bản
chất, thường xuyên lặp đi lặp lại tạo thành quy luật trên thị trường. Khi cung
cầu của hàng hóa gặp nhau khi đó thị trường cân bằng giá cả thị trường được
thiết lập – đó là giá cả bình quân. Tuy nhiên mức giá đó không đứng yên mà
chịu ảnh hưởng của lực cung và lực cầu làm cho mức giá tăng giảm liên tục.
Khi cầu lớn hơn cung giá cả hàng hóa sẽ thay đổi theo mức có lợi cho nhà sản
xuất hay doanh nghiệp tức là giá tăng lên trên mức giá bình quân. Khi cung
lớn hơn cầu thì khi đó người được lợi sẽ là người tiêu dùng bởi họ sẽ được
mua sản phẩm với giá thấp hơn. Vậy mức giá cân bằng chỉ là tạm thời và sự
thay đổi giá là thường xuyên.
3.3. Quy luật cạnh tranh.
Trong nền kinh tế thị trường ngay nay có nhiều người bán nhiều người
mua với những đòi hỏi về lợi ích khác nhau. Sự cạnh tranh giữa người bán với
người bán, người mua với người mua và người mua với người bán tạo nên sự
vận động của thị trường và tạo ra trật tự trên thị trường trên lợi ích đạt được.
Việc cạnh tranh là không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, là sự loại bỏ
giữa các đối thủ, nếu không chủ động cạnh tranh trên thị trường thì sẽ bị thị
5
trường cạnh tranh đào thải vì vậy các doanh nghiệp phải đón trước cạnh tranh
và tìm hiểu kỹ đối thủ và thị trường để sử dụng vũ khí cạnh tranh một cách
hữu hiệu nhất.
4. Chức năng của thị trường.
4.1. Chức năng thừa nhận và thực hiện của thị trường.
Một doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa muốn đưa vào thị trường để thu
được lợi nhuận trước hết sản phẩm đó phải được thị trường thừa nhận. Hàng
hóa được thừa nhận khi hàng hóa bán được trên thị trường ngược lại nếu hàng
hóa không bán được trên thị trường thì tức là không được thị trường thừa
nhận. Để thị trường chấp nhận một loại hàng hóa đòi hỏi doanh nghiệp phải
tiến hành điều tra nhu cầu của khách hàng để đưa ra những giải pháp phù hợp
về mặt số lượng, chất lượng, quy cách, chủng loại…
Một khi hàng hóa được chấp nhận trên thị trường thì hàng hóa phải thực
hiện chức năng vốn có của nó. Hàng hóa sẽ thực hiện giá trị trao đổi bằng
tiền, hàng hay chứng từ có giá trị khác.
Vậy hai chức năng thực hiện và giá trị có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Để được thừa nhận thì phải thông qua quá trình thực hiện để thể hiện
trong đời sống thực tế, việc thực hiện chỉ thực sự diễn ra trên cơ sở của việc
hàng hóa đã được thị trường thừa nhận.
4.2. Chức năng điều tiết và kích thích.
Chức năng này đòi hỏi doanh nghiệp khi đưa hàng hóa vào trao đổi trên
thị trường thì chính các quy luật của thị trường sẽ điều tiết và kích thích sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc có thể đưa doanh nghiệp vào chỗ phá
sản. Việc tiêu thụ được hàng hóa sản xuất ra nhanh chóng với số lượng lớn sẽ
giúp doanh nghiệp quay vòng vốn nhanh chóng để thu mua sản phẩm đầu
vào, đẩy nhanh quá trình sản xuất tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.
Ngược lại khi hàng hóa sản xuất ra bị ngưng đọng trong khâu lưu thông và
tiêu thụ thì sẽ đẩy doanh nghiệp vào chỗ khó khăn đòi hỏi doanh nghiệp phải
6
tìm cách để tồn tại và phát triển bằng việc tham gia vào thị trương mới hay có
thể rơi vào tình trạng phá sản doanh nghiệp.
Chức năng nay luôn điều tiết sự gia nhập hay rút khỏi ngành của một số
doanh nghiệp. Chính điều này giúp cho các doanh nghiệp có những phương
án để điều chỉnh đầu tư vào những lĩnh vực mà doanh nghiệp có lợi, có khả
năng duy trì và phát triển doanh nghiệp một cách tốt nhất.
4.3. Chức năng thông tin.
Thông tin mà chúng ta để cập tới ở đây là thông tin về thị trường bao
gồm: nguồn cung ứng hàng hóa dich vụ, nhu cầu hàng hóa dịch vụ. Thông tin
thị trường là những thông tin kinh tế quan trọng vì vậy việc nghiên cứu thì
trường để tìm hiểu thông tin là một vấn đề hêt sức quan trọng với các doanh
nghiệp. Thông tin nay có thế được thu thập qua người bán, người mua, người
quản lý hay cả người nghiên cứu sáng tạo. Việc nắm bắt thông tin một cách
kịp thời, chính xác, đầy đủ là một yếu tố đem đến thành công hay thất bại của
doanh nghiệp bởi đây là cơ sở chủ yếu để đưa ra các quyết định kinh doanh
trong nền kinh tế hiện nay.
5. Phân loại thị trường.
5.1. Căn cứ vào đối tượng mua bán.
-Thị trường hàng hóa: gồm có hàng tư liệu sản xuất và hàng tư liệu tiêu
dùng.
Hàng tư liệu sản xuất là sản phẩm sử dụng cho quá trình sản xuất ra sản
phẩm nó bao gồm: may móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hóa chất, phụ tùng…
Hàng tư liệu tiêu dùng là sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng hàng ngày của
cá nhân như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, quần áo…
- Thị trường hàng dịch vụ: đây là loại thị truờng mới được hình thành
nhưng nó có tiềm năng phát triển vượt trội do đòi hỏi của khách hàng và xu
thế ngày càng phát triển như ngày nay. Đó có thể là dịch vụ bão dưỡng, sửa
chữa, chăm sóc….
7
- Thị trường sức lao động: đây là thị trường tiềm ẩn nhiều nguy cơ bởi lẽ
hiện nay cầu vượt quá cung đòi hỏi phải có một chiến lược cụ thể để tránh
nguy cơ thất nghiệp.
- Thị trường tiền tệ: cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì thị trường
tiền tệ ra đời và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển
kinh tế đất nước đặc biệt là thị trường tài chính chứng khoán đang phát triển
sôi động như hiện nay.
Để tham gia vào thị trường thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải hiểu rõ
từng loại thị trường về ưu điểm cũng như điểm hạn chế của thị trường đó để
có những chính sách cho phù hợp với nhu cầu đặt ra của doanh nghiệp.
5.2. Căn cứ vào phạm vi hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường
- Thị trường nội địa: là thị trường của toàn bộ nền kinh tế quốc dân
- Thị trường quốc tế : là thị trường bên ngoài quốc gia bao gồm một số
thị trường lớn trên thế giới như: thị trường ASEAN, EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ…
Để tham gia vào thị trường này đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu rõ về pháp
luật và thông lệ quốc tê.
6. Vai trò của thị trường
6.1. Đối với toàn bộ xã hội.
Đối với toàn bộ xã hội thì thị trường có vị trí trung tâm – vừa là mục tiêu
vừa là môi trường hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng
hóa. Quá trình sản xuất ra một sản phẩm gồm 4 khâu: sản xuất, phân phối,
trao đổi, tiêu dùng, thì thị trường là khâu trung gian trong chu trình sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm. Điều này càng làm cho thị trường có tác dụng sâu rộng
bởi nó tác động tới cả hai mặt chủ chốt là sản xuất và tiêu dùng.
Một là bảo đảm cho hoạt động sản xuất phát triển với quy mô ngay càng
rộng và đảm bảo cung cấp hàng hóa cho người tiêu dùng đầy đủ, kịp thời phù
hợp với sở thích của người tiêu dùng.
Hai là làm cho hoạt động sản xuất và tiêu dùng có chất lượng cao do thúc
đẩy nhu cầu cho sản xuất và tạo điều kiện cho người tiêu dùng có cơ hội được
8
tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng cao, và còn thúc đẩy sản phẩm mới
ra đời.
Ba là dự trự hàng hóa phục vụ cho quá trình sản xuất và nhu cầu tiêu
dùng
Bốn là phát triển các hoạt động dịch vụ để đáp ứng một cách tối ưu nhất
nhu cầu của tiêu dùng phong phú đa dạng của cá nhân và văn minh nhân loại.
Năm là cung cầu trên thị trường hàng hóa ổn định có tác dụng trong việc
bình ổn sản xuất, ổn đinh đời sống của toàn xã hội.
6.2. Đối với doanh nghiệp.
Thị trường là trung tâm của các hoạt động kinh doanh vừa là mục tiêu
vừa là đối tượng của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp đều diễn ra
trên thị trường và đều nhằm mục đích đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của
thị trường đặt ra.
Thị trường như kim chỉ nam cho mọi hoạt động của doanh nghiệp doanh
nghiệp vì doanh nghiệp muốn sản xuất cái gì, cho ai, như thế nào đều phụ
thuộc vào những thông tin do thị trường quy định.
Doanh nghiệp muốn có chỗ đứng đặc biệt là phát triển thị sản phẩm của
doanh ngiệp phải được thị trường chấp nhận. Chính thời điểm đó sẽ giúp
doanh nghiệp thu hồi vốn và quay vòng vốn một cách nhanh chóng và hiệu
quả để bù đắp chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh sản phẩm.
Bên cạnh đó thì trường là nơi doanh nghiêp có thể kiểm nghiệm một
cách chính xác nhất những biện pháp, chủ trương, chính sách hoạt động của
mình vế sản phẩm và với khách hàng như vậy đã tốt chưa để từ đó có những
điều chỉnh cho phù hợp hơn.
Trong cơ chế thị trường ngày một cạnh tranh gay gắt như hiện nay thị
trường được chia sẻ cho nhiều doanh nghiệp do vậy cạnh tranh là không thể
thiếu đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được
thì phải cạnh tranh để không nhưng giữ vững được thị trường của mình mà
9
còn phải tranh thủ thời cơ mở rộng thị trường hay chiếm lĩnh thị trường của
đối thủ cạnh tranh.
6.3. Vai trò đối với sản phẩm hàng hóa.
Sản phẩm hàng hóa là những sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra
trong quá trình hoạt động. Thị trường chính là nơi mà những sản phẩm này
được đua ra và nơi diễn ra quá trình trao đổi. Đó cũng là nơi kiểm nghiệm sản
phẩm để xem xét sản phẩm nay có thể tiêu thu được hay bị loại bỏ khỏi thị
trường.
II. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm.
Phát triển thị trường là là tổng hợp các cách thức và biện pháp của doanh
nghiệp nhằm đưa khối lượng sản phẩm kinh doanh đạt mức tối đa, mở rộng
quy mô kinh doanh, tăng thêm lợi nhuận và uy tín của doanh nghiệp trên thị
trường.
2. Nội dung của phát triển thị trường.
2.1. Phát triển về sản phẩm.
Sản phẩm là một hệ thống các yếu tố liên quan chặt chẽ với nhau nhằm
thỏa mãn đồng bộ nhu cầu của khách hàng bao gồm: vật chất, bao bì, nhãn
hiệu hàng hóa, dịch vụ, cách thức bán hàng…Sản phẩm người tiêu dùng cuối
cùng mong muốn nhận được có thể là hàng hóa hiện vật và hàng hóa dịch vụ.
Vì vậy cho thấy rằng việc phát triển sản phẩm có thể theo nhiều phương thức
khác nhau.
2.1.1. Phát triển sản phẩm mới hoàn toàn.
Phát triển theo giá trị sủ dụng của sản phẩm đưa sản phẩm mới vào sản
xuất, sản phẩm mới này đỏi hỏi doanh nghiệp phải có một tiềm lực lớn mạnh
về vốn cũng như công nghệ khoa hoc kỹ thuật.Sản phẩm mới này đòi hỏi sự
đầu tư mới, đương đầu với những thách thưc mới. Sản phẩm mới này có thể
10
mới được gia nhập vào thị trường hoặc cũng có thể doanh nghiệp phải cạnh
tranh để có được thị phần của các doanh nghiệp đã họat động trước đó.
Nếu doanh nghiệp phát triển sản phẩm mới theo ý đồ của thiêt kế và sản
phẩm nay có liên quan tới sản phẩm mà doanh nghiệp đã kinh doanh trong
thời gian trước đó và đã thu được lợi nhuận hoăc có thể gặp thất bại. Điều này
đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu và tìm hiểu thông tin về thị trường một
cách chính xác trước khi đưa sản phẩm tung ra thị trường để kiếm lợi nhuận
2.1.2. Phát triển sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp.
Phát triển về bao bì sản phẩm:
Việc cải tiến kiểu dáng sản phẩm là việc thay đổi nhãn hiệu, bao bì, hình
ảnh… nhằm tạo ra sự khác biệt về sản phẩm. Trong thời kỳ kinh tế thì trường
phát triển như hiện nay việc thay đổi mẫu mã sản phẩm để tạo cho sự khác
biệt là một trong những điều kiện quan trọng dẫn tới sự thành công của doanh
nghiệp. Bao bì không những chỉ là để bảo vệ, mô tả, giới thiệu sản phẩm mà
còn là nhân tố tác động tới khách hàng và việc quyết định đến sự lựa chọn
mua của khách hàng. Yêu cầu đối với bao bì của sản phẩm phải là:
Sự phối hợp nhất quán: đây là tiêu chuẩn cốt lõi thành công của những
doanh nghiệp hàng đầu và phải thể hiện được phong cách riêng của thương
hiệu sản phẩm. Bao bì của sản phẩm có thể thay đổi về màu sắc, bố cục,
phông nền nhưng phải tuân theo nguyên tắc nhất quán trong việc thương hiệu
sản phẩm.
Sự ấn tượng và nổi bật: Trên thị trường không chỉ có sản phẩm của
chúng ta mà còn có sản phẩm của đối thủ cạnh tranh vì vậy sự nổi bật là yếu
tố quan trọng để tạo ra sự khác biệt. Một sản phẩm nếu tạo được sự ấn tượng
ban đầu với khách hàng sẽ là nền tảng gây dụng một thương hiệu thành công.
Bao bì vế sản phẩm đòi hỏi phải là điểm nhấn giữa một loạt sản phẩm cùng
loại khác- đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược và khả năng sáng tạo cao
để có được một hiệu quả tối ưu.
11
Sự đa dụng và hoàn chỉnh: Bao bì được sử dụng để bảo vệ sản phẩm một
cách an toàn nhất nhưng hiện nay ngoài chức năng bảo vệ người ta còn khai
thác thêm giá trị sử dụng cho bao bì. Yếu tố này giúp cho việc thiết kế bao bì
phù hợp với sản phẩm bên trong và điều kiện bên ngoài cũng như chưc năng
của nó.
Phát triển về dịch vụ đi kèm
Dịch vụ là những hoạt động có mục đích phục vụ nhu cầu của đời sống
dân cư hoặc trợ giúp, hoan thiện, tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Dịch
vụ khách hàng được đưa vào với mục đích chính là thu lợi nhuận cao cho
doanh nghiệp và thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu ngày càng cao của khách
hang. Với cơ chế thị trường như hiện nay thì sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp không chỉ là cạnh tranh về sản phẩm hiện vật mà chủ yếu là cạnh tranh
về dịch vụ đi kèm mà mỗi doanh nghiệp đưa ra cho sản phâm của mình khi
thâm nhập vào thị trường. Dịch vụ bao gồm có dịch vụ trước khi bán, dịch vụ
trong khi bán và dịch vụ sau khi bán đặc biệt là dịch vụ sau khi bán của các
doanh nghiệp.
Dịch vụ trước khi bán bao gồm các dich vụ liên quan đến quảng cáo,
marketing, nghiên cứu thị trường…Dịch vụ này nhằm mục đích chuẩn bị thị
trường tiêu thụ, khuyếch trương thanh thế gây sự chú ý với khách hang.
Dịch vụ trong khi bán là những hoạt động liên quan đến việc giải quyết
đơn đặt hàng của khách một cách nhanh chóng và tiện lợi nhất, nó liên quan
tới những thuận lợi trong đơn đặt hàng, tần suất giao hàng, thời gian giao
hàng, hoàn thành đơn đặt hàng…Dịch vụ trong khi bán để chứng minh sự
hiện hữu của doanh nghiệp và khách hàng thể hiện sự tôn trọng và tạo dựng
niềm tin cho khách hàng.
Dịch vụ sau khi bán: đó là dịch vụ chăm sóc khách hàng sau khi sản
phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra đã thực hiện chức năng của vốn có của nó.
Dịch vụ này có tác dụng tái tạo nhu cầu của khách hàng, kéo khách hàng trở
12
lại với doanh nghiệp và qua khách hàng để quảng cáo cho doanh nghiệp của
mình.
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì việc cạnh tranh trong dịch
vụ sau khi ban là hết sức quan trọng để thu hút khách hàng về với doanh
nghiệp. Vì vậy việc các hoạt động của dịch vụ sau khi bán tạo ra sự khác biệt
giữa các sản phẩm và doanh nghiệp với nhau sẽ quyết định sự hưng thịnh hay
thất bại của các doanh nghiệp.
2.2. Phát triển về khách hàng.
Khách hàng là một nhân tố quan trọng dẫn tới sự thành công của doanh
nghiệp vì vậy chiến lược của doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào việc phát
triển khách hàng của doanh nghiệp trên mọi phương diện. Khách hàng rất đa
dạng và phong phú do dó muốn phát triển được phải căn cứ vào các tiêu thức
để phân loại các nhóm khách hàng có những đặc trưng riêng.
Căn cứ vào khối lượng tiêu thụ: có khách hàng mua nhiều và khách hàng
mua với số lượng ít. Doanh nghiệp cần khuyến khích khách hàng mua với
khối lượng lớn tuy nhiên cũng không được quá chú trọng tới khách hàng này
ma quên đi khách hàng khác. Điều này sẽ gây trở ngại cho việc mở rộng khả
năng tiêu thụ của doanh nghiệp, nên cần có sự đối xử công bằng giữa các loại
khách hàng.
Căn cứ theo khu vực tiêu thụ: có khách hàng trong nước và khách hàng
ngoài nước. Với doanh nghiệp ngày nay nhu cầu hội nhập đang diễn ra một
cách nhanh chóng đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết tận dụng thời cơ để
chiếm lĩnh thị trường trong nước và đòi hỏi phải đáp ứng nhu cầu của khách
hàng nước ngoaì. Lượng khách hàng trong nước và ngoài nước thể hiện quy
mô sản xuất của doanh nghiệp và phạm vi hoạt động của doanh nghiệp trên
thị trường.
Căn cứ theo yêu cầu tiêu thụ sản phẩm: có khách hàng trung gian và
khách hàng tiêu dùng cuối cùng. Tùy vào doanh nghiệp mình mà phát triển
loại hình khách hàng nào cho phù hợp. Khách hàng tiêu dùng cuối cùng chỉ
13
sử dụng sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của bản thân họ còn khách hàng trung
gian có thể mua hàng về để bán kiếm lợi.
Căn cứ vào mối quan hệ khách hàng và doanh nghiệp: có khách hàng
truyền thống và khách hàng mới. Với khách hàng truyền thống là khách hàng
có mối quan hệ thường xuyên liên tục với doanh nghiệp. Với lọai khách hàng
này doanh nghiệp cần tạo điều kiện thuận lợi cho họ vì họ có vị trí then chốt
trong sự phát triển ổn định của doanh nghiệp. Khách hàng mới là khách hàng
lần đầu tiên đến với doanh nghiệp và sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp do
đó cần có những biện pháp thiết thực bước đầu gây ấn tượng cho khách hàng
để kéo họ về với doanh nghiệp mình biến họ thành khách hàng truyền thống.
Các nhóm khách hàng là khác nhau theo từng nhóm tuy nhiên doanh
nghiệp cần phát triển khách hàng lớn mạnh cả về chất lượng và số lượng. Để
phát triển khách hàng vế số lượng doanh nghiệp cần phải chú trọng tới hoạt
động marketing nhằm tìm ra thị trường mới thu hút khách hàng mới. Phát
triển khách hàng về mặt chất lượng bằng cách tăng sức mua sản phẩm thông
qua tần suất mua và khối lượng mua. Cần chú trọng hơn vào khách hàng ổn
đinh lâu dài của doanh nghiệp với nhóm khách hàng này còn là tiêu chỉ để
đánh giá chất lượng khách hàng của doanh nghiệp.
2.3. Phát triển về phạm vi địa lý.
Doanh nghiệp cần chú trọng phát triển mạng lưới bán buôn bán lẻ rộng
khắp theo một mối quan hệ nhất định nhằm mục đích để tiêu thụ hàng hóa
một cách tốt nhất. Cần phát triển hàng hóa cả về chiều rộng và chiều sâu. Việc
phân bổ mạng lưới cần tính đên hiệu quả chung cho cả hệ thống tức là phải
đảm bao cho việc tiêu thụ của từng điểm cũng như của cả hệ thống tránh việc
loại trừ nhau, bảo đảm sự vận động hợp lý của sản phẩm, giảm chi phí và rút
ngắn thời gian bán hàng.
Tại nhưng nơi tập trung dân cư hay đầu mối giao thông quan trọng có thể
mở đại lý hay cửa hàng để giới thiêu hay đầu tư mở rộng tiêu thụ sản phẩm
cho tương lai. Tùy vào mục tiêu của doanh nghiệp mình mà doanh nghiệp
14
quan hệ với các loại khách hàng khác nhau để tạo điều kiện cho doanh nghiệp
hoạt động một cách hiệu quả nhất.
3.Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển thị trường
3.1Nhân tố trực tiếp
- Chất lượng sản phẩm: đây là nhân tố tối quan trọng với mặt hàng cũng
như doanh nghiệp.Các sản phẩm có chất lượng cao sẽ thu hút được khách
hàng đến với doanh nghiệp khi đó có khả năng thu được lợi nhuân cho doanh
nghiệp một cách nhanh chóng. Đặc biệt là có cơ hội để phát triển thị trường
về cả chiều rộng và chiều sâu.
- Dịch vụ phục vụ khách hàng: nếu sản phẩm tốt chưa chắc doanh nghiệp
đã thành công và thu hút được khách hàng về phía mình mà trong thời đại
ngày nay dịch vụ là đầu mối then chốt của mọi sự thành công trong việc phát
triển thị trường của doanh nghiệp
3.2.Nguyên nhân gián tiếp.
Môi trường hoạt động của doanh nghiệp cũng như sản phẩm mà doanh
nghiệp muốn tạo dựng trên thị trường.Môi trường hoạt động gồm môi trường
trong doanh nghiệp hay còn gọi là môi trường vi mô và môi trường ngoài
doanh nghiệp hay môi trường vĩ mô.
- Môi trường vi mô: bao gồm tất cả các hệ thống bên trong bao gồm: sản
phẩm và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, nguồn nhân lực, tài chính kế
toán, hệ thống thông tin, nền nếp văn hóa, nghiên cứu và phát triển…Nguồn
nhân lực của doanh nghiệp bao gồm: bộ máy lãnh đạo, tay nghề và nghiệp vụ
của công nhân viên, mức thu nhập và đãi ngộ của doanh nghiệp.
- Hệ thống thông tin và tài chính kế toán như kim chỉ nam cho các hoạt
động của doanh nghiệp thành công hay thất bại trong xu hướng mở rộng thị
trường. Môi trường vi mô thuận lợi tạo điều kiện tiên quyết cho mọi vấn đề
mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
- Môi trường vĩ mô: đây là môi trường xung quanh của doanh nghiệp
khie doanh nghiệp bước vào hoạt động trên thị trường. Môi trường vĩ mô bao
15
gồm các yếu tố chính trị và pháp luật, yếu tố kinh tế, khoa học- công nghệ,
văn hóa xã hội, cơ sở hạ tầng và điều kiện tự nhiên. Môi trường này tuy
không ảnh hưởng một cách trực tiếp tới sự thâm nhập thị trường của doanh
nghiệp nhưng nó cũng là yếu tố để doanh nghiệp lựa chọn đầu tư và mở rộng
thị phần của mình. Nếu các yếu tố này mà thuận lợi sẽ tạo cho doanh nghiệp
một bước đệm tham gia và thâm nhập thị trường một cách thuận lợi hơn.
16
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT
TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÀ PHÊ NỘI ĐỊA
I. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CÀ PHÊ VIỆT NAM
1.Quy mô sản xuất cà phê
1.1.Các loại cà phê.
Cà phê là một loại đồ uống màu đen có chất caffeine.Theo truyền thuyết
thì cà phê được những người chăn dê ở Kaffa phát hiện ra một số con dê trong
đàn sau khi ăn cành cây có màu trắng và hoa màu đỏ đã chạy nhảy không mệt
mỏi cho tới tận đêm khuya. Họ đem kể với thầy tu tại một thư viện gần đó.
Khi một người chăn dê ăn thử loại quả màu đỏ đó anh ta đã xác nhận công
hiệu của nó. Sau đó các thầy tu đi xem xét lại khu vực ăn cỏ của bầy dê và
phát hiện ra một loại cây có lá xanh thẫm và quả giống như quả anh đào. Họ
ưống nước ép ra từ loại quả đó và tỉnh táo cầu nguyện chuyện trò cho đến tận
đêm khuya.
Cây cà phê là một chi thực vật thuộc họ thiên thảo. Chi cà phê gồm nhiều
cây lâu năm nhưng không phải loài nào cũng có chất caffein trong hạt, một số
loài khác xa với cây cà phê thường thấy. Một số loài cà phê như:
Coffea Arabica- cà phê chè( Arabica)
Coffea benghalensis- cà phê Bengal
Coffea canephora - cà phê vối ( Robusta)
Coffea congensis – Cà phê Libera/ cà phê mít
Coffea gallienii- caffein tự do
Coffea bonnieri- caffein tự do
Coffea mogeneti- caffeine tự do
Coffea stenophylla- cà phê Sierra Leon
Loài cà phê tương đối nhiều song chỉ có hai loài cà phê có ý nghĩa kinh
tế. Loài thứ nhất có tên thông thường trong tiếng Việt là cà phê chè ( tên khoa
học là: Coffea Arabica, đại diện cho khoảng 61% các sản phẩm cà phê trên
17
thế giới. Loài thứ hai là cà phê vối ( tên khoa học là: coffea canephora hay
Coffea robusta) chỉ chiếm khoảng 39% các sản phẩm cà phê. Ngoài ra còn có
Coffea liberica và Coffea excelssa ( ở Việt Nam gọi là cà phê mít) với sản
lượng không đáng kể.
Cây cà phê Quả cà phê (Arabica)
Hạt cà phê Hoa cà phê
1.2.Quy mô sản xuất cà phê nội địa.
Cà phê Việt Nam cách đây 25 năm có bước khởi đầu rầm rộ chủ yếu tại
hai tỉnh là Đăklăk và Gia lai Kontum ở Tây Nguyên. Vào thời điểm này cả
nước mới chỉ có khoảng không đầy 20 ngàn ha phát triển kém năng suất thấp
với tổng sản lượng chỉ khoảng 4000- 5000 tấn. Nhưng khi bước vào những
cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20 quy mô sản xuất cà phê tăng nhanh cả về số
lượng cây trồng và sản lượng thu hoạch được. Diễn biến tình hình diện tích và
sản lượng cà phê diễn ra như sau:
18
Bảng : Diện tích và sản lượng cà phê Việt Nam ( 1997- 2007)
Niên vụ Diện tích( ha) Sản lượng (tấn)
1997-1998 410.000 413.580
1998-1999 460.000 404.206
1999-2000 520.000 700.000
2000-2001 500.000 900.000
2001-2002 480.000 693.300
2002-2003 500.000 913.800
2003-2004 490.000 762.000
2004-2005 460.000 641.000
2005-2006 460.000 650.000
2006-2007 500.000 900.000
Nguồn: hiệp hội cà phê Việt Nam
Như vậy, diện tích trồng cà phê ở Việt Nam qua các năm không có gì
biến động lớn chỉ duy trì ở mức từ 450.000 ha tới 500.000. Tuy nhiên bên
cạnh đó thì sản lượng cà phê thu hoạch được qua các năm lên xuống thất
thường phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, khí hậu diễn ra qua các năm
mà có năm được mùa sẽ cho sản lượng lớn và ngược lại. Theo dự báo thì sản
lượng cà phê năm 2007-2008 vẫn như các niên vụ trước.
Hiện nay, tổng diện tích cà phê chè của cả nước khoảng 25.000 ha, sản
lượng hàng năm đạt từ 150.000 đến 200.000 tấn, được trồng chủ yếu ở các
tỉnh Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Trị, Lâm Đồng hầu hết diện tích
này đều được trồng bằng giống Catimor. Sản lượng cà phê Việt Nam chủ yếu
là Robusta chiếm một thị phần lớn trong loại hàng cà phê được đưa vào sản
xuất. Phương pháp chế biến chủ yếu là phương pháp khô, cà phê được hái về
được phơi khô tận dụng năng lượng mặt trời, cũng có một số doanh nghiệp
chế biến theo phương pháp ướt dùng máy đánh nhớt. Một phần nhỏ cà phê
Arabica các doanh nghiệp nhà nước chế biến theo phương pháp ướt. Không ít
nơi còn dùng máy chọn màu Sortex trong khâu phân loại, loại bỏ cà phê hạt
đen, nâu…
1.3 Mức tiêu thụ cà phê nội địa
19
Việt nam là một trong những nước có sản lượng cà phê cao chỉ đứng
sau Braxin và là nước đứng đầu về sản xuất cà phê vôi. Theo số liệu từ
Vicofa- hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam tốc độ tăng trưởng bìn quân diện
tich trồng cà phê đạt khoảng 15% trong những năm 90, và đến cuối thế kỷ 20
cả nước đã có khoảng nửa triệu ha cà phê. Việc áp dụng khoa học công nghệ
vào trồng trọt cũng giúp cho nắng suất cà phê lên cao. Bình quân trong mỗi
20 năm mỗi ha ca phê cho sản lượng hàng năm là 1,68 tấn. Đó là năng suất
cao trên thế giới theo giới kinh doanh đánh giá. Tuy nhiên sản lượng cà phê
chủ yếu dành cho xuất khẩu. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy tiềm năng
thị trường nội địa của Việt Nam có thể tiêu thụ tơi 70.000 tấn/ năm nghĩa là
với mức cung như hiện nay tiêu thụ cà phê nội địa chiếm khoảng 10% tổng
sản lượng cà phê. Trong khi đó thực tế diễn ra lại cho chúng ta những con số
khác xa so với tiềm năng của Việt Nam. Mức tiêu dùng hiện nay chỉ đạt
khoảng 3,6% tổng sản lượng cà phê sản xuất ra thấp nhất trong số các nước
sản xuất cà phê trên thế giới. Mức tiêu dùng nay càng “khập khiễng” so với
sản lượng tiêu dùng của cà phê các nước thành viên trong hiệp hội cà phê thế
giới là 25, 16% tổng sản lượng cà phê của các nước này sản xuất ra. Tại các
nước sản xuất cà phê cầu về cà phê cũng tăng, Braxin là nước sản xuất cà phê
lớn nhất thế giới và mức tiêu thụ nội địa khoảng hơn 13 triệu bao cà phê
chiếm khoảng 40% tổng sản lượng cà phê sản xuất ra.Theo điều tra cho thấy
mức tiêu thụ cà phê tăng theo thu nhập, với sự chênh lệch khá lớn giữa nhóm
người nghèo nhất và nhóm người giàu nhất là khoảng 2,5 kg/người/năm. Theo
đó tiêu thụ cà phê chủ yếu là cà phê uống liền ở nông thôn là 0,8kg cà phê
uống liên/người/năm còn ở thành thị con số này là 2,14 kg cà phê uống liền/
người/ năm.Tại sao Việt Nam lại có những con số tiêu thụ thấp tơi vậy trong
khi tiềm năng của Việt Nam dự kiến là khá cao? Một nguyên nhân để giải
thích cho những con số trên đó là cà phê sản xuất ra được sử dụng nhiều trong
xuất khẩu cũng như một số ngành khác như nông sản và thủy sản, các doanh
nghiệp kinh doanh chế biến cà phê “chuộng” đầu tư để xuất khuẩu hơn là tiêu
20
thụ trên thị trường nội địa. Một nguyên nhân nữa làm cho cà phê Việt Nam
khó tiêu thụ nội địa là do xu hướng uống cà phê “công nghiệp” trong giới trẻ
ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu nhanh chóng trong nhịp sống hiện đại. Cà
phê hòa tan đang trở thành xu hướng tiêu dùng chủ đạo hiện nay song việc
đầu tư sản xuất cà phê hòa tan đòi hỏi vốn lớn và chi phí chuyển giao công
nghệ trở thành một cái khó với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kết quả là doanh
nghiệp vẫn tập trung xuất khẩu cà phê nhân hoặc bột mà bỏ qua thị trường nội
địa.
Theo nghiên cứu về việc uống cà phê ở hai thành phố lớn là Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh cho thấy một nhận định rằng. Thói quen uống cà phê
của người Việt Nam liên quan đến nghề nghiệp chẳng hạn ở Hà Nội thị tầng
lớp về hưu uống cà phê nhiều nhất khoảng 19,8% còn sinh viên ít nhất
khoảng 8%. Nhưng ở thành phố Hồ Chí Minh lại ngược lại dân kinh doanh
uống nhiều nhất với 26,3% kế đến là học sinh sinh viên, người về hưu uống ít
nhất. Mỗi năm trung bình một người Hà Nội bỏ ra 48.000 đồng mỗi năm để
mua một lượng cà phê là 0,752 kg trong khi đó nguời dân thành phố Hồ Chí
Minh bỏ ra 121.000 đồng cao gấp 3 lần Hà Nội để mua một lượng cà phê là
1,65 kg.Lượng cà phê tiêu thụ ở thành phố Hồ chí Minh tăng 21%, thấp hơn
so với mức tăng ở Hà Nội là 25%. Số lần mua cà phê trong dân ở thành phố
Hồ Chí Minh cũng nhiều hơn so với Hà Nội. Có tới 12% dân thành phố Hồ
Chí Minh mua cà phê uống vài lần trong tuân và 40% mua cà phê uống vài
lần trong tháng, trong khi đó ở Hà Nội chỉ có 0,6% mua cà phê uống vài lần
trong tuần.Việc mua cà phê về nhà của dân thành phố Hồ Chí Minh cũng
nhiều hơn là người dân Hà Nội. ư
Thị trường hiện nay được phân chia rõ ràng thành hai phân khúc: cà phê
rang xay( cà phê phin) chiếm khoảng 2/3 lươngk cà phê tiêu thụ tại Việt Nam
và cà phê hòa tan chiếm khoảng 1/3. Theo các nhà kinh doanh thì thị trường
cà phê hòa tan có xu hướng “ nở nồi” vì tiết kiệm thời gian, sản phẩm có tính
năng động trẻ trung phù hợp với tiêu dùng của bộ phận giới trẻ hiện nay. Đây
21
là nguyên nhân giúp cho thị trường này có mức tăng trưởng khá cao trong
năm 2006 từ 20% - 25% thu hút được khá nhiều doanh nghiệp tham gia vào
như: Vinacafe, Nescafe (Nestle), G7coffee ( Trung Nguyên), café
moment( Công ty cổ phần sữa VN- vinamilk), max coffee (Singapore).
1.4 .Giá cả cà phê trong nước.
Giá cà phê trong nước của Việt Nam gắn liền với giá cà phê thế giới, giá
cà phê thế giới mấy tháng đầu năm 2007 có xu hướng giảm do hoạt động bán
thanh lý của các nhà kinh doanh trong khi các nhà đầu cơ hạn chế mua vào.
Bên cạnh đó giá cà phê Việt Nam từ đầu năm 2007 tới hết tháng 2/ 2007
giá cà phê trong nước và xuất khẩu liên tục tăng sau đó sụt giảm nhẹ tuy
nhiên đến giữa tháng 3 giá cà phê lại bắt đầu tăng. Giá cà phê xuất khẩu tại
thành phố Hồ Chí Minh 30/3 đạt mức là 1,455 USD/tấn giá thu mua cà phê
trên địa bàn mấy tỉnh Tây Nguyên như Đăklăk, Đăknông, và Lâm Đồng cũng
đã tăng mạnh trên 600đồng/kg phổ biến ở mức 21.000đồng/kg (cà phê xô) và
22.000 đồng/ kg (cà phê nhân loại 1).
Như vậy giá cà phê trong nước so với thế giới còn thấp.
2.Phương hướng phát triển thị trường cà phê trong nước.
2.1. Mục tiêu phát triển.
Mục tiêu phát triển chung của ngành hàng cà phê là:
-Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, xác định mục tiêu chiến lược cho ngành.
Ngành cà phê chuyển dịch theo hai hướng: giảm bớt diện tích trồng cà phê
Robusta,chuyển các diện tích cà phê phát triển kém không hiệu quả sang các
loại cây khác, bên cạnh đó mở rộng diện tích trồng cà phê Arabica ở những
nơi có điều kiện khí hậu và đất đai thật thích hợp. Mục tiêu cuối cùng là giữ
diện tích cà phê như hiện nay hoặc trong khoảng 450.000- 500.000 ha.
-Hạ giá thành sản xuất nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ở Việt Nam lao
động rẻ nhưng người dân đầu tư nhiều vào phân hóa học, thuốc trừ sâu, lượng
nước tưới tiêu do vậy giá cà phê Việt Nam vẫn chưa thấp tới mức có thể cạnh
tranh được. Điều này đòi hỏi phải tìm ra phương thức để đầu tư sao cho có
22
mức lợi nhuận tốt nhất như việc giảm thiểu đầu tư vào phân hóa học, tưới
tiêu…
-Đổi mới công nghệ, thiết bị chế biến, áp dụng tiêu chuẩn chất lượng sản
phẩm phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp
với yêu cầu của thị trường. Trong những năm gần đây công nghiệp sơ chế cà
phê được trang bị nhiều thiết bị mới chất lượng tốt trong chế biến. Bên cạnh
đó cần thực hiện dự án nâng cao chất lượng cà phê thông qua ngăn ngừa sự
hình thành nấm mốc cũng có một vị trí quan trọng trong việc cải tiến chất
lượng cà phê Việt Nam. Cần xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn cấp nhà
nước về cà phê là một vấn đề cần quan tâm giúp cho việc nâng cao chất lượng
cà phê.
-Sản xuất cung ứng ra thị trường nhiều loại mặt hàng ngoài cà phê nhân
sống, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Ngay nay thị trường chủ yếu ưa
chuộng cà phê hòa tan do vậy cần đầu tư để thực hiện tốt việc sản xuất các
loại cà phê hòa tan đáp ứng theo yêu cầu của đời sống công nghiệp như hiện
nay
-Sản xuất hàng hóa chất lượng cao như cà phê hữu cơ, cà phê đặc biệt.
Cần sản xuất các loại cà phê có chất lượng cao, cà phê hữu cơ, cà phê đặc
biệt, hảo hạng. Việt Nam có nhiều vùng có khả năng sản xuất cà phê ngon do
đó nếu co chủ trương tổ chức sản xuất tốt cộng với chê biến tốt hoàn toàn có
thể đưa ra thị trường những loại cà phê hảo hạng như cà phê Buôn Ma Thuột.
-Đối với quan hệ mua bán, mở rộng thị trường cho cà phê Việt Nam,
quan tâm đầy đủ đến thị trường nội địa.Đổi mới nâng cao hiệu quả khâu tiếp
thị tìm kiếm thị trường là một yêu cầu cấp thiết của ngành cà phê. Đặc biệt là
thị trường trong nước chưa được khai thác mặc dù Việt Nam có truyền thống
uống tra lâu đời nhưng với giới trẻ hiện nay việc xúc tiến tiêu thụ cà phê có
nhiều triển vọng.
-Cuối cùng là phát triển một ngành sản xuất cà phê bền vững ở Việt
Nam. Nghề trồng cà phê Việt Nam thu hút được một lượng lớn lao động tham
23
gia và là nguồn thu chính cho đại bộ phân dân cư miền núi. Ngành cà phê
Việt Nam được đánh giá là non trẻ do đó cần cố gắng trên mọi lĩnh vực từ
khâu áp dụng kĩ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến đến kĩ thuật chế biến tiên
tiến đưa ra thị trường chủng loại sản phẩm cà phê mới cà phê hữu cơ, cà phê
hảo hạng…
Tất cả những nội dung trên nói nên phương hướng điều chỉnh chiến lược
điều chỉnh của ngành cà phê Việt Nam để bắt nhịp kịp thời với cà phê toàn
cầu nỗ lực vượt qua khó khăn và mang lại lợi ích cho mọi người.
Mục tiêu phát triển của thị trường cà phê nội địa.
-Đầu tư vào sản xuất cà phê về mặt chất lượng, công nghệ sản xuất phải
đổi mới đặc biệt là quy trình chế biến cà phê cân phải nâng cao cho phù hợp
với xu thế của thế giới. Đẩu tư vào cà phê chế biến để chế biến các loại cà
phê hảo hạng đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
-Phải thường xuyên tiến hành điều tra thị trường tiêu dùng nội địa để
nắm bắt được những thông số chính xác về thu nhập cũng như nhu cầu của
người dân về mặt hàng cà phê để từ đó có những chính sách đầu tư và phát
triển cho phù hợp với mục tiêu và tiềm năng vốn có của ngành sản xuất cà
phê trong nước.
-Chiếm lĩnh thị trường trong nước, phát huy hết khả năng vốn có của thị
trường này. Để chiếm lĩnh thị trường này cần phải đầu tư trang thiết bị sản
xuât mặt hàng phù hợp với nhu cầu tiêu thụ của khách hàng
2.2. Một số kiến nghị chính sách mang tính định hướng.
Đối với các bộ ngành.
* Thường xuyên tiến hành điều tra mức tổng cầu trong nước, xu hướng
và đối tượng tiêu thụ
* Thiết lập nhóm chuyên gia xây dựng chiến lược tiêu thụ cà phê nội
địa , học tập kinh nghiệm phát triển cà phê trong nước của các tổ chức quốc tế
và các nước tiêu thụ lớn khác đặc biệt là nước sản xuất
24
* Chính phủ cần hỗ trợ về tài chính cho công tác xúc tiến thương mại thị
trường cà phê trong nước và công tác phát triển toàn diện cà phê bền vững.
* Cần đưa nội dung xúc tiến thương mại của thị trường nội địa trong nội
dung phát triển tổng thể ngành cà phê, đặc biệt là vấn để quản lý và đinh
hướng.
* Chính phủ cần có biện pháp hỗ trợ những doanh nghiệp kinh doanh cà
phê trong nước vê kỹ thuật cũng như phương thức tổ chức hoạt động
Một số để xuất có tính chiến lược phát triển thì trường trong nước
* Chọn và có chiến lược phân loại thị trường cho phù hợp với từng đối
tượng gồm giới trẻ, giới kinh doanh chú trọng cà phê bột, chất lượng cao. Văn
phòng, cơ quan nhà nước chú trọng cà phê hòa tan.
* Phải chọn thời điểm thích hơp để tung sản phẩm vào thị trường để có
được lợi nhuân tối ưu nhất. Thời điểm tung sản phẩm không được qua muộn
khi thị trường đã bão hòa cũng không được quá sớm khi thị trường mới nhen
nhóm.
* Doanh nghiệp nên thành lập các dây chuyền sản xuất cà phê chất
lượng cao phục vụ nhu cầu ở tất cả các khâu của quá trinh sản xuất từ khi sản
xuất đến khi tiêu dùng. Hương tới việc đăng kí chứng chỉ xuất xứ hoặc
thương hiệu cho doanh nghiệp và sản phẩm khi chế biến.
KẾT LUẬN
25