Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

BIỆN HỘ CHO XUÂN TÓC ĐỎ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.82 KB, 7 trang )

Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


www.hoc360.vn




BIỆN HỘ CHO XUÂN TÓC ĐỎ

Trong th
ực tế giao thiệp
, c
ũng như
khi ti
ếp xúc
v
ới các tác phẩm văn chương,

người
ta r
ất dễ quan li
êu, t
ức l
à m
ặc sức cho những ấn tượng ban đầu thao túng
, t
ừ đó
, t
ạo n
ên


nh
ững huyền thoại
, k
ể cả huyền thoại về
nh
ững con người được xem l
à t
ốt, lẫn những con
ng
ười bị gán

cho đủ mọi thói xấu
. Và vi
ệc lật lại các huyền thoại bao giờ cũng mang trong
nó tính ch
ất một cuộc thể nghiệm
, c
ần được trao đổi nghi
êm ch
ỉnh
.
Sự trùng hợp kỳ lạ
Trong chương mở đầu S
ố đỏ
, Vũ Trọng Phụng có đoạn tả lại cái cảnh Xuân đi xem
bói, và khi ông thày bảo khai ngày sinh tháng đẻ, thì nhân vật này- tạm gọi là nó như Vũ
Trọng Phụng thường gọi- đáp lại gọn lỏn ”Hai mươi lăm tuổi đấy bố ạ. Tháng mười, ngày
rằm, giờ gà lên chuồng”. Trong cuộc hội thảo vào dịp kỷ niệm 80 năm ngày sinh Vũ Trọng
Phụng (10—2002), nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải có một tham luận (1) phát hiện ra
sự liên hệ thú vị: những con số nói trên liên quan đến người đã tác thành ra nhân vật chính

của S
ố đỏ
. Tức ngày sinh tháng đẻ của Vũ Trọng Phụng cũng là ngày sinh tháng đẻ của
Xuân. Cho đến ngoại hình của tác giả cũng có những nét của nhân vật. Không cần là người
thạo tử vi, chỉ theo lẽ thường mà suy, người ta đã có thể nghĩ: giữa nhân vật chính của S

đỏ
và tác giả như vậy là có một mối duyên nợ kỳ lạ. Nhân vật không còn là một thứ chúng
sinh bình thường, một thứ công cụ để ông trình bày tấn trò đời. Mà phải nói cái anh chàng
mà ông thác sinh ra đó có một mối quan hệ riêng với ông, nó là một phần con người cuả
ông. Đây là loại nhân vật có lô - gích nội tại, có quy luật phát triển riêng; sau khi đã đẻ ra
nó, nhà văn không thể đứng từ một khoảng cách rất xa để tuỳ tiện điều khiển, mà phải
nhập thân vào nó, coi nó như người có thật, tìm hiểu, lắng nghe, đối thoại với nó. Đến lượt
mình, người đọc cũng phải có cách nghĩ khác về Xuân. Lâu nay khi bàn về một con người,
hoặc nhân vật của một tác phẩm văn học, ở ta có một thói quen là cố tìm cách sắp xếp xem
nhân vật hay con người đó thuộc vào dạng tích cực hay tiêu cực, được tác giả đưa biểu
dương hay phê phán. Với Xuân, người ta có thêm cơ hội để gắng đi tới một hệ thống phân
loại cận nhân tình hơn. Việc tìm ra và xác định rõ cái chất người ở Xuân đòi hỏi một cái nhìn
cởi mở, vượt qua mọi thành kiến mà hàng ngày ta không để ý.
Chưa hẳn đã là lưu manh thứ thiệt
Cái danh hiệu ”quý hoá” mà nhiều người nghĩ tới và không ngần ngại gán cho Xuân
tóc đỏ gói gọn lại trong hai tiếng lưu manh. Theo cách hiểu thông thường, nhân vật lưu
manh thường là loại người sống bên lề xã hội; lưu manh đồng nghĩa với những gì xấu xa:
hư hỏng, lừa bịp, dối trá. Như vậy, Xuân bị gán cho những tội vạ nặng nề nhất. Thậm chí có
thể nói, trong tâm trí của nhiều người, ngay đến Chí Phèo suốt ngày say khướt và mang mọi
người ra chửi, sẵn sàng gây vạ cho cả làng Vũ Đại, xem ra còn có gì đó dễ chấp nhận hơn là
Xuân tóc đỏ. Thành kiến này, cố nhiên, có cái lý riêng của nó. Chính tác giả đã sớm tóm tắt
cho người đọc biết trước mặt họ là một con người hoàn toàn vô giáo dục (câu đầy đủ trong
nguyên văn như sau:”Cảnh ngộ tạo nó nên một đứa hoàn toàn vô giáo dục, tuy nó tinh quái
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ



www.hoc360.vn




lắm thạo đời lắm”). Đúng là trong suốt cuốn truyện, Xuân có làm vài việc dễ gây phản cảm.
Nhưng Xuân không hoàn toàn hư hỏng như người ta thường nhầm và khái quát một cách
vội vã. Trong cách ăn nói và trước tiên là cách nghĩ của Xuân không có dấu hiệu của sự hèn
mọn, đểu giả (2). Thứ nữa, một thói xấu thuộc loại khó chấp nhận nhất của lưu manh là
lười biếng, không chịu làm việc thì Xuân không mắc. Khi tham gia vào việc phục vụ các bà
các cô ở tiệm Âu hoá, cũng như khi trở thành nhân vật của giới thể thao quốc gia, nó chỉ
làm những việc mà nó thông thạo và có năng khiếu. (3) Rồi khi ngẫu nhiên tham gia vào
việc chữa bệnh cho ông già tám mươi tuổi thân sinh của cụ cố Hồng, nó đâu có tự đứng ra
khoác lác, chẳng qua bị giới thiệu là sinh viên trường thuốc với ông đốc thì nhận tràn đi, mà
không cải chính, thế thôi; cũng như cái việc chữa cho ông cụ bằng thuốc thánh xin ở đền
Bia, thì đó là do thói quen mà làm, chứ không thể nói Xuân cố tình bịp bợm.
Chung quanh hai chữ lưu manh, cùng lúc tồn tại những cấp độ ý nghĩa khác nhau.
Đúng là nói tới lưu manh, người ta nghĩ ngay tới những hành động cụ thể. Nhưng trong sự
giao tiếp hàng ngày, lưu manh còn được dùng với nghĩa sâu sắc hơn. Đó là tinh thần khinh
rẻ đồng loại, bỏ qua những chuẩn mực thông thường, bất cần, nổi loạn. Đứng đằng sau các
hành động lưu manh thường là một triết lý có màu sắc hư vô: Chúa đã chết, chẳng còn có
gì là lương tâm thiêng liêng nữa, và cái gì con người ta cũng có quyền làm. Bởi vậy, không
chỉ thấy ở dân vô học mà trong nhiều trường hợp, tinh thần bất chấp đạo lý toát ra cả trong
hành động cũng như tư tưởng của những người có bằng cấp cẩn thận, và hai tiếng lưu
manh hoàn toàn thích hợp để gọi họ. Như trong Hoàng Lê nh
ất thống chí,
một nhân vật là
huyện Trang trong cảnh hỗn loạn, công khai làm chuyện động trời là bắt vua lấy thưởng,

nhân vật này đã tự giải thích hành động của mình bằng câu”triết lý” xanh rờn: ”Sợ thày
không bằng sợ giặc, yêu chúa không bằng yêu thân”. Sự bất cần ở đây đã lên đến mức
cùng cực, và phải gọi đó là một triết lý lưu manh. So sánh với các nhân vật loại”có học”như
vậy, thì Xuân của chúng ta chưa đến nỗi. Nó không ích kỷ và cá nhân chủ nghĩa tới mức đi
ngược đạo lý thông thường. Đứng trước cuộc đời, nó còn biết sợ. Còn đây, một sự so sánh
khác: trong kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam, có hẳn một chùm truyện viết riêng về
hai nhân vật nổi tiếng là Ba Giai Tú Xuất. Vốn họ cũng là người có được học hành đàng
hoàng, thi cử đâu ra đấy, song sống trong một hoàn cảnh ngang trái, cụ thể là hoàn cảnh
một xã hội nhố nhăng hỗn loạn (thuở giao thời khi Việt Nam vừa mới trở thành thuộc địa
của người Pháp), niềm tin của một trí thức ở Ba Giai cũng như Tú Xuất tan nát hoàn toàn.
Họ lao ra đường làm bậy. Gặp ai họ cũng tìm cách trêu chọc thậm chí hạ nhục. Nói như
cách nói của những năm đầu thế kỷ XXI này, phải gọi Ba Giai Tú Xuất làm nên một cặp bài
trùng, chuyên nghề khủng bố lẻ, cười cợt ngay trên nỗi đau khổ của người khác. Nhân vật ở
đây thực đã rơi xuống vũng bùn của thứ chủ nghĩa hư vô ở dạng thấp hèn, trong cơn tuyệt
vọng tự cho phép mình tha hồ phá phách. Xuân tóc đỏ xa lạ với những cách cư xử kiểu ấy.
Nó không bao giờ làm những việc đáng để gọi là bất nhân bất nghĩa. Ngược lại, ở nó chỉ có
một ám ảnh là làm sao ra khỏi tình trạng khốn quẫn và tìm cho mình ”một chỗ đứng dưới
ánh mặt trời”. Nên biết thêm rằng bản chất lưu manh không chỉ thể hiện ở tình trạng bần
cùng hoá về đường vật chất, mà còn bao hàm thái độ khinh miệt đối với trí tuệ và các giá trị
tinh thần, kể cả kiến thức và sự uyên bác. Sự khinh miệt này làm cho các nhân vật lưu
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


www.hoc360.vn




manh trở nên đối lập hoàn toàn, tức một thứ kh
ắc tinh

của những người trí thức chân chính;
sự thắng thế của tư tưởng lưu manh góp phần vào việc huỷ diệt niềm tin nơi các trí thức ấy,
làm cho họ không còn tin ở mình, ngấm ngầm khuyến khích họ biến chất, tức cũng chung
một triết lý sống với những kẻ vô học càn rỡ, láo lếu. Nhìn lại, thấy những”ưu điểm”loại này
cũng không có chỗ đứng trong tâm trí Xuân. Liều lắm, nó chỉ suồng sã vỗ vai đùa bỡn với
đốc tờ Ngôn hoặc Josef Thiết, nhưng dừng lại ở đó, và trong bụng vẫn dành cho họ sự kính
trọng, khi cần thì thành thực nhờ họ giúp đỡ.
Một người lập nghiệp
Các nhân vật được xếp vào loại tích cực (với nghĩa đáng khen đáng noi theo) trong
văn học cổ cũng như văn học hiện đại ở Việt Nam thời kỳ 1932-45 thường là những người
yếu đuối, bị chèn ép. Như trường hợp chị Dậu trong T
ắt đ
èn của Ngô Tất Tố. Trong sự cảm
thụ thông thường, nhân vật này thường được xem như có nhiều phẩm chất tích cực, đáng
biểu dương ca ngợi. Nhưng hãy thử đọc lại tác phẩm: Nét nổi bật ở chị Dậu là thương chồng
thương con. Nghĩa là người đàn bà nông dân này có một đời sống tình cảm thuần phác và
đôn hậu. Song, khi chỉ vào đời với những phẩm chất ấy, người ta rất dễ chuốc lấy bất hạnh.
Về nhiều phương diện, trong chị Dậu thấy lặp lại cái phần thiếu sót nằm sâu trong tính cách
cô Kiều thân thiết của tất cả chúng ta: Họ đều là những người không có được sự hiểu biết
sâu sắc về hoàn cảnh xã hội nói chung, về tình thế của mình nói riêng, do đó trên đường
đời nhiều phen rơi vào bị động bất lực. Trong Truy
ện Kiều
, khi gia đình khó khăn thì Kiều
chỉ biết có cách khóc lóc rồi sẵn sàng bán mình cứu cha, dấn thân vào cuộc sống phong
trần; cũng như sau này, qua ít ngày theo Từ Hải ngang dọc, Kiều khuyên Từ Hải ra hàng.
Còn trong T
ắt đ
èn, hành động khá nhất của chị Dậu là dám túm lấy cổ cai lệ đến thu thuế,
ấn dúi hắn ra cửa, tiếp đó túm tóc lẳng cho tên người nhà lý trưởng ngã nhào ra thềm, rồi
bị giải lên phủ, cuối cùng phải đi làm vú lấy tiền trả nợ. Nhìn lại các nhân vật được nhiều

cảm tình của bạn đọc như Mai trong N
ửa chừng xuân
của Khái Hưng, cô hàng xén hoặc mẹ
Lê trong các truyện ngắn của Thạch Lam, chúng ta cũng thấy những nét tương tự. Dù hiện
ra với nhiều tính tốt, như mau mắn, tử tế, nhân hậu, song thật khó lòng nói rằng đó là
những nhân cách trưởng thành và đạt tới một triết lý sống chắc chắn. Trong khi khâm phục
giá trị đạo đức của họ, đồng thời phải nhận rằng cái tư cách nạn nhân có làm cho họ bé nhỏ
đi ít nhiều.
Một loại nhân vật khác cũng gần với Xuân là những Tám Bính, Bảy Hựu … trong các
tác phẩm của Nguyên Hồng. Ở đây, các vai lưu manh được miêu tả với đủ chuyện kinh thiên
động địa. Chủ ý của Nguyên Hồng là nhấn mạnh rằng ở những con người tưởng như đã tha
hoá ấy, cái phần lương tri tốt đẹp vẫn còn. Nhưng cũng chỉ có thế. Nhân vật của Nguyên
Hồng chưa ra khỏi thế giới nhỏ hẹp chật chội của lớp người bần cùng. Còn Xuân của Vũ
Trọng Phụng thì được ném vào một trường hoạt động mới, để gia nhập vào cái thế giới rộng
lớn mà người ta tưởng như chẳng liên quan gì đến nó. Biết mình xuất thân hèn hạ, Xuân
không mặc cảm, mà vẫn hồn nhiên tham gia vào những việc có vẻ như rất trọng đại. Và
nhất là vẫn giữ được một sự chủ động hiếm có. Đằng sau câu chuyện mê tín (vốn là một
thói xấu dễ tha thứ), việc Xuân đi bói hé ra cho thấy một ám ảnh ghê gớm trong lòng nhân
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


www.hoc360.vn




vật: Nó muốn có một ngày mai khác với hôm nay. Và nó tin rằng nếu biết cố gắng, thì cái
hậu vận tươi sáng đó trước sau sẽ đến. Đây là một nét tâm lý chỉ thấy ở những con người
có lòng tự tin mạnh mẽ. Bàn về Chí Phèo như một siêu mẫu, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào
cho rằng qua anh Chí, Nam Cao đã thâu tóm được một khát vọng nóng bỏng của con người

trong mọi thời đại, đó là khát vọng hoàn lương, khát vọng đổi đời (4). Trở lại với S
ố đỏ
, có
thể thấy cả hai khát vọng đó cũng nằm sâu mãi trong tâm trí Xuân và dần dần được thực
hiện. Trong chương XVI, khi dẫn Xuân đi khai tên ở Tổng cục thể thao (ngày nay gọi là đi
đăng ký dự thi), Văn Minh đã giúp chúng ta khái quát một chân dung. Chẳng những nhác
trông thấy Xuân, Văn Minh đã thầm nghĩ ngay rằng ”ừ cái mặt thằng này thế mà cũng đỡ
ma cà bông rồi đây” , ở đoạn dưới, ông chủ cửa hàng Âu hoá còn nói thẳng với Xuân:”Từ
khi anh về giúp việc cho chúng tôi, là địa vị anh cứ dần dần thay đổi, cho đến bây giờ thì
anh đã nghiễm nhiên là một người khác”. Sự đổi đời không còn là cái ao ước xa vời. Mà với
Xuân nó đã trở thành hiện thực ! Có dễ trong văn học Việt Nam từ 1945 về trước, ít có nhân
vật nào thành công một cách chính đáng như vậy. Để đạt mục đích, đúng là Xuân có gặp
may, nhưng sự may mắn đó chỉ đến với những con người có sự chuẩn bị đón nhận. Sự đổi
đời ở đây là một kết quả hợp lý, nó là phần thưởng sau bao kiên trì nỗ lực. Cái ý thức”mình
cũng có thể như mọi người, thậm chí làm hơn mọi người”đã ăn sâu vào Xuân để rồi cộng
với những nỗ lực thích đáng, tự nó làm nên những cú vượt thoát ngoạn mục.
Một bước phát triển trong đời sống tinh thần
Để có thể thành công trên đường lập nghiệp, một cá nhân phải có sự trưởng thành
trong trình độ làm người. Trên nhiều phương diện, Xuân của Vũ Trọng Phụng đã đáp ứng
nhu cầu đó. Nghe ra có vẻ hơi kỳ, nhưng vẫn có thể nói Xuân là một tính cách chắc chắn,
ổn định, ít nhất là trên mấy khía cạnh sau đây:
1/ Xuân rất nhạy cảm, nên thường nhận thức rõ tình cảnh mà mình rơi vào và có sự
đáp ứng khá hợp lý. Vừa sống, nó vừa nhìn vào những người chung quanh lo học hỏi và tìm
cách đáp ứng cái vai trò mà mọi người trông chờ ở mình. Vả chăng, đó không phải là cách
thích ứng hèn hạ, thích ứng với bất cứ giá nào đến nỗi tha hoá, tức đánh mất mình. Với cái
vẻ ”thạo đời và tinh quái sẵn có”, dù phải làm gì thì Xuân vẫn là Xuân, nếu như không nói là
dần dà nâng được địa vị của mình lên một cách đàng hoàng. Đọc những câu như ”Xuân
trầm tư mặc tưởng”, hoặc ”tự nhiên nó quá đứng đắn, rất có ý tứ”, mới đầu nhiều người có
thể bỏ qua, tưởng chỉ là một câu đùa giỡn của Vũ Trọng Phụng, song những nét chấm phá
đó hoàn toàn nhất trí với tính cách Xuân nói chung. Thành thử có thể nói nếu có đùa thì đó

là một trò đùa rất nghiêm chỉnh. Và cả cuốn S
ố đỏ
được viết theo kiểu ”đùa rất nghiêm
chỉnh” ấy.
2/ Xuân sống tự trọng. Nhiều lần ta bắt gặp ở nó ”cảm giác hổ thẹn”. Hứa với ai
điều gì, là nó lo thực hiện. Ai làm ơn cho nó, nó đều nhớ. Có lỗi với ai (kể cả cái lỗi lớn là
chiều ý bà Phó Đoan khi về ở nhà bà), nó áy náy không yên và tìm đủ cách chuộc lỗi. Vậy là
có một chút gì đó thuộc về lương tâm vẫn còn sống mãi trong lòng Xuân. Chính tác giả cũng
đã mấy lần viết những câu tạt ngang đại loại ”Vốn là người cũng có lương tâm nó nhận thấy
rằng …” hoặc” Nó hiểu ngay ra nghĩa chữ tín ở đời”. Với niềm tự tin sẵn có, Xuân sẵn sàng
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


www.hoc360.vn




đối mặt với sự thật: Thấy có người nói xấu mình, nó đi hỏi bằng được. Tức là nó muốn tìm
tới một sự sòng phẳng, một điều mà người ta hay nghĩ rằng những ai xuất thân hèn hạ và
thiếu tự tin không bao giờ có.
3/ Ở Xuân sớm hình thành một thói quen, đúng hơn một định hướng sống khá
chính xác: Nó không nhẫn nhục cam chịu sống với cái vị trí mà người ta đẩy nó vào hoặc
khép mình theo những chuẩn mực mà xã hội áp đặt cho loại người lưu manh. Những nền
nếp cũ không hề có mặt để trói buộc nó. Một cách chủ động, nó dám sống khác với thói
thường, miễn thấy đó là phải. Nói cho to tát, tức nó muốn sống theo đúng tầm vóc của con
người nói chung. Trong việc này, cái lý lịch ”trên không chằng dưới không rễ” của nhân vật
trở nên một điều kiện thuận lợi. Nó dễ dàng tìm cho mình một sự tự do với đúng nghĩa của
từ này. Trên đường lập nghiệp, nó không sớm cầu an và dừng lại giữa chừng, mà quyết
đoạt được tới hiệu quả cao nhất có thể có. Việc Xuân vươn ra ở trình độ quốc gia (dù là trên

lĩnh vực thể thao), cho thấy về căn bản, định hướng sống của nó là đúng.
4/ Một điều kiện nữa giúp Xuân thành công mà cũng là dấu hiệu cho thấy nó đã đạt
đến trình độ khá cao trong sự phát triển lý tính, ấy là việc Xuân rất hiểu mình cũng như vị
trí của mình trong con mắt mọi người. Có lần tả Xuân cáu, tác giả bảo rằng ”lúc ấy Xuân
quên hẳn mình. Nó đã b
ất tự tri
”. Một lời chê nhỏ như vậy thực ra là một lời khen lớn: Tức
là hàng ngày Xuân vẫn t
ự tri
, cái sự tự tri (tự biết chính mình) ấy đã thành một bản tính tự
nhiên, chỉ thỉnh thoảng nó mới quên. Hãy đọc lại đoạn Văn Minh báo với Xuân cái việc định
gả em gái là Tuyết cho nó. Những tưởng đang trong cảnh long đong kiếm sống, vớ được vợ
giàu chẳng khác chết đuối vớ được cọc, Xuân phải túm ngay lấy cơ hội. Đằng này không,
Xuân lập tức trả lời là mình không dám nhận. Và trước mặt ông anh vợ tương lai, nó nói
thẳng rằng mình”không cha không mẹ, lêu lổng từ bé, nhặt ban quần, bán phá sa, đã làm
nhiều nghề hèn”. Nói như các cụ ngày xưa, vậy là Xuân thuộc loại tri kỷ tri bỉ, biết mình biết
người; hoặc theo thuật ngữ của tâm lý học, ở nó có một sự tự ý thức khá đầy đủ. Nó không
quên quá khứ, càng không mắc bệnh hoang tưởng. Trong cái năng lực tự ý thức ấy, có mặt
cả sự tự tin, tỉnh táo, lẫn sự lương thiện, bấy nhiêu lý do cùng lúc khiến cho người đọc buộc
phải nhận rằng mặc dầu thuộc loại ở mãi dưới đáy xã hội nhưng Xuân chưa bị làm hỏng.
Chẳng những thế, còn có thể nói nó đã hấp thụ được một trong những cách nghĩ mới mẻ
mà xã hội hiện đại vừa mang tới cho con người đương thời. Sự tỉnh táo của Xuân lúc này có
thể sánh ngang với Chí Phèo khi Chí cãi lại Bá Kiến ”Không được ! Ai cho tao lương thiện
…Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không !” mà nhiều người vẫn ca ngợi.
Con người hiện đại, anh là ai ?
Sau khi kể lại tỉ mỉ việc Xuân gia nhập vào xã hội của những bà phó Đoan, Văn
Minh, đến chương XIV, Vũ Trọng Phụng để hẳn mấy trang nói riêng về việc Xuân tóc đỏ
được mọi người đánh giá ra sao. Điều này không chỉ là nhu cầu của người trong cuộc mà
còn là của chính độc giả theo dõi câu chuyện. Thế nhưng rút cuộc Xuân là người thế nào ?
Chịu, những người thường xuyên tiếp xúc với Xuân mỗi người một ý, không ai xác định

được cho chính xác. Người yêu người ghét, người này thấy Xuân vô tích sự, người khác lại
thấy Xuân được việc. ”Người chê Xuân vô học, người lại quả quyết rằng về học thức của
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


www.hoc360.vn




Xuân thì đã mấy ai bằng” Và tác giả chốt lại bằng một câu buông lửng: ”Sau cùng thì
không còn một ai biết rõ cái giá trị của Xuân là đáng khinh trọng thế nào nữa”. Việc một
nhân vật trở nên một cái gì người ta không kết luận được như thế này không chỉ khiến cho
câu chuyện đọc thêm hấp dẫn, mà suy cho cùng, nó càng chứng tỏ nhân vật có phần vượt
khỏi tầm tay của tác giả như phần trên chúng tôi đã lưu ý. Hơn nữa đây cũng chính là một
đặc điểm người ta thường thấy ở loại nhân vật hiện đại trong văn học. Những ai có dịp tìm
hiểu văn học phương Tây thế kỷ XX hẳn biết nhân vật trong các tiểu thuyết thời nay có sự
phát triển khá lạ lùng. Nói chung, không bao giờ họ nằm yên trong những cái khung xã hội
mà người đọc quen hình dung. Họ vào đời như dấn thân vào những cuộc phiêu lưu. Dường
như mỗi người bị đẩy đi giữa một đám đông hỗn độn và toàn bộ nỗ lực của họ là tìm cách
tự khẳng định mình trong sự hỗn độn đó. Có khi họ thấy đời là một cuộc chơi và quá trình
chơi thú vị hơn kết quả. Lại có khi họ bị ám ảnh bởi ý nghĩ điều gì cũng có thể xảy ra đối với
mình, cả điều xấu nhất lẫn điều tốt nhất. Khi giả thiết rằng thế giới này là điên rồ và mình
cũng chẳng thoát khỏi cơn điên ấy, con người trong tiểu thuyết hiện đại không còn bị ám
ảnh quá đáng bởi lương tâm và các vấn đề đạo đức. Đường đời của nhiều nhân vật lúc này
phần lớn phụ thuộc vào việc họ tự chế ngự những mặc cảm cuối cùng còn sót lại trong
người, để hiện thực hoá cho được những tiềm năng sẵn có. Bảo rằng họ thành công cũng
được, thất bại cũng được.
Không cần khiên cưỡng gì lắm, cũng có thể nói rằng người ta dễ dàng tìm thấy một
số đặc điểm trên đây trong tính cách và số phận Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng, và chắc

chắn là rồi đây, khi cần nghiên cứu kỹ càng đầy đủ hơn vấn đề hiện đại hoá của con người
Việt Nam thế kỷ XX, Xuân còn được nhắc tới như một dẫn chứng độc đáo.
Sở dĩ văn học thế kỷ XX đưa ra loại nhân vật nói trên, bởi ngay trong đời sống,
những con người loại này đã hình thành, và chính sự đổi khác của đời sống buộc tiểu thuyết
phải khác trước thì mới biểu hiện được cái đời sống đã thay đổi đó. ”Nay là thời mà lối viết
trữ tình hoặc để cho dốc bầu tâm sự không còn được thịnh hành, và một khi bị mang áp
đặt, thì cả những tình cảm tốt cũng dễ bị dị ứng”. ”Những hài kịch phi lý, đó là cách tốt nhất
để viết về cái thế giới kỳ cục mà người ta đang sống”. ”Tính hiện đại mang trong nó sự giải
phóng cá nhân, sự thế tục hoá toàn bộ những tiêu chuẩn giá trị, sự phân hoá không thể kết
hợp của chân thiện mỹ” những nhận định loại đó rất dễ gặp trong các tài liệu nghiên cứu
viết về phương Tây hiện đại.
Tương tự như vậy, có thể nói sở dĩ Xuân tóc đỏ có thể có mặt và tự do đi về trong
kiệt tác của Vũ Trọng Phụng, ấy là bởi chính sự phát triển của hoàn cảnh đã mở ra những
tiền đề cho loại nhân vật này phát triển. Từ chỗ là một thực thể cổ lỗ ngưng đọng, xã hội
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã trở thành một xã hội hiện đại một cách nhanh chóng đến
mức tự nó cũng kinh ngạc về sự biến chuyển của chính mình. Trong lúc chưa thể tự nhận
diện một cách chính xác, người ta đành tạm bằng lòng với những giả thiết chung chung, kể
cả những nhận thức tưởng là gần đúng mà thực ra là lầm lẫn. Ở chương VII của S
ố đỏ,
tác
giả kể khi cụ tổ tám mươi ốm, có một người con (cũng đã già) gọi là ông Hai ở nhà quê ra
chơi, và Vũ Trọng Phụng không quên nói rằng trong con mắt của ông Hai mọi chuyện lúc
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


www.hoc360.vn





bấy giờ thật là kỳ quặc. Quả thật, hai chữ k
ỳ quặc
đã diễn tả chính xác cái ấn tượng mà
nhiều người bình thường có được từ cuộc sống và con người ở Hà thành khoảng những năm
ba mươi của thế kỷ trước. Bởi suy cho cùng cái nhìn của ông Hai nói ở đây có liên quan tới
cái nhìn của những người nông thôn, là nơi mà công cuộc hiện đại hoá chỉ tác động tới một
cách hời hợt. Điều quan trọng hơn là cho đến những năm cuối của thế kỷ XX, đầu XXI, cái
nhìn loại này vẫn được nhiều người vô tình lặp lại. Thành thử, những thành kiến kéo dài với
một nhân vật như Xuân tóc đỏ từ trước đến nay kể ra cũng là tự nhiên, và chỉ có cơ thay
đổi khi tiến trình hiện đại hoá mà Xuân đã sống, đã vùng vẫy để tự khẳng định, được chúng
ta nghĩ lại cũng như đánh giá lại. /.
Vương Trí Nhàn



Chú thích
(1) Một phần bài viết này đã được in trong B
ản sắc
hi
ện đại trong các tác phẩm Vũ
Tr
ọng Phụng
NXB Văn học 2003.
(2) Ngay từ 1990, Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết Trào phúng c
ủa Vũ Trọng Phụng
trong S
ố đỏ
đã sớm nhận xét”Xuân tóc đỏ thực sự không chơi đểu với ai cả, chẳng qua
những người chung quanh nhầm hoặc lợi dụng y”. Bài viết in trong V
ũ Trọng Phụng, t

ài
năng và sự thật,
NXB Văn học 1998, tr 110.
(3) Khi sửa chữa lại bài trên và cho nó một cái tên khác là D
ị ứng với cái rởm một
phương diện của tr
ào phúng V
ũ Trọng Phụng
(in trong B
ản sắc hiện đại …
, sđd, tr 91)
Hoàng Ngọc Hiến nhận xét:”Xuân là sinh viên trường thuốc rởm là”thượng lưu trí thức”rởm,
là thi sĩ rởm … nhưng năng lực đánh quần vợt của Xuân là tài năng thực, hơn nữa một tài
năng xuất chúng”
(4) Kh
ả năng tái sinh của Chí Ph
èo, bài viết này có in lại trong
Nam Cao, con người
và tác ph
ẩm
, NXB Hội nhà văn, 2000, tr 283.

×