Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

BAI LAM TONG QUAT pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.38 KB, 33 trang )

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm và phân loại lạm phát
1.1.1. Khái niệm:
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung.
Điều này không nhất thiết

nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời
phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần
mức
giá trung bình tăng lên. Lạm
phát vẫn có thể xảy ra khi giá của một số hàng hóa giảm, nhưng giá
cả

của
các
hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ
mạnh.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua của đồng
tiền. Trong bối cảnh lạm
phát,
một đơn vị tiền tệ mua được ngày càng ít đơn vị
hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói một cách
khác,
trong bối cảnh lạm phát,
chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều tiền hơn để mua một giỏ hàng hóa

dịch
vụ nhất
định.
1.1.2. Phân loại lạm phát:
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ


lệ lạm phát. Việc phân
loại
lạm phát theo tính chất sẽ được đề cập khi bàn về tác
động của lạm phát, còn trong mục này chúng
ta

sẽ
phân loại lạm phát theo mức
độ của tỷ lệ lạm phát. Theo tiêu thức này các nhà kinh tế thường
phân
biêt 3 loại
lạm phát: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm
phát.
1.1.2.1. Lạm phát vừa phải:
Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi mức giá tăng chậm và nhìn chung có
thể
dự
đoán trước được vì tương đối ổn định. Đối với các nước đang phát triển
lạm phát ở mức một con
số
thường được coi là vừa phải. Đó là mức lạm phát mà
bình thường nền kinh tế trải qua và ít gây
tác
động tiêu cực đến nền kinh tế.
Trong bối cảnh đó, mọi người vẫn sẵn sàng giữ tiền để thực hiện
giao
dịch và ký
các hợp đồng dài hạn tính bằng tiền vì họ tin rằng giá và chi phí của hàng hóa mà
họ mua


bán sẽ không đi chệch quá
xa.
1
1.1.2.2. Lạm phát phi mã:
Lạm phát trong phạm vi hai hoặc ba con số một năm thường được gọi là
lạm
phát
phi mã. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh
tế

thị
trường đều phải đổi mặt với lạm phát phi mã
trong những năm đầu thực hiện cải
cách
1.1.2.3. Siêu lạm phát:
Siêu lạm phát là trường hợp lạm phát đặc biệt cao. Định nghĩa cổ điển về siêu
lạm phát do nhà kinh tế người Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng
từ 50% trở lên. Trong khi lạm phát 50% một tháng có thể không thực sự gây ấn
tượng, nhưng nếu tỷ lệ lạm phát này được duy trì liên tục suốt 12 tháng thì tỷ lệ lạm
phát cả năm sẽ lên tới khoảng 13.000 phần trăm. Theo định nghĩa này, cho đến nay
thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm phát. Một trường hợp được nghi nhận chi tiết
về siêu lạm phát là nước Đức sau Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Giá một tờ báo đã
tăng từ 0,3 mác vào tháng 1 năm 1921 lên đến 70.000.000 mác chỉ trong chưa đầy
hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng với tốc độ ương tự. Từ tháng Giêng
năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc
siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến mức nó thường
được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và
cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai.
1.2. Đo lường lạm phát

Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất
định, các nhà thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần
trăm thay đổi của mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính theo công
thức sau:
π
t

=


P
t


P
t −

1


×
100%
P
t


1
Trong đó:
π
t

: tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quí, hoặc năm)
P
t
: mức giá của thời kỳ t
2
P
t-1
: mức giá của thời kỳ trước đó
Rõ ràng là để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết
định sử dụng chỉ số giá nào để phản ánh mức giá. Như chúng ta đã biết từ Chương
2 là người ta thường sử dụng chỉ số điều chỉnh GDP (D) và chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) để đo lường mức giá chung. Tuy nhiên, nếu mục tiêu là xác định ảnh hưởng
của lạm phát đến mức sống, thì rõ ràng chỉ số giá tiêu dùng tỏ ra thích hợp hơn.
Trong thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát trên toàn thế giới đều
được tính trên cơ sở CPI.
1.3. Các nguyên nhân gây ra lạm phát
1.3.1. Lạm phát do cầu
kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt
hoặc vượt quá mức tự nhiên. Thực ra đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát
dựa vào nguyên nhân gây ra lạm phát: lạm phát được coi là do sự tồn tại của một
mức cầu quá cao. Theo lý thuyết này nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải
thích do nền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng lực sản xuất. Tuy nhiên để cho định
nghĩa này có sức thuyết phục thì cần phải giải thích tại sao chi tiêu lại liên tục lớn
hơn mức sản xuất. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét các thành tố của tổng cầu.Lạm phát
có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng và
đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng,
giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên và ngược lại.
Tương tự, lạm phát cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc
quan của các nhà đầu tư làm tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên.

Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá mức
trong các chương trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi
tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng.
Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt giảm các chương trình chi tiêu công cộng,
hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức giá sẽ giảm.
1.3.2. Lạm phát do chi phí
đẩy
3
Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong
toàn bộ nền kinh tế. Trong đồ thị tổng cung - tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm
đường tổng cung dịch chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi
biến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản
lượng giảm, cả thất nghiệp và lạm phát đều tăng. Chính vì vậy, loại lạm phát này
được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lạm phát đi kèm suy thoái (stagflation).
Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá
nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên
cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Vòng
xoáy đi lên của tiền lương và giá cả sẽ tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng nếu chính
phủ tìm cách tránh suy thoái bằng cách mở rộng tiền tệ. Việc chính phủ tăng những
loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm
phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu, các loại lệ phí bắt buộc) đóng một
vai trò đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá. Nếu so
sánh với các nước phát triển là những nước có tỷ lệ thuế trực thu cao, chúng ta có
thể nhận định rằng ở các nước đang phát triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng nguồn thu từ thuế, thì thay đổi thuế gián thu dường như có tác động
mạnh hơn tới lạm phát.
1.3.3. Lạm phát ỳ (lạm phát quán tính)
Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát
vừa phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một
tỷ lệ khá ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm

phát hoàn toàn được dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa
thuận về các biến danh nghĩa được thanh toán trong tương lai.
1.3.4. Tiền tệ và lạm phát
Lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về nguồn gốc sâu xa
của hiện tượng lạm phát.

tưởng cơ bản của các nhà tiền tệ là luận điểm cho
rằng lạm phát về cơ bản là hiện tượng tiền tệ.
Tuy
nhiên, nhiều tác giả khác, ví
4
dụ như Friedman đã đi xa hơn và đề ra một hình thái mạnh hơn của
chủ
nghĩa
tiền tệ. Họ đã chỉ ra mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa cung tiền và lạm phát:
"Lạm phát


đâu
và bao giờ cũng là hiện tượng tiền tệ và nó chỉ

thể xuất
hiện một khi cung tiền tăng nhanh hơn sản
lượng"
Thực ra, kết luận này dựa trên hai điều. Thứ nhất, các nhà tiền tệ cho rằng
lạm phát gây ra bởi sự


thừa
tổng cầu so với tổng cung, và nguyên nhân của

sự dư cầu này là do có quá nhiều tiền trong
lưu
thông. Nếu cách giải thích này
đúng về mặt lịch sử, thì nó khẳng định rằng lạm phát gây ra bởi sức
ép

từ
phía
cầu, chứ không phải từ phía cung. Thứ hai, các nhà tiền tệ giả thiết rằng mối
quan hệ
nhân

quả
bắt nguồn từ cung ứng tiền đến mức giá, chứ không phải
ngược lại là giá cả tăng lên làm
tăng
lượng tiền cung ứng. Để hiểu mối quan hệ
đó chúng
ta
phải xem xét cơ chế lan truyền. Với giả thiết về thị trường cân
bằng, và bắt đầu từ vị trí cân bằng
trên
thị trường tiền tệ, khi đó sự gia tăng
trong cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự mất cân bằng trên thị
trường
tiền tệ. Để
thiết lập trạng thái cân bằng, một phần của số tiền dư thừa được dùng để mua
hàng hoá

dịch vụ. Tuy nhiên, vì số lượng hàng hoá và dịch vụ được qui định

bởi các nguồn lực khan hiếm
trong
nền kinh tế, do đó xuất hiện dư cầu trên thị
trường hàng hoá. Điều này, đến lượt nó sẽ gây áp lực
làm
giá cả tăng lên để
thiết lập trạng thái cân bằng mới trên thị trường hàng hoá. Trong mô hình tổng
cung
-
tổng cầu, sự gia tăng cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự dịch chuyển sang
bên phải của đường tổng cầu

làm tăng mức giá do đường tổng cung thẳng
đứng trong dài
hạn.
1.4. Tác động của lạm phát
1.4.1. Lạm phát có thể dự tính trước
Lạm phát hoàn toàn được dự tính trước là trường hợp lạm phát xảy ra
đúng như dự tính từ trước
của
các tác nhân kinh tế. Trong trường hợp này, mọi
khoản vay, tiền lương cũng như hợp đồng về
các

biến
danh nghĩa khác nhìn
chung được điều chỉnh thích ứng với tốc độ trượt giá. Loại lạm phát này
gây
ra
những tổn thất gì cho xã

hội?
5
Thứ nhất, lạm phát hoạt động giống như một loại thuế đánh vào những
người giữ tiền và được
gọi


thuế lạm phát. Tuy nhiên chúng ta cần thận
trọng phân biệt thuế lạm phát với thuế đúc tiền.
Như
chúng ta đã biết thâm hụt
ngân sách xảy ra khi chính phủ chi nhiều hơn thu nhập từ thuế. Chính
phủ

thể tài trợ thâm hụt bằng đi vay hoặc in tiền. Tương tự như thuế, tiền mới phát
hành cũng là
một
nguồn thu của chính phủ bởi vì chi phí phát hành tiền mới
rất nhỏ, trong khi chính phủ có thể sử
dụng
số tiền đó để mua hàng hóa và dịch
vụ. Thu nhập mà chính phủ nhận được bằng cách in tiền được
gọi
là thuế đúc
tiền. Tuy nhiên, một số người phải trả cho khoản thu nhập đó của chính phủ.
Thực ra,
khi
in tiền mới, chính phủ đã đánh thuế lạm phát. Lượng tiền được
cung ứng nhiều hơn thường gây
ra


lạm
phát và do đó làm giảm giá trị của
những đồng tiền đang lưu
hành.
Thứ hai, lạm phát gây ra chi phí thực đơn. Đó là những chi phí phát sinh
do các doanh nghiệp có
thể
phải gửi các catalô mới cho khách hàng, phân phối
bảng giá mới cho nhân viên bán hàng của
mình,
các hiệu ăn cũng phải thay
đổi thực đơn mới, khi giá cả thay đổi. Việc này đôi khi cũng tốn
kém.
Thứ ba, lạm phát có thể tạo ra những thay đổi không mong muốn trong
giá tương đối. Giả sử một
doanh
nghiệp có phát hành catalô chỉ thay đổi giá cả
mỗi năm một lần do phát sinh chi phí liên
quan
đến việc in và phân phối catalô,
và giả sử các doanh nghiệp khác thay đổi giá cả thường xuyên hơn.
Nếu
trong
năm các doanh nghiệp khác tăng giá bán cho các sản phẩm của họ, thì giá tương
đối của
sản

phẩm
do doanh nghiệp phát hành catalô sẽ giảm. Như chúng ta đã

biết kinh tế vi mô nhấn mạnh
đến
vai trò của giá tương đối trong việc phân bổ
các nguồn lực một cách có hiệu quả. Trong chừng mực

lạm phát gây ra sự
thay đổi giá cả không đều và do đó làm méo mó giá tương đối, thì sức mạnh của
thị
trường tự do sẽ bị hạn chế. Sự phân bổ sai lệch này cũng cần được hiểu là nội
dung truyền đạt thông
tin
của giá cả bị suy
yếu.
Thứ tư, lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân
thường trái với ý định của
những
người làm luật. Trên thực tế, luật thuế thường
6
không tính đến tác động của lạm phát, và
do
vậy khi thu nhập danh nghĩa tăng,
mọi người sẽ phải nộp mức thuế cao hơn, ngay cả khi thu nhập
thực

tế
của họ
không thay đổi và do vậy làm giảm thu nhập khả dụng của họ. Điều này không
khuyến
khích
mọi người làm nhiều, làm tốt và làm hiệu

quả.
1.4.2. Lạm phát không dự tính trước
Chúng ta đã đề cập về những tác hại của lạm phát xảy ra ngay cả khi lạm
phát ổn định và được dự tính trước. Tuy nhiên, lạm phát có một tác hại nữa khi
nó xảy ra bất ngờ không đúng như dự tính từ trước của các cá nhân trong nền
kinh tế. Lạm phát không được dự tính trước dẫn đến sự phân phối lại thu nhập
giữa các thành viên trong xã hội không theo nỗ lực, cống hiến và nhu cầu của họ.
Xét các hợp đồng tín dụng dài hạn. Các hợp đồng tín dụng thường qui
định mức lãi suất danh nghĩa dựa trên tỷ lệ lạm phát dự tính. Khi tỷ lệ lạm phát
thực tế khác với tỷ lệ lạm phát dự tính thì lãi suất thực tế thực hiện và lãi suất
thực tế dự tính cũng khác nhau. Nếu tỷ lệ lạm phát thực tế lớn hơn tỷ lệ lạm phát
dự tính, thì lãi suất thực tế thực hiện thấp hơn lãi suất thực tế dự tính. Điều đó có
nghĩa người tiết kiệm có thu nhập thấp hơn dự tính ban đầu, trong khi người đi
vay trả vốn gốc và tiền lãi bằng những đồng tiền kém giá trị hơn so với dự tính
ban đầu. Điều đó hàm ý có sự phân phối lại của cải từ người cho vay sang người
đi vay. Người đi vay sẽ được lợi, còn người cho vay sẽ bị tổn thất. Sự phân phối
lại diễn ra theo chiều hướng ngược lại khi tỷ lệ lạm phát thực tế thấp hơn tỷ lệ
lạm phát dự tính.
Lạm phát không được dự tính trước còn gây tổn thất cho những người
nhận thu nhập danh nghĩa cố định hoặc có thu nhập danh nghĩa chậm được điều
chỉnh theo lạm phát. Công nhân và doanh nghiệp thường thoả thuận về mức
lương danh nghĩa trong các hợp đồng lao động dài hạn dựa trên kỳ vọng về lạm
phát. Do vậy, công nhân sẽ bị tổn thất khi lạm phát cao hơn mức dự kiến, ngược
lại các doanh nghiệp lại bị tổn thất khi lạm phát thấp hơn mức dự kiến.
Trên thực tế, lạm phát cao thường có xu hướng biến động mạnh và khó dự
7
đoán trước, gây ra những bất trắc và rủi ro cho các hoạt động tiết kiệm và đầu tư
dài hạn, và do đó không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy ổn định
lạm phát ở mức thấp là một mục tiêu quan trọng của điều tiết vĩ mô.
1.5. Kiềm chế lạm phát

Kiềm chế lạm phát còn gọi là giảm lạm phát. Có một loạt các phương thức
để kiềm chế lạm phát. Các ngân hàng trung ương

như Cục dự trữ liên bang
Mỹ

có thể tác động đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua việc thiết lập
các lãi suất

và thông qua các hoạt động khác (ví dụ: sử dụng các chính sách tiền
tệ

). Các lãi suất cao (và sự tăng chậm của cung ứng tiền tệ) là cách thức truyền
thống để các ngân hàng trung ương kiềm chế lạm phát, sử dụng thất nghiệp


suy giảm sản xuất để hạn chế tăng giá.
Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương xem xét các phương thức kiểm soát
lạm phát rất khác nhau. Ví dụ, một số ngân hàng theo dõi chỉ tiêu lạm phát một
cách cân xứng trong khi các ngân hàng khác chỉ kiểm soát lạm phát khi nó ở
mức cao.
Những người theo chủ nghĩa tiền tệ

nhấn mạnh việc tăng lãi suất bằng
cách giảm cung tiền thông qua các chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát.
Những người theo học thuyết Keynes nhấn mạnh việc giảm cầu

nói chung, thông
thường là thông qua các chính sách tài chính


để giảm nhu cầu. Họ cũng lưu ý
đến vai trò của chính sách tiền tệ, cụ thể là đối với lạm phát của các hàng hóa cơ
bản từ các công trình nghiên cứu của Robert Solow

. Các nhà kinh tế học trọng
cung

chủ trương kiềm chế lạm phát bằng cách ấn định tỷ giá hối đoái

giữa tiền tệ
và một số đơn vị tiền tệ tham chiếu ổn định như vàng, hay bằng cách giảm thuế
suất giới hạn trong chế độ tỷ giá thả nổi để khuyến khích tích lũy vốn. Tất cả các
chính sách này đã được thực hiện trong thực tế thông qua các tiến trình.
Một phương pháp khác đã thử là chỉ đơn giản thiết lập lương và kiểm soát
giá cả. Ví dụ, nó đã được thử tại Mỹ trong những năm đầu thập niên 1970

. Một
trong những vấn đề chính với việc kiểm soát này là nó được sử dụng vào thời
gian mà các biện pháp kích "cầu" được áp dụng, vì thế các giới hạn phía cung
8
(sự kiểm soát, sản xuất tiềm năng) đã mâu thuẫn với sự tăng trưởng của "cầu".
Nói chung, phần lớn các nhà kinh tế coi việc kiểm soát giá là phản tác dụng khi
nó có xu hướng làm lệch lạc các hoạt động của nền kinh tế vì nó làm gia tăng
thiếu thốn, giảm chất lượng sản phẩm v.v. Tuy nhiên, cái giá phải trả này có thể
là "đáng giá" nếu nó ngăn chặn được sự đình đốn sản xuất nghiêm trọng, là điều
có thể có đắt giá hơn, hay trong trường hợp để kiểm soát lạm phát trong thời
gian chiến tranh.
Trên thực tế, việc kiểm soát có thể bổ sung cho đình đốn sản xuất như là
một cách để kiềm chế lạm phát: Việc kiểm soát làm cho đình đốn sản xuất có
hiệu quả hơn như là một cách chống lạm phát (làm giảm sự cần thiết phải tăng

thất nghiệp), trong khi sự đình đốn sản xuất ngăn cản các loại hình lệch lạc mà
việc kiểm soát gây ra khi "cầu" là cao.
9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
2.1. Lạm phát Việt Nam qua các giai đoạn
2.1.1. Giai đoạn 1986 – 1995
2.1.1.1. Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
Kinh tế Việt Nam từ những năm 1986 đến 1995 đã trải qua sự biến đổi sâu
sắc: từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa; từ tăng trưởng thấp những năm 80 sang tăng trưởng cao
những năm 90; khủng hoảng rối loạn sang ổn định và phát triển.
Năm 1985, Gorbacher đã nên nắm chính quyền tại Liên xô, cùng với sự
sụp đổ của các nước Đông Âu cũ, Việt Nam bị cắt giảm nguồn viện trợ từ nước
ngoài và đến năm 1991 thì bị cắt hẳn. Do đó, nguyên vật liệu đầu vào như sắt
thép, dầu hoả, máy móc thiết bị Việt Nam hoàn toàn phải mua với giá cao làm
cho chi phí sản xuất tăng nhanh. Lạm phát chi phí đẩy xảy ra.
Khi lạm phát chi phí đẩy xảy ra, càng đẩy các doanh nghiệp sản xuất gặp
khó khăn và để hỗ trợ nền sản xuất trong nước, đặc biệt là các xí nghiệp quốc
doanh, Chính phủ Việt Nam lại in thêm tiền làm tăng mức cung ứng tiền trong
nền kinh tế lại dẫn đến lạm phát tiền tệ, điều đó càng đẩy tỉ lệ lạm phát lên cao.
Đồng thời năm 1985, Việt Nam thực hiện cuộc cải cách giá, tiền lương,
tiền mà đỉnh cao là sự kiện đổi tiền vào tháng 9 và lạm phát cũng bùng nổ ngay
sau đó. Năm 1986 chúng ta đã rơi vào tình trạng siêu lạm phát với ba chữ số
775% vào năm 1986 trong khi đó tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,33%.
Đến năm 1987 do thiên tai, sản lượng lương thực cuối năm giảm 3,5% và
đầu năm 1988 một số địa phương miền Bắc bị đói, giá cả lên cao, lạm phát chi
phí đẩy lại tiếp diễn. .Đứng trước tình hình đó, dân chúng tích trữ hàng hoá,
lương thực, vàng và đô la càng nhiều vì lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá
tạo nên cầu giả tạo, giá cả tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát

10
là 223,1%, mức tăng trưởng GDP chỉ là 3,78%.
Từ năm 1989 đến năm 1991, lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn còn khá cao
với mức tăng 67% liên tiếp trong hai năm 1990 và 1991, phải từ năm 1992 trở đi
tình hình mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995.
Cũng từ năm 1992-1994, ngân sách nhà nước chi cho đường dây cao áp
500KV chiếm phần lớn chi tăng thêm cho xây dựng cơ bản.
Từ năm 1993-1995 đầu tư xã hội tăng mạnh, trong đó có đầu tư vào xây
dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho nền kinh tế mới phát triển. Tất cả những điều
này đẩy đường tổng cầu lên cao, làm giá cả tăng cao. Lạm phát thời kỳ này xảy
ra còn do chi phí đẩy : Vào thời kỳ này, giá cả một số mặt hàng được điều chỉnh
như giá xi măng, giá điện, giá xăng, làm cho chi phí đầu vào tăng mạnh, cung
giảm , đẩy giá cả lên cao, gây lên lạm phát chi phí dẩy.
Như vậy, trong giai đoạn này lạm phát xảy ra ban đầu là do chi phí đẩy,
sau đó là do tăng mức cung ứng tiền, năm 1987 lại là lạm phát chi phí đẩy, tiếp
tục sau đó lạm phát cầu kéo xảy ra.
Bảng 1.1

Tỷ lệ tăng trưởng và lạm phát từ năm 1986 - 1995
(Đvt %)
Năm
1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995
Tăng trưởng
2,33 3,78 5,1 8 0,1 6 8,6 8 8,4 9,54
Lạm phát
748 223,1 394 34,7 67,4 67,6 17,6 5,2 14,4 12,7
(www.tinkinhte.com)
2.1.1.2. Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này
Theo bảng trên chúng ta thấy tình hình kinh tế của nước ta từ năm 1988 đã có
những bước khả quan hơn, lạm phát đã giảm từ mức siêu lạm phát xuống còn hai

chữ số, đặc biệt từ năm 1992 giảm xuống 17,6% và đến năm 1993 tỉ lệ lạm phát
giảm xuống một chữ số là 5,2%. Điều này cho thấy nước ta đã có những biện pháp
11
tương đối có hiệu quả để kiềm chế và kiểm soát lạm phát cũng như thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
 Chính sách tiền tệ
Chính sách về lãi suất: Thực hiện chính sách lãi suất thực dương (lãi suất
thực = lãi suất danh nghĩa - tỉ lệ lạm phát), tức là nâng lãi suất tiết kiệm lớn hơn
tỉ lệ lạm phát nhằm thu hồi lượng tiền trong lưu thông về. Lúc này cách giải
quyết thất nghiệp ở nước ta là NHNN từng bước giảm dần lãi suất cho vay thông
qua việc giảm dần lãi suất huy động từ 12% xuống 9% rồi 6%/năm; 1,4% xuống
0,9% rồi 0,85%/ tháng.
Chính sách về tỉ giá hối đoái: NHNN có bước tiến quan trọng trong điều
chỉnh tỉ giá hối đoái cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Tỉ giá hối đoái
trước đây chỉ sử dụng cho mực đích kế toán chứ không phản ánh đúng các khoản
chi phí thực tế. Việc áp dụng tỉ giá hối đoái thực tế đã làm cho người dâ n không
còn tích trữ hàng hoá , vàng, đô la mà bắt đầu tích luỹ bằng đồng nội tệ.
 Chính sách tài chính
Giảm chi tiêu của Chính phủ: Các đơn vị kinh tế quốc doanh làm ăn không
hiệu quả bị giải thể. Kết quả là chi tiêu của Chính phủ đã giảm nhiều, tổng cầu
giảm, giá cả giảm, lạm phát giảm xuống.
Giảm lượng tiền cung ứng cho thâm hụt ngân sách: Bắt đầu từ năm 1991,
thâm hụt ngân sách được trang trải bằng cách phát hành trái phiếu thay vì in
thêm tiền như trước đây. Vì thế, mức cung ứng tiền giảm xuống, lạm phát cũng
giảm đi. Năm 1992 tỉ lệ lạm phát chỉ là 17,6% so với năm 1991, đặc biệt là năm
1993 chỉ còn lại là 5,2%. Tuy nhiên năm 1993, mặc dù lạm phát đã giảm xuống
một chữ số nhưng những tiến bộ vượt bậc đó đã không thể duy trì được và củng
cố bằng những chính sách tài chính và chính sách tiền tệ thận trọng nên đến năm
1994 tỉ lệ lạm phát lại tăng lên mức 14,4%.
2.1.2. Giai đoạn 1995 – 2007

2.1.2.1. Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
12
Năm 1998 Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được thông qua tương
đối thông thoáng khiến cho đầu nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh.
Chi tiêu của Chính phủ trong thời gian này cũng tăng mạnh, trong đó có
chi thường xuyên và chi cơ bản. Cụ thể là: Cải cách chế độ tiền lương, trợ cấp
đối với các đối tượng chính sách xã hội. Đồng thời trợ cấp cho các đối tượng bộ
đội chuyển ngành và nghỉ, trợ cấp thôi việc cho một số cán bộ công nhân viên
chức do một số cơ quan nhà nước đóng cửa vì không thể thích ứng được với cơ
chế thị trường, đồng thời chi thường xuyên của ngân sách tăng nhanh.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997
làm cho nước ta chịu sức ép ngày càng tăng. Kinh tế trải qua hiện tượng giảm
giá liên tục, sức mua giảm sút, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu có dấu hiệu suy
giảm, sản xuất trong nước rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hoá ứ đọng nhiều, tỉ lệ
thất nghiệp gia tăng Một trong những biểu hiện của sự suy giảm nền kinh tế là
hiện tượng giảm phát. Vậy giảm phát là gì? Giảm phát là sự giảm giá liên tục
của mức giá chung theo thời gian.
Tình hình kinh tế trong giai đoạn 1999 trở đi diễn biến phức tạp, giá cả thị
trường có xu hướng giảm và lạm phát lúc này có thời điểm xuống -0,6% vào
năm 2000, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao cụ thể ở Hà Nội là 10,3% & TP.HCM là
7,06% năm 1999.
Bảng 1.2

Tỷ lệ tăng trưởng và lạm phát từ năm 1995 - 2007
(Đvt: %)
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Tỷ lệ tăng trưởng 9,54 9,34 8,15 5,76 4,77 6,79 6,89
Tỷ lệ tăng lạm phát 12,7 4,5 3,6 9,2 0,1 -0,6 0,8
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tỷ lệ tăng trưởng 6,89 7,08 7,34 7,79 8,4 8,2 8,5

Tỷ lệ tăng lạm phát 0,8 4 3 9,5 8,4 6,6 12,6
(www.tailieu.vn)
13
Biểu đồ 1.1

Tỷ lệ tăng trưởng và lạm phát từ năm 1995 - 2007
Qua biểu đồ ta thấy trong giai đoạn này tỷ lệ lạm phát diễn biến khá phức
tạp cụ thể như năm 1998 là 9,2% qua năm 1999 giảm xuống 0,1%, năm 2000 chỉ
còn -0.6%. Do đó giá cả giảm sút, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp
khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
Tình trạng ứ đọng sản phẩm, sản xuất cầm chừng xảy ra ở một số sản
phẩm và một số khu vực, đặc biệt là khu vực nhà nước:
Số hàng tồn kho của Tổng công ty 90-91 trong 6 tháng đầu năm 1999 đã
lên tới 60.000 tỷ đồng.
Theo báo cáo của IMF có đến 60% doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ,
trong đó 16% là thua lỗ triền miên. Tình trạng các công ty tư nhân cũng không
có gì khá hơn. Trong năm 1998 và 6 tháng đầu năm 1999 có hàng ngàn xí nghiệp
thua lỗ phải đóng cửa, các xí nghiệp lớn thì hoạt động cầm chừng.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm: từ tốc độ tăng trưởng GDP năm 1996 là
9,34% xuống còn 8,15% năm 1997, 5,76% năm 1998, 4,77% năm 1999 và
6,79% năm 2000.
Tình hình kinh tế năm 2002 có nhiều sự khởi sắc mới, nhờ có sự cố gắng,
nỗ lực của các nghành, các cấp năm 2002 chúng ta đã đạt được những thành tựu
to lớn trong phát triển kinh tế .
Mặc dù năm 2002 tình hình kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, nhưng
nước ta vẫn đạt tỉ lệ tăng trưởng kinh tế là 7,08%, tỉ lệ tăng trưởng cao thứ hai
trong khu vực Châu Á chỉ sau có Trung Quốc (8%), các chỉ tiêu kinh tế khác
chúng ta hầu hết đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Tình hình giá cả đầu năm 2002
của chúng ta đã tăng lên tương đối nhanh, 6 tháng đầu năm giá cả đã tăng 2,9%,
khi đó rất nhiều nhà kinh tế đã lo ngại rằng nếu chúng ta không kiểm soát được

lạm phát thì rất có thể tỉ lệ lạm phát của nước ta sẽ lên tới 6%. Trước tình hình
đó nhà nước đã có những chính sách nhằm ổn định giá cả trên thị trưòngmột
14
cách hợp lý, nhờ đó, đến cuối năm tỉ lệ lạm phát của chúng ta chỉ là 4%.
Hơn hai tháng đầu năm 2003, tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới có
nhiều biến động, đặc biệt là sự kiện Mỹ chủ trương lật đổ chính quyền đương
thời để lập nên một chính quyền mới ở Irắc, nguy cơ một cuộc chiến tranh vùng
vịnh xảy ra, đã khiến cho tình hình kinh tế thế giới rơi vào tình trạng hầu hết các
mặt hàng trên thế giới đều tăng cao. Đặc biệt là giá xăng dầu, giá vàng tăng
mạnh. Một sự kiện xảy ra trong thời gian vừa qua đó là việc một số cửa hàng
xăng dầu ở các thành phố lớn đã đóng cửa không bán xăng cho người tiêu dùng,
đó chính là dấu hiệu của sự đầu cơ, có thể gây những ảnh hưởng bất lợi cho nền
kinh tế. Trước tình hình đó, Bộ thương mại đã có những chấn chỉnh kịp thời yêu
cầu tât cả các cửa hàng xăng dầu phải mở cửa bán hàng trở lại và xử phạt các
cửa hàng đã đóng cửa bán hàng trong khi vẫn có xăng trong cửa hàng. Giá vàng
cũng tăng mạnh, thậm chí có ngày trong một buổi sáng giá vàng tăng ba lần.
Trước tình hình đó, nguy cơ giá cả tăng cao rất đễ xảy ra, thực tế trong hai tháng
đầu năm 2003 giá cả các mặt hàng của chúng ta đã tăng 3%, vì vậy có nhiều
người lo ngại là chúng ta không thể đạt được mục tiêu về lạm phát đã đề ra là tỉ
lệ lạm phát không quá 5%. Tuy nhiên, cuối năm 2003 chúng ta vẫn cán đích ở
mức lạm phát 3% & tăng trưởng đạt 7.34% - một con số khá ấn tượng trong khi
tình hình thế giới biến động khá phức tạp.
Sau giai đoạn ổn định ở mức thấp này, lạm phát bắt đầu tăng trở lại với tỷ
lệ 9,5% trong năm 2004 cao hơn rất nhiều so với mục tiêu 6% mà Chính phủ đặt
ra. Khi các tác động tiêu cực đối với tăng trưởng của khủng hoảng Châu Á giảm
đi, cầu bắt đầu tăng lên. Cầu tăng lên cùng với sự tăng lên của tiền lương danh
nghĩa ở cả khu vực nhà nước và khu vực FDI trong năm 2003 đã khiến giá cả
tăng lên. Đóng góp thêm vào sự tăng giá này là các cú sốc cung do dịch cúm gà
và thời tiết xấu gây ra. Chính phủ nghiêng về quan điểm coi các cú sốc cung này
là các nguyên nhân gây lạm phát. Những cú sốc cung này chủ yếu ảnh hưởng

đến giá lương thực thực phẩm với giá lương thực thực phẩm tăng 15,5% so với
tỷ lệ lạm phát chung là 9,5% và lạm phát phi lương thực thực phẩm là 5,2%
15
trong năm 2004. Tỷ lệ tăng trưởng cũng đạt mức cao – trên 8% từ năm 2005 –
2007.
Lo lắng về nguy cơ lạm phát trở lại, NHNN lại bắt đầu thắt chặt chính
sách tiền tệ khiến cho lãi suất tăng lên chút ít và giữ cố định tỷ giá từ năm 2004.
Bộ Tài chính và NHNN cũng tiếp tục can thiệp vào lãi suất bằng những biện
pháp gián tiếp thay vì sử dụng chính sách tiền tệ (Camen, 2006). Đồng thời việc
quản lý cứng nhắc tỷ giá hối đoái kéo dài đến tận cuối năm 2008 cũng đã không
giúp lặp lại thành công của việc giữ ổn định lạm phát trong giai đoạn 2000-2003.
Lạm phát, sau khi giảm nhẹ trong năm 2006 đã lại tăng mạnh tới 12,6% trong
năm 2007.
2.1.2.2. Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này
Trong giai đoạn 1995 – 1998, các chính sách tiền tệ mà NHNN áp dụng để
nhằm kiềm chế và kiểm soát lạm phát đều nhằm mục đích giảm mức cung tiền
tệ. Cụ thể NHNN đã áp dụng một số các biện pháp sau đây:
Một là: NHNN đã bán trái phiếu, tín phiếu gần 2000 tỷ VNĐ kỳ hạn 2-3
tháng mà người mua là các ngân hàng thương mại (NHTM) đồng thời cũng để
khuyến khích các NHTM tích cực huy động vốn.
Hai là: NHNN hạ mức tín dụng và kiểm soát chặt chẽ hạn mức tín dụng
tái cấp vốn đối với các NHTM và hạn mức của NHTM đối với nền kinh tế.
Ba là: Buộc các TCTD phải thực hiện dự trữ bắt buộc mở rộng, năm 1995
quy định tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền thanh toán được thống nhất vào một tài
khoản, tỉ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho tất cả các TCTD là 10% cho các loại
tiền gửi dưới một năm, và trong cơ cấu tièn gửi bắt buộc phải có 70% gửi tại
NHNN và các TCTD phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc
tại NHNN theo từng ngày, kiên quyết xử phạt đối với những TCTD không chấp
hành theo quy định này.
Bốn là: Tăng cường quản lý ngoại hối. NHNN điều hành tốt việc cung

ứng tiền phục vụ cho mục tiêu mua bán ngoại tệ nên nhìn chung tỉ giá ngoại tệ
16
ổn định, cầu giả tạo về ngoại tệ, vàng, một số mặt hàng khác giảm xuống làm
cho nhiều mặt hàng giảm xuống, lạm phát được kiểm soát.
Năm là: Nâng lãi suất chiết khấu làm giảm việc vay của các NHTM qua
đó hạn chế mức cung tiền vào trong nền kinh tế.
Tất cả đều làm mức tăng cung tiền tệ bị hạn chế mạnh mẽ và lãi suất tăng
lên, chi tiêu giảm, cầu giảm, giá cả giảm. Đồng thời NHNN còn áp dụng một số
biện pháp khác, nhờ vậy tốc độ lạm phát đã giảm xuống từ 12,7% năm 1995
xuống còn 3,6% năm 1997 và 0,1% năm 1999.
Năm 2000, tỷ lệ lạm phát chỉ còn – 0,6% nên nhà nước đã áp dụng các
biện pháp nhằm tăng sức mua trong nhân dân cụ thể là:
Trong năm 2000, đã thu hút và tạo việc làm cho khoảng 1,3 triệu người, tỉ
lệ thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn khoảng 6,5% so với 7,4% năm 1999,
sử dụng lao động ở nông thôn được nâng lên.
- Chương trình xoá đói giảm nghèo được triển khai.
- Tăng cường các chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
- Mở rộng dịch vụ du lịch trong cả nước và nước ngoài, chú trọng đầu tư
cơ sở hạ tầng du lịch.
- Tăng lương cho các cán bộ công nhân viên chức.
- Thực hiện cấp ưu đãi một lần đối với người có công với cách mạng.
Năm 2002, tình hình kinh tế của nước ta đã có những bước tiến vượt bậc,
tỉ lệ tăng trưởng đạt 7,08%, tỉ lệ lạm phát đã tăng lên 4%.
- Sử dụng chính sách tiền tệ
Nếu lấy cuối năm 1997 làm mốc thì NHNN liên tục cắt giảm trần lãi suất
cho vay. Năm 1999, NHNN 5 lần điều chỉnh lãi suất cho vay trung và dài hạn từ
1,25%/ tháng xuống còn 0,85%/ tháng, 4 lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ
1,1%/ tháng xuống còn 0,55/ tháng, 2 lần điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với
các tổ chức tín dụng từ mức 7% xuống còn 5%. Năm 2000, NHNN bỏ lãi suất
17

trần, chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản, tạo điều kiện cho cung- cầu về
vốn theo cơ chế thị trưòng và các NHTM chủ động hơn trong kinh doanh. Ngày
24/5/2001 TTCP đã ban hành Nghị quyết số 05/NQ-CP quy định lãi suất tín
dụng đầu tư phát triển của nhà nước giảm xuống còn 5,4%/ năm. Riêng lãi suất
cho vayc ngân hàng phục vụ người nghèo đồi với khu vức III là 5,4%/năm và
đối với khu vực khác là 6%/năm.
Lãi suất tiền gửi của hệ thống ngân hàng cũng liên tục giảm xuống đến
mức thấp nhất từ trước đến nay.
Chính phủ và NHNN ban hành các văn bản nhằm nới lỏng các điều kiện
vay vốn cho khu vực nông thôn
Cùng với việc ngân hàng hạ lãi suất cho vay, thì một loạt các tỉnh và thành
phố dành một phần vốn ngân sách của mình hỗ trợ vay vốn ngân hàng cho một
số dự án, một số doanh nghiệp, một số chương trình kinh tế trọng điểm của địa
phương
- Sử dụng chính sách tài chính: Tập trung huy động và giải ngân vốn, đảm
bảo các mức đầu tư đề ra. Trong 3 năm (1998-2000), nhà nước chú trọng đầu tư
đúng mức cho khu vực doanh nghiệp trong đó bổ sung vốn lưu động trên 2000 tỷ
đồng cho các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả, góp phần tháo gỡ khó
khăn về vốn cho doanh nghiệp.
-Sử dụng chính sách thuế
Đối với hoạt động xuất nhập khẩu, với thuế suất VAT bằng 0% và hàng
hoá xuất khẩu được hoàn thuế VAT đã nộp, đây thức chất là hình thức trợ giá
của nhà nước đối với hàng hoá xuất khẩu.
Thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng theo mức ưu đãi, thấp nhất là
25% đối với các dự án đầu tư có giá trị xuất khẩu đạt trên 30% tổng giá trị hàng
hoá và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung nếu có giá trị hàng hoá xuất
khẩu trên 50%. Nhà nước cũng quy định miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong
2 năm đầu cho các doanh nghiệp sản xuất, vận tải, xây dựng mới được thành lập
18
và giảm 50% thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo.

Những biện pháp trên đây đã góp phần khuyến khích đầu tư, mở rộng sản
xuất kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư phát triển theo hướng chuyển đổi
cơ cấu kinh tế có lợi cho quốc tế dân sinh, góp phần khôi phục và ổn định kinh
tế, kích thích tiêu dùng.
- Chính sách khuyến khích đầu tư: Môi trường đầu tư đã được cải thiện rất
nhiều nhờ những chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước. Hoàn thiện hệ
thống pháp luật ở nước ta, trong đó có luật đầu tư nước ngoài, đã tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra việc cải thiện
cơ chế hành chính chồng chéo cũng góp phần tạo ra một điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp.
2.1.3. Giai đoạn 2007 – 2008
2.1.3.1. Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
Việc duy trì chính sách kích thích tương đối liên tục trong những năm
2006 – 2008, một mặt giúp nền kinh tế lấy lại phần nào đà tăng trưởng, nhưng
mặt khác đã tích tụ những mầm mống gây ra lạm phát cao bắt đầu bộc lộ từ giữa
năm 2007. Thêm vào đó, việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
vào tháng 11/2006 mở ra một thời kỳ hội nhập sâu rộng chưa từng có, khiến mức
độ giao lưu thương mại và đầu tư quốc tế tăng vọt, làm dòng vốn vào tăng mạnh.
Nhu cầu ổn định đồng tiền Việt đòi hỏi NHNN phải trung hòa một lượng ngoại
tệ rất lớn, góp phần thổi bùng lạm phát trong năm 2008. Nhìn chung, việc kiểm
soát vĩ mô trong giai đoạn này tỏ ra lúng túng. Cộng với những tác động to lớn
của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, trong hai năm 2007 – 2008, nền kinh tế
phải hứng chịu thời kỳ tăng trưởng kinh tế ở mức thấp đi liền với lạm phát cao.
Sau 11 năm giữ được mức tỷ lệ lạm phát giữ ở mức một con số, năm 2007
chỉ số này đã tăng lên mức hai con số. Điểm khác biệt của lạm phát trong năm
này là sự tăng giá diễn ra đồng loạt ở cả nhóm hàng lương thực và phi lương
thực. Đứng đầu về tốc độ tăng giá trong nhóm các hàng hóa tính CPI là thực
19
phẩm (tăng 21,16%, riêng tháng 12 tăng 4,69%). Đứng thứ ba là nhóm hàng
lương thực (tăng 15,4%, riêng tháng 12 tăng 2,98%). Phương tiện đi lại và bưu

điện đứng thứ tư (tăng hơn 7%, riêng tháng 12 tăng 0,7%). Tiếp đến là nhóm
hàng may mặc và giày dép (tăng 7%, riêng tháng 12 tăng 1,16%); dược phẩm và
y tế (tăng 7%) Hiện tượng giá tăng diễn ra ở hầu hết các nhóm hàng hoá và
dịch vụ như vậy cho thấy, nguyên nhân của lạm phát không chỉ hoàn toàn do tác
động của giá cả thế giới hay từ cung hàng hoá, dịch vụ mà rõ ràng là có nguyên
nhân từ tiền tệ
Biểu đồ 1.2

Chỉ số giá tiêu dùng năm 2008
(Đvt: %)
(www.tuoitre.com)
Chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng trong những tháng đầu năm 2008, giá cả
leo thang đã đẩy mức lạm phát cả năm khá cao 23,97% – con số cao nhất kể từ
những năm 90 tới nay.
Nguyên nhân lạm phát tăng cao trong giai đoạn này:
Trước hết phải kể đến những yếu tố về phía cầu (lạm phát do cầu kéo).
Cầu nói ở đây là cầu của người tiêu dùng và nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Nhu
cầu tiêu dùng năm 2008 tăng mạnh do nhiều tác động. Dân số tăng khoảng 1,2%,
tức là vẫn tăng trên 1 triệu người (đưa dân số trung bình năm 2008 lên trên 86,2
triệu người). Mức tiêu dùng thông qua mua bán trên thị trường (thể hiện ở tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng) năm trước tăng 23,3%, nếu
loại trừ yếu tố tăng giá bình quân năm (8,3%) thì vẫn còn tăng 13,9%. Đây là tốc
độ tăng rất cao (cao gấp 1,64 lần tốc độ tăng GDP theo giá so sánh), một phần do
mức tiêu dùng tăng cao và tỷ lệ tiêu dùng thông qua mua bán trên thị trường tăng
nhanh.
Tăng trưởng kinh tế cao cũng đòi hỏi một lượng vốn đầu tư cao. Tỷ lệ
giữa vốn đầu tư so với GDP năm trước đã lên đến 40,4%, mục tiêu năm nay còn
đưa lên đến 42% để nhằm đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn (9% so với 8,48%).
20
Khi vốn đầu tư đưa ra nhiều hơn thì sức ép lạm phát cũng tăng lên. Chẳng thế

mà tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường song song với nhau, nhưng có điều là
ngược chiều nhau (tăng trưởng cao thường kéo lạm phát lên, lạm phát lên cũng
đẩy tăng trưởng cao lên). Vì thế, các nước thường dùng công cụ lãi suất để tác
động đến tăng trưởng và lạm phát: khi tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu suy thoái
thì cắt giảm lãi suất (lãi suất giảm thì tiền ra nhiều, tiêu dùng gia tăng); khi lạm
phát tăng thì nâng lãi suất lên (lãi suất lên thì tiền ra ít).
Ngày 22/5/2008, tăng giá xăng dầu từ 13.000đ lên 14.500đ (tương đương
11,5%).
Cuối tháng 3 đầu tháng 4, tình trạng thiếu lương thực trầm trọng trên thế
giới làm cho giá gạo trong nước tăng nhanh có thời điểm từ 50% đến 100%. Kể
từ tháng 5 giá gạo đã có xu hướng giảm nhưng mức tăng vẫn 15% – 20% so với
trước khi sốt gạo.
Trong hai quý đầu năm, giá các loại nguyên vật liệu tăng mạnh trên TG
khiến nước ta ảnh hưởng bởi NK lạm phát.
2.1.3.2. Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này
Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ.
- Ngân hàng phát hành trái phiếu kho bạc trong 2008: 20.300 tỉ VNĐ
- Thay đổi lãi suất huy động tiền gửi để thu hút tiền trong lưu thông
Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công
Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ bảo
đảm cân đối cung cầu về hàng hóa.
Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu và giảm nhập siêu.
Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận
thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật về giá.
Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân
21
dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội.
Đẩy mạnh công tác thông tin và tuyên truyền.
2.1.4. Giai đoạn 2008 cho đến nay

2.1.4.1. Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
Năm 2009, kinh tế nước ta phát triển trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn
hơn các năm trước. Ở trong nước, thiên tai xẩy ra trên diện rộng với mức độ rất
nặng nề. Cả năm có 11 cơn bão tràn qua lãnh thổ, trong đó có những cơn gây lũ
lụt, ngập úng sâu và dài ngày tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, gây thiệt
hại hết sức nghiêm trọng. Dịch bệnh, nhất là cúm A/H1N1, sốt xuất huyết, sâu
bệnh bùng phát ở nhiều vùng và địa phương. Ở ngoài nước, thị trường giá cả thế
giới biến động phức tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu đã tác động trực tiếp đến nhiều ngành kinh tế nước ta như công nghiệp, xuất
khẩu, thu hút vốn đầu tư, du lịch.
Sau những biện pháp được chính phủ thực hiện khá thành công vào năm
2008, tỷ lệ lạm phát đã giảm đáng kể vào năm 2009 chỉ còn 9%. Tuy nhiên giảm
lạm phát đi đôi với kìm hãm tăng trưởng kinh tế chậm lại rõ rệt. Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) cả năm tăng 5,2%, vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra (5%). Tuy tốc
độ tăng trưởng kinh tế thấp nhất trong vòng 10 năm gần đây (năm 2008 tăng
6,2%, năm 2007 tăng 8,5%, 2006 tăng 8,2%…), nhưng Việt Nam vẫn được thế
giới đánh giá là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực
châu Á (sau Trung Quốc tăng 7,8%). Diễn biến trong năm, xu hướng tăng trưởng
quý sau cao hơn quý trước: quý I tăng 3,14%, quý II tăng 4,46%, quý III tăng
5,76% và quý IV ước tăng 6,8%. Cả 3 khu vực kinh tế đều đạt tốc độ tăng trưởng
dương, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2%, khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 5% và khu vực dịch vụ tăng trên 6,5%.
Năm 2010 là một năm đáng nhớ đối với nền kinh tế Việt Nam, đan xen
giữa những thành công trong điều kiện khó khăn là những vấn đề bộc lộ đòi hỏi
phải giải quyết. Trong bối cảnh khó khăn của kinh tế toàn cầu, dù nội lực nền
22
kinh tế còn chưa mạnh, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6,78%, cao hơn chỉ
tiêu kế hoạch đề ra (6,5%). Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010, con số này
ước tăng 14% so năm trước và cao hơn kế hoạch năm (12%). Giá trị sản xuất
toàn ngành nông, lâm, thủy sản cả năm 2010 ước tăng 4,69% so năm trước, trong

đó nông nghiệp tăng 4,24%, lâm nghiệp tăng 4,6%, thủy sản tăng 6,05%. Bên
cạnh những thành tựu chung thì năm 2010, nền kinh tế cũng bộc lộ nhiều vấn đề.
Kinh tế vĩ mô vẫn thiếu nền tảng vững chắc, chất lượng tăng trưởng thấp, tiềm ẩn
không ít bất trắc, nếu không sớm khắc phục có thể ảnh hưởng đến sự phát triển
ổn định trong những năm tiếp theo. Quốc hội đặt chỉ tiêu lạm phát 2010 dự kiến ở
mức 7 – 7,5%. Sau 6 tháng, trước tình hình giá thế giới biến động, giá cả đầu vào
nhiều loại nguyên liệu tăng bất thường, mức lạm phát được điều chỉnh lên
8,5%/năm. Tuy nhiên, diễn biến 3 tháng cuối, nhất là tháng 11 đã khiến tất cả các
cơ quan điều hành phải bất ngờ, khi mới chỉ 11 tháng, chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
đã lên tới 9,58%. Lạm phát tháng cuối năm của hai thành phố lớn là (Hà Nội và
TP.HCM) lần lượt là 1,83% và 1,61%. Lạm phát năm 2010 tới 11,75%. Như vậy,
trong vòng bốn năm qua, có tới ba năm lạm phát ở mức hai con số (năm 2007 là
12,63%; năm 2008 là 22,97%). Việc CPI năm 2010 lên hai con số tạo nên bão
giá, khiến doanh nghiệp và người dân đều gặp khó khăn.
Qua năm 2011, tình hình giá cả tiếp tục tăng cao lạm phát quay trở lại và
đang là vấn đề nhức nhối trong dư luận hiện nay. Theo dự báo, lạm phát năm
2011 sẽ cán đích ở tỷ lệ khoảng 19% & tăng trưởng đạt mức 5,8%. Việc tăng giá
điện,giá xăng dầu trong thời gian qua đã tác động không nhỏ đến tỷ lệ lạm phát.
Ngoài ra, nền kinh tế thế giới đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng nghiêm
trọng về nợ công ở Mỹ cũng như ở các nước hàng đầu ở Châu Âu. Việt Nam
cũng không chịu khỏi sự tác động tiêu cực từ các vấn đề này.
2.1.4.2. Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này
Thứ nhất, tập trung giải quyết các vấn đề từ gốc của giá cả là chất lượng
tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ hai, kiên định thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm khống chế tổng
23
cầu của nền kinh tế mà Nghị quyết 11/NQ-CP đã đề ra.
Thứ ba, bảo đảm cân đối cung - cầu hàng hoá, dịch vụ trong mọi tình
huống, trước hết là các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, không
để xảy ra thiếu hàng sốt giá. Sắp xếp lại tổ chức mạng lưới lưu thông hợp lý,

tránh đẩy chi phí lưu thông tăng cao. Rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc và có các giải pháp hỗ trợ phù hợp về tiếp cận vốn, lãi suất, thuế… cho sản
xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển để tăng cung cho thị
trường, giảm chi phí tạo ra cơ hội giảm sức ép đẩy giá tăng.
Thứ tư, thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường, ngăn chặn các
hành vi gian lận thương mại, đầu cơ găm hàng thao túng thị trường giá cả. Tiếp
tục thực hiện các biện pháp quản lý thị trường vàng, thị trường ngoại hối.
Thứ năm, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; tiếp tục có lộ trình
thích hợp để xoá bao cấp qua giá đối với các loại hàng hoá dịch vụ còn bao cấp
và phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát như: điện, xăng dầu, nước sạch, than
bán cho điện… Đồng thời, bộ sẽ có các giải pháp hỗ trợ hợp lý đối với những
ngành sản xuất gặp khó khăn, hỗ trợ đối với người nghèo, người có thu nhập
thấp, thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương
biện pháp bình ổn giá, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm an sinh
xã hội, tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, giảm thiểu các yếu tố tâm lý, kỳ vọng
tăng giá trên thị trường.
2.2. Đánh giá tình hình kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua
2.2.1. Những thành công đã đạt được
Trong giai đoạn 1986-1993, nhờ những áp dụng các công cụ của chính
sách tiền tệ và chính sách tài chính một cách hợp lý chúng ta đã từ việc không
kiểm soát được siêu lạm phát sang hoàn toàn kiềm chế và kiểm soát được nó. Từ
tỉ lệ siêu lạm phát 748% năm 1986 xuống tỉ lệ lạm phát 5,2% năm 1993 quả là
một kỳ tích, điều đó đã thể hiện chính sách đúng đắn của nhà nước trong việc tìm
24
kiếm biện pháp kiểm soát lạm phát .
Trong giai đoạn 1994-1998, lạm phát bùng phát trở lại mức 14,4% năm
1994, trước tình hình đó, NHNN đã thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ
nhằm làm giảm mức cung tiền, nhờ đó mà tỉ lệ lạm phát đã giảm , đặc biệt là
trong giai đoạn 1996-1998 các công cụ này phát huy tác dụng, tỉ lệ lạm phát đã

giảm từ 12,7% năm 1995 xuống còn 4,6% năm 1996 và 3,6% năm 1997.
Trong giai đoạn 1999-2001 chúng ta lại rơi vào tình trạng giảm phát, giá cả
liên tục giảm . Do vậy, chúng ta đã thực hiện các chính sách nhằm kích cầu và
tăng mức cung ứng hàng hoá và dịch vụ trên thị trưòng. Và kết quả đạt được sau
khi đã thực hiện các biện pháp trên là: đã chặn được giảm sút về tăng trưiởng
kinh tế; mức tổng cầu đã tăng lên đáng kể, đầu tư cho phát triển kinh doanh đã
được phục hồi nhanh: năm 2000 đã tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội lên 14,6% so
với năm 1999; chi tiêu của Chính phủ thể hiện qua ngân sách Nhà nước cũng tăng
lên rõ rệt; nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên khá nhanh. Nếu 6 tháng đầu năm
1999 khi chưa thực thi chính sách thì tổng mức bán lẻ và dịch vụ chỉ tăng 1,5%
thì năm 2000 chỉ tiêu này là 9,1%; Xuất khẩu đã tăng từ 2% năm 1998 lên 23,3%
năm 1999 và 25% năm 2000, năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt
15,1 tỷ dolla tăng 45% so với năm 2000; tình trạng ứ đọng hàng hoá, không tiêu
thụ được trong năm 1998 dã được đẩy lùi; sản xuất có bước chuyển biến tích cực
cả trong công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; vốn đầu tư nước ngoài có dấu hiệu
phục hồi, năm 2000 có vốn đăng ký là 1,973 tỷ USD tăng so với 1,568 tỷ USD
năm 1999, năm 2001 tổng số vốn đăng ký đã tăng lên con số 3 tỷ USD; tình trạng
vốn ứ đọng trong các ngân hàng đã phần nào được giải quyết.
Năm 2002 – 2007 được coi là một giai đoạn khá thành công trong tất cả
các lĩnh vực của đất nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tất cả các nghành đều có
mức tăng cao, trong đó phải kể đến ngành dịch vụ mà đặc biệt là ngành du lịch.
Chúng ta cũng đã kiểm soát được lạm phát ở mức 4% năm 2002 và những năm
sau đó lạm phát tăng với tỷ lệ chấp nhận được trước khi bùng nổ trong năm 2008.
Năm 2008 đến nay, chính phủ cũng đã khắc phục tình hình lạm phát tăng
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×